Đặc điểm tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________________ Trần Thị Phi Nga ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT THẾ SỰ CỦA MA VĂN KHÁNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người Hướng Dẫn Khoa Học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2008. LỜI CẢM ƠN Trước hết, cho tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH XUÂN đã dành thời gian và công sức tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành

pdf112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3498 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luận văn này. Tôi xin gởi lời cảm ơn đến các quí Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành thời gian đọc và đóng góp ý kiến giúp cho bài luận văn được hoàn chỉnh hơn. Cho tôi gởi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường Đại học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh. Quí thầy cô đã tham gia giảng dạy tôi trong suốt khóa học qua. Cuối cùng tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình cũng như những lời động viên của Ban giám hiệu và đồng nghiệp đã dành cho tôi trong suốt thời gian tôi tham gia khóa học này. Trong quá trình viết luận văn này, khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc . Tôi xin chân thành cảm ơn. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008. Trần Thị Phi Nga MỞ ĐẦU 1 - Lí do chọn đề tài: Vào những năm 60, Ma Văn Kháng, một bút danh lạ, đã gây cho người đọc sự chú ý đặc biệt. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, ông là người có thời gian gắn bó với miền đất vùng biên ải khá dài (22 năm (1954 - 1976) ông sống và làm việc ở vùng miền núi Lào Cai - mảnh đất mà ông xem như quê hương thứ hai của mình). Văn nghiệp của ông chủ yếu tập trung vào hai mảng đề tài chính là: cuộc sống của người dân vùng biên ải phía Bắc và cuộc sống thành thị đầy rẫy sự phức tạp của miền xuôi sau những năm 1975. Từ tác phẩm đầu tay Phố cụt - truyện ngắn mở đầu văn nghiệp của Ma Văn Kháng in trên tuần báo Văn Nghệ số 136 ngày 3/3/1961 đến nay, ông đã đóng góp cho văn học hiện đại Việt Nam hơn một trăm truyện ngắn (khảo sát trong 4 tập “Truyện ngắn Ma Văn Kháng” của nhà xuất bản Công An nhân dân - 2003), 12 cuốn tiểu thuyết và một số tác phẩm viết cho thiếu nhi… Cùng với các nhà văn hiện đại, các sáng tác của Ma Văn Kháng vừa khẳng định sự thành công trong văn nghiệp của ông, vừa khẳng định vai trò của ông trong việc góp phần vào sự đổi mới của văn xuôi nghệ thuật nước ta. Với số lượng tác phẩm khá nhiều, đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống người dân miền núi và cuộc sống thành thị miền Bắc sau những năm 1975, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và bạn đọc. Phong phú về vốn sống, cũng như ngôn ngữ, trong các tác phẩm của mình, Ma Văn Kháng luôn xen cài vào những dòng triết lí sâu xa về con người, về lẽ sống ở đời. Để hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về Ma Văn Kháng, thiết nghĩ cần tìm hiểu những đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm của ông một cách toàn diện và có hệ thống. Ở đây chúng tôi chọn khảo sát mảng tiểu thuyết của ông cũng nhằm mục đích đó. 2 - Lịch sử vấn đề: Về mảng tiểu thuyết, Ma Văn Kháng cũng đã gặt hái được khá nhiều thành công. Ông đã đạt được một số giải thưởng danh dự. Với tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn”, Ma Văn Kháng đã đạt giải thưởng văn học ASEAN năm 1998, giải thưởng Nhà nước về văn học và đã được dựng thành phim. Và ông đã nói về tác phẩm của mình khi nó bước vào lĩnh vực điện ảnh rằng: “Cái mừng lớn là dù “Mùa là rụng trong vườn” đã qua 16 năm, nhưng các vấn đề đề cập trong tác phẩm vẫn không phải là cũ đối với cuộc sống hiện nay” [34]. Một số tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cũng tạo được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Khi nói về tiểu thuyết “Đồng bạc trắng hoa xòe”, tác giả Trần Đăng Suyền cho rằng “Ma Văn Kháng, bằng hình tượng nghệ thuật, đã chứng minh rằng đồng bào các dân tộc ít người, mặc dù bị chìm đắm trong đau khổ, tăm tối nhưng đều có mầm sống, khả năng cách mạng” [65, tr.13]. Nhưng khi nhận xét về mặt hạn chế của tiểu thuyết này tác giả cũng đưa ra những nhận xét rõ ràng. Ông cho rằng “Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, tôi nghĩ, với những tư liệu phong phú như vậy, Ma Văn Kháng có thể viết hay hơn. Đáng tiếc, tác phẩm của anh còn bộc lộ một số thiếu sót” [65, tr.14]. Và Trần Đăng Suyền cũng chỉ ra những thiếu sót cụ thể là “chúng ta có thể nhận ra cái lúng túng của Ma Văn Kháng ngay ở một trăm trang đầu tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe. Nó không ăn nhập lắm với những chương sau” [65, tr.14]. Hơn nửa, về khả năng xây dựng nhận vật – một vấn đề sống còn của tiểu thuyết, thì Ma Văn Kháng vẫn chưa thực sự nổi trội, bởi “nhiều nhân vật trong Đồng bạc trắng hoa xòe có hiện tượng hành động lấn át tâm lý. Cái mà ai đó gọi là khám phá con người trong con người, là phép biện chứng tâm hồn, anh chưa làm được bao nhiêu” [65, tr. 16]. Về cách xây dựng nhân vật trong Đồng bạc trắng hoa xòe, Trần Đăng Suyền nhận xét: “có những nhân vật được Ma Văn Kháng xây dựng khá công phu” [65, tr. 12]. Còn khi nói về cách xây dựng nhân vật nói chung, thì Lã Nguyên đã nhấn mạnh: “…nhân vật của Ma Văn Kháng dù phức tạp đến đâu, có những biểu hiện phong phú như thế nào, sau khi tiếp xúc, ta có thể nhận diện được ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao thượng hay đê tiện, độc ác hay nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm…” [35, tr.5]. Về những nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, tác giả Lý Hoàn Thục Trâm nhận xét rằng: “Qủa thật, Ma Văn Kháng là một trong số ít những nhà văn đương đại rất tâm đắc với nhân vật người trí thức. khi người đọc bắt đầu có phần hoa mắt với chân dung đặc tả của người chiến sĩ trong đời sống hậu chiến hay người nông dân trong giai đoạn đô thị mới nông thôn nhan nhãn trong hàng loạt tiểu thuyết; thì người trí thức của Ma Văn Kháng tuy đôi khi chỉ mới ở mức những bức kí họa sơ sài nhưng đã đem lại một hứng thú nhất định” [79]. Và khi “gặp gỡ người trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, người đọc không tránh khỏi những xúc cảm bâng khuâng nhẹ nhàng của sự thanh lọc tâm hồn” [79 ]. Người phụ nữ đời nào cũng vậy, là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa, nhưng sự phản ánh họ trong văn học - cái nhìn nghệ thuật của nhà văn thì mỗi thời mỗi khác, mỗi người mỗi khác. Trong sáng tác của Ma Văn Kháng nói chung, nhân vật nữ xuất hiện khá nhiều và chiếm được cảm tình của không ít độc giả. Trong tiểu thuyết của ông, nhân vật nữ cũng được xây dựng khá công phu. Đúng như tác giả Nguyễn Nguyên Thanh nhận xét: “Viết về người phụ nữ nhan sắc, Ma Văn Kháng có khả năng khám phá tinh tế và sắc sảo”. Đào Đồng Điện cho rằng: “nhà văn Ma Văn Kháng khi làm một cuộc đột phá vào mảng đề tài gia đình, ông gần như giao phó hoàn toàn chủ đề cho các nhân vật nữ”. Nhận xét về nhóm tiểu thuyết viết về đề tài miền núi, tác giả Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng: “Cuốn tiểu thuyết Gió rừng (1977), Đồng bạc trắng hoa xòe (1980), Vùng biên ải (1983) viết sau các tập truyện ngắn về miền núi, là một sự hội tụ, kết tinh cao độ vốn sống về con người và cuộc sống miền núi, mà ông tích lũy suốt hơn 20 năm gắn bó với nó. Người đọc có thể tìm thấy những bức tranh sinh động, những chuyện, những con người và con đường của người dân tộc thiểu số đã tìm tòi để hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc ở Việt nam như thế nào. Khát vọng sống trong độc lập và tự do, lịch sử đấu tranh đau thương mà anh dũng, quả cảm, đời sống thường nhật, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ của các dân tộc anh em trên dải đất Tây Bắc liền kề biên giới phía Bắc được miêu tả khá đậm đà”. Không chỉ thành công ở mảng tiểu thuyết viết về đề tài miền núi, sau những năm 80, khi bước vào thời kì đổi mới, Ma Văn Kháng lại cho ra đời hàng loạt tiểu thuyết đời tư - thế sự như Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989)… “Với nhãn quan tinh tế, thái độ bao dung và tấm lòng nhân ái, ông chăm chú đến những cảnh sinh hoạt đời thường, những quan hệ, những cách ưng xử phô bày sự lựa chọn theo lợi ích cá nhân của đời sống bị chi phối bởi kinh tế thị trường”[ 79 ]. Tóm lại, có khá nhiều ý kiến về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình tập trung đánh giá chuyên sâu và khái quát về đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng. Luận văn của chúng tôi sẽ cố gắng để góp một phần nhỏ vào việc khắc phục khoảng trống này. 3 - Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Vận dụng lý thuyết về thể loại, luận văn của chúng tôi sẽ khảo sát sâu về những đặc trưng của tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng, tập trung vào những tác phẩm: Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Ngược dòng nước lũ (1998), Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (1999) qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật, từ đó xác định phong cách sáng tác của nhà văn và sự đóng góp của ông đối với tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi hiện đại Việt Nam nói chung. Về mặt tư liệu, chúng tôi chọn khảo sát toàn bộ tiểu thuyết Ma Văn Kháng, trong đó phân tích tập trung những tác phẩm về đề tài thế sự mà chúng tôi cho là tiêu biểu, có so sánh với một số truyện ngắn của ông. Bên cạnh đó, khi khảo sát về hệ thống đề tài, chúng tôi cũng liên hệ tới những tác phẩm khác của một số tác giả khác cùng nằm trong hệ đề tài đó để tìm ra nét riêng trong thể hiện của Ma Văn Kháng. 