BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
________________________________
NGÔ ĐÌNH VÂN NHI
ĐẶC ĐIỂM
TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA PHẠM HỔ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi chân thành cảm ơn các thầy cơ và cán bộ của Phịng Khoa học cơng nghệ
và Sau Đại Học trường Đại học Sư Phạm TPHCM đã tạo điều kiện th
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 11895 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uận lợi cho tơi
trong suốt quá trình học.
Tơi xin gửi lời cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TPHCM, thư
viện tỉnh Đồng Nai đã hỗ trợ tận tình cho tơi trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để
hồn thành tốt luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cơ đã nhiệt tình giảng dạy khĩa 16 chuyên
ngành Văn học Việt Nam.
Tơi cũng hết lịng biết ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đĩ chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tơi theo đuổi và hồn thành luận văn này.
Đặc biệt, tơi vơ cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần trách
nhiệm cùng lịng thương mến của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Hà trong suốt quá trình tơi
thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tơi muốn gởi lời cảm ơn đến tồn bộ quý thầy cơ của khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư Phạm TPHCM, những người cĩ vai trị rất lớn trong suốt quá trình tơi theo
học tại trường.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học thiếu nhi từ lâu đã trở thành “một bộ phận cĩ vị trí đặc biệt trong mỗi nền văn học dân
tộc” [48, tr.7]. Nĩ được xem là hành trang quan trọng cho trẻ em trên suốt đường đời, bởi lẽ những gì lưu
giữ trong thời niên thiếu rất khĩ phai mờ. Véra C.Barclay - một nữ trưởng hướng đạo, chuyên ngành về
Sĩi con - trong lúc nghiên cứu phương pháp hướng đạo để giúp hình thành tính cách cho trẻ lứa tuổi 8-12,
đã kết luận một số điều cĩ liên quan đến văn học cho thiếu nhi như sau: “Trong trái tim mỗi trẻ em đều cĩ
cái mà ta gọi là bản năng về sự huyền diệu và sự kì lạ… Chính là trong khi nghe chuyện mà em nhỏ giải
được cơn khát cái huyền diệu, bởi vì, nhờ câu chuyện ấy, em cĩ thể ngao du trong thế giới của truyền
thuyết và hút đầy bầu phổi khơng khí phấn khởi của nĩ” [80, tr.47]. Cũng theo Véra C.Barclay, những câu
chuyện mà trẻ em được đọc, được nghe kể từ thuở nhỏ là thức ăn tưởng tượng: “em nhỏ, khi nghe một câu
chuyện, sẽ hấp thu những ý nghĩ và tích tụ chúng trong trí nhớ, một ngày mưa nào đĩ, chúng quay trở lại
làm cho vui lên và tơ màu sắc cho cuộc sống âm u, cho tới khi lại cĩ một câu chuyện khác, đến lượt nĩ,
chiếu cái chùm ánh sáng của nĩ với một sắc thái khác nữa vào cái cảnh bé nhỏ âm u của lí trí em nhỏ”
[80, tr.48]. Thực tế, khơng ai khơng thừa nhận vai trị của văn học thiếu nhi đối với việc bồi dưỡng tâm
hồn, cao hơn là xây dựng nhân cách cho các thế hệ trẻ thơ. Khơng ít người trưởng thành đã khẳng định:
những cuốn sách quan trọng nhất đời ta chính là những cuốn đọc từ thời thơ ấu. Mikhain Ilin - nhà văn
Nga chuyên viết truyện khoa học cho thiếu nhi - từng thổ lộ tâm sự: “Trước khi kể chuyện tơi bắt đầu viết
văn như thế nào, tơi muốn kể cho các bạn biết tơi đã bắt đầu đọc sách như thế nào” [53, tr.50] . Cịn
Assen Bossev - nhà văn Bugari, tác giả của 60 tập truyện ngắn và thơ viết cho thiếu nhi - khẳng định:
“Những cuốn sách hay đều là người bạn đường vĩnh viễn của tuổi nhỏ; chính chúng cho trẻ con đơi cánh
để bay lên mà chinh phục cuộc sống” [4, tr.47 ]. Và chúng ta hãy xem ý nghĩa lớn lao của việc nghe thầy
đọc thơ đối với tâm hồn, trí tưởng tượng và tình cảm của một chú bé 9 tuổi người Việt Nam:
“Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghe vọng sơng xa
Êm êm nghe tiếng của bà năm xưa
Nghe trăng thở động tàu dừa
Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời
Thêm yêu tiếng hát nụ cười
Nghe thơ em thấy đất trời đẹp ra”.
( Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)
Cĩ thể thấy những vần thơ người thầy đọc đã tác động sâu sắc và mãnh liệt đến thế giới tâm hồn
tuổi nhỏ của Trần Đăng Khoa - “thần đồng thơ ca”, “là hiện tượng đặc biệt trong văn học Việt Nam nĩi
chung, văn học thiếu nhi nĩi riêng” [48, tr.175]. Những vần thơ đã làm sống dậy một khơng gian tràn
ngập âm thanh, màu sắc của thiên nhiên, cuộc sống thường ngày, khơi gợi lên kí ức về một miền sâu thẳm
của những câu chuyện cổ và thế giới tình người tha thiết. Rõ ràng, văn học dành cho thiếu nhi là một bộ
phận quan trọng, khơng thể thiếu đối với hành trình đầu đời của bất cứ một người nào. Bởi vậy, cịn trẻ
em thì vẫn cịn cần văn học dành cho thiếu nhi, và cịn rất cần những cơng trình nghiên cứu về bộ phận
văn học ấy. Đĩ chính là lí do thứ nhất khi chúng tơi quyết định lựa chọn mảng văn học thiếu nhi Việt Nam
làm đề tài nghiên cứu.
Trong bài viết Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi [71, tr.11-16], Vân Thanh - một người cĩ bề
dày nghiên cứu văn học trẻ em - đã gọi tên một số cây đa cây đề trong sự nghiệp sáng tác cho thiếu nhi
Việt Nam: Tơ Hồi, Nguyễn Huy Tưởng, Võ Quảng, Phạm Hổ. Nhà nghiên cứu ấy viết bài trên vào tháng
9 năm 1995. Tính đến hơm nay, việc xác định những gương mặt tiêu biểu của văn học thiếu nhi như thế đã
cĩ thêm 13 năm kiểm nghiệm tính chính xác. Dẫu rằng từ bấy đến nay, bộ phận văn học thiếu nhi đã cĩ
thêm nhiều cây bút mới. Hơn nữa, văn học dành cho thiếu nhi cũng đã trải qua khá nhiều những thăng
trầm, thử thách, nhất là trong thời kì hiện đại, nĩ dễ bị lãng quên bởi trẻ em đang bị hút vào những thú vui
văn hĩa mới. Tuy nhiên, những sáng tác của các nhà văn như: Tơ Hồi, Nguyễn Huy Tưởng, Võ Quảng
và Phạm Hổ vẫn để lại khơng ít ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của bạn đọc thiếu nhi. Chúng tơi cho rằng
việc đánh giá, ghi nhận lại vị trí của những cây bút tâm huyết dành cho nền văn học thiếu nhi nước nhà là
việc làm cần thiết, trong đĩ khơng thể khơng kể đến một gương mặt quen thuộc mà thiếu nhi Việt Nam rất
mến yêu: Phạm Hổ.
Sinh thời, Phạm Hổ thường hay nĩi đến một khát vọng giản dị nhưng mãnh liệt của mình là được
làm bạn với trẻ con. Ơng đã sáng tác trên cả ba địa hạt: thơ, văn xuơi, kịch và để lại một sự nghiệp văn
học dành cho trẻ em khá dày dặn. Nhiều nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất chú trọng đến bộ phận thơ ca viết cho
thiếu nhi của Phạm Hổ. Tuy nhiên, gia tài văn chương của Phạm Hổ khơng chỉ cĩ thơ, mảng truyện viết
cho thiếu nhi của ơng cũng cần được nghiên cứu kĩ càng. Cĩ như vậy, chúng ta mới đánh giá được hết
những đĩng gĩp của Phạm Hổ đối với nền văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại.
Ngồi ra, người viết cũng ghi nhận một yêu cầu xuất phát từ thực tiễn: nền văn học hiện đại Việt
Nam dành cho thiếu nhi khơng chỉ đứng trước cuộc thử thách cạnh tranh với những “thú vui” đa dạng
khác của thời buổi cơng nghệ như internet, điện thoại di động mà cịn “bất lực” trước sự xâm chiếm của
những tác phẩm văn học thiếu nhi nước ngồi. Một thực tế buộc nhiều nhà văn Việt Nam phải suy nghĩ:
truyện tranh nước ngồi đang là sản phẩm văn hĩa được nhiều bạn nhỏ lựa chọn hoặc mảng truyện chữ
trong nước dẫu từng được đánh giá là cĩ truyền thống mạnh mẽ, nay cũng đang nhường thị trường cho các
tác phẩm nước ngồi. Hiện tượng thiếu nhi Việt Nam say sưa Đơrêmon trước kia và Harry Potter gần đây
là những ví dụ điển hình. Trong cuộc hội thảo “Văn học thiếu nhi thời hiện đại” do hội nhà văn TPHCM
tổ chức vào ngày 28/10/2005, nhiều cây bút thừa nhận văn học thiếu nhi trong nước đang rơi vào thời kì
suy thối. Các nhà văn cĩ tâm huyết đã bàn luận phương cách tháo gỡ nhưng kết thúc hội thảo, kết luận
chỉ cĩ thể là trơng chờ sự thay đổi. Nhà văn Trần Hồi Dương - một người dành cả cuộc đời gắn bĩ với
cơng việc sáng tác văn học cho trẻ em - nhận xét về tình hình phát triển văn học thiếu nhi Việt Nam như
sau: “Đội ngũ sáng tác trên diện rộng, đơng đảo. Tuy nhiên, những tác giả cĩ cá tính, bản sắc riêng thì
hiếm. Người viết trẻ lại khơng cĩ ý định theo đuổi đến cùng con đường viết văn cho thiếu nhi. Lớp trẻ
chưa đột biến, lớp già như tơi thì gần hết vốn, mệt mỏi và khĩ bắt kịp đời sống hiện đại. Phải thừa nhận là
chúng ta cĩ một nền văn học thiếu nhi, nhưng suốt mấy chục năm nay, nĩ vẫn cịn mang nhiều tính mơ
phạm, giáo điều. Đúng, tốt đẹp, tính giáo dục cao nhưng lại thiếu những điều cơ bản: chất kì diệu, yếu tố
mơ mộng, bay bổng, tưởng tượng phong phú… những thứ mà trẻ con rất cần”. Cĩ thể thấy rằng: việc đáp
ứng nhu cầu đọc văn Việt Nam của thiếu nhi Việt Nam đang được đặt ra khá bức thiết. Và tất nhiên, cùng
với nĩ là hàng loạt những vấn đề xoay quanh việc nhà văn phải viết thế nào để lơi cuốn những độc giả nhỏ
tuổi. Chúng tơi nghĩ rằng, việc nghiên cứu sáng tác của những cây bút tiêu biểu viết cho thiếu nhi cũng là
một trong những cách gĩp phần tìm kiếm một hướng đi hiệu quả cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam hiện
nay.
Với tất cả những suy nghĩ trên cộng thêm niềm yêu quý Phạm Hổ - một người đã từng gieo vào
tâm hồn bé thơ của người viết những rung động cảm xúc khĩ phai mờ - người viết quyết định chọn đề tài
luận văn là: Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhìn trên bình diện sâu, các cơng trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi nước ta khơng phải ít và
cũng khơng ít các nhà nghiên cứu dành phần lớn tâm huyết, thời gian của đời mình cho cơng việc phê
bình những sáng tác dành cho thiếu nhi Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta buộc phải so sánh và thừa nhận
rằng độ chênh lệch giữa đầu tư nghiên cứu bộ phận văn học thiếu nhi so với việc nghiên cứu những tác
giả, tác phẩm viết cho người lớn là quá lớn. Năm 2002, Hội đồng văn học thiếu nhi kết hợp với nhà xuất
bản Từ điển bách khoa Hà Nội nuơi ý định làm một bộ Bách Khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam gồm 4
tập:
Tập một: Tổng quan về văn học thiếu nhi Việt Nam.
Tập hai: Thơ ca văn học thiếu nhi Việt Nam (tuyển).
Tập ba: Văn xuơi văn học thiếu nhi Việt Nam (tuyển).
Tập bốn: Từ điển tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam.
Dự định tốt đẹp ấy đến hơm nay đã đem đến cho ngành nghiên cứu văn học một thành quả đẹp. Đĩ
là sự ra đời tập một của bộ bách khoa thư văn học thiếu nhi với gần 500 trang giấy in. Đây được xem là
cơng trình nghiên cứu về văn học trẻ em dày dặn nhất ở nước ta hiện nay.
Cĩ nhiều nguyên nhân khiến cho mảng nghiên cứu văn học thiếu nhi thiếu bề rộng lẫn bề sâu so
với các bộ phận nghiên cứu văn học khác. Nhưng cĩ lẽ lí do lớn nhất là thiếu độc giả của phê bình văn học
thiếu nhi. Thực tế trên dẫn đến hệ quả là khu vực nghiên cứu văn học thiếu nhi cịn rất nhiều khoảng
trống.
Từ tình hình chung đĩ, dẫu được đánh giá là cây bút tiêu biểu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam,
Phạm Hổ và các sáng tác của ơng cũng chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Nhiều bài viết và cơng
trình nghiên cứu tập trung vào mảng thơ ca của Phạm Hổ: Phạm Hổ và tuổi thơ của Vân Thanh (Bách
khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 269), Người ở xứ thần tiên
của Trần Đăng Khoa (Tuyển tập Phạm Hổ, NXB Văn học, trang 3), Thiên nhiên trong thơ viết cho thiếu
nhi của Phạm Hổ của Phạm Phương Liên (internet), Phạm Hổ thơ viết cho lứa tuổi nhi đồng của Lê Nhật
Ký (Thơng báo khoa học, Đại học Quy Nhơn, số 31)… Trong khi đĩ, mảng truyện viết cho thiếu nhi của
Phạm Hổ chưa được quan tâm thỏa đáng.
Ngay trong các giáo trình giảng dạy cho sinh viên như Văn học thiếu nhi Việt Nam (PTS Trần Đức
Ngơn chủ biên, Trường ĐHSP HN I, 1995), phần viết về Phạm Hổ khoảng 8 trang thì cĩ đến 6 trang viết
về thơ, phần truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ chỉ được đánh giá trên diện rộng, bề mặt. Tuy nhiên,
chúng tơi vẫn ghi nhận một số nhận xét để làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình: “Mỗi câu chuyện của
Phạm Hổ là sự tích một lồi cây hoa, quả. Ơng giới thiệu cho các em những đặc điểm bề ngồi, tính chất,
tác dụng của chúng và thái độ của con người đối với chúng. Ơng giải thích nguồn gốc xuất hiện của
chúng và lí do những cái tên chúng mang” [60, tr.72]. Quan trọng hơn, người biên soạn sách đã đề cập
đến bề sâu và ý nghĩa của những câu chuyện mà Phạm Hổ viết: “Sự tích hoa quả bao giờ cũng được gắn
với một phương diện nào đĩ trong cuộc sống con người, hoặc gắn với những số phận con người cĩ thực.
