BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG
157 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4678 | Lượt tải: 6
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của Phòng Khoa học công nghệ và
Sau Đại Học trường Đại học Sư Phạm TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TPHCM
đã hỗ trợ tôi tận tình trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khóa 16 chuyên
ngành Văn học Việt Nam.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi vô cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần trách
nhiệm và lòng thương mến của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Hà trong suốt quá trình tôi
thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi muốn gởi lời cảm ơn đến toàn bộ quý thầy cô của khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư Phạm TPHCM, những người có vai trò rất lớn trong suốt quá trình tôi theo
học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
MỘT SỐ QUY ƯỚC CHUNG
- Tên tác phẩm trích dẫn và tên các nguồn trích dẫn khác chúng tôi in nghiêng, in
đậm và để trong dấu ngoặc kép. Trường hợp đã đặt tên tác phẩm và tên các
nguồn trích dẫn trong dấu ngoặc đơn thì chúng tôi không dùng thêm dấu ngoặc
kép.
- Khi liệt kê tên tác phẩm (đặt sau dấu hai chấm) chúng tôi in nghiêng và in đậm
tên tác phẩm (không để trong dấu ngoặc kép).
- Dẫn chứng lấy từ tác phẩm chúng tôi in nghiêng và để trong dấu ngoặc kép.
- Trường hợp trích dẫn những tài liệu đã được đánh số trong danh mục “Tài liệu
tham khảo” chúng tôi sẽ đặt thứ tự của tài liệu trong ngoặc vuông và khi cần có cả
số trang.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Trang
Phần Dẫn nhập
01.Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
02.Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
03.Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu ................................................... 8
04.Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 9
05.Đóng góp của luận văn ........................................................................... 10
06.Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 10
Phần Nội dung
Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ......................................................... 12
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư .................................................. 16
Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...................... 24
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ ...................................... 25
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ .................................................... 35
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư51
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn ............................................ 51
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ ............................................. 53
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca” ............................................ 55
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng ................................ 58
2.2.5. Nhân vật loài vật ............................................................................. 60
Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống ............................ 63
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết ...................... 63
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ..................................................... 71
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 83
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ........................................................ 84
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật ............................ 89
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ......................................... 95
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .......................... 100
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...................................... 100
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .................................... 111
Phần Kết luận .................................................................................................... 121
Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 123
Phụ lục ................................................................................................................. 129
1
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
DẪN NHẬP
01. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ đang trên đường định hình phong
cách sáng tác. Những năm gần đây chị đã gặt hái được nhiều thành công ở thể loại
truyện ngắn, tiêu biểu là Giải I cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 với tập truyện
ngắn “Ngọn đèn không tắt” vào năm 2000. Do đó, trước tiên vì lòng yêu mến của bản
thân đối với văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, cũng như đối với văn học đồng bằng
sông Cửu Long hiền hoà và nhân hậu, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài luận văn là
“Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” như chút tấm lòng của người con Nam Bộ
tâm huyết với văn chương của quê hương.
Như chúng ta đều biết, tìm hiểu đặc điểm của một hiện tượng “đang diễn ra”,
cụ thể là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả trẻ như Nguyễn Ngọc Tư, là
một công việc rất khó khăn. Bởi nó đòi hỏi người viết một thái độ đánh giá nghiêm túc,
bình tĩnh, vì thời gian sẽ là thuốc thử cho mọi giá trị, chứ không riêng đối với lĩnh vực
văn chương. Nếu vội vàng, võ đoán, hoặc để những thiên kiến, tình cảm cá nhân chi
phối sẽ rất dễ dẫn đến những kết luận sai lầm. Dẫu biết con đường sáng tác phía trước
của chị còn rất dài, và không có gì là nhất thành bất biến (nhất là trong lĩnh vực sáng
tác), nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn căn cứ vào những tập truyện ngắn đã xuất bản
trong thời gian qua của Nguyễn Ngọc Tư để nghiên cứu, xem như bước đầu khảo sát
kết quả một chặng đường sáng tác của cây bút trẻ này.
Thời điểm chúng tôi tiến hành thực hiện luận văn này, Nguyễn Ngọc Tư đã có
trong tay hơn năm mươi truyện ngắn. Đây quả là một con số ấn tượng đối với một nhà
văn trẻ. Cuộc sống vốn luôn vận động không ngừng và đời sống văn học cũng không
nằm ngoài quy luật ấy. Bằng chứng là văn chương nước ta đang từng ngày từng giờ
khởi sắc với sự đóng góp đặc biệt mạnh mẽ của các nhà văn trẻ, trong đó có Nguyễn
Ngọc Tư. Vì lẽ đó, chúng tôi thiết nghĩ việc kịp thời tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
2
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
tác giả trẻ này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao để bổ sung kịp thời cho công
tác phê bình-nghiên cứu văn học hiện nay một phong cách sáng tác đặc biệt mang đậm
dấu ấn Nam Bộ. Nghiên cứu truyện ngắn của chị một cách khoa học và có hệ thống
không chỉ có ý nghĩa đối với công việc nghiên cứu-phê bình văn học đơn thuần mà nó
còn có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu về văn hóa nông thôn Nam Bộ và ngôn ngữ
Nam Bộ.
Xét riêng trong lĩnh vực sáng tác, chúng ta nhận thấy kể từ những nhà văn lớp
trước như Sơn Nam, Trang Thế Hy, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…khu
vực Nam Bộ vẫn chưa có một nhà văn nào xuất hiện như là một “hiện tượng” của văn
học nước nhà như Nguyễn Ngọc Tư. Hiếm có nhà văn nào mới sáng tác mà đã sớm
khẳng định được vị trí, vùng sáng tác và phong cách sáng tác chuyên biệt như Nguyễn
Ngọc Tư. Từ nay chúng ta có Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn của nông thôn và nông
dân Nam Bộ, một nhà văn sáng tác bằng ngôn ngữ Nam Bộ rặt ròng để bản thân tác giả
và tác phẩm nghiễm nhiên trở thành “đặc sản miền Nam”. Như vậy, truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư rất đáng để chúng ta tìm hiểu dưới góc độ thưởng thức đơn thuần lẫn
soi sáng bằng con mắt của nhà nghiên cứu văn học. Lý do chúng tôi chọn đề tài này
không ngoài mục đích tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư dưới góc độ
truyền thống (như tìm hiểu về cảm hứng sáng tác, hệ thống nhân vật) và dưới góc độ
của thi pháp văn xuôi hiện đại (tìm hiểu đặc điểm thi pháp trần thuật và thi pháp ngôn
từ) để có cái nhìn thấu đáo và toàn diện hơn về truyện ngắn của chị.
02. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ có khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn
chỉ trong một thời gian ngắn. Đồng thời chị đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn
học có uy tín cũng như nhận được nhiều sự yêu mến và kì vọng lớn lao từ độc giả. Do
đó, có lẽ không quá võ đoán khi khẳng định Nguyễn Ngọc Tư đã đạt được những thành
công nhất định trên con đường định hình một phong cách Nam Bộ đặc sắc trong sáng
tác. Thế nhưng, hiện tại công việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn của chị lại có vẻ
3
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
khá chậm chạp so với những bước tiến trong nghề nghiệp của nhà văn này. Hay nói
đúng hơn, theo sự tìm hiểu của người viết, chưa có một luận văn chính thức nào (cấp
Đại học hay Sau Đại học) nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Chính
vì vậy, chúng tôi lựa chọn tiếp cận phần “Lịch sử vấn đề” này dưới con mắt của lý
thuyết tiếp nhận, tức là thu thập và phân loại những ý kiến đánh giá của công chúng khi
tiếp cận truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư qua từng thời kì với những tập truyện khác
nhau.
Là một nhà văn được yêu mến không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài,
vì thế những bài viết tìm hiểu về truyện ngắn và tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư thường
xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Số lượng bài viết rất dồi dào
với những sắc thái tình cảm rất khác nhau, đặc biệt là với những phong cách và “cấp
độ” cũng khác nhau. Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì người viết có thể là nhà nghiên
cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp hay đơn thuần chỉ là một độc giả yêu thích
văn chương, nên công tác sưu tầm của chúng tôi khá vất vả và phức tạp.
Xuất hiện lần đầu tiên với tập truyện “Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng một văn phong nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, một sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương Nam.
Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập truyện khác của
chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa và Cánh đồng bất tận với một sự thích thú
đặc biệt. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hàm chứa một nghịch lý: đề tài sáng tác của
chị không mới (chỉ là những câu chuyện đời thường của những người nông dân bình dị
quê mùa), thế nhưng những câu chuyện đơn sơ mà hấp dẫn ấy vẫn lôi cuốn được người
đọc bởi cái nhìn nhân hậu, bởi nghĩa tình của một người viết trẻ vừa ngây thơ lại vừa
chín chắn, hiền lành đấy nhưng không kém phần bản lĩnh. Chính vì thế khi thu thập tài
liệu về Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy không có nhiều ý kiến không đồng tình
hay bác bỏ tài năng của chị.
4
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Những nhận định trái chiều về Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu xuất hiện khi truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” ra đời, kéo theo đó là nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét khác
nhau về Nguyễn Ngọc Tư được đăng tải rộng rãi trên các báo tạo thành một “hiện
tượng văn học” đáng chú ý của năm 2005. Cũng có ý kiến trái chiều cho rằng đây chỉ
là một chiêu thức tiếp thị sách, một cách thức để đánh bóng tên tuổi của tác giả, chứ
thật sự “Cánh đồng bất tận” không giá trị đến mức để báo chí phải tốn hao giấy mực
đến như vậy. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận năm 2005 là một năm đánh dấu những
thành công vang dội của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và cũng là một năm mà đời sống
văn học nước ta có nhiều khuấy động và khởi sắc đáng kể.
Mặc dù không đồng tình với ý kiến cho rằng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
là cái mốc đánh giá sự chuyển hướng sáng tác, là đỉnh cao khó vượt qua của Nguyễn
Ngọc Tư, nhưng chúng tôi vẫn phải thừa nhận từ khi tác phẩm này ra đời đã bắt đầu
xuất hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau về cây bút này. Tựu trung là có hai luồng ý
kiến: Một bên ủng hộ lối viết dữ dội đến khốc liệt, ủng hộ việc khai thác và phản ánh
hiện thực một cách trần trụi và sát ván như thế, nghĩa là ủng hộ một Nguyễn Ngọc Tư
“mới”. Còn phía bên kia lại cảm thấy tiếc nuối vì chị đã đánh mất đi chất trong trẻo,
nhẹ nhàng, nhân hậu, ân tình của mình trong những sáng tác trước đó. Và từ sự kiện
này, bỗng dưng người ta bối rối khi muốn xếp chị đứng vào một kiểu loại nhà văn
chuyên sáng tác theo một phong cách nhất định nào đó.
Thế nhưng, chính tác giả cũng thừa nhận “Cánh đồng bất tận” cũng chỉ là việc
“xen canh”, một ngả rẽ bất ngờ để thử thách và làm mới bản thân. Có khác chăng chỉ là
Nguyễn Ngọc Tư đã chuyển điểm nhìn sáng tác quen thuộc của mình, để từ đó có thể
nhìn thấy những mặt đen tối, xấu xa, dữ dằn, khốc liệt của nông thôn Nam Bộ, trong đó
những người nông dân dốt nát, nghèo khổ vừa là nạn vừa là thủ phạm. Chính việc
chuyển đổi đột ngột giọng điệu này khiến những độc giả đã quá quen thuộc với lối viết
hiền lành, mộc mạc của Nguyễn Ngọc Tư bị sốc. Thế nhưng, theo dõi những tác phẩm
ra đời sau “Cánh đồng bất tận”, chúng tôi vẫn nhận thấy một Nguyễn Ngọc Tư của
5
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
nông thôn Nam Bộ hiền lành với những nỗi đau, nỗi buồn phảng phất, với những số
phận nhỏ bé thiệt thòi, với những mối tình lỡ làng, trắc trở muôn thuở, vẫn cái giọng
nhỏ nhẹ đó, có thể buồn hơn, bi quan hơn, tỉnh táo hơn nhưng vẫn là một giọng điệu
văn chương bình dân, hào sảng mà chỉ đất Nam Bộ mới sản sinh ra được.
Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các báo, chúng
tôi nhận thấy có rất nhiều bài viết có giá trị khoa học ra đời bởi sự tâm huyết và tài
năng của người viết. Tiêu biểu nhất và sớm nhất có thể kể đến bài viết “Nguyễn Ngọc
Tư, đặc sản miền Nam” của GS.Trần Hữu Dũng. Ông đã xem xét truyện ngắn của chị
một cách tường tận và thấu đáo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trần
Hữu Dũng đặc biệt đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tư,
ông đánh giá đó là một cái riêng đặc sắc không thể trộn lẫn với bất kì nhà văn nào
khác, như là một “đặc sản miền Nam”. Bằng tất cả sự yêu mến chân thành, Trần Hữu
Dũng cũng không quên cảnh báo những nguy cơ có thể khiến tác giả trẻ này đi vào lối
mòn trong sáng tác bên cạnh sự nhìn nhận và tán thưởng tài năng của chị.
Huỳnh Công Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ Nam Bộ”
trên trang web “Văn nghệ Sông Cửu Long” cũng dành cho Nguyễn Ngọc Tư những
lời khen tặng xứng đáng với tài năng của chị. Ông đánh giá cao khả năng xây dựng
những không gian Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư và thừa nhận:“Đặc
biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại bằng
chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị.”. Huỳnh
Công Tín cũng đánh giá cao khả năng miêu tả tâm lý người và vật hết sức sắc sảo của
Nguyễn Ngọc Tư. Công bằng với điều kiện và hoàn cảnh sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư, ông cũng yêu cầu chúng ta cần có cái nhìn thông cảm hơn khi những vấn đề chị
quan tâm còn nhỏ nhặt và chưa có tầm bao quát. Ông cũng khẳng định cái đáng quý
cần phải phát huy ở chị chính là chất Nam Bộ trong sáng tác.
Trên mục “Phê bình” của trang web “E-văn” ngày 14/06/2006 có đăng bài viết
của Trần Phỏng Diều với tựa đề “Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
6
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Tư”. Với cách hiểu “đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thực
chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác giả. Các hình tượng
văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi, buộc người viết phải
thể hiện ra tác phẩm của mình.”, Trần Phỏng Diều đã chỉ ra thị hiếu thẩm mỹ trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua ba hình tượng: hình tượng người nghệ sĩ,
hình tượng người nông dân và hình tượng dòng sông. Sau khi phân tích vẻ đẹp của
từng hình tượng, anh cũng đánh giá rất cao văn phong mộc mạc, cách viết như nói của
Nguyễn Ngọc Tư. Theo anh, nếu chị đánh mất đi vùng thẩm mỹ này thì đồng thời cũng
làm mất đi rất nhiều giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm của mình.
Chúng tôi cũng thu thập được hai bài viết tìm hiểu một số khía cạnh về không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là
bài viết “Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy
Khuê và bài viết “Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của
Nguyễn Ngọc Tư” của Mai Hồng cùng được đăng trên trang web “Viet-studies”. Nhìn
chung Thụy Khuê thống nhất ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một
không gian Nam Bộ với ruộng đồng sông nước đặc sắc trong tác phẩm của mình, góp
phần to lớn vào việc phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả. Việc chỉ ra kiểu thời gian
huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” cũng là một góc nhìn mới lạ của
Mai Hồng trong việc tìm hiểu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay.
Phạm Thái Lê với bài viết “Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên “Tạp chí Văn nghệ quân đội” cũng là một bài viết
có giá trị khi chỉ ra “môtíp người nghệ sĩ cô đơn” thường thấy trong truyện ngắn của
chị trong hành trình đơn độc và vô vọng để đi tìm cái Đẹp ở đời, chấp nhận đánh đổi và
hy sinh, kể cả tình yêu và hạnh phúc, cuối cùng Phạm Thái Lê rút ra kết luận: “Cũng
đề cập đến nỗi cô đơn của con người nhưng chúng tôi nhận thấy quan niệm của
Nguyễn Ngọc Tư rất khác. Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của
con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà
7
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp
nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy một lẽ sống. Và, từ trong nỗi đau ấy, họ vươn
lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực của cái
Đẹp, cái Thiện.”
Điểm qua một số bài viết mang tính “học thuật” như thế để hiểu thêm về tình
hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay còn ít ỏi và chưa có hệ thống. Đa
phần các bài viết đều được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu
chính thức được in thành sách. Ngoài ra, đa phần các bài viết đều trên tinh thần giới
thiệu một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào đó.
Chiếm đa số trong những tài liệu chúng tôi thu thập được là những bài phỏng vấn
Nguyễn Ngọc Tư, những bài viết kể lại những kỉ niệm hay những lần gặp gỡ chị ở Cà
Mau. Chúng tôi nhận thấy có rất ít những bài phê bình truyện ngắn của chị trên bình
diện khái quát mà đa số tập trung vào truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”, nhưng những
bài viết ấy đa phần đều là khen chê một cách cảm tính, đa phần là những bài báo với tư
cáchtranh luận trên diễn đàn nhiều hơn là công trình nghiên cứu khoa học thật sự. Thế
nhưng, chúng tôi đánh giá rất cao những ý kiến đánh giá đúng đắn và chừng mực của
các nhà văn và nhà phê bình như Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Khắc Phê, Nguyên
Ngọc, Dạ Ngân…vì những ý kiến này đã giúp chúng tôi tỉnh táo và vững vàng hơn
trong việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Đề tài của luận văn này là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả trẻ, do
đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu dày dặn và thấu đáo để người viết
tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được thu thập trên các trang web văn học như:
Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn nghệ Sông Cửu Long…, trên các tờ báo giấy
uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người lao động, Tiền Phong, Công an
nhân dân…và chúng tôi còn tham khảo trên các diễn đàn văn học, blog cá nhân của
tác giả và những nhà văn, nhà nghiên cứu khác để có thêm tư liệu. Không thể nói tư
liệu về Nguyễn Ngọc Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các ý kiến cũng như các
8
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
nguồn tư liệu, chúng tôi buộc phải tỉnh táo và khách quan để “gạn đục khơi trong”, để
tìm ra những tư liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho luận văn này.
03. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung của luận văn, chúng tôi sẽ dành ra một chương để tìm hiểu đôi nét
khái quát về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác của chị. Sau đó, sẽ đi vào
tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các bình diện sau:
- Cảm hứng nghệ thuật
- Thế giới nhân vật
- Nghệ thuật dựng truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu
Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những
đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các mặt nội dung tư tưởng (như cảm
hứng về thân phận con người và hiện thực của nông thôn Nam Bộ, thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư…) và hình thức nghệ thuật (như sự đặc sắc trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ…)
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi khảo sát tất cả những truyện đã được xuất bản
của Nguyễn Ngọc Tư, gồm 6 tập truyện:
-Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2000
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Thêm vào đó là những truyện chỉ mới được đăng trên trang web “Viet-studies” của
Trần Hữu Dũng (chưa xuất bản) như: Trò chơi quên nhớ, Sông dài con cá lội đâu,
9
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Một chuyện hẹn hò, Vết chim trời, Núi lở, X-năm một ngàn chín trăm năm xưa, Núi
ở lại, Những cây sầu trên đỉnh Puvan.
04. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu như sau:
4.1. Phương pháp thống kê
Chúng tôi khảo sát các hiện tượng lặp lại ở một số các yếu tố thuộc về nội dung
và hình thức của tác phẩm. Sau đó, chúng tôi dựa vào tần số xuất hiện của các yếu tố
đó để hệ thống hoá và khái quát hóa lên thành những đặc điểm riêng và ổn định của
nhà văn.
Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp này để thống kê những tính từ, động từ,
những cách thức diễn đạt theo kiểu ngôn ngữ Nam Bộ để phục vụ cho việc tìm hiểu về
ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
4.2. Phương pháp so sánh
Để thấy được phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như sự đóng
góp của Nguyễn Ngọc Tư cho nền văn học Việt Nam đương đại, trong quá trình nghiên
cứu người viết có tiến hành so sánh đối chiếu Nguyễn Ngọc Tư với một số cây bút
truyện ngắn khác như: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Kim
Lân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu…ở từng vấn đề có liên quan để
thấy được những nét tương đồng và dị biệt, từ đó thấy rõ hơn đặc điểm truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư.
4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Vận dụng phương pháp này, đầu tiên chúng tôi tiến hành khảo sát từng tác
phẩm, tập trung chú ý các yếu tố chính để nêu bật nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Rồi từ đó, chúng tôi rút ra những nhận xét
chung, khái quát, tiêu biểu cho đặc điểm truyện ngắn của chị.
05. Đóng góp của luận văn
10
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Luận văn này tập trung tìm hiểu “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
nhằm mục đích bước đầu chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm hiểu sơ bộ để làm rõ hơn những nét đặc trưng
của phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt luận văn này sẽ giúp người đọc
thấy rõ hơn chất Nam Bộ đậm đặc trong ngôn ngữ văn chương Nguyễn Ngọc Tư.
Thực hiện luận văn này chúng tôi mong đóng góp một chút công sức cho công
tác nghiên cứu-phê bình Văn học Việt Nam hiện đại về cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Hơn nữa, từ trước đến nay việc khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chưa nhiều và chưa có hệ thống. Tính đến thời điểm luận văn này được tiến hành thì
chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng
tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có
giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trước đây về vấn đề này.
06. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội
dung được chia làm ba chương dựa trên nội dung nghiên cứu:
-Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác.
-Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
-Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Luận văn này sở dĩ có cấu trúc ba chương như trên bởi mục đích của chúng tôi
là nhằm giải quyết vấn đề tìm hiểu những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
một cách toàn diện và sâu sắc. Nhiệm vụ của chương 1 là cung cấp một cái nhìn tổng
quát về Nguyễn Ngọc Tư ở cả hai phương diện đời thường và văn chương. Đọc văn để
hiểu thêm về con người và biết người để thêm hiểu văn chương chính là mục đích mà
chương này hướng tới. Chương 2 là chương tập trung tìm hiểu hai nguồn cảm hứng lớn
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ và
cảm hứng về con người Nam Bộ để chúng ta có một cái nhìn bao quát về những vấn đề
11
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
mà Nguyễn Ngọc Tư trăn trở, trước mắt là cho quê hương làng xóm của chị, những
người thân yêu gần gũi với chị; rộng hơn nữa là những ưu tư về phận người, kiếp người
mà thoạt đọc vào chúng ta có thể thấy giản đơn, hơi buồn cười nhưng ngẫm nghĩ thì rất
sâu sắc và đáng trân trọng. Chương 3 là chương khảo sát toàn diện đặc điểm nghệ thuật
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư để thấy rõ phong cách sáng tác và nghệ thuật viết truyện
của chị.
Khảo sát truyện ngắn của chị từ hình thức nghệ thuật tới nội dung nghệ thuật
hay nói cách khác là từ phương diện sáng tác tới tác phẩm dưới góc độ thi pháp truyền
thống và thi pháp văn xuôi hiện đại, chúng tôi không mong muốn gì hơn là góp một
phần nhỏ của mình vào công việc hiện tại của giới nghiên cứu phê bình về nhà văn trẻ
nhiều triển vọng này.