4 - Phương pháp nghiên cứu: Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lịch sử - phát sinh được sử dụng để làm rõ sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết Ma Văn Kháng trong tương quan với hoàn cảnh xã hội, văn học . - Phương pháp so sánh để khu biệt những đặc trưng của tiểu thuyết Ma Văn Kháng bên cạnh tiểu thuyết của những nhà văn cùng thời. - Vận dụng những hiểu biết về thi pháp học hiện đại kết hợp với cảm thụ truyền thống để khảo sát và nhận định tác phẩm theo quan niệm, hiểu biết của mình. Dựa vào những nhận xét, nghiên cứu của những người đi trước để có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm. - Ngoài ra các thao tác thống kê, phân tích, tổng hợp, giải thích được vận dụng trong toàn văn bản. 5 - Đóng góp của luận văn: Tập trung nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, luận văn nhằm: - Tìm hiểu đặc trưng tiểu thuyết Ma Văn Kháng, tập trung ở mảng đề tài thế sự. - Đánh giá những đóng góp của Ma Văn Kháng trong quá trình phát triển, đổi mới của văn xuôi Việt Nam. 6 - Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu (6 trang) và phần Kết luận (3 trang), luận văn được tổ chức thành 3 chương như sau: - Chương 1: Tiểu thuyết và khái quát về tiểu thuyết Ma Văn Kháng (42 trang). - Chương 2: Tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng: Cảm hứng nghệ thuật và loại hình nhân vật (49 trang). - Chương 3: Tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng: Các đặc trưng nghệ thuật (54 trang). Tài liệu tham khảo (6 trang) Chương 1 TIỂU THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG 1.1. Tiểu thuyết: 1.1.1. Khái niệm: Vào nửa sau thế kỉ XVIII, đặc biệt là trong thế kỉ XIX, ở Phương Tây, tiểu thuyết đã xuất hiện như một thể loại văn học chủ đạo, như chiếc máy cái của mọi nền văn học phát triển. Sự tác động của tiểu thuyết vào đời sống tinh thần của toàn xã hội rất mạnh mẽ. Điều đó không phải ngẫu nhiên mà bởi so với các thể loại khác, tiểu thuyết có khả năng phản ánh rộng lớn trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống và đi sâu vào những diễn biến phức tạp của tâm hồn con người. Hơn thế, tiểu thuyết còn là thể văn cho phép nhà văn bộc lộ hết khả năng sáng tạo của mình một cách tự do và thoải mái. Vậy “Tiểu thuyết là gì?”. Về điều này, chúng ta có thể trả lời bằng vô số những định nghĩa khác nhau. Phần lớn các định nghĩa đều chịu ảnh hưởng của quan niệm về tiểu thuyết giống cuộc đời, nghĩa là giống sự thực, nhưng cũng có người cho rằng “tiểu thuyết phải tạo ra những cái gì không có thực. Có văn phái cho rằng tiểu thuyết trước hết phải là một câu chuyện tưởng tượng có đầu, có đuôi hẳn hoi (tất nhiên phải có cả khúc giữa). Văn phái khác lại không câu nệ trong lề lối như thế; với họ, đã đành tiểu thuyết là một câu chuyện tưởng tượng xếp đặt rồi, nhưng cần phải linh hoạt và phức tạp như cuộc đời, như sự sống mà sự sống thì không có khuôn phép gì nhất định cả” [56, tr.85]. Định nghĩa ngày nay về tiểu thuyết là: “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [64, tr.277]. Tuy nhiên, tiểu thuyết là một “phạm trù lịch sử’, nó luôn luôn biến động và chưa định hình. Vì vậy mà nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Không thể cho tiểu thuyết một định nghĩa cố định, tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng tung hoành không bờ”. Nội dung mà tiểu thuyết miêu tả, phản ánh rất đa dạng. Có khi là một vấn đề lớn, mang tính thời đại; có khi đó chỉ là những vấn đề rất đơn giản của cuộc sống thường nhật. Nhưng dù lớn, dù nhỏ, dù rộng, dù hẹp thì cái đích cuối cùng mà nhà văn muốn vươn đến là thể hiện quan điểm của mình về thế giới quan, nhân sinh quan. Tiểu thuyết có thể xây dựng những bức tranh cuộc sống rộng lớn, qui mô, về những số phận lắt léo phức tạp của con người. Bức tranh đó cho phép người nghệ sĩ có được sự tự do cả về thời gian lẫn không gian. Ví dụ như: thời gian của Tây Du kí có thể là hơn 515 năm; còn thời gian của Tam Quốc chí là hơn 80 năm… Hồng Lâu Mộng kể về mọi chuyện xảy ra trong gia đình họ Giả - không gian là một lâu đài; Chiến tranh và hòa bình kể về câu chuyện của một nửa Châu Âu; không gian của Tắt đèn lại là một làng quê; không gian Sống mòn lại là một vùng ngoại ô nhỏ…. Mặt khác trong tiểu thuyết, nhà văn có thể mặc sức phóng đi sự tưởng tượng của mình nhằm tạo được sự lôi cuốn về phía độc giả. Vốn là một thể loại uyển chuyển, mềm dẻo nên dường như tiểu thuyết không bị đóng khung trong những quy phạm chật hẹp như một số thể loại khác. Theo giáo sư Phan Cự Đệ, tiểu thuyết “tự bản chất nó vốn không có tính quy phạm. Đó chính là hiện thân của sự uyển chuyển. Đó là một thể loại luôn luôn đi tìm, luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn soát lại tất cả những hình thức đã hình thành của mình. Một thể loại như thế chỉ có thể là một thể loại được xây dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang tiến triển” [12, tr.500]. Nhưng để có một tiểu thuyết hay, những nhà viết tiểu thuyết đã phải vất vả, lăn lộn, trải nghiệm cùng cuộc sống để góp nhặt thông tin và tích lũy kinh nghiệm. Tất cả sẽ được phản ánh trung thực và đem đến cho người đọc những nhận thức sâu xa về cuộc sống hiện tại, về tương lai. Tuy nhiên, để được xem là một tác phẩm thực sự thành công thì nghệ thuật viết tiểu thuyết đóng vai trò là một điều kiện đủ. Trong cuốn Khảo về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng: “… viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không”. Như vậy, ngoài một nội dung mới lạ, hấp dẫn thì phải có sự hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật mới thực sự là một tiểu thuyết hay. Cũng chính nghệ thuật xây dựng tác phẩm sẽ góp phần tạo một dấu ấn riêng, một phong cách riêng cho mỗi nhà văn. 1.1.2. Đặc trưng: Trong quá trình vận động và phát triển, diện mạo của thể loại tiểu thuyết không ngừng thay đổi. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về đặc trưng của nó, chúng ta có thể rút ra một số nét như sau: So sánh tiểu thuyết với các thể loại tự sự khác như anh hùng ca (sử thi), truyện thơ, ngụ ngôn, truyện vừa, truyện ngắn…, ta sẽ thấy rõ những đặc trưng của tiểu thuyết. Trong khi anh hùng ca chủ yếu miêu tả các sự kiện quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần, vận mệnh của dân tộc và nhân dân. “Vì vậy, đặc trưng chủ yếu của anh hùng ca là biểu hiện ý thức cộng đồng của nhân dân, dân tộc đối với quá khứ vẻ vang của mình” [52, tr. 380]. Còn đặc trưng đầu tiên tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là có cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Đời tư là “tiêu điểm để miêu tả cuộc sống một cách tiểu thuyết” [52, tr.390]. Tiểu thuyết tuy là giả tưởng nhưng lại tạo dựng một bầu không khí xác thực, bởi chất liệu của tiểu thuyết là đề tài, là biến cố, là nhân vật đều gần gũi với cuộc sống thực. Đặc trưng này là một đặc trưng có tính chất thẩm mĩ và là cơ bản của tiểu thuyết và đã được hình thành ngay trong tiểu thuyết cổ đại. Về sau, cái nhìn đời tư của tiểu thuyết khá linh hoạt theo những biến động lịch sử. Khi yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng. Khác với chất thi vị, lãng mạn của các thể loại trữ tình, dung lượng lớn và bản chất tổng hợp của tiểu thuyết đã khiến cho thể loại văn học này mang đậm chất văn xuôi. Chất văn xuôi trong tiểu thuyết là phương tiện để nhà văn đi sâu vào mô tả mọi cảm xúc, mọi khía cạnh phức tạp nhất trong tâm hồn con người. Tiểu thuyết tái hiện cuộc sống một cách khách quan, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa và tất cả những gì có thể xảy ra trong cuộc sống thì đều có thể xảy ra trong tiểu thuyết. Khi miêu tả cuộc sống, tiểu thuyết có thể khai thác tất cả mọi mặt của cuộc sống: cái cao cả lẫn cái phàm tục, cái nghiêm túc và cái buồn cười, cái bi và cái hài, cái lớn lẫn cái nhỏ, những cái đơn giản và những cái lắt léo, cả ánh sáng và bóng tối… Đó là thế giới mà con người đang sống, và nhà văn một lần nữa giúp ta hiểu sâu hơn về nó. Tính văn xuôi của tiểu thuyết được thể hiện ngay trong ngôn ngữ nghệ thuật. Để phản ánh cuộc sống bình thường hằng ngày, ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết phải mang tính chính xác, khách quan. Đó là thứ ngôn ngữ rất gần với ngôn ngữ miêu tả sự việc trong hồi ký, nhật ký, thứ ngôn ngữ kể chuyện chính xác, rất thật và không cần tô điểm. Chính thứ ngôn ngữ này đã tạo ra sức hấp dẫn đặc biệt của nghệ thuật tiểu thuyết. Trong cuộc sống đời thường, có khi ta bắt gặp những xung đột nội tâm rất tế nhị, nhưng cũng rất dữ dội. Và nếu không có sự khai thác sâu sắc của tiểu thuyết chắc hẳn chúng ta không thể nào khám phá hết được những cung bậc tình cảm của con người. Trong tiểu thuyết, tình tiết thường là éo le. Chính những tình tiết đó sẽ giúp cho tiểu thuyết có một sắc thái riêng biệt, chúng cho phép phân biệt tiểu thuyết với những thể loại khác. Bởi vì những tình tiết trong tiểu thuyết là những tình tiết được kết cấu ở một mức độ cao hơn, tinh vi hơn. Chúng