Qua những câu chuyện cảm động ấy, nhà văn đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, hướng
các em tới tình yêu thương nhằm giảm đi những điều xấu, điều ác” [60, tr.73].
Đến năm 2003, Giáo trình văn học trẻ em của Lã Thị Bắc Lý đã được nhà xuất bản Đại học Sư
Phạm Hà Nội ấn hành để phục vụ cho sinh viên các khoa Giáo dục mầm non, Giáo dục đặc biệt. Đây được
xem là một cơng trình nghiên cứu khá chuẩn, cung cấp những kiến thức cơ bản về nền văn học thiếu nhi
Việt Nam và giới thiệu thêm những tinh hoa văn học trẻ em của nước ngồi. Đọc chương giới thiệu một
số tác giả Việt Nam tiêu biểu, chúng tơi nhận thấy người nghiên cứu đã thể hiện rõ cơng phu để nắm bắt
được đặc điểm, giá trị nổi bật trong những sáng tác của Võ Quảng, Tơ Hồi từ mảng thơ ca đến văn xuơi,
từ nội dung đến nghệ thuật… Riêng với Phạm Hổ, nhà nghiên cứu cũng quan tâm nhiều hơn đến mảng thơ
ca, từ khảo sát Nội dung chủ đạo trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ đến tìm hiểu Đặc sắc về nghệ
thuật thơ Phạm Hổ viết cho trẻ em. Nhưng đến mảng văn xuơi, Lã Thị Bắc Lý chỉ đánh giá khái quát về
tập Chuyện hoa, chuyện quả của Phạm Hổ. Điều đáng ghi nhận nhất ở đây là: người nghiên cứu đã xác
định thể loại nổi bật trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ: cổ tích hiện đại (cịn gọi là cổ tích mới).
Thật ra, vấn đề thể loại đã từng được Lã Thị Bắc Lý tìm hiểu khá sâu sắc trong cơng trình Truyện
viết cho thiếu nhi sau 1975 (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000). Cơng trình thể hiện cái nhìn khái quát
của người nghiên cứu về nền văn học thiếu nhi Việt Nam sau chiến tranh, nhất là tác giả cĩ ý thức tìm
kiếm những đổi mới trong quan niệm sáng tác, hình tượng nhân vật và hàng loạt các vấn đề cĩ liên quan
đến nền văn học trẻ em thời hịa bình. Trong đĩ, Lã Thị Bắc Lý nhấn mạnh đến việc gia tăng các thể loại
mới so với nền văn học thiếu nhi thời kì 1945-1975, trong đĩ cĩ thể loại truyện cổ tích hiện đại. Khi bàn
đến thể loại này, người nghiên cứu đánh giá: “vấn đề sáng tác cổ tích mới được nhiều nhà văn quan tâm
hơn, trong đĩ, Phạm Hổ là người đầu tiên đã mạnh dạn thể nghiệm sáng tác truyện cổ tích cho các em”
[48, tr.118]. Sau đĩ, khi đi sâu tìm hiểu các đặc điểm nổi bật của thể loại cổ tích mới ấy trên các bình diện:
khơng gian - thời gian, nhân vật, cốt truyện, ngơn ngữ…, người nghiên cứu thường xuyên lấy truyện viết
cho thiếu nhi của Phạm Hổ làm dẫn chứng và phân tích khá kĩ. Tuy nhiên, Truyện viết cho thiếu nhi sau
1975 chưa thể được coi là một cơng trình chuyên tâm nghiên cứu mảng truyện viết cho thiếu nhi của
Phạm Hổ.
Trong khung thời gian một năm tích cực tìm kiếm tư liệu từ các nguồn khác nhau, chúng tơi nhận
thấy bài viết chuyên tâm đầu tiên về văn xuơi của Phạm Hổ là tham luận Phạm Hổ với những “Chuyện
hoa, chuyện quả” của anh của nhà văn Nguyên Ngọc trong cuộc hội thảo về ba nhà văn chuyên viết cho
thiếu nhi năm 1986. Khi ấy, số lượng truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ cịn khá mỏng (Chuyện hoa,
chuyện quả ra đời mới hai tập), nhưng trong tham luận Nguyên Ngọc đã cĩ những đánh giá khá sắc sảo về
nội dung chính trong truyện của Phạm Hổ: “Dường như tác giả Chuyện hoa chuyện quả đang muốn đưa
ra một lý thuyết khác về nguồn gốc muơn lồi. Anh nĩi với các em: Các em ạ, thế giới quanh ta muơn vẻ
kì lạ kì diệu như vậy, tất cả là do con người làm ra cả đấy. Nguồn gốc của muơn lồi chính là ở tình yêu,
tình thương và lịng tốt của con người”. Ngồi ra, Nguyên Ngọc cịn tìm thấy những điểm rất thú vị trong
truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ: “Hình như văn học ta ít lâu nay, cả văn học viết cho các em, bận
bịu chính đáng vì những vấn đề xã hội lớn, mà chừng cĩ hơi xao lãng về thiên nhiên chăng? Anh Phạm
Hổ đã giải quyết mối quan hệ đĩ theo cách của anh: tìm thấy xã hội, những vấn đề xã hội trong chính
thiên nhiên”. Tuy nhiên, trong khuơn khổ hạn chế của một tham luận đọc tại hội nghị, Nguyên Ngọc chưa
cĩ điều kiện khơi mạch suy nghĩ rộng và sâu hơn nữa về nội dung tư tưởng trong truyện viết cho thiếu nhi
của Phạm Hổ. Bài viết của ơng thiên về đánh giá nội dung mà chưa quan tâm đến bình diện hình thức
nghệ thuật trong những sáng tác ấy.
Bài viết thứ hai tỏ ra một hướng khẳng định rõ hơn về vị trí của Phạm Hổ trong mảng văn xuơi là
bài Đĩng gĩp của Phạm Hổ cho một thể loại văn học thiếu nhi của Phạm Bá Tân - giảng viên trường Cao
đẳng sư phạm Nghệ An, đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9-2004. Người nghiên cứu xác định
ngay từ đầu mục đích của mình là “muốn tìm hiểu, nghiên cứu, giới thiệu cho giáo sinh, sinh viên những
vẻ đẹp phong phú và giàu cĩ của văn xuơi viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ” [69, tr.123]. Người nghiên
cứu khá tâm đắc khi phát hiện ra rằng: “tình thương đầm ấm cùng với tình yêu thiên nhiên, cây cỏ, tình
yêu trẻ thơ và vốn văn hĩa dân gian giàu cĩ đã giúp Phạm Hổ sáng tạo được những thiên huyền thoại về
các lồi hoa và quả; hình tượng cây quả, cây hoa trong truyện của Phạm Hổ chính là hình tượng cĩ tính
ẩn dụ về nhiều loại người, nhiều phẩm chất và tính độc đáo của người đời” [69, tr.124]. Tuy nhiên, kết
luận của Phạm Bá Tân được xây dựng trên một phạm vi nghiên cứu cịn hạn chế vì chủ yếu tìm hiểu qua
18 câu chuyện của Phạm Hổ trong tập Quả tim bằng ngọc. Trong khi đĩ gia tài văn xuơi của Phạm Hổ
hơn gấp 3 lần như thế…
Chúng tơi cũng tìm được hai bài viết ngắn của giảng viên Lê Nhật Ký (trường Đại học Quy Nhơn)
về văn xuơi của Phạm Hổ, một bài đăng trên thơng báo khoa học của trường (số 5-2005) với nhan đề:
Phạm Hổ - người kể chuyện cổ tích về hoa quả và bài thứ hai là Phạm Hổ - một lối đi riêng trong truyện
cổ viết lại trên trang web Văn học quê nhà
( Lê Nhật Ký tỏ ra rất tâm đắc với
mảng văn xuơi của Phạm Hổ, nhất là những điểm độc đáo thể hiện sự sáng tạo một lối đi riêng của tác giả
trong mảng truyện viết theo kiểu cổ tích hiện đại. Qua tìm hiểu câu chuyện Ngựa thần từ đâu đến của
Phạm Hổ, người nghiên cứu khẳng định: “Nghệ thuật truyện cổ viết lại cho phép nhà văn sáng tạo, nhào
nặn cốt truyện trên tinh thần thời đại mình. Từ hình tượng rất quen thuộc trong truyền thuyết dân gian,
nhà văn Phạm Hổ đã phát triển, xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật trọn vẹn, khuyến khích bạn
đọc tuổi thơ kiếm tìm, khám phá, cắt nghĩa các giá trị dân gian tưởng đã ổn định, bất di bất dịch”. Hoặc
khảo sát hai truyện ngắn nằm cùng trong một chuỗi là Lửa vàng, lửa trắng và Lửa vàng, lửa trắng, lửa
nâu, Lê Nhật Ký đánh giá cao Phạm Hổ vì cho đến nay “trong phạm vi văn học thiếu nhi, gần như chỉ cĩ
Phạm Hổ dấn thân vào loại truyện viết tiếp” (dựa vào kết thúc truyện dân gian cĩ sẵn rồi viết một truyện
mới trên cơ sở đảm bảo tính lơgíc về sự phát triển của nội dung câu chuyện). Những kết luận của Lê Nhật
Ký giúp chúng tơi một lần nữa cĩ thêm cơ sở để khẳng định hướng đi của mình là đúng đắn. Phạm Hổ đã
chủ tâm tìm một lối đi riêng cho mình khi viết truyện cho thiếu nhi. Và lối đi ấy cần được trân trọng và
đầu tư nghiên cứu để cĩ thể đánh giá đúng mức.
Nĩi tĩm lại, chúng tơi khơng phải là người đầu tiên tìm hiểu mảng văn xuơi của Phạm Hổ. Nhiều
nhà nghiên cứu cĩ thâm niên và tâm huyết đã ít nhiều mở ra các hướng đi mà chúng tơi dựa vào đĩ làm cơ
sở nền tảng cho những suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, cĩ thể nĩi, chúng tơi là người đầu tiên mạnh dạn
xem truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ là đối tượng để nghiên cứu một cách tồn diện và hệ thống.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để cĩ thể kết luận về đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, chúng tơi cho rằng phải xem
xét đầy đủ các câu chuyện trong gia tài truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ. Chỉ tính trên tên các truyện
ngắn đã được in sách (chúng tơi khơng kể tên tập truyện vì qua những lần xuất bản, tái bản, việc sắp xếp
khác nhau nên khơng chính xác trong thống kê số lượng truyện viết của tác giả), Phạm Hổ viết khoảng 54
truyện cho thiếu nhi. Tuy nhiên, trong quá trình phân loại, chúng tơi nhận thấy 2 truyện Viết thư cho cha
(1959) và Khẩu súng người ơng (1960) nằm chung một nhĩm truyện viết trong hồn cảnh chiến tranh;
truyện Những chú sẻ con (1988) thuộc thể loại đồng thoại, cịn lại 51 câu chuyện thuộc 3 dạng: truyện cổ
tích mới, truyện cổ viết lại, truyện cổ viết tiếp. Vì vậy, chúng tơi quyết định khoanh vùng 51 truyện cĩ
cùng điểm chung là mang hơi hướng của truyện cổ dân gian, trong đĩ cĩ 47 truyện thuộc 6 tập truyện mà
Phạm Hổ đặt tên chung là Chuyện hoa chuyện quả cùng viết về sự tích các lồi hoa và lồi quả thu hút sự
chú ý của chúng tơi nhiều nhất.
Với tỉ lệ 47/54 truyện ngắn, chúng tơi cho rằng phạm vi nghiên cứu khảo sát như thế cũng khá ổn,
bởi nĩ chiếm trên 87% gia tài văn xuơi viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ. Hơn nữa 47 câu chuyện ấy, Phạm
Hổ đã dày cơng viết trên 20 năm (1972-1995). Điều đĩ cho thấy 47 câu chuyện này là một hướng viết
truyện đầy tâm huyết của Phạm Hổ dành cho trẻ em nước nhà.
Và chúng tơi chủ yếu sẽ khảo sát 47 truyện ngắn thuộc tập Chuyện hoa, chuyện quả của Phạm Hổ
để tìm hiểu đặc điểm về cảm hứng tư tưởng và nghệ thuật kể chuyện cho thiếu nhi của nhà văn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện luận văn này, người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
4.1. Phương pháp hệ thống.
Chúng tơi đặt đối tượng nghiên cứu của mình: truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ vào hệ thống
những sáng tác đa dạng của nhà văn ấy bao gồm cả thơ, truyện và kịch. Ngồi ra, chúng tơi tìm mối liên
hệ giữa sáng tác của Phạm Hổ và các tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của các nhà văn Việt Nam
khác.
4.2. Phương pháp thống kê.
Khi thực hiện luận văn này, người viết sẽ thống kê để xác định những hiện tượng mang tính phổ
biến, thường xuất hiện trong 47 truyện ngắn của Phạm Hổ.
4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Chúng tơi sử dụng phương pháp phân tích như một cơng cụ để tìm hiểu cụ thể một đặc điểm nào đĩ
về nội dung và nghệ thuật trong truyện của Phạm Hổ.
Tuy nhiên, phân tích cần đi liền với tổng hợp vì như thế các kết luận khơng mang tính ngẫu nhiên,
vụn vặt mà thể hiện sự đánh giá mang tính khái quát và thuyết phục hơn.
4.4. Phương pháp so sánh.
Chúng tơi so sánh truyện của Phạm Hổ với các tác phẩm của những nhà văn khác cùng viết thể
loại truyện cổ tích hiện đại như: Tơ Hồi, Nguyễn Huy Tưởng…
5. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN.
Qua luận văn Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, chúng tơi cố gắng cung cấp cái
nhìn hệ thống và tồn diện về mảng truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ. Qua đĩ, luận văn gĩp phần
khẳng định đĩng gĩp khơng nhỏ của Phạm Hổ vào bộ phận văn xuơi Việt Nam hiện đại dành cho trẻ em,
nhất là ở thể loại cổ tích mới.
Ngồi ra, trong hồn cảnh văn hĩa nghe nhìn tràn ngập đang làm mất đi thú đọc sách nơi thiếu nhi,
nhất là các tác phẩm văn học trong nước dành cho thiếu nhi hiện nay chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu
thưởng thức của trẻ em, thì việc nhìn nhận, tìm hiểu, đánh giá sáng tác của một tác giả từng cĩ ảnh hưởng
khơng nhỏ đến đời sống tâm hồn nhiều thế hệ tuổi thơ như Phạm Hổ, theo chúng tơi, cũng là một trong
những cách gợi mở hướng sáng tác cho các nhà văn viết truyện thiếu nhi hiện nay.
Mặt khác, chúng tơi hi vọng luận văn sẽ là một đĩng gĩp cho ngành lí luận, nghiên cứu văn học
thiếu nhi vốn cịn đang cĩ nhiều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN.
Luận văn gồm năm phần chính: Ngồi phần dẫn luận và kết luận, phần nội dung được chia thành ba
chương dựa trên nội dung nghiên cứu:
Chương 1: Phạm Hổ và quan niệm sáng tác của ơng.
Chương 2: Cảm hứng tư tưởng trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ.
Chương 3: Nghệ thuật kể chuyện cho thiếu nhi của Phạm Hổ.
Chương 1: PHẠM HỔ VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC
1.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác.