12
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.1.1. Tiểu sử tác giả
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976,
quê quán ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hiện chị sống và làm việc
tại TP Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là Hội viên Hội Nhà Văn trẻ tuổi nhất hiện
nay. Chị từng đạt giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ 2" của Nhà xuất bản
Trẻ, Hội nhà văn TP HCM, báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn
đèn không tắt" và Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 cũng
với tập truyện này. Tập sách này đã được chọn in lại trong "Tủ sách Vàng" của
NXB Kim Đồng năm 2003. Nguyễn Ngọc Tư cũng đạt Giải 3 cuộc thi sáng tác
truyện ngắn 2003-2004 của báo Văn nghệ với truyện ngắn "Đau gì như thể...".
Năm năm qua, chị tiếp tục gây ngạc nhiên và đem lại nhiều thiện cảm cho bạn đọc
bằng giọng văn tưng tửng mà tình cảm của mình. Chị cũng là tác giả trẻ nhất có tên
trong tuyển tập truyện ngắn Việt Nam được dịch và in ở Mỹ, do đó chị đã vinh dự
được chọn lên hình chương trình “Người đương thời” năm 2005. Hiện tại nhiều
truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Anh để giới thiệu với độc giả ở
nước ngoài.
Vốn là một học sinh giỏi văn của trường Phan Ngọc Hiển, nhưng Nguyễn
Ngọc Tư chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nhà văn. Những năm tháng sống
cùng với ông ngoại, sớm lao vào công cuộc mưu sinh (làm văn thư cho tạp chí Bán
đảo Cà Mau) có lẽ là một trong những duyên cớ khiến Nguyễn Ngọc Tư bước chân
vào lĩnh vực viết văn. “Đổi thay” là truyện ngắn đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư, được đăng trên tạp chí Văn nghệ Cà Mau. Nhưng chị thật sự được độc giả cả
nước biết đến khi đoạt giải I cuộc thi “Văn học tuổi 20 lần thứ 2” của Hội Nhà văn
TP.HCM với tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” (2000). Cũng từ đó nhiều tập
13
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
truyện của chị liên tục được độc giả trong và ngoài nước ủng hộ như: Nước chảy
mây trôi (2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Giao thừa (đoạt một giải
thưởng của Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam). Và đến tập truyện “Cánh đồng
bất tận” (2005) thì có thể nói Nguyễn Ngọc Tư đã thật sự khẳng định được tên tuổi
và tài năng của mình trên văn đàn của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tư cũng xuất sắc trong mảng tạp văn khi cho
ra đời ngay sau tập truyện “Cánh đồng bất tận” một cuốn tạp văn “nặng ký” đầu
tiên có tên là “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư” (2005) tập họp những bài viết của chị đã
đăng trên tạp chí “Thời báo kinh tế Sài Gòn”. Và năm 2007 vừa qua, chị lại cho ra
đời một tập tạp văn mới “Ngày mai của những ngày mai” được độc giả và giới
phê bình đánh giá tốt.
Có thể nói, chị là một trong những nhà văn trẻ viết khỏe và viết đều khi
chỉ trong vòng ba năm đã cho ra đời bốn tập truyện ngắn (không kể tạp văn). Điều
đó chứng tỏ chị là một nhà văn miệt mài lao động, miệt mài sống và tích lũy vốn
sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực sáng tác, chứ không chỉ nhờ vào năng
khiếu thiên bẩm. Qua chặng đường bảy năm cầm bút, tung hoành trên cả hai thể
loại truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào khẳng định được vị trí
của mình trong đội ngũ những người sáng tác trẻ của cả nước, đã xác lập được một
phong cách sáng tác riê._.ng biệt mang dấu ấn “Nguyễn Ngọc Tư”-một văn phong rặt
chất Nam Bộ hiền hòa, hào sảng vang bóng một thời nhưng vẫn hồn hậu nồng nàn
đến tận ngày nay.
1.1.2. Quan niệm sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư có một quan niệm nhẹ nhàng nhưng không hề cẩu thả về
nghề văn của mình. Trả lời phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ ngày 4/12/2005 chị thổ lộ:
“…Còn sáng tác thì cứ lúc nào thấy xúc động, đủ cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình
đã trải qua, có nhu cầu phải viết, nếu không viết chắc… tự tử mất thì Tư viết thôi.”
Viết văn đối với chị như là một nhu cầu bức bách, như đói ăn khát uống, nhưng nói
14
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
như vậy không có nghĩa là chị cẩu thả với cảm xúc và dễ dãi với nghề nghiệp. Trả
lời phỏng vấn trên báo Tiền Phong ngày 31/01/2006, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên tự
nhận: “Tôi là một cây bút nghĩ thế nào, viết thế ấy, nghĩ sao viết vậy”. Như vậy, có
lẽ thời điểm này Nguyễn Ngọc Tư chưa định hình một thái độ chuyên nghiệp với
nghề, phần nhiều chị vẫn còn tựa vào cảm xúc là chính để sáng tác. Đến giai đoạn
sau này, Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu “phát ngôn” về nghề cũng như sáng tác với một
thái độ “chuyên nghiệp” hơn rất nhiều khi chị ý thức viết văn là “một lựa chọn khó,
đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt” (“Tiền Phong”, 21/01/2006). Nguyễn Ngọc Tư
không cường điệu sứ mệnh văn chương như một sự cứu rỗi hay giải thoát, nhưng
chị cũng không coi đó là một cuộc dạo chơi. Có thể những điều chị viết ra mộc mạc
và nhẹ nhàng, nhưng để hoài thai ra nó thì người viết cũng phải lao tâm khổ tứ cho
đến khi kí thác được vào trang viết.
Cuộc sống viết văn của Nguyễn Ngọc Tư (trước lúc xảy ra sự kiện “Cánh
đồng bất tận”) có thể nói là khá êm đềm và xuôi chiều. Chị sáng tác theo kiểu “đi
chậm, dò dẫm để khẳng định phong cách”. Chính vì thế nhiều khi người ta cảm
thấy chị quá quen thuộc, những câu chuyện của chị na ná nhau, vẫn hay nhưng đã
bắt đầu nhàn nhạt. Âu đó cũng là một áp lực, bởi một nhà văn trẻ khi mới vào nghề
thường chịu áp lực là phải định hình cho mình một phong cách sáng tác riêng biệt,
nhưng đến khi xây dựng được một cái gì đó ổn định thì người đọc lại thấy nó không
còn mới mẻ nữa.
Nguyễn Ngọc Tư không hay có những tuyên ngôn to tát trong nghệ thuật,
với những lời lẽ khiêm nhường chị tiết lộ quan điểm của mình trong việc lựa đề tài
sáng tác như sau: “Tư chọn viết những gì mà người đi trước không viết thôi. Với
những gì người đi trước viết rồi, nếu mình đi lại con đường ấy, hoặc mình phải
tránh qua một bên, hoặc là mình phải vượt trội hơn. Nhưng vượt trội thì khó quá, ví
dụ như để vượt qua Vũ Trọng Phụng thì thôi…đi, Tư không tự làm khó mình mà
chọn cái mình làm được.”. Chúng tôi nghĩ “Cánh đồng bất tận” là một trường hợp
15
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
như thế. Tâm tư của những người nông dân, những vấn đề bức bách của nông thôn
Nam Bộ hiện nay chính là những đề tài nóng hổi mà chúng ta có thể nhìn thấy qua
lăng kính truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Nhân vật trong truyện ngắn của chị đa phần là nông dân, nhiều nhân vật đạt
tới mức điển hình (tiêu biểu như trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”), nhưng
chị vẫn khẳng định những nhân vật của mình không hề có nguyên mẫu ngoài đời,
phần lớn chị dùng sự quan sát và óc tưởng tượng của mình để sáng tạo nên nhân
vật. Và trong khi viết, chị cũng không nghĩ tới cái gọi là “trường hợp sáng tác” hay
tác phẩm của mình nhất thiết phải chuyển tải một nội dung tư tưởng nào to tát cả.
Chị dành sự suy nghĩ và xét đoán cho độc giả, do đó truyện ngắn của chị mang tính
gợi mở và chia sẻ nhiều hơn là kêu gọi và áp đặt.
Nhiều người cho rằng giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư còn quá nhẹ nhàng và
yếu ớt, đôi khi tới mức nhẫn nhịn và cam chịu khi đề cập đến những vấn đề nóng
bỏng của xã hội. Để trả lời cho sự lo ngại này, chị khẳng khái bày tỏ:“Tôi không
quan tâm văn mình yếu hay mạnh, chỉ nghĩ, những trang viết này có làm mình xấu
hổ không, có đi vào lòng người không, có khiến người ta nhớ không?”. Thành thật
với cảm xúc của mình, theo chị đó chính là cầu nối diệu kì nhất để đến với trái tim
độc giả, bởi chính họ là người thẩm định một cách công bằng nhất những điều mà
nhà văn viết ra.
Nguyễn Ngọc Tư cũng khá dè dặt và thận trọng khi tuyên bố mình không cố
công tìm hiểu và có chủ ý viết lách chiều theo thị hiếu của độc giả, bởi chị không tự
tin là mình hiểu đúng độc giả muốn đọc cái gì nên tốt nhất là “đường ai nấy đi, nếu
gặp nhau là tốt”. Chị cũng rất trân trọng những ý kiến đóng góp của các nhà phê
bình, tuy nhiên chị cũng cảnh báo có rất nhiều sự suy diễn từ các nhà phê bình khi
họ rút ra những chân lý mà chị chưa bao giờ nghĩ đến khi cầm bút. Nhìn chung,
Nguyễn Ngọc Tư cố giữ cho mình một thái độ khách quan tương đối, một khoảng
16
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
cách nhất định với thị hiếu của độc giả và sự đánh giá của các nhà phê bình để bảo
vệ cho công việc sáng tác của mình.
Tóm lại, Nguyễn Ngọc Tư có một quan điểm khá hồn nhiên và nhẹ nhàng
về nghề nghiệp. Tuy vẫn nhận ra sự chuyên biệt của nghề viết so với những nghề
nghiệp khác, nhưng không vì thế mà chị sùng bái văn chương như cái gì cao cả hơn
cuộc sống. Chính vì thế mà truyện ngắn của Tư thấm đẫm sự hồn nhiên, chất phác.
Nhưng nếu chỉ có hồn nhiên thì Nguyễn Ngọc Tư đã không đứng vững cho đến bây
giờ. Ở chị sự hồn nhiên vô tư không có dây mơ rễ má với sự lạnh lùng, vô tâm. Văn
chương Nguyễn Ngọc Tư đau đáu ân tình và đầy trách nhiệm, trách nhiệm của công
dân với xã hội, trách nhiệm của đứa con với quê hương, trách nhiệm với gia đình,
với những người xa lạ mà thân quen với mình, nhưng chỉ có điều chúng được cất
lên bởi một giọng hồn nhiên, tưng tửng, nhẹ nhõm như không có gì, nhưng thật ra
đằng sau nó là cả một sự nghèn nghẹn và chua xót không thể thốt nên lời.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Từ khi trình làng với tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt”-Giải I cuộc vận
động sáng tác “Văn học tuổi 20” năm 2000, Nguyễn Ngọc Tư đã đều đặn giới thiệu
với độc giả những tập truyện ngắn đặc sắc khác như:
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Ngoài ra, những truyện ngắn mới nhất của chị cũng thường xuyên được đăng
trên báo chí trong cả nước và được cập nhật liên tục trên trang web “Viet-studies”
của GS. Trần Hữu Dũng. Với số lượng tác phẩm khá lớn này chứng tỏ Nguyễn
Ngọc Tư là một cây bút trẻ, khoẻ và rất có nhiều tiềm năng.