không chỉ thuật lại sự việc một cách đơn thuần theo đúng thứ tự thời gian mà nó xảy ra, mà điều quan trọng là đó là những tình tiết được phối hợp theo một hệ thống nhân quả khăng khít. Và để thực sự gây được hứng thú cho người đọc, bên cạnh lựa chọn những tình tiết éo le, tiểu thuyết còn phải xây dựng được những nhân vật là những con người có cá tính. Bởi theo như nhận định của các nhà nghiên cứu thì họ cho rằng: “Nhân vật là gì nếu không do biến cố tình tiết tạo thành? Biến cố tình tiết là gì nếu không do nhân vật biểu trưng?” [68, tr.136]. Và đó phải là con người nếm trải, tư duy, chịu nhiều khổ đau, dằn vặt. Là con người đang biến đổi, đang trưởng thành cùng với cuộc đời. Mặt khác, ngoài những thành phần chính như hệ thống sự kiện, biến cố, những chi tiết tính cách… tiểu thuyết còn miêu tả và giúp cho người đọc hiểu được sự suy tư về thế giới, về đời người của nhân vật; phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, tâm lí của con người lắm lúc ngoắt nghéo, bất ngờ; trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người và người, môi trường… Tiểu thuyết cho phép xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần thuật và nội dung trần thuật, để miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Đó chính là tính dân chủ của thể loại văn học này. Tức là khi viết tiểu thuyết, tác giả có thể có một thái độ hết sức đa dạng: nghiêm trang, thân mật, suồng sã… Giọng điệu nghệ thuật biến hóa vô cùng. Có khi lạnh lùng mổ xẻ, nhưng cũng có khi tạo cho người đọc những tràng cười khoái trá bằng lối nói dí dỏm, hài hước. “Nói chung thì những cuốn tiểu thuyết lớn bao giờ cũng vừa là bi kịch, vừa là hài kịch, vừa nghiêm trang vừa hài hước, vừa là chính trị xã hội, vừa là sinh hoạt phong tục, vừa căng thẳng dồn dập, vừa ung dung thoải mái (trong nhịp điệu)… nghĩa là nó phong phú, phức tạp, sinh động và tự nhiên như cuộc đời bình thường hằng ngày vậy” [12, tr.527]. Chính đặc trưng này khiến cho tiểu thuyết trở thành một thể loại văn học rất gần gũi với cuộc sống. Một đặc trưng nữa của tiểu thuyết là tính tổng hợp. “Tiểu thuyết có khả năng mô tả một cách quy mô, toàn diện thế giới khách quan rộng lớn, có thể tái hiện những xung đột căng thẳng đầy kịch tính trong hành động và ngôn ngữ của con người; mặt khác, lại có thể đi sâu vào khám phá những biểu hiện rất nhỏ, rất tinh tế của đời sống tâm lý bên trong. Tính chất kịch và tính chất trữ tình không làm giảm mất tính chất khách quan và qui mô rộng lớn, sử thi, nó là cái nền chủ yếu của tiểu thuyết” [10, trang 44-46]. Nói như thế có nghĩa là, trong một tiểu thuyết, nhà văn có thể vừa thể hiện tính hoành tráng của lịch sử và tính anh hùng lãng mạn của chất sử thi, vừa thể hiện những diễn biến tình cảm, vẻ đẹp hình thức và tâm hồn của con người. Qua những trang văn tiểu thuyết, chúng ta cũng có thể chiêm ngưỡng những bức tranh thiên nhiên, con người, xã hội rất đỗi sinh động, thi vị không khác gì trong hội họa. Hơn thế, tiểu thuyết còn có thể sử dụng cả hồi kí, nhật kí, bút kí, phóng sự, thư từ… để làm chất liệu. Chính vì thế đã hình thành nên nhiều loại tiểu thuyết khác nhau. Tiểu thuyết – sử thi (kiểu Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng, Vùng trời của Hữu Mai…), tiểu thuyết phóng sự (kiểu Lều chõng của Ngô Tất Tố, Bút nghiên của Chu Thiên…), tiểu thuyết hoạt kê, trong đó có ảnh hưởng của hài kịch, biếm họa (kiểu Số đỏ của Vũ Trọng Phụng…), tiểu thuyết tự truyện (kiểu Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thời thơ ấu của M.Goócki, Những lời tự thú của J.J. Rousseau…). Tính tổng hợp đó đã đem lại cho tiểu thuyết một mảnh đất rộng rãi. Ở đó, nhà văn tự do khai thác thế giới xung quanh và vận dụng tối đa tài năng của mình. Với tiểu thuyết, cái bao la, vĩ đại của cuộc sống ngoài kia hay những ngõ sâu của tâm hồn con người đều được miêu tả, khám phá. Trên đây là những đặc trưng tiêu biểu của tiểu thuyết. Song trên con đường hình thành, tiểu thuyết hiện đại Việt Nam vẫn còn có những đặc điểm khác, đánh dấu giai đoạn phát triển từ truyện kể dân gian, truyện ngụ ngôn sang truyện Nôm, từ những tiểu thuyết chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc sang tiểu thuyết hiện đại. 1.1.3. Đôi nét về lịch sử: Tiểu thuyết thế giới có thể chia thành hai bộ phận, đó là tiểu thuyết phương Tây và tiểu thuyết phương Đông. Ở phương Tây, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kì xã hội cổ đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Cá nhân con người tự nhận thức về mình, nhận thấy lợi ích, quyền lợi, và nguyện vọng của mình không phải lúc nào cũng gắn liền và hòa tan với cộng đồng xã hội cổ đại. Từ đó, nhiều vấn đề của đời sống riêng tư được đặt ra gay gắt. Cảm hứng về cái ta chuyển sang cảm hứng về cái tôi, số phận của những cá nhân phong phú, đáng quan tâm hơn số phận của cộng đồng... Mầm mống ban đầu là hệ thống thần thoại Hy La, những bản anh hùng ca như Iliad, Odyssey của Homer. Sau đó là những tác phẩm bằng văn xuôi và văn vần viết bằng ngôn ngữ gốc La Tinh. Từ đó hình thành nên một loại tiểu thuyết gọi là tiểu thuyết kỵ sĩ, có đặc điểm là đề cập đến những biến cố phi thường, những sự kiện siêu tự nhiên, những chuyện phiêu lưu và ái tình. Thời Phục Hưng (XIV - XVI), xét về mặt chính trị thì đây là thời kì hết sức đen tối khi chế độ phong kiến sụp đổ, nhưng văn hóa và khoa học thì lại phát triển mạnh mẽ, là thời kì của những phát kiến vĩ đại. Những đại biểu tiêu biểu của văn học thời kì này là Rabelais – người mà Bêlinxki đã gọi là một thiên tài, “một Voltaire của thế kỷ XVI”; Miguel De Cervantes với tác phẩm Don Quixote… đã xây dựng hình ảnh con người tư sản khẳng định mình với lý tưởng nhân văn cao quý. Vào thế kỉ XVIII - XIX, là mùa gặt bội thu của tiểu thuyết phương Tây với những nguồn tiểu thuyết như Anh, Pháp, Nga… Với sự xuất hiện của những tên tuổi bậc thầy như Victor Hugo, Honoré De Balzac, Stendhal (Pháp), Emily Brontë, William Makepeace Thackeray (Anh), Gogol, L.Tolstoi, Fedor Dostoievski (Nga)… tiểu thuyết phương Tây đã đạt tới sự nảy nở trọn vẹn, theo hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực. Bước sang thế kỷ XX, bên cạnh những khuynh hướng hiện đại và hậu hiện đại ở châu Âu, ở châu Mỹ La tinh xuất hiện trào lưu tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, tiểu thuyết hiện thực huyền ảo… Và đến đây thì bức tranh tiểu thuyết thế giới đã đầy đủ những màu sắc, mảng khối hết sức đa dạng, tới mức phức tạp. Khi nói đến tiểu thuyết phương Đông – danh từ tiểu thuyết đã có mặt trong bộ Hán Thư, ở mục Nghệ văn chí. Ở đây họ cho rằng, tiểu thuyết là những chuyện vụn vặt nơi tôn giáo, phố phường. Những viên quan lại có nhiệm vụ thu nhặt, tổng hợp, nhằm khảo sát tư tưởng chính trị, phong tục tập quán của nhân dân, từ đó có thể khái quát lên được những nguyện vọng của nhân dân để báo cáo với triều đình. Thời cổ đại, ở Trung Quốc, dần dần hình thành một loạt các thể tự sự như: thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, tiếu thoại… Và chính những thể loại tự sự này là mầm mống của tiểu thuyết Trung Hoa. Đến đời Tống, ở Trung Hoa, có hình thức thoại bản – một hình thức văn học diễn xướng (giảng xướng). Hình thức văn học này xuất phát từ nhu cầu phiêu lưu, kiếm sống của một nhóm nghệ nhân. Họ đã tập hợp lại và cùng nhau đi đến mọi nơi, dừng lại biểu diễn võ nghệ, kết hợp diễn xướng, đóng trò có cốt truyện, có kịch tính, có cao trào. Khi đến cao trào thì họ dừng lại, vì thế đã gây nên sự tò mò ở người xem và hôm sau họ sẽ phải đến để xem tiếp. Đây chính là mầm mống của thể loại tiểu thuyết chương hồi. Ở Trung Hoa, đời Minh – Thanh chính là thời kì hoàng kim của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Giai đoạn này có những cuốn tiểu thuyết đặc sắc bậc nhất được gọi là “Tứ đại kì thư” như: Tam Quốc chí, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tây Du kí. Sau này, các nhà nghiên cứu đã mở rộng ra với những tác phẩm như: Nho Lâm ngoại sử, Đông Chu liệt quốc, Liêu Trai chí dị, Kim Bình Mai. Về tên gọi, nếu xét về triều đại thì nó có tên gọi là tiểu thuyết Minh Thanh, nếu xét về mặt lịch sử thì gọi là tiểu thuyết cổ điển, còn xét về đặc điểm cấu trúc thì người ta gọi đó là tiểu thuyết chương hồi. Cảm hứng chủ yếu của tiểu thuyết đời Minh là cảm hứng sử thi. Nội dung tiểu thuyết là dựng lên những bức tranh hoành tráng, qui mô, trong đó có những nhân vật phi thường. Còn tiểu thuyết đời Thanh lại nghiêng về cảm hứng thế sự, chuyển cái nhìn vào số phận riêng tư, luân lý và thế thái nhân tình (Hồng Lâu Mộng, Chuyện làng Nho…). Tuy nhiên, giữa hai giai đoạn tiểu thuyết này có sự chuyển tiếp, có những tác phẩm với vai trò là cầu nối. Một trong những cầu nối tiêu biểu là tác phẩm Tây Du kí. Ở tiểu thuyết này, vừa có cảm hứng sử thi và con người phi thường, vừa có cảm hứng thế sự và nhân vật đời thường (nhân vật Trư Bát Giới: ham ăn, mê gái, trung thành với thầy nhưng lười biếng…). Gọi là tiểu thuyết chương hồi bởi vì tác phẩm bao gồm nhiều chương đoạn. Tư tưởng cốt lõi của tiểu thuyết chương hồi đó là những quan niệm mang tính chất tôn giáo: Trung - Hiếu - Tiết -Nghĩa, Tam cương ngũ thường… Chính thể loại tiểu thuyết này đã ảnh hưởng rất lớn đến tiểu thuyết Việt Nam. Dấu ấn của tiểu thuyết chương hồi đến Việt Nam có ở cả hai thời kì: văn học trung đại và văn học hiện đại. Ở Việt Nam, tiểu