1.1.1. Tiểu sử.
1.1.1.1. Phạm Hổ - cuộc đời.
Vào ngày 28 tháng 11 năm 1926, xã Nhơn An (ngày trước gọi là xã Thanh Liêm), huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định đĩn chào sự ra đời của một “chú bé”mang cái tên rất dữ: Phạm Hổ (sau này, Phạm Hổ cịn
lấy bút danh là Hồ Huy). Lần theo kí ức của Phạm Hổ, chúng ta thấy rằng làng quê nghèo và khơng yên ả
của những năm tuổi thơ ấy đã để lại trong tâm trí Phạm Hổ những tình cảm thân thương dịu ngọt. Phạm
Hổ sống xa quê hơn 50 năm - hồn cảnh này là một thơi thúc, tạo nên chiều sâu cho mảng sáng tác với
cảm hứng tình yêu quê hương trong sáng tác của ơng. Mỗi khi cĩ dịp viết về miền đất và con người Bình
Định, Phạm Hổ luơn tỏ ra say sưa với những tình cảm quê hương ngọt ngào, nhất là khi nĩ gắn liền với
những kí ức tuổi thơ trong trẻo, mộc mạc mà thấm sâu trong lịng ơng (xem phụ lục).
Năm 1943, Phạm Hổ đỗ thành chung nhưng vì bị tai nạn nên khơng thể ra Huế học ban tú tài
trường Quốc học Huế. Ơng làm thư kí cơng nhật cho tịa sứ Quy Nhơn để giúp đỡ mẹ nuơi các em và tự
học để thi tú tài.
Cách mạng tháng Tám thành cơng - theo lời tự thuật của Phạm Hổ - cái duyên nghiệp với văn học
nghệ thuật mới bắt đầu, dẫu rằng ơng vốn say mê văn học từ nhỏ. Làm thư kí thường trực ở Chi hội văn
hĩa Cứu Quốc do nhà thơ Trần Mai Ninh phụ trách rồi dự học lớp hội họa kháng chiến liên khu 5 do họa
sĩ Nguyễn Đỗ Cung chủ nhiệm, rồi đi thực tế sáng tác ở miền tây Bình Định (vùng giáp cận An Khê),
Phạm Hổ vừa vẽ vừa làm thơ, và như ơng thừa nhận cĩ khi mê làm thơ hơn vẽ. Đến đầu năm 1950, Phạm
Hổ được cử đi dự hội nghị Văn học tồn quốc ở Việt Bắc với tư cách là một nhà thơ trẻ liên khu 5.
Trong khoảng thời gian 1952-1953, Phạm Hổ cĩ “hai năm vàng” (chữ dùng của Phạm Hổ) ở quê,
ơng vừa làm cơng tác văn hĩa thơng tin vừa thâm nhập sâu vào thực tế đời sống để cĩ thể hiểu thế nào là
nơng dân, thế nào là chân lấm tay bùn, thế nào là đầu tắt mặt tối… Phạm Hổ xem đĩ là những tư liệu cần
thiết để một nhà văn sáng tác phục vụ nhân dân.
Tháng 1-1954 Phạm Hổ cĩ mặt ở Hà Nội và làm cơng tác đối ngoại ở Hội Văn nghệ Trung ương.
Năm 1957, ơng được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam ngay khĩa đầu tiên. Cũng trong thời gian này,
Phạm Hổ cùng với các nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Tơ Hồi thành lập nhà xuất bản Kim Đồng - cơ quan
chuyên trách ấn hành những tác phẩm dành riêng cho thiếu nhi.
Trong những năm chống Mĩ, Phạm Hổ làm việc trong nhiều cương vị ở nhà xuất bản Kim Đồng,
nhà xuất bản Hội nhà văn, báo Văn nghệ… Ơng đi nhiều nơi, cĩ khi vào cả tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh
Linh để lấy tài liệu sáng tác. Đất nước thống nhất, Phạm Hổ vẫn tiếp tục đi nhiều nơi và sáng tác, nhất là
sáng tác cho thiếu nhi Việt Nam.
Năm 1983, Phạm Hổ là Chủ tịch hội đồng văn học thiếu nhi của Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1995,
ơng về hưu nhưng vẫn tiếp tục viết cho các độc giả nhỏ tuổi thân yêu và cho cả người lớn.
Ngày 4 tháng 5 năm 2007, Phạm Hổ qua đời ở tuổi 81. Song, hình như với thiếu nhi Việt Nam, ơng
già tĩc bạc ấy vẫn mãi là người bạn thân thiết của tuổi nhỏ.
1.1.1.2. Phạm Hổ - chân dung trong lịng người.
Trong sự liên tưởng của Trần Đăng Khoa, Phạm Hổ khơng chỉ là một con người trần thế, với mùi
mồ hơi trần tục, cùng cái ốm, cái đau, cái hắt hơi, sổ mũi - những cái bệnh, cái tật thơng dụng của cõi
phàm trần mà ơng cịn là một mĩn quà đặc biệt mà Tạo hố đã thửa riêng để trao tặng các đấng con trẻ
[38, tr.3].
Dường như đã từ rất lâu, khơng kịp hiểu xem bắt nguồn từ duyên cớ gì, cái tên Phạm Hổ hiện lên
trong tâm trí của người đọc, nhất là trẻ em, khơng phải là tuổi tác, quê quán hay cuộc đời hoạt động nghệ
thuật, hay cả các chức vụ mà ơng từng đảm trách hoặc các danh hiệu vinh hiển mà ơng được phong tặng.
Ơng thường được các em thiếu nhi định danh bằng tên tác phẩm: nhà thơ "Chú bị tìm bạn", bác "Chuyện
hoa, chuyện quả". Nhà văn Nguyên Ngọc cĩ lần đã kể câu chuyện về đứa con gái nhỏ tuổi của mình: “…
Anh Phạm Hổ đến chơi nhà tơi vào lúc cháu bé mới lên mười tuổi đi học về. Cháu đã gặp bác Phạm Hổ
mấy lần. Tơi hỏi: Con biết ai đây khơng? Cháu trả lời: “Cháu chào bác Chuyện hoa chuyện quả ạ !”
Phạm Hổ - đĩ là con người khơng cĩ tuổi. Tâm hồn ơng chưa hề già cỗi dẫu rằng sức khỏe và màu
tĩc vẫn “xuơi theo” quy luật hạn hẹp của thời gian trần thế. Cĩ lẽ vì vậy mà Phạm Hổ mới cĩ thể kết bạn
với trẻ thơ lâu đến vậy, và kì lạ hơn là trẻ thơ cũng khơng thấy “chán” anh rồi chú rồi bác hay cả ơng
Phạm Hổ.
Trần Đăng Khoa gọi Phạm Hổ là “người ở xứ thần tiên” [38, tr.3]. Trong đơi mắt trẻ thơ, Phạm Hổ
là chủ nhân một kho báu những điều màu nhiệm, lạ kì về thế giới thiên nhiên. Ơng mở ra cánh cổng với
biết bao điều huyền diệu và từng bước nâng cánh cho biết bao con diều ước mơ của tuổi thơ.
Người ta hình dung về chân dung của Phạm Hổ như sau: khuơn mặt nhân hậu, hiền lành. Cái tên
của ơng dường như chỉ là sự ngụy trang bên ngồi - nhưng nĩ khơng làm các bạn nhỏ xa lánh mà ngược
lại, thiếu nhi càng thấy yêu mến cái tên ấy hơn, yêu mến con người ấy hơn.
Nhân hậu và cũng rất tinh nghịch - Phạm Hổ cĩ cái tinh nghịch rất hồn nhiên của trẻ em. Phạm Hổ
cĩ cái nhìn riêng về thế giới thiên nhiên và cuộc sống mà từ cái nhìn ấy, người ta phát hiện ra nụ cười
đáng yêu, trẻ trung của ơng. Thế giới vơ tri vơ giác qua lăng kính Phạm Hổ bỗng dưng sinh động và trở
thành những người bạn hết sức lạ lùng. Đĩ là những con vật ngộ nghĩnh đáng yêu (Những người bạn nhỏ).
Đĩ là những cây cối trong vườn dâng hoa thơm trái ngọt (Bạn trong vườn). Đĩ là đồ vật quen thuộc bình
thường trong cuộc sống nhưng lại là những người bạn im lặng (Những người bạn im lặng). Cái tinh
nghịch của Phạm Hổ luơn làm người ta thấy lạ lùng. Để mỗi lần “tiếp xúc” với ơng lại là một lần người
đọc xuýt xoa vì sự thú vị…
Cho nên, mượn lời của Bê-lin-xki để nĩi thì Phạm Hổ quả là “người lạ quen biết” của tất cả chúng
ta, nhất là đối với thiếu nhi Việt Nam. Phạm Hổ đứng đĩ, vừa quen vừa lạ. Thân quen, gần gũi nhưng
khơng tạo cảm giác nhàm chán vì phải gặp mãi con người ấy. Xa lạ nhưng khơng khiến người tiếp xúc
phải kiêng dè đề phịng. Với Phạm Hổ, một nải chuối vừa bỗng nhiên vừa hợp lí trở thành bàn tay trẻ, quả
loịng boong là hiện thân của trái tim đau đớn của người mẹ yêu con, quả bưởi là kết quả của hiện tượng
“tép lên cây” (Chuyện hoa, chuyện quả). Tuy nhiên, điều ý nghĩa nhất mà Phạm Hổ muốn nĩi với thiếu
nhi là: sự ra đời của muơn lồi trên trái đất này đều bắt nguồn từ tình yêu, nhất là từ tình yêu thương dành
cho trẻ em.
Phạm Hổ cũng là con người giản dị. Trước hết là giản._. dị trong cách ơng đối diện với đời. Nhà văn
Phạm Sơng Hồng - con gái của Phạm Hổ cĩ lần kể câu chuyện về cha mình như sau: “Ơng thích trồng
phong lan. Lần nọ sáng ra tỉnh dậy, kẻ trộm đã khiêng mất giị hoa mới nở. Ngẩn ra vì buồn và tiếc, ơng
bèn lụi hụi ngồi viết lên tờ giấy “Lấy cây của người khác là khơng tốt” rồi găm vào từng chiếc giỏ. “Ba
làm thế làm gì. Tối trời kẻ trộm khơng thể đọc được, mà giấy tờ thì cĩ giá trị gì”. “Sao con lại mất lịng tin
về con người như vậy. Đọc được mảnh giấy của ba, người ta khơng nỡ đâu”. Sáng sau ra, bao nhiêu giị
phong lan mất nốt, mất cả hoa lẫn giấy.”(!!!)
Tuy nhiên, chúng ta phải nĩi nhiều đến sự giản dị trong cách Phạm Hổ chọn lấy những người bạn
tuổi nhỏ để yêu thương và nhất là giản dị trong khát vọng nghệ thuật của một người lấy văn chương làm
duyên nghiệp. Ơng từng viết:
“Tơi làm những bài thơ nho nhỏ
Như những hịn bi xanh đỏ các em chơi
Như những quả quýt, quả na
Các em tay bĩc vỏ, miệng cười.
Suốt đời tơi chỉ mơ
Được làm cho các em
Những bài thơ nho nhỏ
Như những hịn bi xanh đỏ các em chơi.”
(Những bài thơ nhỏ)
Khát vọng ấy của Phạm Hổ khơng phải dễ thực hiện. Cho nên hĩa ra điều tưởng chừng như rất giản
dị ấy mà đã lấy đi cả một đời người hơn 80 năm của Phạm Hổ. Sự giản dị ấy khơng đồng nghĩa với sự đơn
giản hay tầm thường! Bởi Phạm Hổ đã làm được một điều giản dị mà vơ cùng ý nghĩa đối với cuộc đời:
cho đi tất cả tình yêu của trái tim và nhận về biết bao yêu thương trân trọng.
Tựu trung, để nĩi về chân dung Phạm Hổ một cách ngắn gọn nhất, khơng cĩ đánh giá nào chính
xác bằng nhận định: Phạm Hổ - người yêu trẻ.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác.
Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết cho cả người lớn và trẻ em. Sự
phong phú trong thể loại và số lượng dày dặn của tác phẩm ít nhiều chứng minh cây bút Phạm Hổ cĩ
nguồn tiềm lực sáng tạo dồi dào và khá linh động.
Viết cho người lớn, Phạm Hổ cĩ những tác phẩm khá đặc sắc như: Cây bánh tét của người cơ,
Người vợ lẽ, Vườn xoan (truyện ngắn), Những ơ cửa những ngả đường (thơ)…
Tuy nhiên, nĩi đến Phạm Hổ trước hết và hơn hết phải nĩi đến sự đĩng gĩp của ơng cho nền văn
học thiếu nhi nước nhà. Hơn 60 năm cầm bút vì tình yêu trẻ, Phạm Hổ đã để lại khoảng trên 20 tập thơ, 9
tập truyện và 4 vở kịch tặng riêng các em [49, tr.102].
Những tác phẩm chính:
Thơ:
Em tre (1948)
Chú bị tìm bạn (1957)
Em thích em yêu (1958)
Những người bạn nhỏ (1960)
Bạn trong vườn (1967)
Từ khơng đến mười (1973)
Mẹ, mẹ ơi, cơ bảo (1980)
Những người bạn im lặng (1984)
Đỗ trắng đỗ đen (1991)
Cháu chọn hạt nào (1992)
Câu chuyện về Miu trắng (1993)
Truyện:
Viết thư cho cha (1959)
Khẩu súng người ơng (1960)
Cất nhà giữa hồ (1964)
Chuyện hoa, chuyện quả (tập một, 1974)
Lửa vàng, lửa trắng (1976)
Chuyện hoa chuyện quả (tập hai, 1982)
Tiếng sáo và con rắn (Chuyện hoa - chuyện quả, tập ba, 1985)
Ngựa thần từ đâu đến (1986)
Những chú sẻ con (1988)
Hai vợ chồng và con voi quý (Chuyện hoa - chuyện quả, tập bốn, 1988)
Chim lưu ly (Chuyện hoa - chuyện quả, tập năm, 1990)
Quả tim bằng ngọc (Chuyện hoa - chuyện quả, tuyển chọn, 1993)
Lửa vàng, lửa trắng, lửa nâu (1993)
Kịch:
Nàng tiên nhỏ thành Ốc (1981)
Tìm gặp lại anh (1981)
Người gái hầu của Mị Châu (1984)
Mị Châu và chiếc áo lơng ngỗng (1984)
Phạm Hổ đã được trao tặng các giải thưởng văn học:
Giải A trong các cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi với các tập thơ “Chú bị tìm bạn”
(1957-1958), “Chú vịt bơng”(1967-1968).
Giải thưởng chính thức về thơ viết cho thiếu nhi của hội đồng văn học thiếu nhi, Hội nhà
văn Việt Nam với tập thơ “Những người bạn im lặng” (1985).
Giải thưởng cuộc thi sáng tác kịch bản cho thiếu nhi do Hội nghệ sĩ sân khấu tổ chức với vở
kịch “Nàng tiên nhỏ thành Ốc” (1986).
Với những đĩng gĩp quan trọng cho nền văn học thiếu nhi, Phạm Hổ xứng đáng với Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật ( đợt I-2001).