17
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Để có được cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về Nguyễn Ngọc Tư ở
mảng truyện ngắn, thiết nghĩ trước tiên chúng ta cần đặt chị vào môi trường văn
chương của khu vực đồng bằng sông Cửu Long để hiểu thêm về tình hình sáng tác,
cũng như đặc điểm chung của văn chương khu vực Nam Bộ, từ đó tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt. Như chúng ta đã biết, đồng bằng sông Cửu Long là vùng
đất hội nhập của nhiều luồng văn hoá Đông-Tây khác nhau. Đọc truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long, người ta dễ dàng nhận ra những nét độc đáo của tính cách
con người và bản sắc văn hóa đa dạng của một vùng đất. Nguyễn Ngọc Tư cũng
không ngoại lệ. Truyện ngắn của chị chính là bức tranh đời sống và tâm hồn của
con người Nam Bộ, là địa hạt mà chị chứng tỏ được khả năng bao quát và phát hiện
những góc khuất, những điều tưởng chừng như đơn giản nhưng hệ trọng đối với đời
sống con người. Và cũng như đa số các tác giả đồng bằng sông Cửu Long khác,
tính cách Nam Bộ chính là bản chất của các nhân vật của chị, đó là mẫu người lạc
quan, yêu đời, hành hiệp trượng nghĩa, nhân hậu, ân tình. Các tuyến nhân vật trong
những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư và các tác giả đồng bằng khác đều được
phân chia rạch ròi chính nghĩa và phi nghĩa, thiện và ác, và các nhân vật cứ hành
động theo tinh thần ấy trong suốt chiều dài tác phẩm. Có thể nói đây chính là
nguyên nhân gây ra sự giản đơn, thô sơ trong việc xây dựng nhân vật của đa số tác
giả đồng bằng sông Cửu Long.
Trong tham luận đọc tại “Bàn tròn văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long lần
thứ 1”, Võ Tấn Cường đã chỉ ra sự “đóng băng” trong việc miêu tả tâm lý, tính cách
nhân vật trong sáng tác của các tác giả đồng bằng. Đa số các nhân vật được xây
dựng còn đơn giản, một chiều, chưa bắt kịp được với cuộc sống phức tạp và khốc
liệt. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư ít mắc phải khuyết điểm này bởi những
nhân vật của chị có thể không dữ dội nhưng đều có một đời sống tinh thần phong
phú, một nội tâm tinh tế. Thậm chí ở một vài truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã làm nổi
bật được xung đột khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, cái cao thượng và cái thấp hèn
18
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
trong nội tâm mỗi nhân vật (tiêu biểu là “Cánh đồng bất tận”). Tuy nhiên, có một
sự thật mà chúng ta cũng phải thừa nhận đó là truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nói
riêng và truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long nói chung chưa tạo dựng được
nhiều nhân vật điển hình có tầm nhìn rộng, có tầm vóc ngang bằng hoặc cao hơn
những nguyên mẫu trong cuộc sống. Còn đó rất nhiều truyện ngắn của chị mang
màu sắc bút ký, thiếu sự chiêm nghiệm và thăng hoa về cảm xúc, phong cách thể
hiện chưa thật chín và sắc.
Cũng như đa số các nhà văn đồng bằng sông Cửu Long khác, truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư thường được viết theo kiểu kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và
mạch truyện khá chậm, thiếu độ căng và độ nén về mặt cấu trúc. Ngôn ngữ kể
chuyện còn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt dũa cần thiết và sự lao động nghệ
thuật công phu để chắt lọc cái hay, cái đẹp của khẩu ngữ dân gian. Đọc truyện ngắn
của các tác giả đồng bằng (trong đó có Nguyễn Ngọc Tư), chúng ta cảm thấy hình
như họ ít chịu ảnh hưởng của các trường phái, trào lưu văn xuôi trên thế giới, gu
thẩm mỹ cũng như phong cách sáng tạo của họ ít chịu sự chi phối của những phát
kiến mới về truyện ngắn hiện đại. Đây chính là nguyên nhân khiến cho truyện ngắn
của họ chưa mang tầm vóc và hơi thở của thời đại, và truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
bị nhiều người đánh giá là “cũ”, không có những đóng góp cho nghệ thuật viết
truyện hiện đại. Có lẽ một sự cách tân về mặt bút pháp để hoà nhập vào trào lưu
sáng tác văn xuôi hiện đại của thế giới là yêu cầu cấp bách đối với những cây bút
đồng bằng nói chung và Nguyễn Ngọc Tư nói riêng.
Nhưng điều đáng quý nhất và cũng là điều làm nên đặc sắc truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư chính là việc chị đã thể hiện được cá tính và bản lĩnh Nam Bộ
trong sáng tác của mình. Chị đã sử dụng một cách thuần thục và điêu luyện ngôn
ngữ Nam Bộ, đã khai phá tận cùng, quyết liệt những giá trị văn hoá đặc trưng của
vùng đất “chín rồng”. Thậm chí, có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã có công nâng ngôn
ngữ Nam Bộ lên tầm cao của ngôn ngữ văn hoá, ngôn ngữ văn học với những nét
19
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
đẹp đơn sơ nhưng lộng lẫy đến bất ngờ. Nhìn từ phương diện nghệ thuật, Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam Bộ khá thành công, theo kiểu
phản ánh sinh động thực tại bằng cách dùng chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản
ánh. Có thể thấy ngôn từ trong hầu hết truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn
chuyện đến ngôn ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật đều khá thuần chất Nam
Bộ. Theo thống kê của chúng tôi, số lượng từ ngữ Nam Bộ được sử dụng trong
truyện ngắn của chị là khá lớn và chính đặc điểm này đã tạo cho truyện ngắn của
chị một văn phong riêng biệt mang đậm dấu ấn cá nhân.
Tuy nhiên, cho đến nay Nguyễn Ngọc Tư vẫn chỉ dừng lại ở địa hạt truyện
ngắn và tạp văn, thêm nữa những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm của chị thường
là những vấn đề gia đình, xã hội đương thời, gắn với không gian nhỏ hẹp của một
làng, xã, huyện nên chưa có được tầm vóc bao quát những vấn đề văn hóa, lịch sử,
xã hội…Đó cũng là lý do khiến nhiều người cho rằng Nguyễn Ngọc Tư chưa xứng
đáng đại diện cho văn học Nam Bộ. Công bằng mà nói, Nguyễn Ngọc Tư là người
trẻ mới cầm bút, lại sống ở địa bàn mà điều kiện giao lưu với tri thức sách vở còn
nhiều khó khăn trở ngại vậy mà chị đã cô đọng và khái quát được một vài vấn đề
gia đình, xã hội vào truyện ngắn của mình thì cũng là điều quá tốt. Điều đó chứng
tỏ chị cũng có một năng lực khái quát, năng lực cảm thụ nhất định. Theo sự quan
sát của chúng tôi, ở các truyện ngắn giai đoạn sau (cụ thể là từ tập truyện “Nước
chảy mây trôi” trở đi) thì những những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu có
chiều sâu nhận thức trí tuệ hơn, chị đã nhìn vấn đề một cách sâu xa hơn, tỉnh táo
hơn, và chính vì thế mà cũng bi quan hơn và chua chát hơn.
Xét trên bình diện lịch đại, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số những nhà văn
trẻ ít ỏi còn tiếp nối và lưu giữ được hồn cốt Nam Bộ của các nhà văn cha ông từ
đầu thế kỉ 20. Đó là một điều đáng quý, tất nhiên cũng là một hạn chế về mặt
phương diện cách tân truyện ngắn ở tác giả trẻ này. Văn phong của Nguyễn Ngọc
Tư là sự tiếp nối văn phong Hồ Biểu Chánh từ đầu thế kỉ 20 với lối sử dụng ngôn
20
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
ngữ của dân chúng khu vực đồng bằng sông Cửu Long như là chất liệu sáng tác.
Câu văn của chị cũng giản dị, tự nhiên, bình dân như con người Nam Bộ bộc trực,
thẳng thắn, nói năng ít văn chương rào đón, với những cân văn cũng “trơn tuột như
lời nói” góp phần hình thành nên văn phong đặc biệt của Hồ Biểu Chánh.
Bàng bạc ở Nguyễn Ngọc Tư là sự yêu chuộng ý truyện hơn cốt truyện
giống như quan điểm sáng tác của Bình Nguyên Lộc :“những yếu tố tôi thai nghén
rồi viết thành tác phẩm không phải là cốt truyện mà là ý truyện. Cho nên tôi ít chú
ý đến những câu chuyện ly kỳ gay cấn mà chỉ nắm lấy những ý tưởng ngộ nghĩnh
trong những sự kiện.”
Gần gũi hơn, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư cũng xứng đáng là hậu duệ của
những Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng…với những thành công trong
việc xây dựng những nhân vật mang tính cách Nam Bộ điển hình. Đặc biệt ngôn
ngữ kể chuyện của chị mang đầy đủ những đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ trên
các phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách diễn đạt với lối văn
Nam Bộ viết như nói, với những câu văn ngắn gọn mang tính đối thoại rất cao.
Cũng như tiền bối Sơn Nam, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhắc tới hàng trăm địa
danh của khu vực đồng bằng sông Cửu Long hết sức gần gũi, thân thương gợi lên
hình ảnh một nông thôn Nam Bộ thuần phác, nhân hậu nhưng cũng rất nghĩa khí,
ngang tàng. Không hẹn mà gặp chúng ta thấy cô gái trẻ Nguyễn Ngọc Tư giống ông
già Trang Thế Hy một cách lạ lùng ở việc xác lập chỗ đứng của mình trong sáng
tác: “là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên,
hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của nghèo
khốn” (Nguyên Ngọc), một công việc tưởng như đơn giản nhưng rất cần một tấm
lòng nhân ái, một sự nhạy cảm, tinh tế để có thể theo đuổi nó đến cùng.
Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện cho đến nay vẫn được xếp vào đội ngũ
những nhà văn trẻ, những người mang trên vai trọng trách làm rạng danh cho nền
văn học nước nhà, những người đủ tài và lực để mang đến những luồng gió mới cho
21
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
văn chương trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Bằng những
truyện ngắn dung dị về đề tài nông thôn, thân phận và đời sống tình cảm của người
nông dân Nam Bộ thời hiện đại, chị đã đóng góp cho khuynh hướng văn học hiện
thực một cái nhìn hồn hậu, với lối viết chân tình, thẳng thắn nhưng lại cũng rất hồn
nhiên và nhẹ nhàng. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới nay ở địa hạt truyện ngắn
chính là một văn phong Nam Bộ giản dị, thuần phác với sự điêu luyện trong việc sử
dụng chất liệu ngôn ngữ Nam Bộ như một ngôn ngữ văn học giàu giá trị biểu đạt và
ẩn chứa tiềm lực sáng tạo đến vô tận. Xin mượn lời của nhà văn Dạ Ngân để làm
sáng rõ thêm những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư ở địa hạt truyện ngắn: “Nguyễn
Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà Tư cũng viết được, lại viết rất có
duyên, rất nhân hậu. Đọc cái nào xong cũng phải nhoẻn cười sung sướng, sung
sướng mà lại ứa nước mắt, thấy nước mắt của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ, ấy
là cái đáng giá mà Tư cho người đọc hôm nay". (“Nguyễn Ngọc Tư-Điềm đạm mà
thấu đáo”, Tuổi trẻ ngày 22/04/2004).
1.2.2. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư
Cuối tháng 12 năm 2005, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế
Sài Gòn đã trình làng cuốn tạp văn đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư mang tên “Tạp
văn Nguyễn Ngọc Tư”, với mục đích giới thiệu một “món ăn” mới của tác giả trẻ
này, bên cạnh những thành công nhất định mà chị đã gặt hái được ở địa hạt truyện
ngắn. Quyển sách khá dày dặn với ba mươi lăm tạp văn thấm đẫm tình cảm của chị
với quê hương Cà Mau, với bạn bè, với ba má và chất chứa đầp ắp những kỷ niệm
tuổi thơ, những gì mộc mạc, nhỏ bé, nhưng hết sức thân thương và gắn bó với
mình. Bên cạnh những bài viết khá sắc sảo và tỉnh táo đôi khi có tính chất như một
bài phóng sự, Nguyễn Ngọc Tư cũng rất nhẹ nhàng, trầm tĩnh trong những bài viết
chở nặng những trăn trở, suy tư hết sức nghiêm túc của chị về cuộc đời, về lẽ sống
mà có lẽ không phải “người trẻ” nào cũng có thể trải nghiệm và nắm bắt được.