thuyết văn xuôi ra đời rất muộn. Và khi nói đến tiểu thuyết thì không thể không nhắc đến những thể loại văn học dân gian như: cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, sử thi…Bởi theo nhiều nhà nghiên cứu thì xét đến cùng, một nền văn học dân tộc phát triển, vững mạnh là một nền văn học có nguồn gốc từ nền văn học dân gian phát triển và đa dạng. Ví dụ như tác phẩm Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật có nguồn gốc từ truyền thuyết Mai An Tiêm, truyện nôm bác học Hoa Tiên lại chịu ảnh hưởng của truyện nôm dân gian Phạm Trân Cúc Hoa... Vào đầu thế kỉ XIX, sự xuất hiện của những tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Hán như: Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Việt long hương Chí, Việt Lam xuân thu, và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Với 17 hồi, gồm hơn 300 nhân vật, bao quát một khoảng thời gian dài (từ 1767 - 1802), Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm rất có giá trị, được xem như một tiểu thuyết cổ điển được viết theo phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Bằng việc phản ánh lịch sử chân thật, chính xác và thái độ trung thực tri thức của người viết, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí không chỉ cung cấp cho chúng ta những bức tranh hiện thực của đời sống với những chi tiết chính xác và cụ thể, mà bước đầu còn xây dựng được “những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Về mặt nghệ thuật, có những ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi nhưng được thể hiện một cách nhuần nhuyễn, thuyết phục. Bên cạnh đó, Truyện Kiều - đỉnh cao của nền văn học thời kì Lê mạt – Nguyễn sơ, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng được xem như là cái mốc quan trọng đánh dấu hình thành bước đầu của chủ nghĩa hiện thực Việt Nam. Đến cuối thế kỉ XIX, khi nhìn lại văn xuôi Quốc ngữ, chúng ta không thể không nhắc đến tiểu thuyết Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887). Đây là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ và cũng là tác phẩm đầu tiên viết theo kiểu tiểu thuyết phương Tây. Trong bối cảnh văn học Nam Bộ lúc ấy, Truyện Thầy Lazarô Phiền được xem như là một sự cách tân về cảm hứng sáng tạo, giọng điệu và lối viết tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết truyền thống, lối tự sự theo dòng thời gian một chiều mà ta thường bắt gặp là: hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên. Nguyễn Trọng Quản đã không đi theo trật tự ấy mà lấy trạng thái tâm lí làm đối tượng miêu tả và sự ăn năn, day dứt làm chủ đề. Vào những năm đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết bắt đầu thu hút được sự chú ý của đông đảo quần chúng. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết được hình thành qua ba chặng: dịch thuật, phóng tác và sáng tác. Bước đầu là dịch thuật những tiểu thuyết của Trung Quốc và phương Tây để làm quen, học hỏi. Chặng thứ hai là phóng tác, dựa vào cốt truyện rồi._. tổ chức lại kết cấu, họa lại các tình tiết và quan trọng là Việt hóa các yếu tố: không gian, thời gian và nhân vật…Và đã có những tiểu thuyết mô phỏng theo cốt truyện Tàu của Nguyễn Tử Siêu, Tân Dân Tử…, và không ít tiểu thuyết mô phỏng tiểu thuyết Pháp của Hồ Biểu Chánh như Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời… Những tiểu thuyết đó đã được Việt hóa, và ít nhiều mang tính cách An Nam. Sự mô phỏng đó không tránh khỏi những bất cập, nhưng theo như Vương Trí Nhàn nhận xét thì nó cũng đã “cướp được một số đông độc giả của các tiểu thuyết Tàu mà bắt đầu biến đổi được chút ít cái sở kiến của quần chúng An Nam” [56, tr. 62] Đi qua giai đoạn phóng tác, các tác giả chuyển sang sáng tác. Từ 1920 đến 1930 được xem là những năm chuẩn bị và hình thành của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại với những cuốn tiểu thuyết quốc ngữ như: Kim Anh lệ sử (1924) của Trọng Khiêm, Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ (1925) của Nguyễn Trọng Thuật, Tiền bạc, bạc tiền (viết 1925, in 1926) của Hồ Biểu Chánh… Nhìn chung, trong giai đoạn này, tiểu thuyết Nam Bộ ra đời sớm hơn và phát triển hơn. Nghệ thuật tiểu thuyết Nam Bộ đơn giản, dễ hiểu, sử dụng nhiều phương ngữ, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tiểu thuyết chương hồi và đối tượng phục vụ chủ yếu là người lao động bình dân. Còn ở miền Bắc, đối tượng tiếp nhận là những thành phần trí thức trung lưu, trình độ nhận thức cao hơn, nên nó đòi hỏi hình thức và nghệ thuật tác phẩm khác hơn so với tiểu thuyết Nam Bộ. Qua đó ta thấy, tiểu thuyết trước 1945 rất đa dạng về cảm hứng, trào lưu và phong cách. Đến thời kỳ 1930 - 1945, tiểu thuyết phát triển rực rỡ và đa dạng, gồm nhiều khuynh hướng: tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo…), tiểu thuyết hiện thực phê phán của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài… Trong tôn chỉ của nhóm, Tự lực văn đoàn đã ghi: “Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho con người và xã hội ngày một hay hơn lên” (Dẫn theo Phan cự đệ, Tuyển tập, tập 2, tr.9). Thế nhưng, thời kì đầu (1932 - 1935) đã có một số tiểu thuyết Tự lực văn đoàn khiến cho nhiều nhà nghiên cứu phải xếp nó vào dòng văn học lãng mạn và khẳng định tính chất thoát ly thực tế cuộc sống như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, Gánh hàng hoa, Tiêu Sơn tráng sĩ… Song không phải tất cả các tác phẩm của Tự lực văn đoàn đều là tiểu thuyết lãng mạn. Đến giai đoạn phát triển thứ hai (những năm 1936 – 1939), thì không khí của thời kì Mặt trận Dân chủ đã đi vào những sáng tác của Tự lực văn đoàn. Ở giai đoạn này, với sự ra đời của các tác phẩm như Gia đình, Thoát ly, Băn khoăn…của Khái Hưng, Lạnh lùng của Nhất Linh, Con đường sáng của Hoàng Đạo…thì tính chất lãng mạn đã mờ nhạt đi rất nhiều. Trong những tác phẩm đó, “các tác giả đã đặt ra những vấn đề xã hội sâu sắc với nhiều chi tiết sinh động và chân thực” [2]. Về nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Phan Cự Đệ có nhận xét rằng “cũng có những nhân vật được xây dựng bằng bút pháp hiện thực (bà Án, Hàn Thanh trong Nửa chừng xuân; bà Ba, sư Cụ trong Thừa tự; bà Tuần trong Gia đình; bà Phán trong Thoát ly; Nghị Đá trong Những ngày vui và đặc biệt là Thanh Đức trong Băn khoăn)” [12 , tr. 82]. Những mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945, thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng cũng như ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học đã giúp các nhà văn hiện thực phê phán thấy rõ hơn vấn đề giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Lúc này, các nhà tiểu thuyết hiện thực phê phán thông qua những tác phẩm của mình, đã lên án một cách gay gắt cái xã hội thực dân nửa phong kiến ở chặng đường tan rã của nó. Thời kỳ này, nội dung chủ yếu của tiểu thuyết hiện thực là tập trung vào những vấn đề xã hội: cuộc đời cùng khổ của tầng lớp nông dân (Tắt đèn, Bước đường cùng, Vỡ đê), công nhân (Lầm than), những thủ đoạn áp bức, bóc lột của bọn cường hào (Giông tố, Cái thủ lợn). Thời kỳ 1936 – 1939, tuy có những hạn chế về điều kiện sáng tác, gặp phải sự kiểm duyệt gay gắt của bọn thực dân Pháp, nhưng ít nhiều, các nhà tiểu thuyết cũng cố gắng hoàn thành nhiệm vụ “người thư kí trung thành của thời đại”. Họ đả kích bọn kẻ thù của cách mạng bằng cách lên án những thối nát, tàn nhẫn, thói dâm ô của chúng. Trong Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và vạch trần được một số mặt của cái xã hội thực dân phong kiến thời thuộc Pháp: những tên công sứ nguy hiểm, những tên thực dân cáo già, các chính sách đàn áp, lừa phỉnh, chủ trương “chấn hưng Phật giáo”, cái sa đọa của phong trào Âu hóa… Với Bước đường cùng, Lá ngọc cành vàng…, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan lại nhằm vào bọn quan lại với một bút pháp phóng đại sinh động. Có thể nói không quá lời rằng, tiểu thuyết của ông như là “những bức tranh triển lãm các kiểu quan”. Bọn địa chủ, cường hào ở nông thôn lại bị đả kích mạnh mẽ trong những tác phẩm của Ngô Tất Tố. Với Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã góp “một tiếng nói đanh thép đòi hủy bỏ chế độ thuế thân và gấp rút cải thiện đời sống lam lũ, cực khổ của nông dân ở thôn quê”, vì thế mà Tắt đèn được xem là “một tác phẩm lớn có tính nhân dân sâu sắc nhất trong tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam” [12, tr.108]. Cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ xiềng xích nô lệ cho dân tộc Việt Nam bước qua một giai đoạn mới. Mốc son lịch sử này cũng đã “cứu sống một thế hệ nhà văn” và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho tiểu thuyết. Bước sang giai đoạn mới, từ 1945 - 1975, tiểu thuyết Việt Nam tập trung vào khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa và cảm hứng sử thi với mục tiêu: “không từ bỏ nhiệm vụ tấn công vào những giai cấp thù địch, phê phán những tàn tích xấu xa của xã hội cũ nhưng nhiệm vụ hàng đầu của nó là phải khẳng định, ca ngợi những anh hùng mới trong quần chúng lao động, những người chủ nhân mới của xã hội” [12, tr.136]. Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa đã thể hiện được “tấm lòng quyết tâm phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của anh em văn nghệ sĩ”. Lần đầu tiên, người đọc được chứng kiến những nhân vật chiếm vị trí trung tâm là đông đảo quần chúng công nông binh với những tác phẩm như: Vùng mỏ, Xung kích, Nhân dân tiến lên, Con trâu, Truyện Tây Bắc…). Trong khoảng thời gian từ 1945 – 1975, qúa trình phát tiển của tiểu thuyết được chia thành nhiều giai đoạn nhỏ, nhưng tựu trung lại thì chủ yếu là tập trung vào hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đó là kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Cho nên tiểu thuyết giai đoạn này trổi lên cảm hứng sử thi. Những hình thái khác nhau của cuộc kháng kháng chiến chống Pháp đã được tiểu thuyết giai đoạn này phản ánh rõ nét. Nổi bật lên là các tác phẩm như: Đất nước đứng lên (giải nhất Giải thưởng văn học Hội văn nghệ Việt Nam 1954 -1955), Một truyện chép ở bệnh viện (1959), Trước giờ nổ súng (1960), Sống mãi với thủ đô (1961), Cao điểm cuối cùng (1961), Những người cùng làng (1961), Một chặng đường (1962), Phá vây (1963)… Tiểu thuyết kháng chiến chống thực dân Pháp đã “dám xông vào những đề tài gay cấn, phức tạp, đi sâu vào những mâu thuẫn đối kháng về mặt giai cấp và phát hiện ra những cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ nhân dân, nội bộ quân đội ta” [12, tr.162 - 163]. Tuy nhiên trong một vài tác phẩm vẫn còn những thiếu sót do những hạn chế về thế giới quan và vốn sống của tác giả, họ chưa thực sự hiểu người dân, nên đôi lúc chưa phản ánh đúng đắn con người bình thường mà thường chỉ nhấn mạnh mặt tầm thường bản năng của con người (Phá vây, trên mảnh đất này, Mở hầm…). Và những hạn chế đó đã được khắc phục nhanh chóng trong các tiểu thuyết chống Mỹ cứu nước. Tiểu thuyết chống Mỹ chủ yếu tập trung vào các chủ đề chính như: Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quần chúng. Trong khói lửa chiến tranh, một loạt những tiểu thuyết đã ra đời, kịp thời phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Tiêu biểu như: Vào lửa (1966), Mặt trận trên cao (1967) của Nguyễn Đình Thi, Cửa sông (1967) của Nguyễn Minh Châu, Sao băng (1968) của Nguyễn Gia Nùng, Đường trong mây, Ra đảo (1970) của Nguyễn Khải, Vùng trời (1971) của Hữu Mai, Dấu chân người lính (1972) của Nguyễn Minh Châu, Thôn ven đường (1973) của Xuân Thiều… Nhìn chung, tiểu thuyết chống Mỹ cứu nước đã “đi sâu vào các mũi nhọn của cuộc sống và trực tiếp miêu tả cái hiện thực nóng bỏng tính chất thời sự”. Khi miêu tả con người, tiểu thuyết chống Mỹ cứu nước đã phản ánh được sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của họ qua những thử thách của chiến tranh cách mạng. Cũng như ở miền Bắc, tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa ở miền Nam cũng gặt hái được những thành tựu rất đáng kể, cùng góp phần “xây dựng một nền tiểu thuyết Việt Nam mang tính chất dân tộc và hiện đại”. Sự có mặt của những cuốn tiểu thuyết như: Hòn đất (1966) của Anh Đức, Gia đình má Bảy (1968) của Phan Tứ, Ở xã Trung Nghĩa (1969) của Nguyễn Thi, Rừng U Minh (1970) của Trần Hiếu Minh, Đất Quảng (1971) của Nguyễn Trung Thành, Mẫn và tôi (1972) của Phan Tứ… đã cho thấy tiểu thuyết đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến những năm 80, do có độ lùi về thời gian, cộng thêm độ chín của tài năng khiến cho các tác gia tiểu thuyết một lần nữa có thể nhìn bao quát toàn cảnh hai cuộc kháng chiến, “miêu tả chiến tranh một cách toàn diện và sâu sắc hơn, không chỉ tập trung vào những thắng lợi vĩ đại mà cả những mất mát hy sinh, không phải chỉ ở phía ta mà cả ở phía địch…”. Từ đây, tiểu thuyết Việt Nam có thêm một mùa tiểu thuyết sử thi với hàng loạt tác phẩm như: Đất trắng (2 tập, 1979, 1984), Đất nước (1984), Đất miền Đông (1984 - 1985), Người cùng quê (1985 – 1995 - 1997), Đường thời đại (4 tập, 1985 - 1991), Quãng đời xưa in bóng (1990)… Tuy nhiên, so với tiểu thuyết những năm 70, 80, như Vỡ bờ, Cửa biển, Dấu chân người lính, Mẫn và tôi, Vùng trời… thì những bộ tiểu thuyết này còn có nhiều hạn chế. Thời kì đổi mới, tiểu thuyết đề cập nhiều đến vấn đề hoàn thiện nhân cách. “Các nhà văn xuôi đã đi sâu vào tâm lí bên trong, để cho các nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã qua, hồi tưởng những kỉ niệm đáng ghi nhớ nhất trong hai cuộc chiến tranh, những kỷ niệm đẹp đẽ đó dường như luôn tỏa sáng lấp lánh, trở thành điểm tựa tinh thần cho những năm về sau…” [12, tr.271]. Bên cạnh đó, những tiểu thuyết viết về số phận cá nhân, bi kịch cá nhân, hạnh phúc cá nhân cũng xuất hiện khá nhiều (Sao đổi ngôi của Chu Văn, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Bến không chồng của Dương Hướng, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân…). Đặc điểm của tiểu thuyết giai đoạn từ 1986 đến nay đó là tinh thần tự vấn, phản tỉnh; cả nhà văn và nhân vật đều hướng về người đọc; dấu ấn của chủ thể nhà văn thể hiện rõ qua từng trang sách... Nhân vật của tiểu thuyết nhìn lại bản thân một cách trầm tĩnh, tự mình đối diện với mình như một sự phán xét. Đa dạng cả về phương pháp sáng tác và phương thức tiếp cận hiện thực (lịch sử - cụ thể, trữ tình lãng mạn, tương trưng, huyền thoại, viễn tưởng…), tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã có khả năng phản ánh chân lý cuộc sống và tạo nên những cảm hứng thẫm mĩ lành mạnh với người đọc. Ý nghĩa quan trọng của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới là “góp phần giải quyết những vấn đề sống còn của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng quan tâm đến số phận những cá nhân, đấu tranh cho những mục tiêu của chủ nghĩa nhân đạo chân chính” [12, tr.276]. Trên đây là đôi nét về lịch sử hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết nhìn một cách khái quát nhất. Trong quá trình đó, tiểu thuyết Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Nhưng với những thành tựu đã đạt được rất đáng phấn khởi, nó góp phần đẩy mạnh sự phát triển không ngừng của văn xuôi Việt Nam, góp phần hiện đại hóa nền văn học và hội nhập với văn học thế giới. Tiểu thuyết hôm nay có được những thành tựu đó là nhờ vào đội ngũ những nhà văn tài năng, tâm huyết. Mặt khác, họ phải luôn ý thức được rằng tiểu thuyết là vì con người, tức là yếu tố con người phải có trong tiểu thuyết, tiểu thuyết phải là những cảm giác, suy nghĩ của con người và viết tiểu thuyết không bao giờ là chỉ để vui vẻ vì như thế người viết sẽ không tìm cho mình được một cách viết riêng. Nhìn vào những thành công mà tiểu thuyết của Ma Văn Kháng có được, chắc hẳn ông đã nắm rất rõ những yếu tố cơ bản này của tiểu thuyết. 1.2. Khái quát về tiểu thuyết Ma Văn Kháng 1.2.1. Hoàn cảnh xã hội, văn học và sự xuất hiện của Ma Văn Kháng Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936, tại làng Kim Liên, thuộc Kẻ Chợ (nay thuộc phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Vùng quê ấy gọi là “Ô Đồng Lầm” – một cái tên gợi lên khá rõ cái lam lũ cực nhọc. Ở tuổi thiếu niên, Đinh Trọng Đoàn tham gia quân đội, sau đó được đi học ở khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ông đã xung phong lên vùng đất Tây Bắc, khai hoang, mở trí. Đây là một bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời ông. Ông từng tâm sự rằng: “Tôi ra đi theo biến cố của mốc lịch sử hào hùng năm 1954, mở đầu thời kỳ hòa bình lập lại, thế hệ thanh niên miền Bắc theo tiếng gọi của những Đan cô, Paven Cooxaghin mang sứ mệnh cao đẹp đi đến những vùng khó khăn nhất của đất nước. Sống nhiệt thành, lửa dân tộc bùng lên, đi như viên đạn thẳng đầu, ấy là tâm thế của cả một thế hệ…” [ 80, tr.41]. Năm 1960, Đinh Trọng Đoàn được cử về học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc đó, ông đang là hiệu trưởng trường cấp II Lào Cai, vốn viết lách cũng đang phát triển. Về Hà Nội, ông được gặp gỡ nhiều thầy cô, bạn bè, tiếp xúc với nhiều trí thức và ông đã không ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm. Kết thúc khóa học, Đinh Trọng Đoàn lại trở về Lào Cai tiếp tục công tác với cương vị mới là phó tổng biên tập báo Đảng bộ Lào Cai. Sau đó là làm thư ký cho ban Bí thư Tỉnh uỷ Lào Cai. Đến năm 1974, ông trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Trong một lần đi công tác ở vùng nông thôn, Đinh Trọng Đoàn làm quen với ông Ma Văn Nho. Mối quan hệ thân thiết giữa hai người được nhà văn kể lại như sau: “Có những lần tôi bị ốm nặng, anh Nho tiêm thuốc, trèo đèo lội suối cõng tôi đi. Rồi chúng tôi kết nghĩa anh em và tôi lấy họ Ma của anh ghép vào với tên mình thành Ma Văn Kháng” [70, tr. 95]. Với một thời gian gắn bó với mảnh đất Lào Cai khá dài, Ma Văn Kháng đã cảm nhận một cách tinh tế cuộc sống của người dân nơi đây. Dần dần nhà văn càng khám phá ra những vẻ đẹp riêng rất độc đáo của con người và thiên nhiên ở miền sơn cước này. Những vẻ đẹp hồn nhiên, thơ mộng dường như lúc nào cũng hiện lên lung linh trước mắt ông, khiến ông không thể không cầm bút. Và những trang văn đầu tiên về mảnh đất mà ông xem như quê hương thứ hai của mình đã đến với độc giả. Sự thành công của ông là kết quả của quá trình lao động cần cù, chịu khó trong cuộc sống cũng như trong lao động nghệ thuật. Ma Văn Kháng đã luôn muốn mình phải vận động, vật lộn với cuộc sống để cắt nghĩa hiện tượng và tìm ra chân lý. Những gì ông từng trải, từng thấy, từng cảm nhận, khi đi vào trang văn cũng sôi động như chính cuộc đời thực của nó vậy. Năm 1976, sau khi nước nhà thống nhất, Ma Văn Kháng rời Lào Cai để trở về Hà Nội và hoạt động như một nhà văn chuyên nghiệp. Từ đây, sáng tác của Ma Văn Kháng nở