1.2. Quan niệm sáng tác của Phạm Hổ.
1.2.1. Về thiên chức: nhà văn của thiếu nhi.
Phạm Hổ khơng chỉ viết cho trẻ em, ơng cũng cĩ nhiều sáng tác dành cho người lớn. Song, như
một duyên nợ, bạn đọc vẫn biết về ơng trước hết, với tư cách của một nhà văn, nhà thơ của thiếu nhi. Tất
nhiên, khơng phải chỉ vì ngay trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Hổ đã trực tiếp làm sách "Hoa kháng
chiến" phục vụ thiếu niên, nhi đồng. Hay chỉ vì sáng tác đầu tay của ơng cũng là về thiếu nhi và viết cho
thiếu nhi (Sáng trăng kể chuyện, Em vẽ Bác Hồ). Hoặc do bài thơ được xem là tiêu biểu và được biết đến
nhiều nhất của ơng - bài Chú bị tìm bạn - cũng là tác phẩm dành cho trẻ em. Và dĩ nhiên cũng khơng phải
chỉ vì ơng đã từng giữ cương vị Chủ tịch hội đồng văn học thiếu nhi Việt Nam. Mà trên hết, Phạm Hổ là
nhà văn, nhà thơ của thiếu nhi bởi vì ơng dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp làm bạn với trẻ con. Ơng đã
từng tâm sự: “Đối với tơi, được sống và viết cho các em là một hạnh phúc. Tơi đem lịng tơi yêu các em để
thể hiện lịng tơi yêu Đảng, yêu nhân dân, đất nước” [43].
Và chính tình yêu ấy là nền tảng cho quan điểm sáng tác văn học của Phạm Hổ.
Luơn ý thức để trở thành người bạn của thiếu nhi, dẫu biết “Viết cho trẻ em là một cơng việc khĩ
nhọc" (L.Tơnxtơi), Phạm Hổ đã xác định rõ đối tượng sáng tác và tiếp nhận với những đặc điểm tâm sinh
lí và ý thức thẩm mĩ riêng. Trong bài viết “Làm sao để viết cho các em hay hơn” đăng trên Tạp chí văn
học (số 5-1993), Phạm Hổ khẳng định hai nhiệm vụ cần làm song song của văn học cho trẻ em:
(1) Gĩp phần giải quyết những vấn đề trước mắt, nĩng hổi của cuộc sống, của xã hội.
(2) Trang bị cho các em những tình cảm, tư tưởng về lâu về dài: lịng nhân ái, tình yêu thương quê
hương, lịng trung thực…
Như vậy, quan niệm sáng tác của Phạm Hổ khơng chỉ thể hiện tâm huyết của ơng dành cho tuổi thơ
mà cịn thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vai trị của văn học trong việc chuẩn bị trước cho thiếu nhi
những hành trang cần thiết về nhiều mặt để cĩ thể tự tin bước vào đời. Khơng chỉ chú trọng đến những bài
học cuộc sống thực tế, Phạm Hổ thấy được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng tâm hồn cho thiếu nhi. Do
đĩ, bằng lối đi riêng của mình, Phạm Hổ khẳng định văn học chính là mĩn ăn tinh thần cần thiết cho các
em. Văn học tạo ra dưỡng chất quan trọng trong việc bồi bổ những tình cảm cơ bản, nuơi dưỡng bản chất
tươi mát, hồn nhiên và các phẩm chất quý báu khác cho trẻ như khả năng nhận diện, đánh giá, năng lực
tưởng tượng, biết ước mơ, biết quan tâm đến cuộc sống chung quanh… Nĩi khác đi, Phạm Hổ luơn chủ
trương văn học viết cho các em tập trung vào việc làm thế nào để cĩ thể đánh thức được những tình cảm
cao quý trong lịng, thức dậy những tiềm năng quan trọng của trẻ về khả năng quan sát thế giới để từ đĩ
biết sống và sống tốt hơn.
Nĩi tĩm lại, với Phạm Hổ, viết văn cho thiếu nhi là một thiên chức khĩ khăn nhưng cực kì nghiêm
túc và cĩ ý nghĩa lớn. Nĩ địi hỏi nhà văn phải cĩ trái tim yêu thương và tâm huyết với sự nghiệp chăm
sĩc vườn cây tâm hồn cho thiếu nhi các thế hệ.
1.2.2. Về thế mạnh của nhà văn.
Trong một lần trị chuyện với các em thiếu nhi ở Cung văn hĩa Hà Nội, Phạm Hổ đã kể lại sự kiện
xoay xung quanh một tập truyện nổi tiếng khắp thế giới: truyện Nấu bếp đêm của nhà văn Ba Lan Mơ-rit-
xơ Xen-đắc, như sau: “Một trung tâm nghiên cứu lớn ở Mĩ đã nhờ hàng trăm người tham gia vào việc tìm
hiểu vì sao mà tác giả lại cĩ thể viết hay đến như vậy. Họ điều tra ở các bạn đọc nhỏ tuổi - điều tra rất kín
đáo, khơng hề cho các em biết là mình được điều tra bằng cách bí mật đặt máy ghi âm rồi thu nhặt những
ý kiến của các em một cách rất thoải mái, tự nhiên. Họ khéo léo điều tra cả tác giả thơng qua các nhà báo,
nhà văn đến phỏng vấn trị chuyện. Họ đặt ra rất nhiều câu hỏi một cách cũng thật thân mật và nhẹ nhàng,
trong đĩ cĩ những câu rất vui: “Tại sao tác giả lại chọn ba người nấu bếp đêm (làm bánh mì) mà khơng là
hai người hoặc bốn người, năm người ?” Tác giả Mơ-rit-xơ Xen-đắc đã vui vẻ trả lời đại khái như sau: Cĩ
lẽ, ngày xưa bố tơi là thợ may; ơng ngồi ở giữa và cĩ hai người ngồi phụ việc ở hai bên, vì vậy mà con số
ba người, trong ý nghĩ tơi từ bé đến lớn là con số tốt nhất, đẹp nhất, hay nhất. Cho nên khi tơi viết Nấu
bếp đêm, khơng cần nghĩ ngợi, tơi đã chọn con số ba người. Với câu hỏi “Tại sao tác giả lại chọn cái lọ
đựng sữa mà khơng dùng cái bình đựng sữa ?”, Mơ-rit-xơ Xen-đắc cũng trả lời na ná như vậy: “Cĩ lẽ vì
lúc bé, mẹ tơi hay dùng cái lọ chứ khơng dùng cái bình để cho tơi ăn sữa...”
Sau khi kể câu chuyện ấy, Phạm Hổ đã kết luận: “Tác giả viết hay vì tác giả đã viết những gì mình
thuộc nhất, những gì đã thành máu thịt của chính mình” [54, tr.38]. Bài học về nghệ thuật kể chuyện dạy
cho các em thiếu nhi thật ra cũng chính là quan điểm sáng tác của Phạm Hổ.
Những tác phẩm của Phạm Hổ luơn cho người đọc, nhất là trẻ con, cái cảm giác quen thuộc và rất
máu thịt với mình. Cĩ được cảm giác ấy, hẳn nhiên là nhờ cơng truyền đạt của tác giả. Bởi như một quy
luật tự nhiên, người viết ra nĩ như viết cái điều máu thịt của chính mình nên mới cĩ khả năng khiến cho
người đọc cĩ sự tương cảm đẹp đẽ và gần gũi ấy. Cho nên, cĩ thể nĩi, với Phạm Hổ, viết về cuộc sống với
các chất liệu quen thuộc là một trong những cách thể hiện cái máu thịt của mình. Người đọc thường bắt
gặp hình ảnh những cây cà rốt, bắp cải, cây dứa, cây dừa đến na, ổi, sung, roi, thị, táo… hay những con
vật thân thuộc: chĩ, mèo, gà, bê, bị, chuồn chuồn, vịt, ngỗng... trong sáng tác của Phạm Hổ. Nhà văn luơn
chú ý phát huy thế mạnh trong quan sát, miêu tả, trong chọn lựa chất liệu và phát triển hình ảnh quen
thuộc ấy vào cuộc sống riêng của từng tác phẩm.
Cĩ lần Phạm Hổ đã nĩi về lí do “Vì sao chọn chất liệu cây khế là hay ?” “Theo tơi nghĩ vì cây khế
đúng là cây của nhà nghèo. Vị chua của khế là vị chua rẻ tiền hơn các vị chua khác, như chanh chẳng
hạn: Chợ chiều nhiều khế ế chanh, nhiều cơ gái gĩa nên anh chàng ràng (ca dao). Như thế rõ ràng khế
chỉ là những cơ gái gĩa, cịn chanh mới là những cơ gái chưa chồng…” [54, tr.29]. Qua suy nghĩ của tác
giả, chúng ta bắt gặp sự trăn trở về nghệ thuật một cách nghiêm chỉnh của một nhà văn trong quá trình thai
nghén những tác phẩm văn chương. Con đường sáng tạo của Phạm Hổ, rõ ràng, khơng phải là con đường
của sự dễ dãi.
Như một mao mạch dẫn nước tự nhiên từ rễ lên thân, lên lá, lên ngọn ở cây cối, cái máu thịt - cũng
là thế mạnh của một nhà văn sẽ được hấp thụ để tạo nên cá tính sáng tạo độc đáo và hấp dẫn của riêng họ.
Phạm Hổ từng quan niệm: “Sáng tác mỗi người cĩ một phong cách riêng, một lối làm riêng biệt để đi đến
cĩ hiệu quả nhất, cịn tùy theo cái tạng của từng người” [26, tr.29].
Dẫn chứng riêng về đề tài lồi vật trong thơ viết cho thiếu nhi, chúng ta khơng thể khơng thừa nhận
rằng Võ Quảng viết về lồi vật cĩ phần phong phú hơn so với Phạm Hổ. Tuy nhiên, nếu trong mỗi bài thơ
viết về con vật, Võ Quảng luơn chú ý tạo ra một bản hợp xướng với nhiều tiếng hát, lời ca như Anh Đom
đĩm, Phải chung màu lại…(cho nên thế giới lồi vật trong thơ Võ Quảng đơng đúc, phong phú với đom
đĩm, bồ chao, chẫu chàng, châu chấu voi, bĩi cá) thì Phạm Hổ chủ trương qua những dịng thơ ngắn gọn,
giản dị, nhưng chạm khắc vào thời gian, vào lịng người chân dung những con vật tinh nghịch thơng minh,
thơ ngây như con trẻ. Thế giới lồi vật trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ thật ngộ nghĩnh đáng
yêu. Từ những con vật thật thân quen: chĩ, mèo, gà, bê, bị, chuồn chuồn, vịt, ngỗng... nhà thơ đã thổi vào
đĩ một sự sống tươi non mang hơi thở, tâm hồn và khát vọng trẻ thơ. Chú bê háu đĩi suốt ngày nũng mẹ
(Bê địi bú), Sáo ăn na rơi hột mà đâu cĩ biết “chính na sáo trồng” (Sáo ăn na). Thỏ gọi điện thoại nghe rõ
tiếng mèo nhưng vẫn lo lắng “nhỡ đứa khác thì sao” (Thỏ dùng máy nĩi). Ngỗng đọc sách ngược lại cứ
tưởng xuơi (Ngỗng và vịt)... Mỗi lồi vật vừa mang nét đặc trưng giống lồi vừa được nhân cách hĩa
thành những người bạn tinh nghịch, vui nhộn của bé.
Chúng tơi xin nĩi thêm về ý thức sáng tạo trong văn chương của Phạm Hổ ở thể loại truyện. Thơng
thường, khi viết lại truyện cổ dân gian, các nhà văn thường khai thác nguyên vẹn hay tồn bộ cốt truyện
(Tơ Hồi viết Đảo hoang, Nhà Chữ, Chuyện nỏ thần; Nguyễn Huy Tưởng viết Con cĩc là cậu ơng trời,
Truyện bánh chưng). Phạm Hổ khơng theo cách này, ơng chỉ lấy một hình tượng hay dựa vào kết truyện
rồi tạo ra một tác phẩm mới. Chúng ta cĩ thể thấy rõ sự sáng tạo của Phạm Hổ khi đọc Ngựa thần từ đâu
tới. Truyện này cĩ liên quan đến truyền thuyết quen thuộc: Thánh Giĩng. Bao thế hệ tuổi thơ Việt Nam đã
tiếp nhận một điều rõ ràng từ truyền thuyết ấy: ngựa sắt là do nhà vua làm theo yêu cầu của cậu bé làng
Giĩng. Phạm Hổ viết khác. Câu chuyện bắt đầu từ việc hai cha con ở một vùng núi xa xơi quyết đưa con
ngựa hồng về xuơi cho Thánh Giĩng ra trận. Chú ngựa hồng sau khi bị giết đã hĩa thành ngựa đất, rồi nhờ
giọt máu của cụ già, nhờ ăn sắt uống lửa của nhân dân mà trở thành ngựa thần. Cĩ thể thấy, vẫn là nội
dung đề cao lịng yêu nước của nhân dân nhưng cách viết của Phạm Hổ là một khám phá mới từ các giá trị
dân gian tưởng đã ổn định, bất di bất dịch.
1.2.3. Về cái tình trong viết văn.
Phạm Hổ thuộc vào số các nhà văn khơng mấy khi cơng khai phát biểu về quan niệm sáng tác của
mình. Song, thơng qua những suy nghĩ, cũng như các bài học mà ơng viết riêng cho những bạn đọc thiếu
nhi, chúng ta thấy được quan niệm sáng tác của chính tác giả.
Trong một lần giới thiệu cách viết văn, dựa vào đoạn văn Cây Hà Nội trích trong tác phẩm Cảnh
sắc và hương vị đất nước của Nguyễn Tuân, Phạm Hổ đã cĩ lời bình như sau: “Ngày nào chúng ta cũng
thấy cây, nhưng mấy ai đã sống với cây, cĩ tình với cây như tác giả (Nguyễn Tuân). Cĩ sống với cây mới
thấy màu xanh cây ta thật nhiều cung bậc từ xanh nhờ đến xanh đen. Cĩ tình với cây mới thấy mỗi cái cây
in bĩng xuống đường nhựa kia cũng là một kiếp sống, mỗi năm cĩ những nỗi buồn, nỗi vui” [54, tr.72].
Và Phạm Hổ kết luận ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa như sau: “Mới biết, văn hay thường xuất phát từ cái
tình” [54, tr.72].
Nĩi người cũng là nĩi mình, Phạm Hổ học tập nơi Nguyễn Tuân hay chính bản thân ơng rất tâm
đắc với chữ tình trong văn chương nghệ thuật nên mới cĩ cái nhìn đầy thiện cảm đối với tác giả họ
Nguyễn ấy? Rõ ràng, nếu khơng cĩ cái tình sâu nặng với những gì mình viết ra, chắc khĩ lịng một nghệ sĩ
như Phạm Hổ sống trọn vẹn với thế giới văn chương mà ơng tâm huyết. Cái tình trong viết văn là chất
sống nuơi dưỡng cái cây tâm hồn. Nĩ tạo nên dưỡng chất say mê, cảm hứng nhiệt thành và cả tấm lịng
trân trọng với những đối tượng mà tác giả quan sát và đem vào trang văn.
Như vậy, Phạm Hổ luơn cho rằng: một nhà văn khi viết khơng chỉ cĩ tài mà cịn phải cĩ cái tâm,
cái tình. Cái tài thể hiện trên câu chữ, qua tài năng sáng tác, qua cá tính sáng tạo của tác giả. Cái tình thì
ẩn hiện phía sau, phía trong, nĩ là cảm xúc, tình cảm chân thành đối với những gì mình viết ra. Đây là một
quan niệm đúng đắn, bởi lẽ văn hay thường cĩ sức lay động lịng người. Và muốn lay động lịng người, tất
yếu lịng mình phải thật sự xúc động với những gì mình viết ra. Phạm Hổ đã ý thức được rằng: văn học là
chuyện đi từ trái tim đến trái tim.