22
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Những trang tạp văn ấy không chỉ để giải trí mà còn để người miền khác
hiểu biết về đời sống của một vùng đất, và để cho chính những người sống ở vùng
đất đó kịp nhận ra được dù không đi đâu đất cũng hóa tâm hồn. Nhờ những tạp văn
của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta hiểu thêm về nỗi cực khổ vất vả của những người
nông dân, bám sát một cách nóng hổi những tâm tư tình cảm của họ, để biết thương
yêu, thông cảm cho những gian khổ của họ trong việc mưu sinh, để thêm khâm
phục và ngưỡng mộ tinh thần lạc quan, yêu đời, để sống vui và vượt lên hoàn cảnh
của họ. Và đằng sau những trang viết ấy, chúng ta dễ dàng nhận ra tấm lòng của
một người con Đất Mũi, tấm lòng của một công dân lúc nào cũng đau đáu với quê
hương.
Đến tạp văn “Ngày mai của những ngày mai”, chúng ta nhận thấy Nguyễn
Ngọc Tư đã trưởng thành hơn rất nhiều, giọng văn của chị đã bắt đầu mang nhiều
chất triết lý và suy ngẫm (Chân không, A Tép-Km ký sự, Ngày mai của những
ngày mai, Nhớ bèo mây, Của người của mình…). Thế nhưng vẫn thân quen đâu
đó là những hoài niệm ngọt ngào của một thời ấu thơ với mẹ, với ngoại, với chốn
quê nghèo thanh bình yêu dấu, với hình bóng bao nhiêu người thân thương đã từng
cưu mang và gắn bó với mình (Hạt gởi mùa sau, Mẹ, Ngồi buồn nhớ ngoại ta
xưa, Đất cháy…). Chị nhẹ nhàng đưa người đọc quay về một thời xa xưa, với
những kỷ niệm tinh khôi khi Tết đến (Khúc ba mươi), hay là một nỗi buồn rưng
rưng với kỉ niệm ngày “Đãi bạn” (tên một tạp văn) bất chợt ùa về. So với quyển
tạp văn trước, lần này Nguyễn Ngọc Tư thảng thốt và băn khoăn với quá nhiều câu
hỏi, quá nhiều vấn đề mà một cô gái hồn nhiên và vô tư như Tư buộc phải đối mặt
và suy ngẫm, chẳng hạn như vấn đề hạnh phúc (Láng giềng một thuở) hay thân
phận con người (Làm sông, Giữa bầy đàn…). Có thể nói, vị xót xa ngấm ngầm,
trầm buồn day dứt phần nào đã lấn át đi chất trong trẻo và hồn nhiên quen thuộc
của Nguyễn Ngọc Tư. Chỉ một điều duy nhất ở chị không hề thay đổi, ấy là một
giọng văn nhẹ nhàng, nữ tính, đầy trách nhiệm với yêu thương, viết như là để trả nợ
23
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
ân tình, viết như con tằm rút ruột nhả tơ, không mong bay qua mấy ngàn biển rộng
mà chỉ mong làm con chim nhỏ hót lên những nỗi âu lo và đau đớn của một kiếp
người.
Nếu so sánh với mảng truyện ngắn của tác giả này, chúng ta sẽ thấy có một
sự tương đồng về mặt bút pháp. Đó vẫn là giọng văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh đôi lúc
như bông đùa, giễu cợt, thế nhưng khi viết về những vấn đề “nghiêm túc” thì lại hết
sức chân thành hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn luôn biết tiết
chế và làm chủ ngòi bút của mình.
Cuối cùng, chúng tôi muốn nhắc lại một điều đã cũ nhưng thiết nghĩ vẫn còn
nguyên giá trị, ấy là “Văn chính là người”. Vậy thì “người” Cà Mau viết văn ấy sẽ
là người như thế nào khi chúng ta soi chiếu qua lăng kính văn chương? Đó là một
tấm lòng nhân hậu; một tâm hồn nhạy cảm, giàu yêu thương, trăn trở; một đôi mắt
tinh nhạy luôn “hướng ngoại” để nhìn rõ cuộc sống và con người xung quanh
nhưng cũng không quên “hướng nội” để chiêm nghiệm bản thân, để sống cho trọn
vẹn với những kỷ niệm, những tình cảm riêng tư quý giá của mình. Và chúng tôi
muốn vẽ chân dung Nguyễn Ngọc Tư qua vài nét chấm phá như thế.
Xuất hiện trên văn đàn một cách đầy ấn tượng với hương vị mặn mòi của
ruộng đồng Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư ngay lập tức làm ngỡ ngàng người đọc, lôi
cuốn họ vào một “vùng văn chương Nam Bộ” đặc sệt từ phương diện nội dung cho
tới ngôn ngữ sáng tác. Ban đầu có thể chỉ là sự ngạc nhiên trước vẻ đẹp giản dị, quê
mùa của những truyện ngắn nhẹ nhàng, dung dị, nhưng càng về sau chúng ta càng
nhận thấy ở cây bút trẻ này một sức sáng tạo mạnh mẽ, một nội lực được dồn nén
và biết cách bung tỏa một cách hợp lý và chừng mực. Tuy chưa dấn thân vào lĩnh
vực tiểu thuyết, nhưng có lẽ Nguyễn Ngọc Tư hoàn toàn có khả năng làm việc này
bởi một số truyện ngắn được đăng trong tập truyện gần đây nhất (“Cánh đồng bất
tận”) đã mang dáng dấp của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể hy vọng những thành
công tiếp theo của Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại này.
24
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ và mỗi nhà văn, nhà
thơ khi sáng tạo ra tác phẩm đều xuất phát từ một nguồn cảm xúc nhất định. Đó là
những trăn trở, dằn vặt, những rung động mãnh liệt của tác giả trước cuộc sống. Những
trạng thái, cảm xúc đó được gọi là cảm hứng, là nhân tố quyết định sự thành bại của tác
phẩm. Có lẽ, đối với Nguyễn Ngọc Tư, tình yêu đối với quê hương Nam Bộ, những
trăn trở về số phận và đời sống tình cảm của con người Nam Bộ là những nguồn cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác của chị.
Như chúng ta đã biết, mỗi tác giả tài năng đều có một vùng sáng tác chuyên biệt
và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc về sự tài hoa, uyên bác, cũng như tấm
lòng, tình cảm của mình đối với vùng đất ấy. Chẳng hạn, nhắc đến mảng sáng tác về đề
tài Tây Nguyên thì không thể không nhắc đến Nguyên Ngọc, hay nhắc đến thành phố
cảng Hải Phòng là chúng ta lại nhớ đến Nguyên Hồng, nhắc đến Hà Nội thì không thể
quên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…. Xuôi về phương Nam, vùng đất trẻ trung
của tổ quốc, chúng ta biết đến Sơn Nam-nhà Nam Bộ học, Trang Thế Hy-người được
Nguyên Ngọc mệnh danh là người hiền của văn học Nam Bộ, rồi Nguyễn Quang Sáng,
Dạ Ngân…và bây giờ chúng ta có Nguyễn Ngọc Tư. Nghĩa là chúng ta lại có thêm một
nhà văn trẻ đã mạnh dạn lựa chọn những tâm tình đối với mảnh đất Cà Mau cuối trời
Tổ quốc nói riêng và Nam Bộ nói chung làm nguồn cảm hứng chủ đạo cho những sáng
tác văn chương của mình.
Chúng tôi muốn nói thêm, Cà Mau vốn không phải là trung tâm văn chương
của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mà lại là một nơi khá xa cách và heo hút với
các trung tâm văn chương trong cả nước, do đó cũng không thể đòi hỏi ở Nguyễn Ngọc
Tư những tác phẩm đề cập đến những vấn đề rộng lớn và xa lạ với hiện thực đời sống
25
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
và con người Nam Bộ. Chúng ta cần phải công bằng nhìn nhận chị đã có những đóng
góp tích cực của riêng mình, đã định hình được dấu ấn của mình trên văn đàn, đồng
thời mang trên vai tinh hoa của cả một vùng văn chương thấm đẫm phù sa châu thổ mà
chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu kĩ trong luận văn này.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có
hai nguồn cảm hứng chủ đạo xuyến suốt con đường văn chương của chị, ấy chính là
cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ và cảm hứng về con người Nam Bộ. Đất và
người hòa quyện vào nhau thành một, con người đau đớn và hạnh phúc trong sự gắn bó
và che chở của mảnh đất quê hương. Chúng ta thấy thấp thoáng trên trang viết của chị
là những điều bức xúc, những nỗi đớn đau và cả những nụ cười quê mùa e thẹn, những
giọt nước mắt ngân ngấn rưng rưng…Hết thảy những điều đó là đường dẫn cho chúng
ta tiếp cận trái tim của người nghệ sĩ miệt vườn, một người luôn đau đáu với quê
hương, một người sống và viết hết mình cho và vì những gì mình yêu thương và trân
trọng nhất.
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
2.1.1.1. Hiện thực thiếu thốn của nông thôn Nam Bộ trên các lĩnh vực y tế,
giao thông, giáo dục…
Một trong những nỗi bức xúc nhất từ bao đời của khu vực đồng bằng sông Cửu
Long mà chúng ta đều biết ấy chính là vấn đề “dòng sông và những chiếc cầu”, đến độ
nó đã đi vào thơ ca xứ sở này như một đề tài “kinh điển”, chẳng hạn như:
“Vì sông nên phải lụy thuyền
Chứ như đường liền ai phải lụy ai?”
Những tưởng đó chỉ là vấn đề kinh tế, xã hội ở tầm vĩ mô, thế nhưng nó cũng
hàm chứa ý nghĩa nhân văn rất sâu sắc nếu như được nhìn nhận qua lăng kính của văn
học, cụ thể ở đây là trong truyện ngắn “Qua cầu nhớ người”. Nóng bỏng và bức xúc
lắm thay khi ở xã Đội Đỏ anh hùng mà lại không có cầu bắc qua sông Dài, một khúc
sông không rộng lắm, chỉ độ bốn mươi sáu cái sải. Và cái mơ ước đó chỉ được thực
26
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hiện khi Hai Nhỏ cầm cố hết đất vườn để tự nguyện xây cầu. Tại sao chỉ có một cây
cầu nhỏ bắc qua một khúc sông nhỏ mà lại trở thành ước mơ xa vời như vậy với chừng
ấy con người ngay giữa thời hiện đại? Tại sao chính quyền địa phương không giải
quyết mà phải đợi cho đến khi những con người dám nghĩ dám làm, không toan tính
thiệt hơn như Hai Nhỏ, Năm Hiệp ra tay thì đôi bờ thương nhớ mới được nối liền.
“Qua cầu nhớ người” là nhớ cái ơn ấy, quý cái tình ấy, trọng cái chí khí ấy của những
người nông dân nghèo khổ nhưng hào hiệp.
“Thương quá rau răm” lại phản ánh một vấn đề thời sự khác ở nông thôn hiện
nay (nhất là những vùng sâu, vùng xa). Đó là tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên, bác
sĩ, các dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cho cộng đồng dẫn đến nhiều cái chết
lãng nhách và thảm khốc của người dân. Xứ cù lao Mút Cà Tha thật nghèo và tội
nghiệp như câu khẩu hiệu viết trên tường trạm xá của ông Tư Mốt, nghe xé lòng như
một lời thề: “Cương quyết chỉ chết vì già”. Còn một điều đau lòng nữa là: “đám trẻ cù
lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về…” để cho xứ này mãi nghèo
đói và lạc hậu. Bởi thế, hễ ai đến đây đều được bà con rất quý, nhưng những người
thầy giáo và bác sĩ lần lượt đến rồi đi bởi họ không chịu nổi cái khổ, cái buồn dù trong
lòng không phải ai cũng muốn bội bạc. Mượn ý câu ca dao “Gió đưa cây cải về trời.