rộ, những gì ông nung nấu, ấp ủ bấy lâu nay được trải dài trên những trang văn, các tác phẩm ra đời nhanh chóng như một tất yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, những năm đầu sau khi trở về Hà Nội, đề tài Ma Văn Kháng phản ánh vào trong tác phẩm vẫn là cuộc sống và con người miền núi. Có thể nói, đây là giai đoạn chiêm nghiệm, là sự hồi tỉnh của tiềm thức, nó thôi thúc nhà văn phải viết và viết bằng tất cả sự trải nghiệm về cuộc đời. Viết nhiều, viết khỏe và được bạn đọc đón nhận ở cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Từ khi bước vào nghề văn cho đến nay, Ma Văn Kháng đã có gần năm mươi năm cầm bút. Cùng với thời gian, các tác phẩm của ông ra đời đã để lại cho độc giả những ấn tượng thật khó quên. Sự nghiệp văn chương của ông được đánh dấu bằng truyện ngắn đầu tay mang tên Phố cụt (1961) và tiểu thuyết đầu tay in năm 1976, nhưng ông bộc bạch rằng: “tự coi là qua được kỳ tập dượt là từ những năm 80” [63, tr. 206]. Bởi vậy, sau những năm 80, nhiều tác phẩm có giá trị lần lượt ra đời và Ma Văn Kháng đã dần khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn cũng như trong lòng người đọc. Trong thể tài tiểu thuyết, một thể tài văn xuôi được Ma Văn Kháng đặc biệt lưu tâm tích lũy, được đánh dấu với “đứa con tinh thần đầu lòng” là Gió rừng. Nhìn một cách bao quát, sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng có thể chia thành hai giai đoạn, trước và sau những năm đầu của thập niên 80. Tuy nhiên, mọi sự phân chia ở đây cũng chỉ mang tính tương đối. Và ở mỗi giai đoạn, ông đều có những đóng góp nhất định cho văn học nước nhà và để lại dấu ấn khó quên trong lòng người đọc. Trong giai đoạn đầu, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng tập trung viết về đề tài miền núi. Nhìn chung, ở giai đoạn này, tiểu thuyết của ông còn mang khuynh hướng sử thi rất rõ, nhưng ông đã có đóng góp thực sự cho mảng văn học viết về miền núi. Giai đoạn sau, có thể xem Mưa mùa hạ (1982) như là một dấu mốc đánh dấu bước chuyển trong đời văn Ma Văn Kháng. Lúc này, tiểu thuyết của ông đã có sự thay đổi rõ rệt về đề tài, tư duy nghệ thuật, đó là những tiểu thuyết hướng về đời sống của người dân thành thị đương thời với những mặt tích cực, tiêu cực của nó. Qua từng chặng đường sáng tác, chúng ta có thể thấy rõ sự vận động của tiểu thuyết Ma Văn Kháng về quan niệm, cảm hứng nghệ thuật và bút pháp nghệ thuật. Viết về cuộc sống của đồng bào dân tộc vùng cao trong suối nguồn cảm hứng sử thi còn kéo dài sau chiến tranh, ngòi bút tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã đạt được thành tựu trên nhiều phương diện. Do chịu ảnh hưởng của khuynh hướng văn học sử thi, phần lớn nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng được soi chiếu từ góc nhìn chính trị - xã hội, cái nhìn con người thiên về lối tư duy nhị phân rạch ròi. Cũng có những dấu hiệu của sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người, đó là việc tác giả đem tình yêu gắn với cảm xúc nhục thể vào trang viết, song chứng kiến sự đổi thay thực sự trong tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng thì phải đợi đến chặng thứ hai trong quá trình sáng tác của ông. 1.2.2. Hệ đề tài trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng: 1.2.2.1. Đề tài dân tộc và miền núi. Nhìn vào thực tế hoạt động văn chương cho thấy, thường thì mỗi một nhà văn đều chọn cho mình một vùng đất thích hợp với sở trường để làm nơi “gieo mầm” văn chương, phát triển sự nghiệp. Nguyễn Quang Sáng thì có duyên với vùng sông nước Nam Bộ, nét hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên đã là đặc điểm quen thuộc trong những tác phẩm của Nguyên Ngọc, Tô Hoài lại lên Tây Bắc… Còn Ma Văn Kháng, đến với văn chương, ông chọn cho mình vùng miền núi cao, cụ thể là mảnh đất Lào Cai, mảnh đất có nhiều dân tộc anh em sinh sống làm nơi gieo mầm sáng tạo. Ma Văn Kháng không phải là người đầu tiên khai thác các sự kiện lịch sử nơi biên giới, bởi trước đó đã có Tô Hoài, Thế Lữ, Lan Khai... Chấp nhận thực tế ấy và nhận ra sẽ có không ít khó khăn, nhưng bản chất của văn chương là sáng tạo, không thể giẫm lên dấu chân của người đi trước. Gắn bó với vùng đất ấy khá dài nên “Ma Văn Kháng không dừng ở cái nhìn quen thuộc gói gọn trong quan điểm giai cấp”, mà ông chú ý nhiều đến “đời sống con người và xã hội vùng biên ải gắn chặt với một trình độ văn hóa, một giới hạn văn minh”, bởi một lẽ “Thế giới ở thời mới khai thiên là nơi ngự trị của cái hoang sơ rừng rú. Vô khối con người ở đây không ý thức được hành vi của mình”. [35, tr.12]. Và với hơn hai mươi năm cần cù tích lũy tư liệu, vốn sống, Ma Văn Kháng đã có những tác phẩm tiêu biểu như: Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Vùng biên ải (1983), Trăng non (1984) và Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001). Tuy chưa phải là nhà văn viết về miền núi hay nhất, nhưng những tác phẩm của ông đã “làm sống lại bức tranh đời sống hiện thực mang tính chất sử thi về con đường của các dân tộc miền núi phía bắc làm cuộc đổi đời, đi theo cách mạng mà từng người lao động lương thiện giữ gìn và phát huy được phẩm cách của mình, mỗi cộng đồng dân tộc từng bước tiến đến ấm no, hạnh phúc và văn minh” [35, tr.10]. Gió rừng là nét phác thảo về cuộc sống của đồng bào Dao đỏ, ở xã Chin San đang trong thời kì thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp, kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ. Còn Trăng non, như chính tác giả đã thú nhận, nó là “một vòm trời cổ tích”. Miêu tả công cuộc xây dựng một vùng kinh tế mới lên sản xuất lớn, một cuộc sống đầy gian lao, vất vả nhưng có sức hút mãnh liệt đối với những khát khao của bao kiếp người bao đời khốn khó, có sức lay động những tâm hồn u mê và thức tỉnh cả những kẻ lầm đường lạc lối của người dân Xã Hồ. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc, trong gian khổ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền núi và miền xuôi đã sát cánh cùng nhau, kiên trì thực hiện lí tưởng độc lập, tự do, bình đẳng, bác ái và nhân văn. Những tác phẩm của Ma Văn Kháng ra đời nối tiếp nhau như để “làm sáng lên bức tranh lịch sử - xã hội hào hùng, bi tráng của một vùng miền núi phía Tây Bắc nước ta trọn một nửa thế kỷ, từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đến thời kì xây dựng trong hòa bình và chống Mỹ cứu nước” [35, tr.11]. Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải có thể xem như một bộ tiểu thuyết liên hoàn hai tập, phản ánh một cách sinh động hiện thực lịch sử đời sống của đồng bào dân tộc Lào Cai trong bối cảnh đêm trước cách mạng và trong những năm kháng chiến. Đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn một câu chuyện về người thầy giáo Thiêm tận tụy, hết lòng cho sự nghiệp khai sáng bộ tộc Mèo La Pa Tẩn thì bối cảnh câu chuyện chủ yếu vẫn là cuộc sống miền núi. Thế mới biết, miền núi với Ma Văn Kháng như một duyên nợ vậy. Tô Hoài cũng là một trong những nhà văn viết về chế độ lang đạo thổ ty miền núi, và đã tạo nên được sắc thái riêng cho những tác phẩm của mình. Ma Văn Kháng, Tô Hoài và các nhà văn viết về miền núi khác đều gặp nhau ở chỗ là cùng tái hiện cái ác, cái tàn bạo của chế độ lang đạo thổ ty ở đó. Tuy nhiên, cái đặc sắc trong những tác phẩm của Tô Hoài là ông còn cho người đọc thấy được cái đẹp say người của tinh hoa văn hóa miền núi, và không phải nhà lang nào cũng như nhau. Hình ảnh nhà lang Đinh Công Diêu trong Đà Bắc, Mai Châu ngày ấy, một nhà lang được cách mạng giác ngộ và đi theo cách mạng, mang một vẻ đẹp giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể xem đó là một hình ảnh hiếm hoi về một nhà lang. Tuy vậy, có thể nói rằng, bằng tài năng, cảm quan nghệ thuật riêng của mình, mỗi nghệ sĩ khi viết về miền núi đã tái hiện rất sinh động những đặc trưng của văn hóa miền núi với ít nhiều dấu ấn riêng. Đấy cũng là những thành công đáng ghi nhận, trong đó có Ma Văn Kháng. Viết về miền núi, cũng như một số nhà văn khác, Ma Văn Kháng cũng viết về thổ phỉ, chế độ lang đạo thổ ty, nhưng cái riêng trong những tác phẩm của ông là: ông thường nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, tỉ mỉ và tìm cách giải quyết nó một cách toàn vẹn, triệt để. Ngoài việc quan tâm xây dựng hình tượng như một số nhà văn khác, Ma Văn Kháng còn hướng đến giải thích bản chất, cội nguồn lịch sử của các hiện tượng, vấn đề. Đây là một đặc điểm riêng của ông, và chính đặc điểm này khiến cho tiểu thuyết Ma Văn Kháng đầy ắp thông tin, dồi dào tư liệu… Và Ma Văn Kháng đã thành công trong việc xử lý, kết hợp hai yếu tố tư liệu và chất văn thật nhuần nhuyễn, cho nên tác phẩm có sức lôi cuốn người đọc. Viết chế độ phong kiến thế tập phiên thần, Ma Văn Kháng đã viết về những tên thổ ty, những lãnh chúa khét tiếng một cách rất sinh động. Mỗi tên trấn giữ một vùng với luật pháp và quân đội riêng của mình. Không ai giống ai, mỗi người một vẻ, uy quyền của mỗi thổ ty được thể hiện rõ nét qua kiểu kiến trúc nhà ở và luật lệ riêng. Thổ ty Hoàng Văn Chao, có tòa nhà nhìn từ bên ngoài qủa thực rất kỳ dị, không thể gọi tên, bởi sự pha tạp của nhiều kiểu kiến trúc. Luật pháp trong tay Chao, được văn bản hóa với các điều luật chi tiết, lạ lùng như: “Chó cắn seo phái chủ chó bị phạt một đồng, cắn binh thầu tăng lên hai đồng. Ngựa vào ruộng nhà quan, bất kể đã vặt ngọn thuốc phiện nào