Trong muơn vạn cung bậc của cái tình trong sáng tác, Phạm Hổ đặc biệt lưu ý đến cái tình dân
tộc, cái tâm đối với quê hương của một nhà văn Việt Nam khi cầm bút. Phạm Hổ từng nĩi: “Tơi mong
rằng khi sáng tác ra những câu chuyện, khi tạo tình huống, khi tìm chi tiết chất liệu, khi chọn giọng kể
ngơn ngữ, cĩ lẽ chúng ta nên chú ý đến cái tính cách Việt Nam, cái chất tâm hồn Việt Nam, cái hương vị
Việt Nam” [54, tr.36].
Thật vậy, qua các sáng tác của Phạm Hổ, người đọc dễ dàng nhận ra cái chất Việt Nam, cái hương
vị Việt Nam ẩn hiện qua từng câu chữ, ý tưởng, từ cách gọi tên nhân vật đến lối tư duy quen thuộc vừa
đầy tình nghĩa vừa mộc mạc của cha ơng. Nĩi riêng về thế giới thiên nhiên, bằng cái tình tha thiết mãnh
liệt với đất nước, bằng lịng yêu con trẻ sâu nặng, Phạm Hổ đã tạo ra trong thơ mình một thế giới lồi cây
mang đậm phong vị Việt Nam. Hơn 30 lồi cây được nhắc đến trong tập thơ Chú bị tìm bạn, từ cây cà rốt,
bắp cải, cây dứa, cây dừa đến na, ổi, sung, roi, thị, táo… cây nào, trái nào cũng bước ra từ cuộc sống gắn
bĩ với nhân dân lao động Việt Nam. Trong tập Chuyện hoa chuyện quả, thế giới cây quả được Phạm Hổ
hình dung qua tâm hồn của một người Việt Nam hết lịng yêu quê hương. Mỗi cách gọi tên, mỗi cách
miêu tả, mỗi cách kể chuyện của Phạm Hổ đều phù hợp với lối tư duy và suy nghĩ của người dân nước
mình. Cĩ thể chính cái chất Việt Nam trong sáng tác của Phạm Hổ đã làm nên cái tình quen thuộc, đậm
đà.
Đọc truyện của Phạm Hổ, chúng ta như được sống trong một khơng gian quê hương, cũng là sống
trong cái tình dân tộc của nhà văn khi tạo dựng nên những hình ảnh thân quen đĩ: “Ơng thầy dạy đàn cảm
thấy dễ chịu khi ngồi trong nhà nhìn ra vườn. Khúc lượn của con sơng ở đây càng ngắm kĩ càng thấy đẹp.
Những cây sung và những lùm tre ở bờ bên kia xanh biếc, um tùm soi bĩng xuống dịng sơng nhìn nửa hư,
nửa thực như trong tranh vẽ. Xa xa là những rặng núi xanh mờ tím nhạt như trong mơ.” (Cây đàn và bầu
rượu của người thầy)
Nguyễn Đăng Mạnh nĩi: “Muốn hiểu tác phẩm của nhà văn, trước hết phải hiểu quan điểm nghệ
thuật của ơng” [50, tr.17]. Với Phạm Hổ, tuy khơng cĩ những phát biểu mang tính lí luận nhưng ơng cũng
để lại những quan điểm sáng tác cĩ ý nghĩa. Phạm Hổ cĩ khuynh hướng cụ thể hĩa, hiện thực hĩa những
nỗi niềm, những suy nghĩ, những quan niệm của mình thành những bài học thiết thực cho thiếu nhi khi
viết văn và xem nĩ như sự trăn trở của người cĩ tâm huyết đối với sự phát triển văn học thiếu nhi nước
nhà.
Như vậy, Phạm Hổ xác định rõ các vấn đề đặt ra với cơng việc viết văn, trong tư cách một nhà văn
coi trọng thiên chức viết văn cho trẻ em. Vì vậy, hiểu quan niệm của Phạm Hổ là cách chúng ta hiểu thêm
về văn chương của ơng, nhất là hiểu được cảm hứng tư tưởng và những sáng tạo trong nghệ thuật kể
chuyện của Phạm Hổ với thể loại truyện cho thiếu nhi.
Chương 2: CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU
NHI CỦA PHẠM HỔ
Sáng tác văn học thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần và mỗi tác phẩm được xem là đứa con tinh thần
của người cầm bút. Mỗi tác phẩm ra đời đều bắt nguồn từ một cảm xúc, tình cảm và tư duy nghệ thuật
nhất định. Chúng tơi gọi trạng thái cảm xúc, tâm lí, tình cảm làm nảy nở tư duy nghệ thuật sáng tạo của
nhà văn là cảm hứng. Cảm hứng ấy khơng chỉ chi phối quá trình sáng tác của nhà văn mà cịn ảnh hưởng
lớn đến các lớp nội dung của tác phẩm. Cĩ thể thấy, niềm say mê với thiên nhiên cây cỏ và tình yêu dành
cho thiếu nhi là nguồn cảm hứng quan trọng trong truyện của Phạm Hổ. Chính Phạm Hổ cũng cĩ lần thổ
lộ rất chân thành về nguồn cảm hứng sáng tác của mình: “Cách đây khoảng 40 năm, cây rừng Trường Sơn
đã làm tơi ngẩn ngơ. Cĩ những cây to nhìn đến phát ngợp... Lại cĩ những cây bé tí teo như cây rêu mà
cũng cĩ đủ rễ, đủ ngọn… Cây đứng, cây bị, cây leo, cây cuộn... Và khơng biết bao nhiêu hoa rừng, quả
rừng, màu sắc lạ, hình dáng khơng ngờ… Cây rừng gợi nhớ đến vườn… Thích quá, yêu quá, tơi rất muốn
viết về cây, về hoa và quả” [34, tr.2].
Tuy nhiên, cảm hứng của nhà văn khơng phải là những tình cảm nhợt nhạt, những cảm xúc bằng
phẳng mà đĩ phải là sự xúc cảm mãnh liệt, một tình cảm mạnh mẽ mang tư tưởng, là cảm hứng tư tưởng.
Trong truyện của Phạm Hổ, cảm hứng tư tưởng thể hiện rõ qua cách nhà văn lí giải thế giới bằng cái nhìn
của người yêu trẻ.
2.1. Những nguồn cảm hứng chính trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ.
2.1.1. Cảm hứng về huyền thoại của thiên nhiên.
Thiên nhiên vốn là thế giới đầy kì diệu và cĩ sức hấp dẫn bao đời nay. Thiên nhiên luơn tỏa ra một
sức cuốn hút khiến người ta mê say và khám phá nĩ. Tất nhiên, mỗi người mỗi kiểu, mỗi người mỗi
khuynh hướng. Phạm Hổ từng quan niệm thiên nhiên là một nhân vật khơng thể thiếu trong sáng tác
cho các em. Với thơ, Phạm Hổ cũng đã từng làm những cuộc du hành vào thiên nhiên để khám phá ra biết
bao điều lạ lùng mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống. Thiên nhiên hiện lên vừa gần gũi thân thiết, vừa
đa dạng sắc màu với bao nét kỳ thú, bất ngờ, phản chiếu tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, tấm lịng thiết tha trân
trọng tuổi thơ và khát vọng hướng về cái đẹp của Phạm Hổ.
Trong thơ Phạm Hổ, mỗi lồi cây đều được hiện lên với vẻ đẹp riêng, cĩ quả to, quả nhỏ, “quả đơm
trên ngọn”, “quả nằm dưới chân”. Đĩ là những hoa hồng, hoa cúc, hoa thiên lý... rực rỡ sắc màu, hương
thơm ngào ngạt tơ điểm cho bốn mùa. Đĩ là sắc màu của hoa được nhà thơ nĩi đến một cách giản dị qua
bài Đất và hoa: “Đào đỏ, mai vàng. Bìm xanh cúc tím”. Hay đĩ là cảnh hồ sen trong mát yên lành “Trăm
nghìn. Cửa lụa. Xinh tươi. Sáng hồng”. Đĩ cũng là thế giới rau, củ, quả với những nét hấp dẫn riêng ngọt
ngào, mời gọi: củ cà rốt với dáng điệu: “Cà đỏ. Lá xanh”, khế với năm cánh “vàng treo lĩng lánh”. Bắp
cải xanh mang vẻ đẹp hồn nhiên của tuổi thơ “Bắp cải xanh. Xanh mát mắt. Lá cải sắp. Sắp vịng trịn.
Bắp cải non . Nằm ngủ giữa”.
Tuy nhiên, cảm hứng về thiên nhiên trong thơ của Phạm Hổ chỉ dừng lại ở việc khám phá vẻ đẹp tự
nhiên của cây, hoa, trái. Phạm Hổ khơng lí giải, khơng tơ vẽ thêm, tác giả chỉ cho thiên nhiên hiện lên như
chính chiếc áo mà tạo hĩa đã khốc sẵn bao đời nay cho nĩ. Nhưng với truyện thì khác, Phạm Hổ khơng
miêu tả lại thiên nhiên một cách đơn thuần mà nhà văn đi kể lại quá trình hồi thai ra chúng như cuộc
hành trình tìm về với huyền thoại xa xưa của tổ tiên lồi người. Nghĩa là Phạm Hổ đã đem tư duy huyền
thoại hĩa, cổ tích hĩa những hình ảnh thiên nhiên vốn hết sức quen thuộc. Vì thế, thiên nhiên trong truyện
của Phạm Hổ trở thành một nguồn cảm hứng tươi mới, sinh động.
Cảm hứng về huyền thoại của thiên nhiên trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ bắt nguồn
từ đơi mắt và tấm lịng “trẻ thơ” của ơng. Một đơi mắt luơn mở rộng khám phá những điều người lớn vốn
cho là hiển nhiên. Một tấm lịng thích nghĩ về chiều sâu của những hiện tượng thơ mộc, đời thường. Đọc
truyện của Phạm Hổ, chúng tơi như bắt gặp lại cái nhìn của cha ơng ta ngày trước trong những câu chuyện
thần thoại sống động về thế giới tự nhiên. Cả khối vũ trụ hỗn mang ngày nào nhờ cĩ bàn tay sắp đặt của
các vị thần mà trở nên trật tự: Thần Trụ Trời, thần Mưa, thần Sấm, thần Lửa, thần Biển... Các vị thần ấy
đã tạo ra biết bao cơng trình thiên nhiên, các hiện tượng kì diệu cho trái đất này. Cái nhìn sơ khai của tổ
tiên ta về thế giới lúc ấy phản ánh lịng ham muốn khám phá thế giới trong tất cả các chiều kích từ vĩ đại
đến đơn giản nhất, từ quá trình hình thành đến khi nĩ trở thành quy luật quen thuộc trong cuộc sống.
Phạm Hổ học tập cha ơng trong lối tư duy đĩ nên thiên nhiên trong truyện viết cho thiếu nhi của
nhà văn được nhìn như một thế giới huyền thoại như vậy. Ở đĩ, câu chuyện các lồi cây được sáng tạo
vừa kì lạ nhưng cũng vừa hợp lí. Phạm Hổ đã tạo dựng nên hệ thống gia phả thần Cây vừa nhân hậu vừa
vui tính. Nhưng khác với cách tưởng tượng kì vĩ hĩa của tác giả dân gian khi sáng tạo thần thoại, Phạm
Hổ khơng miêu tả dáng vẻ thần thánh hay những việc làm phi thường của thần Cây. Trong nhiều câu
chuyện, thần Cây hiện ra rất đời thường, nhân hậu. Thần Cây cĩ tên, cĩ gia đình, và cũng cĩ những suy
tính như một ơng bố thời hiện đại muốn làm vui lịng những đứa con thân yêu của mình. Với chức trách
sáng tạo ra những lồi hoa quả, thần Tiêu Ly -con út của thần Cây - khơng thực hiện bằng các phép thuật
như các vị thần khác trong thần thoại mà ơng tiến hành bằng đơi bàn tay khéo léo của mình. Ơng nặn ra
một lồi quả mới cĩ hình dạng giống bàn tay xếp xoay trịn để xua đuổi con chim ác và sau này bàn tay ấy
trở thành những nải chuối “giống cây mang đầy tình yêu thương con trẻ của Tiêu Ly” (Những bàn tay
nhiều ngĩn). Rồi từ quả chuối ấy, thần Tiêu Ly cho thêm vị chua và lấy lưỡi dao vĩt bằng cật tre làm
thành các khía như hình ngơi sao. Vậy là trẻ em hơm nay cĩ trái khế (Quả cĩ nhiều khía).
Trong hành trình tìm về với nguồn gốc ra đời của các lồi cây quả, Phạm Hổ đã tạo dựng lên cả
một thế giới của những vị thần sáng tạo các lồi hoa quả. Đĩ là thần Cây, thần Tiêu Ly (con trai thần
Cây), thần Trang Ly (cháu út của thần Cây), thần Tiêu Châu (con gái thần Tiêu Ly)… Các vị thần ấy
khơng cĩ chiếc áo màu nhiệm cĩ thể tàng hình, khơng cĩ cây đũa thần cĩ thể hơ biến mọi thứ, họ chỉ cĩ
một tấm lịng luơn quan tâm đến những sở thích của con trẻ và những nhu cầu, mong ước của con người.
Và từ đĩ, họ sáng tạo nên những lồi hoa quả. Người viết bỗng nhớ đến những câu thơ của Xuân Quỳnh
trong Truyện cổ tích về lồi người:
“Muốn trẻ con được tắm
Sơng bắt đầu làm sơng
Sơng cần đến mênh mơng
Biển cĩ từ thuở đĩ
…
Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Khơng hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đĩ”.
Theo Kinh Thánh, thượng đế tạo ra cây trong ngày thứ ba. Mọi tơn giáo đều coi cây là “ngơi nhà”
của thánh thần. Với Phật giáo, Đức Như Lai đã ngồi tu dưới gốc cây bồ đề. Đạo Thiên Chúa cũng “trồng”
các loại cây trong khu vườn Địa Đàng của Đức Chúa Trời. Như vậy, hẳn là cây đã cĩ mặt trên trái đất này
từ rất lâu. Khoa học hiện đại tính tốn được cây đã cĩ mặt từ 410 triệu năm nay. Nhưng cĩ lẽ, với nhiều
thiếu nhi Việt Nam, cây cối xuất hiện bắt đầu từ cái ngày xửa, ngày xưa trong truyện của Phạm Hổ.
Phạm Hổ đã dệt nên những huyền thoại về các lồi hoa, quả khơng theo bất cứ một truyền thuyết
tơn giáo nào mà theo cách tư duy nghệ thuật riêng của mình. Ơng đi lần về cái thời ban đầu của từng
giống cây quả để xem vì đâu nĩ lại xuất hiện. Qua mỗi câu chuyện, Phạm Hổ đem đến cho bạn đọc một sự
tích về thiên nhiên. Chúng ta cĩ thể khẳng định: lối cổ tích hĩa nguồn gốc cây quả là nguồn cảm hứng
lớn trong sáng tác của nhà văn Phạm Hổ. Tất nhiên, người lớn chúng ta ai cũng biết các lồi hoa quả
trong thiên nhiên đều cĩ quá trình phát sinh, phát triển với những đặc điểm giống lồi nhất định. Nhưng
đĩ dường như khơng phải là nhiệm vụ của văn chương, của các nghệ sĩ ngơn từ, mà đĩ là nhiệm vụ của
các nhà sinh vật học. Cịn nhà văn, họ miêu tả quá trình hình thành phát triển của cây cối theo cách riêng
của họ.