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ muốn ám chỉ sự ra đi
của người con trai về chốn thị thành bỏ lại sau lưng người con gái nhỏ tội nghiệp, mà
ẩn sau đó là tiếng than cho số phận “rau răm” nhiều thiệt thòi của những người dân
nghèo xứ cù lao. Họ dường như bị bỏ rơi, bị cô lập và hết lần này đến lần khác bị phụ
rẫy tình thương.
Thế nhưng, bức tranh đau lòng nhất về thảm cảnh nghèo khổ của nông thôn
Nam Bộ lại được mô tả ở một khía cạnh hết sức lạ lùng trong truyện ngắn “X-năm một
ngàn chín trăm năm xưa”. Hiện thực cuộc sống chen lẫn hiện thực tâm trạng, một
màu sắc u tối bao trùm lên những kiếp người nghèo khổ suốt đời ngụp lặn trong vũng
bùn của đời mình mà không thể thoát ra bởi một lẽ hết sức phi lý đó là: chính cái nghèo
27
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
lại là “cần câu cơm” của họ, lại được coi như là món quà của Thượng đế cần phải được
gìn giữ, nâng niu để kinh doanh. Nghèo mà phải “an bần lạc đạo” để làm vui lòng
khách du lịch, những con người đến đây để thưởng lãm nỗi đau khổ, nhục nhã của
người khác như một trò tiêu khiển thấp hèn.
Vấn đề đặt ra ở đây là cái việc kinh doanh du lịch này làm giàu cho ai? Tất
nhiên là không phải cho những người ở X, thậm chí nó còn làm khổ họ, đã đẩy họ rời
xa X, có khi bởi một lý do nghe thật buồn cười chẳng hạn như: “muốn trước lúc chết
trong nhà có cái tivi màu”. Còn những người ở lại thì đau đớn, uất hận, tủi hổ cho kiếp
sống của mình. Điều khiến người ta căm giận là ngay từ đầu, mục đích làm du lịch của
X đã lạ đời, không phải để khách tham quan phong cảnh, di tích lịch sử hay cái gì gì
đó…mà là để họ “bàng hoàng, ngây dại”, để họ “rơi tõm vào một vũng buồn, trong
vũng chứa một thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi…”.
Truyện ngắn này đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh những con người đứng
đầu một địa phương vạch ra những chiến lược kinh doanh xa lạ và bất nhẫn đối với
thân phận con người, đang tâm dìm X trở lại thời thượng cổ, đày đọa những con người
nghèo khổ ấy ngập ngụa trong sự thiếu thốn về vật chất và tổn thương về tinh thần, dồn
đuổi những con người khốn khổ phải rời bỏ quê hương, làm méo mó tình cảm của con
người. Đừng để những ham muốn độc ác, hoang dại, hồn nhiên của con người trở nên
bình thường và được thỏa mãn một cách hợp pháp, đừng để những con người khốn khổ
ấy suốt đời phải chịu cảnh nhục nhã, cắn răng đem cái nghèo ra mua vui cho người để
kiếm miếng ăn. Đó chính là tiếng kêu cứu tuyệt vọng thiết tha của X.
Dẫu vẫn biết giống như bao miền quê khác trên đất nước Việt Nam, nông thôn
Nam Bộ còn đó rất nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết, còn đó nhiều mảnh đời đau
khổ và thiệt thòi cần chúng ta chia sẻ, thế nhưng góc nhìn của Nguyễn Ngọc Tư ở từng
truyện ngắn lại rất khác nhau, cách thức chị mổ xẻ và phân tích những vấn đề khác
nhau với nhữ._.nh
cảm của chị với quê hương Cà Mau, với bạn bè, với ba má và chất chứa đầp ắp những
kỷ niệm tuổi thơ, những gì mộc mạc, nhỏ bé, nhưng hết sức thân thương và gắn bó
với mình. Đến tạp văn “Ngày mai của những ngày mai”, chúng ta nhận thấy Nguyễn
Ngọc Tư đã trưởng thành hơn rất nhiều, giọng văn của chị đã bắt đầu mang nhiều chất
137
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
triết lý và suy ngẫm. Nếu so sánh với mảng truyện ngắn của tác giả này, chúng ta sẽ
thấy có một sự tương đồng về mặt bút pháp. Đó vẫn là giọng văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh
đôi lúc như bông đùa, giễu cợt, thế nhưng khi viết về những vấn đề “nghiêm túc” thì
lại hết sức chân thành hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn luôn biết
tiết chế và làm chủ ngòi bút của mình.
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
Có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của những tình tự nông thôn, những
sáng tác của chị là bức tranh những vấn đề bức xúc của nông thôn Nam Bộ bởi chị là
một trong số ít ỏi những nhà văn hiện nay có khả năng bao quát và phát hiện những
góc khuất của đời sống nông thôn, những điều tưởng như đơn giản nhưng quan trọng
trong cuộc sống con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư như nói hộ cho những người
nông dân bằng chính “giọng” của họ về hiện thực đời sống nghèo nàn, thiếu thốn của
mình, những thương tổn tình cảm của mình mà hoàn cảnh đã góp phần gây ra.
2.1.1.1. Hiện thực thiếu thốn của nông thôn Nam Bộ ở các lĩnh vực y tế, giao
thông, giáo dục
2.1.1.2. Môi trường sống của nông thôn Nam Bộ đang bị tàn phá nghiêm trọng
2.1.1.3. Thái độ vô trách nhiệm và sự tha hoá của một số cán bộ lãnh đạo
2.1.1.4. Lịch sử và vết thương chiến tranh vẫn còn in dấu trong tâm tư con
người Nam Bộ
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và viết hay về quê hương và con người Nam Bộ ở
thời hiện đại (trong so sánh với Sơn Nam là thời cha ông đi khẩn hoang và thời kháng
chiến) như ca ngợi những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những vẻ đẹp hiển hiện và tiềm
138
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
ẩn của con người Nam Bộ trong đời sống thường nhật, trong cách cư xử với nhau. Chữ
“tình” và chữ “lòng” là nét đặc sắc trong tính cách của con người Nam Bộ (so với các
vùng miền khác) và nói đến tình cảm của con người Nam Bộ mà bỏ mất chữ “thương”,
chữ “nghĩa” cũng là một sai sót rất lớn.
2.1.2.1. Những con người có đời sống vật chất nghèo nàn
2.1.2.2. Những con người khao khát tình thương
2.1.2.3. Con người với những tình cảm đẹp
2.1.2.4. Con người tha hoá
2.1.2.5. Con người với những mối tình ngang trái, lặng thầm
Điểm qua một loạt các truyện ngắn được gợi hứng từ những vấn đề bức xúc của
hiện thực Nam Bộ và thân phận của con người Nam Bộ, chúng ta thấy cái nhìn của cây
bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư vừa rộng về diện lại vừa sâu về chất. Rộng và sâu bởi vì chị
không chỉ phản ánh đơn thuần những vấn đề tồn tại ở nông thôn Nam Bộ mà chị còn
chú ý vào tâm tư và tình cảm của những người nông dân Nam Bộ. Đó mới chính là
điều chị quan tâm và muốn gởi gắm tới độc giả, Nguyễn Ngọc Tư không muốn gởi tới
chúng ta những bức tranh phong cảnh đồng quê yên ả hay bão tố với tư cách những bài
phóng sự sinh động, dễ thương nhưng vô hồn, vô cảm. Và một điều nữa chúng tôi
muốn xác quyết là Nguyễn Ngọc Tư không hề ngây thơ trong việc nhìn nhận và đánh
giá hiện thực xã hội xung quanh mình, có thể chị chưa nhìn xa nhưng chị không hề ảo
tưởng với những gì mình viết. Ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn tỉnh táo và đầy trách
nhiệm nhưng không phải với thái độ lên gân, cứng nhắc mà hết sức nhẹ nhàng, tinh tế,
nên dễ khơi dậy ở người đọc một sự cảm thông, chia sẻ.
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn
Cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư về người nông dân Nam Bộ mới lạ và phong phú
hơn rất nhiều so với những tác phẩm của các nhà văn tiền bối như Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Sơn Nam…Đó là hình ảnh người nông dân trong những mối quan hệ rộng lớn
139
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hơn cánh đồng của họ, nếp nhà của họ. Số phận của họ gắn chặt và chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi những vấn đề thời sự của xã hội. Và những người nông dân ấy trong mối
quan hệ với nhau cũng được Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận dưới góc nhìn tinh tế hơn,
riêng tư hơn, mang ý nghĩa cá nhân nhiều hơn là đại diện cho giai cấp của mình. Nhẹ
nhàng nhưng quyết liệt, vô tư nhưng không vô tâm, ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư từ
những ngày đầu tiên đã chọn cho mình một nơi chốn để dụng võ đó chính là đồng đất
quê hương của chị với những người nông dân một nắng hai sương quen thuộc và yêu
dấu.
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ
Bằng một sự quan sát tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư đã vẽ nên
cho người đọc những bức chân dung tâm hồn sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật
sống kiếp thương hồ. Đa phần họ đều nghèo khó, thiệt thòi về những điều kiện sống so
với những con người trên bờ nhưng họ vẫn sống và yêu tha thiết dòng sông của mình
như Ông Chín, Giang (Nhớ sông)… hay một đời gắn bó với sông như người đàn bà vợ
của cha nhân vật “tôi” (Dòng nhớ). Bởi vì họ biết thương, biết nhớ nên những dòng
sông trôi chảy miên man như vô tình ấy cũng không phụ lòng mà lúc nào cũng chảy
tràn, ăm ắp tình thương để vỗ về và cưu mang những phận người trót mang kiếp sống
lưu lạc hải hồ.
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca”
Không biết có phải là vì “cùng một lứa bên trời lận đận” hay không mà Nguyễn
Ngọc Tư, một người trẻ viết văn, lại có thể có một cái nhìn vừa sâu sắc vừa nhân hậu
đối với những người nghệ sĩ miệt vườn đến vậy? Đằng sau vẻ rực rỡ và hào nhoáng,
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đã cho chúng ta thấy những khoảng tối trong tâm
hồn họ mà ánh đèn sân khấu không soi rọi tới được, chỉ có thể bằng cái tâm thì mới cởi
bỏ được từng lớp xiêm áo diêm dúa để thông cảm với những nhục nhằn, những hy
sinh, những lầm lạc, nỗi niềm thầm kín của những con người suốt đời đem lời ca tiếng
140
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hát, nước mắt nụ cười của mình để mua vui cho thiên hạ, gạt bỏ đời đau để sống hết
mình trên thánh đường sân khấu mà không phải ai cũng được bồi đền xứng đáng.
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng
Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng xuất hiện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư phần lớn như những nhân vật loại hình với những nét tính cách
chung như lang thang, phiêu bạt giống ông già chăn vịt trong truyện ngắn “Cái nhìn
khắc khoải” hay nhân vật Sáng trong “Một dòng xuôi mải miết”. Những người chăn
vịt đồng thời cũng là những con người rất cô đơn, không ai bầu bạn, vì sống một mình
thì ai cũng buồn hết huống chi là một mình giữa đồng không mông quạnh. Còn một
điểm chung nữa giữa họ là nghèo, nghèo thì mới phải chọn cái nghề cực khổ, rày đây
mai đó, không ổn định, nhiều rủi ro này (đàn vịt có thể chết vì dịch bất cứ lúc nào)
nhưng hết thảy họ đều có tấm lòng rộng như đồng khơi, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ
người khác khi hoạn nạn, khó khăn.
Riêng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lại xây dựng một gia đình chăn vịt
chạy đồng đặc biệt. Qua đó cuộc sống của những người chăn vịt chạy đồng được
Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách trần trụi và đậm đặc, ngòi bút của chị đã vẽ ra
những bức tranh tăm tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ, khắc họa những con
người hình như chỉ sống bằng bản năng nguyên thủy của mình với đồng loại ngay giữa
thời hiện đại.