Nĩi riêng về huyền thoại các lồi hoa, nhà văn Phạm Hổ đã khiến khơng ít người đọc sửng sốt bởi
cái nhìn và cách lí giải nguồn gốc ra đời của chúng. Sự xuất hiện của hoa thiên lí hơm nay là cả một câu
chuyện huyền thoại về tình cảm vợ chồng của cơ gái tên Lý. Câu chuyện bắt đầu từ tiếng sáo cĩ sức hấp
dẫn của người chồng đến mức: “cĩ một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho
thành người để dành chàng làm chồng”. Con rắn ấy giả dạng y hệt cơ vợ tên Lý từ vẻ mặt, lời nĩi, dáng
đứng, dáng đi. Việc thật giả chỉ trắng đen rõ ràng khi người vợ thật nhận ra chồng mình từ nghìn dặm theo
triết lí hết sức giản đơn nhưng khơng kém phần sắc sảo của dân gian: “Lia thia quen chậu, vợ chồng quen
hơi”. Người vợ giả hiện nguyên hình là con rắn, cịn vợ chồng người thổi sáo đồn tụ trong hạnh phúc: vợ
gội đầu, chồng thổi sáo. Truyện kết thúc thật bất ngờ: “Cĩ con chim gì thả rơi bên chân người vợ một
chùm hoa màu xanh phơn phớt vàng cĩ mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn.
Người vợ liền bảo chồng đặt bơng hoa bên cạnh cửa sổ để cĩ giĩ, hương hoa càng bay khắp nhà. Sáng
hơm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bơng hoa đã kết liền vào một lồi cây dây leo, mọc ở
cạnh cửa sổ. Và sau đĩ, khơng phải chỉ cĩ một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo.
Hoa xanh phớt vàng hình giống như ơng sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt”. Đĩ là hoa thiên lí, lồi hoa
cĩ nguồn gốc huyền thoại về tình cảm vợ chồng: “Thiên lí là vạn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được
chồng mình...” (Tiếng sáo và con rắn).
Hoặc như cách Phạm Hổ hình dung về nguồn gốc ra đời của lồi hoa dâm bụt. Đĩ là câu chuyện
cảm động về hai anh em Cành và Búp. Cành là anh, khỏe mạnh. Búp là em, bị liệt hai chân. Với tình
thương em tha thiết, Cành đi tìm Bụt để Bụt giúp em mình hết bệnh. Bụt thử thách Cành từ việc hi sinh
tấm áo đỏ đẹp nhất của mình đến việc sẽ phải thế chân cho Búp nếu muốn em lành bệnh. Cành chấp nhận
và vượt qua thử thách ấy bằng một tình yêu thương chân thành, mạnh mẽ. Kết cục câu chuyện là hình ảnh
ra đời một lồi hoa mang sắc đỏ yêu thương của tình anh em: “Bụt cầm cái ơ con (vốn được may từ tấm
áo của Cành) đi ra ngõ rồi chấm chấm cái ơ lên bụi cây, lá xanh biếc, nơi đêm trước Cành đã dấu cái ơ
vào trong. Bụt chấm đến đâu thì hoa vụt hiện ra đến đấy, một lồi hoa mới hình giống cái ơ, màu đỏ thắm
nhìn rất vui và rất hội hè...” (Cái ơ đỏ).
Phạm Hổ quan niệm rằng: mỗi sự vật đều cĩ một trang sử dài về sự hình thành và phát triển. Ơng
đã nhìn từng lồi hoa dưới gĩc độ của tình cảm thẩm mĩ, của cảm xúc thẩm mĩ trong mối quan hệ nhiều
mặt với đời sống tinh thần của con người. Vậy là mỗi lồi hoa, qua cảm hứng huyền thoại của nhà văn,
đều chứa một khúc nhạc riêng, một vẻ đẹp riêng. Con cua lửa là huyền thoại về hoa gọng vĩ. Với Phạm
Hổ, đĩ là lồi hoa mọc lên từ mộ cụ già nghèo làm nghề câu cá ven sơng. Đây là lồi hoa kì lạ vì: “nhìn từ
xa hoa cứ như những chùm lửa đang cháy và như muốn bay lên, bay lên thật cao... Cánh hoa lại cong lên
như những cái gọng vĩ” (Con cua lửa). Em bé hái củi và chú hươu con là huyền thoại của hoa đại. Đĩ là
lồi hoa ra đời từ tình nghĩa thủy chung son sắt của đơi bạn nhỏ: chú bé và hươu con. Lồi hoa minh
chứng cho sự chờ đợi: “Cĩ người bảo chữ Đại là do chữ đợi, chờ đợi mà cĩ. Cây hoa Đại, lá to giống tai
hươu, cành giống sừng hươu... Những bơng hoa cũng giống con mắt hươu đang mở trịn, mở to, để trơng
ngĩng chờ đợi” (Em bé hái củi và chú hươu con). Những thanh gươm xanh của năm người học trị nghèo
mà ơng thầy dạy võ trao cho lúc lên đường đánh giặc là huyền thoại của hoa phượng ngày._.
12. Chu Xuân Diên, “Truyện cổ tích dưới mắt nhà khoa học”, Tạp chí nghiên cứu văn học dân gian số 11/
2000.
13. Chu Xuân Diên (1995), Thi pháp truyện cổ tích, Nxb Giáo Dục, Tp.Hồ Chí Minh.
14. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lí luận văn học, phần tác phẩm văn học, Nxb Đại học quốc gia ,
Tp.Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. G.N. Pơxpêlơp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Lê Đạt, Lê Minh Hà (2006), Truyện cổ viết lại, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
18. Hồng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Thái Hịa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh.
20. Tơ Hồi (1993), “Văn học cho thiếu nhi hơm nay”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.4.
21. Tơ Hồi (1998), Tuyển tập văn học thiếu nhi, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Tơ Hồi (1998), Ba chuyện cổ tích (Đảo Hoang, Nhà Chữ, Chuyện nỏ thần), hai tập, Nxb Kim Đồng,
Tp.Hồ Chí Minh.
23. Phạm Hổ (1962), Vườn xoan, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Phạm Hổ (1982), Những ơ cửa những ngả đường, Nxb tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
25. Phạm Hổ (1990), Người vợ lẽ, Nxb Tổng hợp, Bình Định.
26. Phạm Hổ (1993), “Làm sao để viết cho các em hay hơn”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.29-31.
27. Phạm Hổ (1994), Lửa vàng lửa trắng lửa nâu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
28. Phạm Hổ (1995), Cất nhà giữa hồ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
29. Phạm Hổ (1995), Tuyển tập Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
30. Phạm Hổ (1998), Lời cầu xin cuối cùng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Phạm Hổ (2000), Chú bị tìm bạn, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh.
32. Phạm Hổ (2001), Nàng tiên nhỏ thành ốc (kịch), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
33. Phạm Hổ (2003), Cây bánh tét của người cơ, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh.
34. Phạm Hổ (2005), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh.
35. Mộng Huyền (1996), Truyện cổ tích thế giới chọn lọc, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà Nội.
36. Trần Mạnh Hưởng (2005), Luyện tập về cảm thụ văn học ở tiểu học, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.
37. Hồi Khánh, Nhà thơ Phạm Hổ trong kí ức của tơi, hoaikhanh.vnweblogs.com.
38. Trần Đăng Khoa (tuyển chọn), Tế Hanh (giới thiệu) (1999), Tuyển tập Phạm Hổ, Nxb Văn học, Hà
Nội.
39. Lê Nhật Ký (2005), “Phạm Hổ - người kể chuyện cổ tích về hoa quả”, Thơng báo khoa học, ĐH Quy
Nhơn số 5/ 2005, tr.15-18.
40. Lê Nhật Ký (2005), “Phạm Hổ thơ viết cho lứa tuổi nhi đồng”, Thơng báo khoa học, Đại học Quy
Nhơn, số 31/ 2005, tr.12-15.
41. Lê Nhật Ký (2006), Phạm Hổ - Một lối đi riêng trong truyện cổ viết lại,
42. Viết Linh (2005), H.C. An-đec-xen Người kể chuyện thiên tài (truyện), Nxb Thanh Niên, Tp.Hồ Chí
Minh.
43. Phạm Phương Liên, Thiên nhiên trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ,
44. Lê Quang Long - Nguyễn Thị Thanh Huyền (1994), Chuyện lạ cĩ thật về thực vật, Nxb Giáo dục,
Tp.Hồ Chí Minh.
45. Lê Quang Long (2006), Từ điển tranh về các lồi cây, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh.
47. Phương Lựu (1997), Lí luận văn học, tái bản lần thứ 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
49. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, tái bản lần 3, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
51. M.B.Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội.
52. Gia Mạnh ( 2006), Truyện cổ tích về các lồi cây, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà Nội.
53. Mikhai Ilin (1995), “Tơi đã trở thành nhà văn viết cho thiếu nhi như thế nào?”, Tạp chí văn học
5/1995, tr.50.
54. Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển (2004), Văn miêu tả và kể chuyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kì người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
56. Nguyên Ngọc (1986), “Phạm Hổ với Chuyện hoa, chuyện quả của anh”, tham luận hội thảo về ba nhà
văn chuyên viết cho thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng, Tơ Hồi, Phạm Hổ tại Hà Nội năm 1986.
57. Nguyên Ngọc (1995), “Viết cho trẻ em hơm nay càng khĩ hơn”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.3- 4.
58. Hữu Ngọc (dịch) (1983), Truyện cổ Grim, Nxb Văn học, Hà Nội.
59. Mai Ngọc (tuyển) (2005), Truyện cổ tích hay nhất thế giới viết cho thiếu nhi, Nxb Văn hĩa thơng tin,
Hà Nội.
60. Trần Đức Ngơn (1996), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Trường ĐHSP I, Hà Nội.
61. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam,
Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (1993), “Văn học cho thiếu nhi trên thế giới”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.60-63.
63. Nhiều tác giả (1999), Nghệ thuật kể chuyện cho trẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2001), Hồng tử mặt trời: Trên những nẻo đường cổ tích, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (2002), Văn học và phương pháp cho trẻ tiếp xúc với văn học, Giáo trình đào tạo giáo
viên THSP mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. Rơ-đa-ri Gian-ni (2000), Truyện cổ tích hiện đại, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà Nội.
67. Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
68. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, tài liệu BDTX chu kì 1992-1996 cho giáo
viên văn cấp 2 phổ thơng, Nxb Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội.
69. Phạm Bá Tân (2004), “Đĩng gĩp của Phạm Hổ cho một thể loại văn học thiếu nhi”, Nghiên cứu văn
học số 9/2004, tr.42-46.
70. Vân Thanh (1982), Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Vân Thanh, Nguyên An (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, tập một, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
72. Phương Thảo (tuyển) (2003), Truyện cổ tích về những lồi hoa, Nxb Giáo dục, Tp.HCM.
73. Nguyễn Quang Thân (1993), “Văn học hành trang đường đời cho trẻ thơ”, Tạp chí văn học số 5-1993,
tr.6-7.
74. Phong Thu (2005), Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng 8, Nxb Giáo dục,
Tp.Hồ Chí Minh.
75. Phong Thu (2006), Truyện ngắn dành cho tuổi nhi đồng, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh.
76. Nguyễn Huy Tưởng (1966), Tìm mẹ, Nxb Văn học, Hà Nội.
77. Nguyễn Huy Tưởng (2004), Truyện viết cho thiếu nhi, Nxb Thanh Niên, Tp.Hồ Chí Minh.
78. Tzvetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuơi, Nxb ĐH sư phạm, Hà Nội.
79. Hồng Vân (1996), Chuyện cổ tích cho em, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
80. Véra C. Barclay (1993), “Truyện cho trẻ em”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.49.
81. V.IA. Prốpp (2003), Tuyển tập V.IA.PROPP, tập 1, Nxb Văn hĩa dân tộc, Hà Nội.
PHỤ LỤC 1
CÁC TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ ĐƯỢC KHẢO SÁT.
1. Những bàn tay nhiều ngĩn
2. Cây chanh quả vàng
3. Cây một quả
4. Tiếng sáo và con rắn
5. Quả tim bằng ngọc
6. Những con ốc kì lạ
7. Cái ơ đỏ
8. Ruột vàng hạt lắm
9. Em bé và Rồng con
10. Chuyện nàng Mây
11. Những thanh gươm xanh
12. Con cua lửa
13. Cơ bé và ơng Táo
14. Ba chiếc áo ba màu
15. Em bé hái củi và chú hươu con
16. Tép lên cây
17. Một người con cĩ hiếu
18. Chim Lưu Ly
19. Cái kéo kì lạ
20. Cơ em gái biết lo xa
21. Người ăn trộm đi nhầm nhà
22. Cơ gái thêu tài và chàng trai dệt giỏi
23. Hai ơng cháu và túp lều dột nát
24. Mùi hương kì lạ
25. Những bơng hoa hình mũi kim
26. Ngơi đền đỏ
27. Những người con hiếu thảo
28. Hai vợ chồng và con voi quý
29. Những bơng hoa mới ở Hồ Thơm
30. Cơ gái bán trầm hương
31. Dịng sữa của người chị
32. Màu áo, màu hoa
33. Cơm cho chĩ ăn
34. Ăn lá mà nhả ra vàng
35. Hai anh em nhà trăm mắt
36. Người mẹ nghèo ít gạo nhiều con
37. Cây lạ quả ngon
38. Em bé hay cười
39. Cây đàn và bầu rượu của người thầy
40. Quả cĩ nhiều khía
41. Của quý trong lịng đá
42. Những quả ổi biết kêu
43. Cái áo chồng lơng cáo
44. Khĩm dứa lá khơng gai
45. Chọn rể quý
46. Hạt ngày, hạt đêm
47. Bài thi nhập học
PHỤ LỤC 2
KHẢO SÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ THEO MƠ HÌNH CẤU TẠO CỐT TRUYỆN.
Truyện Nhân vật gặp tai
họa hoặc thử
thách.
(1)
Nhân vật gặp gỡ
lực lượng thần kì.
(2)
Nhân vật vượt
qua tai họa, thử
thách.
(3)
Kết thúc bằng
sự hĩa thân.
(4)
Những
bàn tay
nhiều
ngĩn
- Cuộc thi tìm
giống cây mới.
- Con chim ác mổ
phá quả quý.
- Giống cây
được đứng giải
nhất.
- Cây chuối.
Cây
chanh
quả
vàng
- Giặc dữ kéo tới,
tên tướng giặc cĩ
phép tinh.
- Quất lên đường
đuổi giặc.
- Quất xin vua đúc
cho một cây roi sắc
ba cạnh nhỏ như
cây mây nhưng dài
bằng cây tre.
* Vua ở đây là hiện
thân cho lực lượng
thần kì vì vua vốn
sở hữu một cây
chanh quả bằng
vàng.
- Đường roi thứ
ba cắt ngang cổ
giặc.
- Vua ban cho
Quất cây
chanh quả
vàng.
- Dân gian lấy
tên Quất đặt
cho cây =>
Cây quất.
Cây
một quả
- Anh chàng trẻ
tuổi yêu cơ gái
chăn tằm nhưng
bố mẹ cơ gái
khơng chấp nhận.
- Anh nằm mơ gặp
bà cụ áo xanh chỉ
cho đi tìm lồi quả
hạnh phúc làm tan
đi lịng hờn giận.
- Sau ba năm,
anh hái được
quả quý đem
về.
- Cha mẹ cơ gái
chấp nhận mối
duyên của hai
người.
- Anh đem cây
một quả về
trồng, quả chín
vàng ươm ra
trăm quả,
nghìn quả.
=> Cây mơ.
Tiếng
sáo và
- Con rắn lục yêu
người chồng nên
- Chàng tìm gặp
một ơng cụ nổi
- Con rắn
khơng nhận ra
=> Hoa thiên
lý.
con rắn biến thành hình
người vợ để lừa
chàng.
tiếng là tài giỏi
trong việc tìm ra
chuyện phải trái ở
trên đời.
- Ba cuộc thử
thách.
người chồng
nên hiện
nguyên hình.
- Vợ chồng
sống bên nhau
hạnh phúc.
Quả tim
bằng
ngọc
- Em bé người ở
thả con chim họa
mi của lão nhà
giàu.
- Chim họa mi nĩi
tiếng người.
- Hai vợ chồng
nhà giàu chết.
- Mẹ con em
bé chết hĩa
thân thành quả
loịng boong.
Những
con ốc
kì lạ
- Anh học trị nhà
giàu ngu dốt ganh
tị với hai người
học trị nghèo
thơng minh nên
tìm mọi cách hãm
hại bạn.
- Người thầy cho
những con ốc roi
thần kì: học giỏi thì
nĩ sáng lên như
đèn và giúp cho
thành đạt.
- Cha con lão
nhà giàu và
ơng vua ác
chết.
- Hai người học
trị nghèo thành
đạt, lấy nhau
sống hạnh
phúc.
- Hai người
học trị nghèo
chết hĩa thân
thành cây roi.
Cái ơ
đỏ
- Búp bị liệt, Cành
muốn em hết
bệnh.
- Cành lên núi tìm
Bụt.
- Cành gặp Bụt và
xin Bụt giúp.
- Bụt thử thách
Cành may cái ơ đỏ
và đổi chân cho
em.
- Búp và Cành
được lành lặn.
- Bụt cầm ơ đỏ
làm ra hoa râm
bụt.
Ruột
vàng
hạt lắm
- Lũ lụt, bão, đĩi
rét.
- Bí và Mít đi tìm
thức ăn.
- Bí và Mít gặp bà
tiên cho quả lạ.
- Mít vì siêng
năng, hiền lành
nên cĩ giống
hạt trồng ăn
ngon ngọt.
- Bí vì lười
biếng nên chỉ
- Quả mít.
- Quả bí ngơ.
cĩ giống hạt ăn
cĩ mùi hơi
nồng.
Em bé
và rồng
con
- Tên ăn cướp và
con quạ tinh cướp
con mắt của rồng.
- Em bé phải tìm
lại đơi mắt cho
rồng con.
- Bà Tiên ở núi
Ngũ Sắc chỉ : chơn
mắt rồng một gang
tay, mười ngày
tưới sữa, mười
ngày tưới mật.
- Rồng con
sáng mắt.
- Cây nhãn.
Chuyện
nàng
Mây
- Nàng Mây hiền
lành bị cơng chúa
Thanh Hoa ganh
ghét.
- Ba thử thách:
làm bèo đen thành
trắng như mây,
chắp rễ bèo thành
sợi chỉ dài, nhét
cuộn chỉ dài vào
vỏ quả hồng.
- Bà cụ trơng vườn
cho lời khuyên.
- Ốc nhỏ, nhện
nâu, nhện ơng, ong
chúa và ong vàng
giúp nàng Mây.
- Nàng Mây
hồn thành
nhiệm vụ và trở
nên xinh đẹp
hơn.
- Cơng chúa vì
tức giận nên
càng xấu xí và
chết.
- Quả bơng
vải.
Cơ bé
và ơng
táo
- Con quái vật đầu
người mình báo
và đầu người
mình trăn xuất
hiện quấy nhiễu
cuộc sống người
dân.
- Cơ bé thay cha
nhận lời giúp đỡ
bà con làng xĩm
trừ quái vật.
- ơng Táo. - Quái vật bị
tiêu diệt nhưng
cơ bé chết.
- Cơ bé chết
hĩa thân thành
hoa mai vàng.
Em bé - Lão đồ tể muốn - Chú hươu cứu - Lão đồ tể - Hươu chết
hái củi
và chú
hươu
con
bắt chú hươu,
người bạn của em
bé nghèo.
- Cậu bé bị lão
chủ truy đuổi và
tìm cách giết hại.
sống em bé.
* Hươu là lực
lượng thần kì vì cĩ
khả năng cứu sống
em bé, hiểu được
tiếng người.
chết.
- Em bé trưởng
thành, lập gia
đình sống hạnh
phúc.
trong chờ đợi
và hĩa thân
thành cây hoa
đại.
Tép lên
cây
- Tướng giặc hung
ác giết hại người
dân vơ tội và anh
cả.
- Bốn anh quyết
tâm giết giặc.
- Năm anh chị em
tài giỏi: anh cả rèn
giỏi, anh hai giỏi
thơ văn, cơ em thư
ba khâu vá giỏi,
anh tư cĩ tài bơi
lội, em út tài bắn
giỏi.
- Tên tướng
giặc bị tiêu
diệt.
- Tên cơ em
thứ ba đặt tên
cho thứ quả kì
diệu: quả bưởi.
Cái kéo
kì lạ
- Chú bé muốn
mua cái kéo cắt
nắng để sưởi ấm
cho bà qua mùa
đơng lạnh giá.
- Ơng lão bán kéo
và lời dặn thần kì.
- Em bé cắt
được nắng sưởi
ấm cho bà và
mọi người.
- Cây hoa cải
vàng.
Cơ gái
thêu tài
và
chàng
trai dệt
giỏi
(1)Lời thách cưới:
dệt mười thước
lụa khơng một chỗ
đứt nối và tìm
nhuộm một màu
chỉ hồng trăm
năm.
(2) Tên vua độc
ác bắt cơ vợ vào
cung.
(1) Én dẫn đường,
chàng trai gặp bà
Tiên lo việc thêu
thùa.
(2) Mười bà Tiên ở
rặng núi Phượng,
Én sống lại.
(1) Cơ gái nhận
lời lấy chàng
trai.
(2) Tên vua
độc ác chết,
người vợ sống
lại.
- Cây hoa đào.
Hai ơng
cháu và
(1) Ơng lão già
sống một mình cơ
(1) Thần Đất hứa
giúp đỡ.
(1) Chú bé
nghèo xuất
túp lều
dột nát
đơn nghèo khổ
mong muốn cĩ
người trị chuyện.
(2) Nạn đĩi xảy
ra, hai ơng cháu
chia nhau tìm cái
ăn.
hiện, hai ơng
cháu sống yêu
thương gắn bĩ.
(2) Chú bé tìm
được thức ăn
đem về thì ơng
đã mất.
- Cây tre.
Mùi
hương
kì lạ
- Cơ Mộc xinh
đẹp bị quỷ Bùn
Đen bắt, anh Trà
lên đường cứu vợ.
- Đất, đá, con dơi,
ngơi sao giúp đỡ
cơ Mộc.
- Anh Trà tiêu
diệt quỷ và cứu
được cơ Mộc.
- Thần Trang
Ly.
- Cây hoa mộc.
Những
bơng
hoa
hình
mũi kim
- Cuộc thi chọn
người may tài
nhất.
- Chàng trai may
tài và cơ gái may
giỏi.
- Cả hai cùng
giải nhất và
thành vợ
chồng.
- Thần Trang
Ly.
- Cây hoa cỏ
may.
Những
bơng
hoa mới
ở hồ
Thơm
- Hai chị em mồ
cơi hát hay bị con
trai vị quan to háo
sắc bắt giam ở hồ
Thơm.
- Cơ em trao cho
chị túi thần kì làm
tên con quan
khơng thể đụng
vào người.
- Bà chúa hồ
Thơm.
- Hai chị em
sống lại.
- Hoa sen
* Một số lưu ý:
+ Nếu nhân vật chính là vị thần thì khơng cĩ giai đoạn 2, nếu nhân vật chính là kiểu nhân vật tài giỏi thì
họ chính là lực lượng thần kì.
+ Lực lượng thần kì cĩ thể hiện diện trong nhiều tư cách để giúp đỡ nhân vật chính, cĩ khi chỉ là người
bình thường nhưng sở hữu trí tuệ của thần thánh.
+ Giai đoạn 3 sau khi lực lượng ác bị tiêu diệt, cĩ khi nhân vật chính sẽ chết nhưng đĩ là cái chết của
chiến thắng, nên nhân vật sẽ được hĩa thân để cĩ thể sống muơn đời.
+ Giai đoạn cuối: Truyện kết thúc bằng cách ấy tên nhân vật chính đặt cho cây hoặc hoa. Trong nhiều
chuyện, nhân vật khơng chết, khơng hĩa thân mà thần Tiêu Ly, thần Trang Ly (thuộc gia phả thần Cây)
xuất hiện và tạo ra giống cây mới dựa trên nguyện vọng của các nhân vật chính.
+ Trong một vài câu chuyện, nhân vật sau khi trải qua thử thách lần một (1) lại tiếp tục gặp thử thách lần
hai (2). Theo cách gọi của V. Prốp thì truyện ấy cĩ hai tiến trình.
PHỤ LỤC 3
THỐNG KÊ VỀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, BÌNH LUẬN NGOẠI ĐỀ VÀ LỜI VĂN NỬA
TRỰC TIẾP TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ.
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
STT TRUYỆN BÊN
NGỒI
BÊN
TRONG
LINH
ĐỘNG
BÌNH LUẬN
NGOẠI ĐỀ
LỜI VĂN
NỬA TRỰC
TIẾP
1
Những bàn tay
nhiều ngĩn X X X
2
Cây chanh quả
vàng
X X
3 Cây một quả X X
4
Tiếng sáo và
con rắn X X
5
Quả tim bằng
ngọc X X X X
6
Những con ốc
kì lạ X X
7 Cái ơ đỏ X X X
8
Ruột vàng hạt
lắm X X
9
Em bé và Rồng
con
X X
10
Chuyện nàng
Mây
X X X
11
Những thanh
gươm xanh X X
12 Con cua lửa X
13
Cơ bé và ơng
Táo
X
14
Ba chiếc áo ba
màu
X
15
Em bé hái củi
và chú hươu
con
X X X X
16 Tép lên cây X X
17
Một người con
cĩ hiếu X X X X
18 Chim Lưu Ly X X
19 Cái kéo kì lạ X X
20
Cơ em gái biết
lo xa
X
21
Người ăn trộm
đi nhầm nhà X
22
Cơ gái thêu tài
và chàng trai
dệt giỏi
X X X X
23
Hai ơng cháu
và túp lều dột
nát
X X
24
Mùi hương kì
lạ X X X
25
Những bơng
hoa hình mũi
kim
X X
26 Ngơi đền đỏ X
27
Những người
con hiếu thảo X
28
Hai vợ chồng
và con voi quý
X X X
29
Những bơng
hoa mới ở Hồ
Thơm
X X X
30 Cơ gái bán X X X
trầm hương
31
Dịng sữa của
người chị X X
32
Màu áo màu
hoa
X
33
Cơm cho chĩ
ăn X
34
Ăn lá mà nhả
ra vàng
X X
35
Hai anh em
nhà trăm mắt X X
36
Người mẹ
nghèo ít gạo
nhiều con
X
37
Cây lạ quả
ngon
X X
38
Em bé hay
cười X X
39
Cây đàn và
bầu rượu của
người thầy
X X
40
Quả cĩ nhiều
khía X
41
Của quý trong
lịng đá X X X X
42
Những quả ổi
biết kêu X X
43
Cái áo chồng
lơng cáo X X X
44
Khĩm dứa lá
khơng gai X X
45 Chọn rể quý X X
46
Hạt ngày hạt
đêm X X
47
Bài thi nhập
học X X X
TỔNG 20/47 27/47 6/47 22/47 27/47
PHỤ LỤC 4
HỒI ỨC TUỔI THƠ
Hồi cịn bé, lắm khi mùa hè chưa về, chúng tơi, lũ nhĩc trong xĩm, đã cĩ ý mong chờ các cơ ấy đến, các
cơ bán xu xoa ấy mà!
Và khi nghe cĩ tiếng gọi ở cổng trước hay ở phía sau nhà "Xu xoa ơi! Xu xoa!" là mấy anh em chúng tơi
mừng rơn, chạy đi xin tiền ăn xu xoa. Nhưng cũng đơi khi, mùa hè đến rồi, mà chẳng thấy bĩng dáng cơ
bán xu xoa đâu cả. Xu xoa cĩ lẽ là mĩn ăn ngon nhất và rẻ nhất trong mấy tháng hè nĩng bức. Và hình
như trời sinh ra các cơ ấy để đi bán xu xoa. Tơi chưa hề thấy trong suốt tuổi nhỏ của mình một người đàn
ơng nào đi bán xu xoa cả. Chỉ lác đác cĩ vài bác gái, tuổi khơng cao lắm, cũng đi bán xu xoa thơi.
Bây giờ nhớ lại tơi mới đốn là, đi bán xu xoa, cần nhất là phải cĩ hai bàn tay thật mềm, thật dẻo.
Mà đàn ơng thì làm sao cĩ được đơi bàn tay mềm dẻo như các cơ. Buổi trưa hơm ấy, mấy anh em chúng
tơi đang nằm ngủ lơ mơ trên cái chõng lớn kê gần ngay bên cửa sổ thì bất ngờ em gái tơi bỗng chồm dậy,
lay lay tay tơi và bảo, vẻ xúc động:
- Anh Mười ơi! Nghe kia kìa!
Tơi chồm dậy theo nĩ và hướng tai ra phía cổng trước nhà tơi. Những tiếng "lốch - xốch! lốch -
xốch" từ phía đĩ vẳng đến nghe rất rõ. Đúng là tiếng dao đang cắt xu xoa! Cả bốn anh chị em chúng tơi
cùng kéo nhau chạy ra ngõ giữa trời nắng rồi rẽ vào cái đường luồng nhà bác Trảy... Đường luồng nhà
bác Trảy gần như suốt ngày được bĩng tre che mát. Cơ bán xu xoa đã cĩ mặt ở đĩ từ lúc nào. Vây quanh
cơ đã cĩ bốn năm người, con nít cĩ, người lớn cĩ người đang bưng bát xu xoa ăn, người đang đợi...