2.2.5. Nhân vật loài vật
Nhân vật loài vật là một khám phá kì thú của chúng tôi khi thưởng thức truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bọn chúng có khi là “phát ngôn viên” tình cảm cho nhân vật
chính, có khi lại là phương tiện để chị xây dựng nên cốt truyện của mình. Các nhân vật
ấy có thể là vịt hay cóc, những con vật hết sức gần gũi với cuộc sống của con người.
Có thể nói với ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những nhân vật loài vật ấy đã góp
phần đắc lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật “con người”, đảm nhiệm xuất sắc
vai trò của “người dẫn chuyện” tài tình, làm nên giọng điệu hài hước cho tác phẩm và
141
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hơn thế nữa chúng góp phần làm phong phú thêm cho thế giới nhân vật “con người”
của chúng ta.
Là một người trẻ mới khởi nghiệp viết văn, sự nghiệp văn chương chưa thật sự
dày dặn, phong cách nghệ thuật chưa thật sự định hình cũng như phong độ chưa thật sự
ổn định, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã kịp ghi lại dấu ấn của mình trên văn đàn bằng
việc xây dựng trong các truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật phong phú, đa
dạng mà kiểu nhân vật nào cũng đầy đặn và có những nét đặc sắc riêng. Thế giới nhân
vật ấy là khúc xạ của những con người bằng xương bằng thịt sống xung quanh chị,
những con người dù sinh sống nơi đồng ruộng hay chốn thị thành, dù làm bất cứ nghề
nghiệp nào cũng tỏa sáng một tính cách rộng rãi, nhân hậu, nghĩa khí rất đặc trưng của
con người Nam Bộ.
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết
3.1.1.1. Cốt truyện đơn giản
Về phương diện kết cấu và quy mô về nội dung, cốt truyện của Nguyễn Ngọc
Tư thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được kể đơn giản về số lượng và
rất gọn gàng, ít nhân vật và tính cách nhân vật thường được mô tả một cách rất tập
trung và cô đọng, nhiều khi chỉ là một lát cắt của cuộc sống được phản chiếu hay chỉ
một đoạn đời nào đó của nhân vật chính được quan tâm mà thôi. Qua khảo sát nhìn
chung có thể kết luận, đa số truyện ngắn của chị có cốt truyện khá mờ nhạt, nhiều
truyện có thể nói là không có cốt truyện (nó có thể chỉ là một nét tâm trạng, một tình
huống, một hoàn cảnh của nhân vật) và một số truyện ngắn của chị chịu sự thâm nhập
mạnh mẽ của một thể loại trữ tình là thơ mà chúng tôi tạm gọi đó là những truyện ngắn
trữ tình hoá.
142
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
3.1.1.2. Chi tiết hấp dẫn
Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo
chi tiết, do đó tuy những truyện của chị thường chỉ xoay quanh cuộc sống sinh hoạt
trong gia đình, làng xóm nhưng vẫn không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm
chán. Nét đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là trong những câu chuyện đời
thường luôn có những “chi tiết phát sáng” làm nên giá trị cho tác phẩm và chúng ta có
thể xem những chi tiết như thế là những chi tiết có tính nghệ thuật hàm chứa rất lớn
cảm xúc và tư tưởng của tác giả.
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Tình huống truyện hiểu nôm na là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà
dựa vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn được
một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý tưởng để từ đó
triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng
tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ từ những sự kiện đời
thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu luyện thì Nguyễn Ngọc Tư cũng
khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống trớ trêu, những nút thắt bất ngờ.
Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những xung đột xã hội dữ
dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là những tình huống mang tính
chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và cay nghiệt.
3.1.2.1. Tình huống tâm lý
Chúng tôi tạm chia những tình huống-tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư thành những kiểu như:
- Tình huống chối bỏ
- Tình huống đi tìm
- Tình huống trò đùa (hay trò chơi)
143
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
- Tình huống “yêu thầm”
Nhiều bài viết về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đều cho rằng về mặt nội
dung, truyện ngắn của chị đa phần là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống đời
thường, đặc biệt là những mối tình nông thôn hiền lành, lặng thầm, trắc trở. Cô gái trẻ
miệt Cà Mau ấy rất có tài thâm nhập vào những góc khuất của những mối tình quê để
đau thật sâu với những nỗi buồn của họ. Những “trường hợp” lỡ làng trong truyện ngắn
của chị là những tình huống rất đỗi bình thường, dễ bị che lấp giữa bộn bề cuộc mưu
sinh, nếu như không có một tấm lòng và sự đồng cảm sâu sắc thì người ta rất khó nhận
ra. Những tình huống “yêu thầm” của chị đặc sắc không bởi những chi tiết gây sốc, giật
gân mà đặc sắc ở những dòng tâm trạng, độc thoại nội tâm. “Một mối tình” là một
truyện ngắn có kiểu tình huống tâm lý như thế. Dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” trở
về nhà sau một mùa lưu diễn bắt đầu khi nhớ về thời thơ ấu lúc mới biết yêu Trọng.
Miên man theo những cảm xúc ấy là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng chỉ chực chảy
tràn ra thành lời mà sao vẫn nghẹn ngào của nhân vật “tôi. Chỉ có vậy, có thể không
đáng gọi là một tình huống truyện, nhưng đối với một tác giả giỏi nghề thì chỉ cần một
khoảnh khắc, một nét tâm trạng cũng là một duyên cớ để tác giả xây dựng nên tác
phẩm.
Nhìn chung, đa phần truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được xây dựng từ
những tình huống tâm lý, hay nói cách khác là lấy tâm trạng của các nhân vật làm tâm
điểm cho việc xây dựng tác phẩm của mình. Những tình huống tâm lý đặc sắc trong
một số truyện ngắn chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư rất tài tình trong việc phơi bày những
tình cảm che giấu của nhân vật, khám phá tính cách thật của họ, để cùng họ phiêu lưu
vào thế giới nội tâm sâu thẳm của mình. Và kiểu tình huống tâm lý này hấp dẫn người
đọc cũng bởi sự chậm rãi và nhẹ nhàng, không bộc phát, không nhiều xung đột gay gắt
của nó.
3.1.2.2. Tình huống tượng trưng
144
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
“Núi lở” là một câu chuyện kể về dự án làm phim nhưng phim phải kể về núi và
núi nhất định phải lở chỉ trong một buổi chiều, lở đến cụt ngọn. Nhưng tại sao lại phải
như vậy? Núi phải lở để phơi bày tất cả sự lở lói trong lòng người, sự lạnh lùng, nhẫn
tâm của con người trong giây phút quyết định giữa sống và chết, núi phải lở để thiên
nhiên lên tiếng bằng tất cả sự cuồng nộ của mình, núi phải lở để chúng ta biết được đâu
đó trên đời vẫn tồn tại những con người “đang rú lên mừng thoát nạn mà đã chết rồi”.
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, “núi lở” trong truyện ngắn này là một tình huống kỳ
dị và có lẽ là không có thật, nó mang ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng nhiều hơn thực tế.
Chính tình huống mang nhiều màu sắc hoang đường này đã tạo nên một bầu không khí
đặc biệt cho truyện ngắn này, một chút kỳ bí, liêu trai, một chút ghê sợ và thấp thỏm.
Nó là một tình huống mở, gợi nhiều trăn trở cho người đọc khi khám phá các tầng ý
nghĩa của tác phẩm. Tình huống “núi lở” ở đây có thể xem như là một khối thuốc nổ
được giấu kín giữa câu chuyện, để rồi bất ngờ bộc phát buộc các nhân vật phải hành
động để phơi bày bản chất của mình.
Nhìn chung, kiểu tình huống tượng trưng không phải là “cánh tay thuận” của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc kiến tạo truyện ngắn, ít nhiều những truyện ngắn có kiểu
tình huống này còn chưa giấu kín được ý đồ của tác giả đến cùng. Tuy nhiên, nét hấp
dẫn của nó chính là lớp sương mờ huyền ảo từ những hình ảnh biểu tượng lan tỏa ra
toàn bộ tác phẩm, với những nhân vật kì lạ với những hành động khó hiểu và bất ngờ
làm cho câu chuyện trở nên không thể đoán trước được. Đó cũng chính là ưu điểm của
kiểu tình huống tượng trưng.
3.1.2.3. Tình huống thắt nút
Tình huống thắt nút trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có thể hiểu như là
những tình huống khá căng thẳng do hàng loạt những sự kiện được tác giả tổ chức theo
kiểu tăng tiến mức độ nóng bỏng và ngày càng siết chặt vòng vây để giải quyết những
mâu thuẫn dồn dập và đan xiết đã được tác giả khéo léo dàn dựng. Tuy nhiên, những
tình huống thắt nút mà chúng tôi tìm hiểu (trừ “Cánh đồng bất tận”) đa phần không
145
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
phải là những xung đột xã hội gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết theo kiểu “một mất
một còn”, mà đó chỉ là những tình huống ứng xử tâm lý đời thường, được nhìn nhận
dưới góc độ cá nhân và sự “thắt nút” cũng được tác giả khai thác dưới khía cạnh đấu
tranh nội tâm của từng nhân vật hơn là sự mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật.
“Cánh đồng bất tận” có thể được hiểu như là hành trình trả thù miệt mài và
trốn tránh cuộc đời của một người chồng bị phản bội, người cha quên mất mình có
những đứa con, kéo theo đó là hành trình bị đày ải của Nương và Điền, hai sinh linh
nhỏ bé và “duy nhất” trong cuộc truy đuổi mệt nhoài, để học cách sinh tồn giữa vòng
vây trần gian mù mịt và đầy bất trắc. Đắm mình vào trò chơi báo thù tàn nhẫn với biết
bao người đàn bà, người cha bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi thì chị, cô gái điếm bị người
ta đổ keo dán sắt vào cửa mình, xuất hiện như một sự thách thức, một hiểm họa, báo
hiệu một điều gì đó thật dữ dội và xáo trộn sắp xảy ra bên cạnh những cơn cuồng nộ dữ
dội của thiên nhiên ngày càng vây riết và truy đuổi họ. Người đàn bà nguy hiểm và
ham hố đó tìm đủ mọi cách chinh phục trái tim chai đá của người cha, còn đứa con trai
thì theo đuổi chị trong tuyệt vọng, vòng quay tình ái đó cứ thế xoay tròn đều đặn và
bức bối, chợt tan vỡ vào giây phút định mệnh khi chị quyết định đánh đổi thân xác để
cứu bầy vịt mà người đàn ông “độc ác mười” đó vẫn dửng dưng. Chị thua cuộc và ra
đi, Điền chạy theo chị. Vậy là chỉ còn lại hai cha con trên những cánh đồng và Nương
lờ mờ nhận ra món quà mà Điền để lại, người cha đã bắt đầu quan tâm đến Nương
nhưng muộn rồi. Không còn kịp để lấy lại những ánh mắt hận thù, không còn kịp để
ngăn chặn sự ra đời của những thằng mất dạy, hằn học nhìn đời và lúc nào cũng chực
chờ “đánh chết mẹ những thằng chăn vịt”, không còn kịp để lấp đầy những hố sâu
ngăn cách cha con từ bao nhiêu năm qua, không còn kịp cho một dự định dừng lại của
người cha…Tất cả đã muộn màng bởi Nương cảm nhận giờ báo thù đã đến, giờ khắc
mà quy luật nhân quả sẽ lộ diện với bộ mặt khắc nghiệt và nhẫn tâm. Không phải đợi
đến thời khắc Nương phải trả giá, người đọc đã lờ mờ nhận thấy một sự bất an lan tỏa
trong từng chi tiết nhỏ xoay quanh các nhân vật như là những đám mây đen đã tích đủ
146
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
điều kiện cần thiết tạo thành một cơn bão. Tuy kết thúc truyện có phần gắng gượng
nhưng vẫn không làm giảm giá trị một tình huống thắt nút và siết chặt vòng vây đặc
sắc của Nguyễn Ngọc Tư.
Điều sâu sắc nhất mà chúng tôi đúc kết được khi xem xét tình huống truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư là dẫu cho xây dựng tình huống tâm lý, tình huống tượng trưng,
tình huống thắt nút hay bất kì kiểu tình huống nào thì tài năng của chị vẫn là ở chỗ đã
chọn được cho mình những tình huống nhẹ nhàng nhưng có sức gợi lớn, có khả năng
đánh động sâu sắc vào tâm hồn của người đọc, là cái sườn chắc chắn để tác giả triển
khai toàn bộ tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.1.1. Những cái tên dân dã, hiền lành
3.2.1.2. Ngoại hình lam lũ, xấu xí
Nguyễn Ngọc Tư ít chú trọng miêu tả ngoại hình nhân vật với mục đích khắc
họa tính cách mà thiên về giới thiệu hoàn cảnh hoặc nghề nghiệp của nhân vật để
hướng người đọc tới chủ đề tác phẩm. Đối với truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thì ngoại
hình của nhân vật thường thống nhất với tính cách nhân vật, nó thường là đường dẫn để
người đọc tiếp cận thế giới nội tâm của nhân vật.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật
3.2.2.1. Khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài
3.2.2.2. Biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật
3.2.2.3. Độc thoại nội tâm của nhân vật
Nguyễn Ngọc Tư rất chú trọng việc xây dựng tâm trạng của nhân vật, đôi khi
chỉ bằng một chi tiết nhỏ như ánh nhìn, nụ cười, những cử chỉ vu vơ thôi là chị đã
khiến người đọc thấy được sự dồn nén và che giấu tâm trạng thật sự của nhân vật.
Nhiều khi tâm lý nhân vật còn được miêu tả bằng những lời nói (trái với lòng mình)
147
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hay một thái độ đối nghịch hoàn toàn với nội tâm (sẽ bị lật tẩy bởi một nhân vật khác
hay một bởi hành động nào đó tiếp theo).
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tự sự học vốn là một nhánh của Thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng nó
chuyên nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tự sự học
phân biệt rõ giữa “kể cái gì” và “kể như thế nào”, tức là có sự phân biệt giữa khái niệm
“câu chuyện” và “cốt truyện”, từ đó làm nổi bật vai trò chủ thể trong trần thuật (tức là
vai trò của người kể chuyện).
Tham khảo bài viết: Về khái niệm “Truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể
chuyện ở ngôi thứ ba” [70, tr.134-145] của TS.Lí luận ngôn ngữ học Nguyễn Thị Thu
Thủy chúng tôi đã nhận thức rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “người tiêu điểm hóa”
và “người kể chuyện”. Theo đó “Người tiêu điểm hóa là người thể hiện quan điểm,
đánh giá của nhân vật về thế giới nhân vật, sự kiện trong tác phẩm-người mà qua
những hành động, cảm nhận, suy nghĩ-làm điểm tựa cho người kể chuyện thực hiện
hành vi kể”; còn “Người kể chuyện là người thực hiện hành vi kể, ghi lại những gì mà
nhân vật thấy, nhận vật nghĩ…”. Bài viết cũng làm rõ khái niệm “người kể chuyện
hiển ngôn” và “người kể chuyện hàm ẩn”. Vận dụng những hiểu biết đó vào việc tìm
hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi sẽ khảo sát
những kiểu người kể chuyện (NKC) như sau:
3.3.1. Người kể chuyện hiển ngôn
3.3.1.1 Người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.1.2 Người kể chuyện xưng “tôi” đóng vai trò dẫn truyện
3.3.2. Người kể chuyện hàm ẩn
3.3.2.1 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.2.2 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của nhân vật
Vận dụng những hiểu biết về “Tự sự học”, với tư liệu khảo sát (có chọn lọc)
gồm 40 truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có 10 truyện có người kể
148
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
chuyện hiển ngôn và 30 truyện có người kể chuyện hàm ẩn. Trong đó ở những truyện
có NKC hiển ngôn thì kiểu NKC xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình chiếm
ưu thế hơn (8 truyện) còn kiểu NKC xưng “tôi” đóng vai trò dẫn chuyện chỉ xuất hiện
trong 2 truyện. Như số liệu đã nêu, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư có xu hướng thiên
về xây dựng kiểu NKC hàm ẩn trong những truyện ngắn của mình. Thống kê 30 truyện
ngắn còn lại, chúng tôi nhận thấy có 20 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm
nhìn của chính mình và 10 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của
nhân vật. Những con số này càng củng cố cho nhận xét Nguyễn Ngọc Tư thiên về lối
trần thuật truyền thống trong truyện ngắn.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1.1. Từ ngữ chỉ địa hình, sản vật Nam Bộ
3.4.1.2. Từ ngữ chỉ trạng thái, hành động theo kiểu Nam Bộ
3.4.1.3. Diễn đạt kiểu Nam Bộ trong lối kể chuyện
3.4.1.4. Đặc điểm câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Căn cứ vào số lượng tác phẩm đã xuất bản cũng như những đóng góp đã được
công nhận của chị, có thể rút ra nhận xét sở trường của Nguyễn Ngọc Tư là sáng tác
bằng ngôn ngữ Nam Bộ, tiếp nối truyền thống có từ Hồ Biểu Chánh, đến Sơn Nam,
Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…Đó là truyền thống viết văn như nói,
không cầu kì, trau chuốt làm mất đi sự góc cạnh và sức sống tươi rói của chữ nghĩa.
Đặc biệt ở Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ nhân vật đều
mang đầy đủ những đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ trên các phương diện như: ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt.
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm
văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách diễn đạt…Đi tìm
giọng điệu trong văn xuôi, chúng ta có thể đứng trên hai bình diện. Ở bình diện vi mô
149
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
(tức là ngôn ngữ của người kể chuyện), chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư một lối kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh với lối dẫn chuyện
hồn nhiên, tựa như không còn khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật, người
kể chuyện và độc giả.
Xét trên bình diện vĩ mô (tức là giọng điệu chung của cả tác phẩm), chúng ta
thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có một giọng điệu nhẹ nhàng, đằm thắm và sâu
lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể chuyện chậm rãi, thong dong mà còn thể
hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn
Nguyễn Ngọc Tư giàu cảm xúc vì những nhân vật của chị thiên về cảm nhận hơn hành
động, nhân vật thích chìm đắm trong cảm xúc, trong thế giới tinh thần của mình hơn là
hành động hướng ra bên ngoài.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi tạm phân loại
truyện ngắn của chị theo những kiểu “giọng” như sau:
3.4.2.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình
3.4.2.2. Giọng hài hước, tưng tửng
3.4.2.3. Giọng buồn bã, hiu hiu, đượm đượm
3.4.2.4. Giọng triết lý bình dân
Xem xét một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
có sự đa dạng trong giọng điệu như đã trình bày ở trên, nhưng nổi bật nhất vẫn là giọng
kể chuyện, tâm tình buồn buồn, thủ thỉ, nhẹ nhàng, mơ màng quá khứ, hoài niệm dĩ
vãng của lịch sử, của quê hương, của những số phận cá nhân nhỏ nhoi nhưng không hề
bị khuất lấp và lãng quên. Văn Nguyễn Ngọc Tư dễ khiến người đọc đồng cảm chính
vì những vấn đề chị đề cập không to tát và xa lạ, nó gần gũi nhưng lại được tâm tình
bằng một giọng điệu có thể khơi gợi sự cảm thông, khiến người ta dễ dàng cởi mở lòng
mình.
150
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
KẾT LUẬN
1. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, tuy nhiên nhằm làm rõ thêm cho vấn đề đang nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu
một cách khái lược về cuộc sống, quan niệm văn chương và những truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư đã được xuất bản cho tới thời điểm luận văn này được tiến hành. Có
thể nói, đây là một nhà văn trẻ có cuộc sống bình dị, quan niệm văn chương đơn giản
nhưng nghiêm túc. Sáng tác đều tay và thành công trên cả hai thể loại là truyện ngắn và
tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên văn đàn
bằng những tác phẩm giàu giá trị hiện thực và xã hội, mang màu sắc và hơi hướng đặc
trưng của đất và người Nam Bộ. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới thời điểm này, theo
chúng tôi, đó là văn phong Nam Bộ với sự độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ Nam
Bộ như là một chất liệu đặc biệt để sáng tác văn chương.
2. Sau khi tìm hiểu một cách hệ thống cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy cây bút này có nhiệt huyết
dẫn dắt người đọc đi qua từng cánh đồng, từng phận người với tư cách một người trong
cuộc, một thân phận thiết tha chia sẻ và đồng cảm với những thân phận khác bất hạnh
hơn mình. Dẫu còn đó trên trang văn rất nhiều nỗi đau, rất nhiều nỗi bức xúc vì thiếu
thốn, vì nghèo nàn, thậm chí vì quê mùa mà không chạm đến được hạnh phúc nhưng
đâu đó chúng ta vẫn thấy được những nụ cười hạnh phúc, những ánh nhìn yêu thương,
những tình cảm ấm áp của những con người nhân hậu chốn đồng bằng dành cho nhau,
dìu dắt nhau qua những cơn bão tố cuộc đời với một tinh thần ham sống, lạc quan, dẫu
biết cuộc đời còn đó nhiều giông tố và đe dọa nhưng vẫn muốn sống và hễ sống là phải
sống cho “ngon lành”. Đó cũng chính là tâm hồn và khí phách từ bao đời của con
người và quê hương Nam Bộ.
151
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
3. Từ việc phân tích những thủ pháp nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng
trong truyện ngắn của mình, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có biệt
tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, và chị đã thành công trong việc xác lập cho
truyện ngắn của mình một văn phong Nam Bộ điển hình, một phong cách sáng tác độc
đáo mang “văn hiệu” Nguyễn Ngọc Tư không thể lẫn lộn. Đóng góp lớn nhất hiện nay
của chị trong lĩnh vực văn chương là một giọng văn hiền lành, nhân hậu, đầy tinh thần
trách nhiệm của một công dân với xã hội, của một con người biết sống nhiệt huyết và
tận tụy với người cũng như với mình. Tinh tế nhưng không quá sắc sảo, hồn nhiên
nhưng không vô tâm, Nguyễn Ngọc Tư bằng những truyện ngắn nhỏ bé của mình đã
góp phần đánh động lương tâm xã hội, thanh lọc tâm hồn của chúng ta bằng những
chuỗi khóc cười, buồn bã bi ai cùng với những số phận, những cuộc đời thấp thoáng
đằng sau trang viết.
4. Dĩ nhiên tác giả Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn đó những nhược điểm trong nghệ
thuật viết truyện, cũng như người đọc bắt đầu cảm giác có sự sáo mòn trong hệ thống
đề tài của chị trên cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, thế nhưng chúng tôi tin rằng
bằng sự vững vàng và sáng suốt, chị sẽ biết cách thay đổi để làm mới văn chương của
mình. Nam Bộ là một mảnh đất màu mỡ, là một tiểu vùng văn hoá đa dạng để Nguyễn
Ngọc Tư có thể duy trì hoạt động khai thác cho đến tận cùng con đường văn chương.
Vấn đề quan trọng là Nguyễn Ngọc Tư có làm chủ được kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ
giàu có ấy hay không, có biết cách vận dụng nó một cách sáng tạo hay không để hình
thành cho mình một phong cách đặc sắc, một bản lĩnh sáng tạo mới. Bằng những thành
công đã đạt được, chúng ta tin rằng Nguyễn Ngọc Tư sẽ còn tiến xa hơn trên con
đường văn chương của mình.
152
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Học viên: NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Tên đề tài luận văn: ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7575.pdf