Gánh hàng cơ bán xu xoa thật đơn giản, gọn gàng. Nhưng khơng phải là nhẹ đâu nhé. Tơi đã cĩ lần thử
nhấc lên mà khơng nhấc nổi. Trong cái quang đầu gánh bên này là một cái nồi bầu bằng đất nung chín,
nửa dưới chín tím, nửa trên chín đỏ. Hai phần ba cái nồi bầu bầu đựng nước trong veo, trong đĩ khi dỡ
các nắp ra sẽ thấy nổi lơ lửng, những tảng xu xoa mầu trắng đục. Trong cái quang đầu gánh bên kia là
một cái thúng, to hơn cái nồi bầu đựng xu xoa một chút. Trong cái thúng lại cĩ một cái chậu đựng nước,
trên mặt nước nổi lềnh bềnh đoạn lá chuối non cho nước đỡ sĩng sánh khi gánh đi. Trên mặt thúng là
một cái mẹt, và chung quanh là những cái bát nằm úp sấp trơng rất ngoan ngỗn. Kìa cơ bán xu xoa đang
một tay cầm cái tơ và con dao, một tay ngửa ra, chọc xuống nước để rình đĩn lấy một tảng xu xoa vui vẻ
trơi nằm trong lịng bàn tay cơ bán xu xoa. Một tảng, hai tảng rồi ba tảng. Những tảng xu xoa rời khỏi
mặt nước nằm rung nhẹ trong lịng bàn tay trắng muốt của cơ bán xu xoa, sung sướng như những đứa bé
ngụp lặn ở dưới nước, được trồi người lên đứng thở khơng khí một cách thoải mái và hứng thú. Bàn tay
cơ bán xu xoa vừa thả mấy tảng xu xoa vào lịng cái tơ, đã nhanh nhẹn cầm lấy con dao sắc và nhọn
chém những nhát thật nhanh, thật gọn và rất dứt khốt vào các tảng xu xoa, tiếng "lốch xốch!" lập tức
nổi lên. Con dao như bay múa nhìn thật vui và đẹp mắt.
Và lạ lùng chưa, mấy tảng xu xoa vừa trắng đục đã biến ra thành rất nhiều mảnh xu xoa bé nhỏ nhìn
trong suốt tưởng như cĩ thể nhìn từ bên này sang bên kia được. Cơ bán xu xoa bây giờ mới đặt nhanh
con dao nhỏ lên mặt cái mẹt rồi đưa tay mở cái nắp hũ đựng đường mật. Từ trong lịng hũ nhơ lên hiện ra
một cái vồ con bằng gỗ bé tẹo... chung quanh cái vồ con ấy lai láng những mật đường; chúng tụ lại, chảy
thành một dịng mật mầu vàng ĩng như cánh kiến. Cơ bán xu xoa lại khéo léo dùng cái vồ rải mật lên tơ
xu xoa, vẽ những vịng trịn lớn, nhỏ rồi những đường dài ngoằn ngoèo nhìn rất lạ mắt. Nhìn tơ xu xoa đã
thấy muốn kề mơi húp luơn. Phải, ăn xu xoa người ta khơng cần đến thìa, dĩa gì cả, cứ bưng mà húp dần
bát xu xoa cho đến hết. Nhìn cách mọi người ăn xu xoa thật là vui, ai cũng như biến thành trẻ con: mật
đường cứ bám lấy quanh mồm, già trẻ đều phải thè lưỡi ra liếm quanh mơi cho sạch. Mật đường cĩ khi
dính cả vào râu các cụ già. Cĩ cụ ăn xong phải xin cơ bán hàng một tơ nước để rửa râu cho sạch. Xu xoa
mát và thơm. Hương vị cĩ thoảng một chút mùi tanh rất quen thuộc và hiền lành của biển.
Mọi người đang vui vẻ ăn xu xoa, bỗng cĩ tiếng hát trong cổng nhà bác Trắc vẳng ra:
“Xu xoa ít vốn nhiều lời
Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”.
Mọi người cùng cười ồ cả lên.
Cụ già lớn tuổi nhất trong đám ăn xu xoa liền cất giọng hỏi:
- Đứa nào hát đĩ? Cĩ giỏi thì ra đây hát cho cơ bán xoa nghe luơn.
Một anh thanh niên cao lớn từ trong ngõ nhà bác Trắc đi ra. Anh liền hị lên một lần nữa:
“Xu xoa ít vốn nhiều lời
Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”.
Cơ bán xoa liền nhoẻn miệng cười rồi nĩi luơn:
- Chưa vợ thì cịn theo được chứ cĩ vợ rồi thì khơng ai cho theo đâu! Đừng cĩ mà hịng!
Mọi người lại cười ồ lên lần nữa. Đấy, ăn xu xoa cạnh cái ngon, cịn cĩ những câu vui như vậy đĩ. Làm
sao xa quê mà khơng nhớ xu xoa! Cũng các cơ xu xoa kể chuyện cho nghe thì để cĩ xu xoa cho các cơ
gánh đi bán ở các làng gần biển, phải cĩ người đi ra biển, lặn lội đi vớt những đám rong biển tên gọi là
rau câu. Và vì cơng việc nặng nhọc, người đi vớt rau câu, phần lớn là đàn ơng...
Sau này lớn lên, sống xa làng quê, chúng tơi thỉnh thoảng vẫn nhớ đến cái mĩn xu xoa được ăn dưới
bĩng mát các lùm tre, buổi trưa xế, hiu hiu cĩ ngọn giĩ biển từ xa thổi về.
Chúng tơi lại được ăn một thứ xu xoa cao cấp tên gọi đơng sương. Vâng, đơng sương là từ xu xoa, người
ta tinh chế ra. Đơng sương ăn cũng rất ngon và rất sang. Nhưng theo tơi nĩ thua xu xoa ở cái chỗ, ăn
đơng sương khơng cịn thấy thoảng cái mùi tanh rất quen thân của biển, khơng được cĩ dịp để nhớ lại
những người đàn ơng đi vớt rau câu ở ven biển và các cơ gái làng quê gánh xu xoa đi bán xu xoa cĩ đơi
bàn tay mềm mại, trắng muốt cùng tiếng lốch xốch, lốch xốch vang lên dưới các lùm tre...
Và cuối cùng là câu hát:
“Xu xoa ít vốn nhiều lời
Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”.
mà ở quê tơi, hầu như ai ai cũng thuộc.
Nửa đêm tỉnh giấc. Tơi khơng cịn nhớ rõ lần ấy cĩ phải đúng là lần đầu tiên tơi ra ngủ trên bãi biển Quy
Nhơn hay khơng. Chỉ biết chắc chắn đĩ là lần đầu tiên giữa đêm khuya, tơi đã thức giấc một mình trước
biển. Đêm ấy tơi ơm cái chiếu con được cuộn trịn đi theo anh Tề. Anh Tề làm thợ ở một ga-ra ơ-tơ gần
đấy và rất quen thân với tơi.
Chúng tơi ra hơi muộn. Tơi phải học bài cho xong, mùa thi sắp tới. Anh Tề phải thức làm thêm vì cĩ một
cái xe con cần phải sửa xong gấp. Phần lớn những người ra ngủ biển vẫn cịn thức.
Tiếng rao "Ai đậu phộng rang!". "Ai chè đỗ đen!" nổi lên ở đây, ở kia giọng con gái, con trai xen lẫn.
Đậu phộng rang thường được gĩi vào trong một cái bao giấy cuộn trịn giống hình một con ốc nhọn lớn.
Chè đỗ đen cĩ pha tí gừng cay cay, thơm thơm, ngồi trên cát, cĩ giĩ thổi lộng, khơng hiểu sao ăn thấy
ngon hơn ở nhà rất nhiều.
Tơi trải chiếc chiếu nhỏ bên cạnh chiếc chiếu anh Tề. Cát trắng chỉ đợi cĩ thế. Cứ trải chiếu xuống là đã
thấy cát tràn vào ở bốn gĩc chiếu. Hình như cát cũng thích được ngồi, được nằm trên chiếu!
Nhiều tốp trẻ bắt cịng đêm, đang xách đuốc đuổi theo những con vật bé bỏng hay hoảng sợ, nhất là khi
thấy cĩ ánh lửa. Chúng gọi nhau, la hét ầm ỹ. Thỉnh thoảng lại reo to lên khi bắt được một chú cịng.
Anh Tề nằm xuống một lúc là ngủ say. Tơi ngủ sau anh nhưng cũng chẳng biết rõ là sau bao lâu. Tơi giật
mình thức giấc. Điều đầu tiên tơi cảm nhận được là giĩ đang thổi mát bên trên người tơi và hình như chỉ
cĩ mình tơi thức dậy.
Tơi nằm im nhắm mắt mà vẫn nghe thấy được cái trống trải, vắng lặng kỳ lạ ở quanh mình. Chính cái
trống trải, vắng lặng ấy lại làm tơi tỉnh ngủ hẳn. Tơi từ từ ngồi dậy.
Dưới kia, cách tơi chừng vài chục bước, những con sĩng vẫn ra ra, vào vào, hết xuống lại lên và vẫn vỗ ì
ầm lúc to, lúc nhỏ... Giĩ từ ngồi khơi xa lồng lộng thổi vào nghe rõ hơn, như thấy được cả hình dáng
của luồng giĩ chạy. Những cây phi lao, cây dừa ở phía trong kia, sát đường xe chạy, ngọn đong đưa, cây
này reo, cây kia múa... Trên khoảng khơng vốn đã cao rộng, giờ này như càng kéo lên cao, nên càng thấy
vời vợi bao la... Trên đĩ, những vì sao vẫn đang nhấp nháy như đang bận nghĩ điều gì... Thì ra ban đêm,
chỉ cĩ con người ngủ, cịn vạn vật đều thức.
Tơi bỗng cảm thấy hơi buồn và rờn rợn...
Tất cả những gì gần gũi sống động, tiếng rao bán đậu phộng, chè đỗ đen, tiếng đám trẻ reo bắt cịng đêm
mà tơi vừa thấy, vừa nghe cách đây chẳng bao lâu cả, lúc này đều như đã lùi đến tận đâu đâu, xa lắm,
khơng thể nào với tới được nữa. Tất cả đều lại như chưa từng cĩ, hoặc đều như đã chết hết cả rồi...
Tơi càng thấy rợn hơn.
Tơi vội đưa tay sờ lấy vai anh Tề. Vai anh âm ấm. Lập tức tơi thấy đỡ sợ hẳn đi và yên tâm trở lại. Tơi lại
ngồi im, lắng nghe tiếng sĩng, tiếng giĩ. Tơi chợt cảm nhận ra một đơi điều mới khác...
Hình như ngồi những gì tơi thường thấy, thường nghe, cịn cĩ những gì khác nữa mà chỉ lúc này sĩng
mới tâm sự, giĩ mới thầm thì... Khơi gợi biết bao là kỷ niệm... với chỉ những ai đang thức giữa đêm
khuya. Mà hiện giờ chỉ cĩ tơi đang thức giấc giữa đêm khuya.
Tơi bỗng cảm thấy hay hay và vui vui. Người tơi cứ lâng lâng như cĩ thể bay mãi lên cao, cĩ thể tan ra,
tan ra hịa vào trong trời, trong biển... Cùng một lúc, tơi cảm đốn rất rõ điều này: Nếu bây giờ tất cả mọi
người đang ngủ vùng thức dậy, thậm chí chỉ cần một mình anh Tề thức dậy, tơi sẽ lập tức khơng cịn
được những cảm giác rất mới lạ, rất thú vị mà tơi vừa nĩi trên...
Sau này, sống nhiều năm tháng hơn trong đời một con người, mỗi lần nhớ lại cái đêm ngủ trên bãi biển
Quy Nhơn, giữa khuya thức giấc một mình, tơi lại nghiệm ra rằng: con người rất sợ cơ đơn, thậm chí cĩ
thể chết vì cơ đơn, nhưng cũng cĩ những giây phút con người rất cần đến sự cơ đơn, và thích ngồi một
mình, đi dạo một mình, ngủ một mình... để cĩ được cảm giác mình nghe được đất trời và những gì cao
lớn rõ hơn, và cũng từ đĩ, tự nghe thấy được mình rõ hơn...
Giĩ biển Quy Nhơn. Lúc cịn bé, tơi nghe mọi người thường gọi Quy Nhơn là Giã. Xuống Quy Nhơn thì
nĩi là xuống Giã. Thuở ấy, tơi học ở trường làng. Lâu lâu tơi mới được theo má tơi đi xuống Giã một
chuyến. Mỗi lần được đi tơi vui sướng vơ cùng.
Chúng tơi thường đi xe ngựa. Chiếc xe nhìn khá cao so với tơi, lại cứ hơi chúc nghiêng ra phía sau nên
người lên xe ngồi cứ giơ tay bíu lấy một chỗ nào đĩ ở phía trước, cho khỏi bị tụt lùi. Từ Bình Định
xuống Giã, tơi thấy khá xa. Người đánh xe ngựa lúc lúc lại trĩc trĩc lưỡi để giục ngựa chạy nhanh và
thỉnh thoảng lại cho cái gốc của cây roi mây chạm vào cái bánh xe đang lăn gấp. Lập tức những tiếng
"lách cách, lách cách" kêu rất đều, rất to vang lên nghe thật vui. Người đi phía trước xe vội vàng dạt
ngay qua một bên, nhường đường cho xe chạy.
Lần ấy xe chúng tơi vừa chạy đến Phủ Mới thì ai đĩ ngồi ở phía trước bỗng thốt lên:
- Tới đây thì nghe thấy giĩ dưới Giã thổi lên rồi đĩ. Mát chưa!
Tơi và mọi người trên xe đều thấy mát. Và chú ý nhìn, tơi thấy tĩc ai cũng bay phơ phất ra phía sau, nhìn
rất hay. Mấy phút sau, lại cũng cái giọng lúc nãy cất lên:
- Bây giờ cứ thử liếm mơi mà coi! Cĩ phải thấy mằn mặn khơng? Muối trong giĩ biển đĩ!
Tơi và mọi người lại liếm mơi và thấy cĩ vị mặn thật. Tơi càng thích và phục người nào đĩ đã mách
chúng tơi - mách những điều tuy giản dị mà lại rất thú vị kia.
Từ đĩ về sau, mỗi lần xuống Giã, tơi lại mong chĩng đến Phủ Mới để được hưởng cái mát của ngọn giĩ
biển từ Giã thổi lên. Tơi cĩ cảm giác như ngọn giĩ từ dưới đĩ đã cố tình chạy lên tận đây để đĩn mừng
tất cả những ai xuống thăm Giã...
Về sau lớn lên cũng cĩ khi tơi nghĩ: chưa chắc đến Phủ Mới, người xuống Giã mới đĩn nghe được làn
giĩ mát kia. Mà cĩ thể sớm hơn cũng nên. Mặc dù thế, tơi vẫn cứ muốn nghe theo đúng cái lời mách mà
tơi đã được biết lần đầu lúc cịn bé và vẫn cứ muốn xem như là phải đến Phủ Mới nghe thấy cái mát của
ngọn giĩ từ Giã chạy lên.
Sau này tơi được xuống ở hẳn dưới Quy Nhơn để ăn học. Suốt ngày đêm tơi được sống trong ngọn giĩ
biển và nghe tiếng sĩng vỗ lúc nhỏ, lúc to vì nhà tơi ở ngay sát biển.
Tơi đã sống rất nhiều năm trong ngọn giĩ ấy, với rất nhiều kỷ niệm, vui cũng cĩ, buồn cũng cĩ...
Nhưng điều rất lạ là bây giờ, cứ mỗi lần nhắc đến giĩ biển Quy Nhơn, khơng hiểu sao tơi vẫn cứ nhớ đến
cái cảm giác lâng lâng ở trong người khi gặp được ngọn giĩ từ dưới Giã chạy lên đến tận Phủ Mới để
đĩn tất cả những ai xuống thăm Giã. Và mãi mãi, tơi thầm cảm ơn ai đĩ đã mách cho tơi được biết cái
điều rất bình thường nhưng lại rất gợi cảm này.
Chắc người đĩ cũng khơng hề ngờ rằng trong đời mình với một câu nĩi tưởng như khơng đâu đã gieo
vào lịng đứa bé là tơi, một kỷ niệm suốt đời nhớ mãi…
Phạm Hổ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7239.pdf