chưa, cứ theo lệ, phạt hai lạng thuốc và năm đồng bạc. Mỗi năm, mỗi nhà dân trong châu phải góp cho nhà quan một cân thóc, một cân gà, gọi là thóc khách, gà khách; ai chậm nộp, phạt gấp đôi... …” [35, tr.175]. Cái hà khắc, tàn bạo của chế độ thổ ty thể hiện ngay trong những luật lệ ấy. Chỉ chừng ấy thôi, người đọc cũng có thể hình dung về cuộc sống của đồng bào dân tộc trong xã hội cũ. Và chính những trang viết như thế về những thổ ty như La Văn Đờ, Nông Vĩnh Yêng trong Đồng bạc trắng hoa xòe đã đưa chúng ta trở về với chế độ phong kiến thế tập phiên thần một thời. Sức lôi cuốn trong tiểu thuyết viết về miền núi của Ma Văn Kháng, không chỉ là ở những tư liệu, những thông tin mà tác giả đã dày công tìm hiểu, góp nhặt… mà nó còn nằm ở những trang viết đặc sắc về thiên nhiên, lối sống, phong tục tập quán mang dấu ấn xứ sở của vùng đất rẻo cao. Với ngòi bút trữ tình, thiên nhiên vùng cao đã đi vào những trang tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đầy tính nguyên sơ và thơ mộng. Chúng ta như đi vào một thế giới xa lạ khi đọc những câu văn tác giả viết về xứ Hmông: “Xứ lạ này, trâu trông thấy người mặc áo trắng, tưởng con vật lạ, xông tới giương sừng đòi tỷ thí”. Khi đến tận nơi lại “có cảm giác đã được đặt chân tới cái ngõ hẻm tận cùng trời bị lãng quên của vũ trụ”. Ngọn gió xứ này cũng làm ngất ngây hồn người, “gió xuân hây hẩy mùi men rượu, gió hè nồng đậm hương trà, gió thu mang mùi cây lá thơm và mùa đông gió chở múi tuyết băng”. Trên bản làng có những đêm trăng rất đỗi mộng mơ: “Trăng tãi sáng. Dưới làng mờ mờ bóng nhà. Nước ở các mảnh ruộng bậc thang hất lên long lanh ánh gương soi”. Xứ này còn đẹp ở trong những câu chuyện cổ, trong những câu hát trữ tình, hồn nhiên: “Đêm qua đêm tàn. Ta lê bước về nhà. Hồn ta còn ngủ ở thắt lưng em”, hay “Nếu ta là hạt sương, ta xin tan trên tay nàng. Nếu ta là hạt mưa, ta xin tan trên chân nàng”… Đời sống của những người dân miền núi còn nhiều lắm những nỗi nhọc nhằn, nhưng không vì thế mà buồn, mà ít thi vị. Trái lại, cứ mỗi độ xuân về, cuộc sống nơi đây lại như những ngày hội. Nào là “hội ăn ước” – bàn bạc về những dự định của công việc trong năm, “hội gầu tào” (hội leo núi mùa xuân) với đủ các trò chơi như thi ngựa, đánh én, chọi chim, ném pao… Và từ khi có bộ đội về làng, miền đất ấy còn có thêm những đêm “lửa trại công đồn”, “lửa trại đêm đông” với không khí rộn ràng, ấm áp tình quân dân. Hình ảnh những phiên chợ vùng cao với nhiều nét đặc trưng riêng cũng làm cho người đọc phải nhớ mãi. Đàn ông thì có khu chợ súng dành riêng cho mình, với đầy đủ những mặt hàng là sản phẩm của kỹ nghệ chiến tranh. Những sản phẩm ấy được “bày trên chõng con, trên mẹt, trên nón sơn để ngửa dưới đất, trên mảnh vải bạt vải dù như một thứ hàng thông thường quen thuộc”. Vui nhộn nhất vẫn là phiên chợ chính bởi “người mua đi lại như nước chảy”, có “các cô gái Mèo diện váy sặc sỡ, xanh đỏ, vòng bạc sáng trắng như thủy ngân”. Trong phiên chợ chính ấy, đặc sắc nhất có lẽ là các hàng ăn với những chảo thắng cố nhiều loại: thắng cố ngựa, thắng cố chó, thắng cố dê, những chảo thịt đang sôi ình ịch, bốc khói không cạn. Khách quen có thể uống chịu, thiếu tiền mặt thì đổi thuốc phiện, củ thuốc. Có một cảnh mà có lẽ ở bất cứ một vùng miền nào ở xuôi cũng không thể có, đó là cảnh “cả chợ say”. Đàn ông uống rượu say lăn ra mà ngủ ở các quán lều, bên cạnh là những bà vợ ngồi canh giấc cho họ, chờ khi họ tỉnh dậy thì đỡ họ lên ngựa và về nhà. Cảnh này không phải lần đầu được nhắc đến trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, mà ở những tác phẩm Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây của Tô Hoài ta đã hơn một lần được chứng kiến. Ở đó cũng có hình ảnh các ông chồng uống rượu say, trên đường về khi gặp người đi qua, các bà vợ thường nhấc cao ô chào hỏi như muốn khoe rằng chồng mình có nhiều bạn nên mới được uống say như thế. Nhưng Tô Hoài chỉ miêu tả cảnh ấy một cách rất khái quát, còn Ma Văn Kháng ông dừng lại lâu hơn, miêu tả tỉ mỉ hơn. Chính vì thế, khi đọc những tác phẩm của ông, người đọc tìm thấy những cảm xúc thẩm mĩ tốt đẹp, những chi tiết thân quen ấy còn góp phần khơi dậy tình yêu mến quê hương xứ sở. Cuộc sống khốn khó của đồng bào vùng cao đi vào tác phẩm của Ma Văn Kháng một cách rất bình dị. Ông không hề thi vị hóa, lý tưởng hóa cuộc sống ấy. Nơi ấy, lịch sử luôn có những biến động thăng trầm. Hình ảnh khu chợ súng - một biểu trưng sinh động của sự loạn lạc đã thể hiện rất rõ điều đó. Từ những phong tục, tập quán cổ hủ, lạc hậu: thờ ma, cúng ma chữa bệnh, tục nối dây, tục cướp vợ…, bức tranh đời sống tăm tối, đau thương của đồng bào rẻo cao đã được tác giả tái hiện một cách sống động, khiến người đọc cứ ám ảnh mãi về miền đất ấy. Sự tối tăm của đời sống nơi đây còn thể hiện ở những niềm tin thơ ngây vào một đấng tối cao nào đấy ngoài con người, mà với họ là rất đỗi thiêng liêng. Họ thờ “Vua Mèo” vì họ cho rằng một đấng tối cao có nhiều phép lạ như thần thánh, chỉ cần “phất tay thì lau thành mía”, “lá chuối thành vải”, “giậm chân là cỏ thành ngô”. Thế mới hiểu được rằng, cái nghèo đói cơ cực luôn vây bủa, bám chặt vào từng cuộc đời, từng thành viên của bộ tộc. Những con người tội nghiệp ấy chỉ có thể tìm được cơm no, áo ấm trong niềm tin mù quáng, trong trí tưởng tượng hư ảo mà thôi. Nam Cao từng nói: “Sống đã rồi hãy viết”. Câu nói này rất đúng với trường hợp của Ma Văn Kháng. Ông gắn bó với dân tộc Mèo, ăn ở, sinh hoạt cùng họ, nên khi ông viết về họ,._.g tỏ ra hiểu chuyện cặn kẽ: “Buồn cóc gì. Cậu chưa biết đâu, tháng nào các cụ chả họp tổ hưu ở đây, cãi nhau í ỏm, thơ văn ông ổng dốc ra thâu đêm suốt sáng”. Đó là một vài dẫn chứng qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật Lý, để thấy được khả năng tổ chức, xử lý ngôn ngữ nhân vật của Ma Văn Kháng. Để ngôn ngữ thực sự trở thành chất liệu mang lại hiệu quả cao, mỗi nhà văn luôn không ngừng trau dồi vốn ngôn ngữ của mình bằng việc học tập lời ăn tiếng nói của nhân dân và thể hiện nó thông qua lời thoại của các nhân vật. Ngôn ngữ toàn dân là nguồn nuôi dưỡng văn chương, là cơ sở của những tác phẩm văn học. Cái tài của nhà văn còn thể hiện ở việc họ sử dụng vốn ngôn ngữ toàn dân ấy như thế nào. Qua tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng, chúng tôi thấy được sự tinh tế của ông trong cách sử dụng ngôn ngữ. Một văn phong trong sáng, giản dị, gần gũi với ngôn ngữ toàn dân, nhưng cũng không thiếu sự gọt giũa linh hoạt. Chị Hoài là một người phụ nữ chất phác, thật thà, chị sống có trách nhiệm, giầu lòng nhân ái, luôn quan tâm đến mọi người nên lời nói của chị rất tình cảm. Người đọc luôn có được cảm giác yên lòng khi chị xuất hiện và lên tiếng. Cảnh chị và Phượng chia tay nhau ở nhà ga khi tiễn chị về quê, những lời dặn dò, trò chuyện của chị thực sự thể hiện được vai trò của người dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, mặc dù hiện tại chị đã có một gia đình mới: … “- Còn việc này nữa, chị định nói với Lý, nhưng nghĩ Lý không chắc hiểu được, nên lại thôi. Chị cũng đã nói với Đông rồi, nhưng chú ấy ậm ờ, không hiểu ý tứ thế nào. Đó là chuyện của ông. Ông hồi này yếu quá. Hàng ngày dọn dẹp buồng ông, em phải chú ý làm việc này nhé, chị thấy buồn buồn vì vắng vẻ quá. Bà mất quả là ông thiếu mất một người đỡ nâng, bầu bạn. Chị dò ý ông, ông có ý ngại. Chị liền đến thẳng nhà bà Chí. Ý chị muốn hai ông bà sống gần gụi nhau cho có bạn bè lúc già cả, em ạ. Rồi ai cũng vậy thôi.” [34, tr.129,130] Bà trưởng phòng nơi cơ quan Phượng làm việc là con người tốt bụng, “xốc vác với công việc, nhưng tính khí quá bất thường”, khi rộng rãi xởi lởi, khi khắt khe xoi mói, lại có tính đành hanh. Khi Phượng có ý định báo cáo về phần công tác của mình, bà bảo rằng: “- Báo cáo đếch gì! Cậu khắc làm khắc biết. Với lại có gì cậu cứ hỏi lão giám đốc. Tớ không biết. Này, cậu ngồi sát lại đây…” Trong quá trình làm việc, những lời nói và hành động thất thường của bà khiến Phượng có ý nghĩ rằng “Một con người như thế mà lại ở cương vị này ư?”. Nhưng thực ra, tất cả mọi ứng xử, mọi hành vi ấy đều có nguyên nhân của nó. Bởi “Bà trưởng phòng, người phụ nữ tính nết thất thường, không có cái căn bản trong nhận thức và đức độ, tư duy còn thô thiển, thật sự không phải là con người độc ác, không đủ điều kiện để nhập vai lãnh đạo mà cứ đóng vai ấy, đó là nguyên nhân của trò bi hài hàng ngày, đã và sẽ còn làm khổ Phượng và mọi người.”[34, tr.240] Đông bình lặng, vụng về, vô lo, hững hờ với một thái độ bàng quan với tất thảy nên ngôn ngữ cũng đơn điệu, phẳng tẹt, tẻ nhạt, cứng nhắc với câu điệp khúc “Có gì là phức tạp lắm đâu”. Ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm của Ma Văn Kháng được cá thể hóa, đầy cá tính còn được thể hiện ở nhiều nhân vật khác. Ngôn ngữ của ông Quốc Thanh lúc nào cũng thô tục, sàm sỡ, độc đoán, bộc lộ tính cách một con người dốt nát, vô văn hóa, dâm ô. Những người trẻ tuổi thông minh, ôm ấp hoài bão trước cuộc sống nhưng lại vấp phải những thế lực hắc ám cản trở như thầy giáo Thuật lại có thứ ngôn ngữ trần trụi, văng mạng, hay triết lý, mỉa mai. Nhưng gạt đi cái vẻ bề ngoài nhiễu sự, cái hình sắc ma mãnh, thiếu thiện tâm, có thể tìm thấy ở ngôn ngữ cử chỉ, hành vi của con người này một khát vọng nhân văn. Những kẻ gặp thời đang hãnh tiến như đồng chí Lại, Bí thư Tỉnh ủy lại có thứ ngôn ngữ thô lỗ, tục tĩu, trâng tráo. Khi dự hội nghị Quân Dân Chính Đảng, kể lại chiến công hiển hách của mình mà ông oang oang rằng: “Tôi dẫn một tiểu đội xông vào dinh thằng tỉnh trưởng. Cửa đóng. Tôi đạp một phát, nhảy vào. Bàn giấy nó còn tung tóe giấy tờ, tài liệu. Khoái quá! Đã bao giờ được đến đây. Vinh hoa bõ lúc phong trần. Tôi liền vạch chim, tương luôn một bãi lên mặt bàn giấy của nó. Cho nó sướng” [82, tr. 102]. Rõ ràng, “Ông Lại là một con người như thế đấy. Trời, Phật, Đức Chúa Trời ba ngôi, ông ta cũng có thể chửi bới, khinh miệt…”. Ngôn ngữ bác Diệp trong Ngược dòng nước lũ lại luôn có chút hóm hỉnh, trào lộng, phù hợp với tâm trạng của một con người yêu đời, một tâm hồn “thi sĩ dân gian” với cả trăm bài thơ châm biếm, là “người thiên hạ không thể dọa, khinh, chỉ có thể mời được” mà thôi. Đó là ngôn ngữ của con người “coi việc cầy xới phanh phui cái xấu xa đồi tệ” là phương châm để làm thơ “phò chính trừ tà”. Mỗi con người là một thế giới riêng tư vô cùng bí ẩn, không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm được sự đồng cảm, để sẻ chia. Dùng lời đối thoại giữa các nhân vật, nhà văn buộc họ phải bộc lộ nỗi niềm, suy nghĩ bên trong của mình trong những hoàn cảnh không dễ nói ra. Nhờ có cảm hứng phân tích trên quan điểm lịch sử cụ thể, Ma Văn Kháng đã lột tả chân dung từng hạng người thông qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong tiểu thuyết thế sự của mình, bên cạnh quan tâm đến màu sắc cá thể của ngôn ngữ nhân vật, Ma Văn Kháng còn đặc biệt chú ý đến việc tổ chức các cuộc đối thoại giữa nhân vật với nhau. Mỗi một cuộc đối thoại đều hấp dẫn và mang một màu sắc riêng. Đó là cuộc đối thoại có tính áp đảo giữa bác Diệp - Cầy chìa vôi và ông trưởng ban tuyên giáo huyện Hùng Mạnh - Cầy tơ bẩy món trong Ngược dòng nước lũ từ trang 287 đến trang 291; cuộc đối thoại có tính đa âm giữa ông Cần và họa sỹ Hảo trong Mưa mùa hạ từ trang 72 đến trang 77; đối thoại có tính đuổi bắt như đối thoại giữa Lý và Luận trong Mùa lá rụng trong vườn từ trang 46 đến trang 49… Với những cuộc đối thoại như thế, không chỉ tâm lý, tính cách của các nhân vật được bộc lộ rõ nét, mà còn tạo cho tiểu thuyết một không khí thoải mái, sinh động hơn. Tổ chức đối thoại là điều kiện tốt nhất để tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng thể hiện một xu hướng đặc trưng: xu hướng vừa xích lại gần với ngôn ngữ hằng ngày, tiếp nhận yếu tố của khẩu ngữ. Đây là một trong những biểu hiện mới so với bút pháp truyền thống. Trong xu hướng hiện nay, ngôn ngữ trong văn xuôi không thể đơn điệu, không chỉ có một khuôn mẫu duy nhất. Trong quá trình hoàn thiện nó phải tiếp nhận được nhiều sắc thái, giọng điệu, thể hiện trong những khuynh hướng hình thức khác nhau thậm chí trái ngược nhau, để rồi sau đó vượt lên trên tất cả, kết hợp nhào nặn hài hòa thành một thể thống nhất và đa dạng trong tiếng Việt. Mặt khác, nó cũng sẵn sàng trân trọng đón nhận cái riêng sáng tạo của nhà văn, cái gọi là phong cách ngôn ngữ tác giả… Xây dựng ngôn ngữ nhân vật biểu hiện sự cá tính hóa mạnh mẽ, tính cách nào lời lẽ ấy và mang hơi thở của cuộc sống đời thường, tổ chức nhiều cuộc đối thoại hấp dẫn đã góp phần tạo nên tính chất đa âm, phức điệu cho ngôn ngữ tiểu thuyết thế sự Ma Văn Kháng. 3.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong của tâm hồn nhân vật, là lời nhân vật tự nói với mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý, nội tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ của con người. Độc thoại nội tâm thường diễn ra trong những lúc nhân vật suy tư, trăn trở về cuộc sống, về con người, về những hoàn cảnh mà mình phải chịu đựng, phải trải qua. Xu hướng để cho nhân vật nói về bản thân mình với tất cả sự chân thật là xu hướng khám phá phổ biến trong các tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng. Nhân vật tự nói về mình với lời lẽ đượm màu suy tư, chiêm nghiệm, mỗi lời nói có sức cô đọng của những trải nghiệm, của sự tinh tế, chứng tỏ ý thức về sự hiện hữu của cái tôi, của chủ thể trong truyện. Sử dụng độc thoại nội tâm, Ma Văn Kháng đã hướng vào thế giới bên trong, khám phá chiều sâu tâm linh. Thế giới tinh thần con người vì thế mà trở nên thiêng liêng. Những cung bậc tình cảm: vui, buồn, hạnh phúc, đau khổ, những trạng thái tinh thần của con người được bộc lộ. Qua khảo sát tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng, hình thức độc thoại nội tâm thường diễn ra dưới dạng là ý nghĩ, suy tư tự vấn, tình huống những giấc mơ. Do sự đổi mới nghệ thuật trần thuật theo hướng hiện đại là trần thuật đa điểm nhìn, nên hình thức độc thoại phổ biến trong tiểu thuyết thế sự Ma Văn Kháng là hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp. Nội dung của những vấn đề độc thoại không chỉ hướng vào bản thân nhân vật, nhân vật tự khiển trách mình hay ngầm đánh giá về người khác, mà còn hướng tới những vấn đề xã hội cùng vấn đề nhân sinh rộng lớn. Độc thoại chủ yếu diễn ra ở những nhân vật có vốn sống phong phú, có sự tự ý thức về bản thân và cuộc sống nên mang đậm màu sắc triết lý. Kiểu dạng độc thoại chủ yếu là ý nghĩ, lời nói thầm bên trong. “Chà, dám nghi ngờ những người lao động, thành phần cơ bản của xã hội ta, những xích lô, đồ tể, mõ làng… thì rõ ràng là giáo Tự rất kém cõi về quan điểm lập trường đấy! … Xét mọi mặt, anh ta đáng giá hơn mấy anh tiểu tư sản trí thức nhiều. Trời! Có cuộc đánh tráo khái niệm nào tàn bạo như cuộc đánh tráo này? Cuộc đánh tráo được biểu hiện như sau: Một ngày kia trong cơ thể con người có một cuộc nổi loạn; anh Tay và anh Chân gọi anh Não tới, ra lệnh: Mi chẳng tạo nên một giá trị gì ráo. Mi hãy xem: ta cuốc đất, ta đập lúa. Còn mi? Mi ngồi mát ăn bát vàng trong bóng mát. Vậy từ nay mi phải chịu sự điều khiển của bọn tao!” [82, tr. 300, 301]. Đó là lời độc thoại của Tự, bộc lộ sự thất vọng, đau đớn trước sự lộn sòng của các chuẩn mực giá trị. Còn sau đây là lời độc thoại của Khiêm (Ngược dòng nước lũ), nó lại hé lộ cái bản lĩnh của con người không chịu khuất phục trước cái đen tối, bạo tàn: “Nghĩa là, hỡi cuộc sống kia, ta chấp mi hết thẩy đó! ừ thì mi cứ tráo trở, lọc lừa đi! Ừ thì mi cứ vu oan giáo họa! Ừ thì mi cứ tàn bạo, đểu giả. Ừ thì mi cứ việc giở đủ các thói đê hèn, bỉ tiện đi. Ta chấp nhận cuộc đối mặt với tất cả bọn mi. Và đời sống tinh thần tư tưởng ta, nhờ sự đối mặt này mà trở nên giầu có vô cùng. Tâm hồn, đời sống bên trong của con người, nghĩ cho cùng, là thứ của cải giá trị nhất. Nó là dấn vốn cố định. Nó không mất đi, không hao hụt. Nó ngày ngày được cộng thêm. Cộng thêm, kể cả những đớn đau, khổ ải của đời người…” [42, tr. 283]. Đem so sánh hai lời độc thoại này, cho thấy rằng, thế hệ Khiêm đã đón nhận cơn gió mới của nền kinh tế thị trường đầy rẫy những cám dỗ nhưng cũng là lúc ý thức cá nhân trong mỗi con người trỗi dậy mãnh liệt. Với Tự, anh chỉ biết khư khư giữ lấy cái phẩm giá, nhân cách của mình kẻo bị mài mòn, hoen ố. Còn Khiêm đã làm được nhiều hơn thế. Là một nhà văn, anh đã sử dụng văn chương như một thứ vũ khí lợi hại để chống lại cái xấu xa, cái tiêu cực. Biện pháp độc thoại đã làm sống dậy thế giới tâm hồn phong phú và đa dạng của con người, tạo ra thế giới riêng trong mỗi con người. Trong tiểu thuyết thế sự của mình, Ma Văn Kháng đã vận dụng thủ pháp dòng ý thức như một phương tiện để khai thác và khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Do có điều kiện tiếp thu những sáng tạo nghệ thuật của các nền tiểu thuyết thế giới, đặc biệt là tiểu thuyết phương Tây nên đây cũng là một xu hướng độc thoại mới mẻ của văn xuôi đương đại. Cái thế giới tâm linh sâu thẳm bên trong của các nhân vật được thể hiện một cách rất thành thật và sinh động qua những lần độc thoại của họ. Độc thoại nội tâm của Tự trong đêm không mang đến niềm hạnh phúc ân ái cho Xuyến, sau cuộc ái ân có cái kết thúc trơ trẽn ở trang 292 và 293 trong Đám cưới không có giấy giá thú, đã thể hiện rõ cái nỗi niềm trăm mối tơ vò của nhân vật; những ý nghĩ của Tự sau sự việc Cẩm sửa điểm cho học trò, khi ông Thống đang nằm viện ở trang 330-331 lại thể hiện nỗi đau day dứt của anh khi phải chứng kiến một thực tại lộn sòng: “Ở những nơi này chỉ có nghịch lý là được hoạt động. Ở những nơi này, cái hỗn độn thắng cái trật tự. Cái thật thua cái giả. Đạo đức thua vô liêm. Ở những nơi này, chủ nghĩa nhân văn thua bạo chúa, kẻ dốt nát thống trị người hiền tài. Ở những nơi này, con người, xã hội, đi lộn ngược, đi giật lùi” [82, tr.330]. Đó là sự trăn trở của một con người sống có lý tưởng, hoài bão, có tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời nhưng đành phải nhắm mắt làm ngơ. Cũng như bi kịch cuộc đời anh, anh không thể nào hóa giải nó. Đó là cái nhìn bất lực của Tự khi anh ý thức được thân phận bé nhỏ của bản thân, ý thức được cái đơn độc của mình trước thực tại. Dưới đây lại là đoạn độc thoại của Liệu trong Ngược dòng nước lũ. Qua đó, người đọc hiểu rằng, Liệu đang day dứt về thân phận của mình, về cách hành xử với mọi người trước cuộc sống phức tạp hôm nay: “... Liệu không ngu. Với ông Khiêm thì tâm phục khẩu phục thật đấy, thề thốt thật đấy, nhưng chả nhẽ lại chết chìm cùng ông anh. Giờ Khiêm có trách thằng em thì cũng đành thôi... Tùy thời mà chọn lựa cách sống mới là thức giả, mới là không bảo thủ chứ nhỉ? Ôi, cuộc sống sao mà phức tạp và ta thì sao lòng dạ chẳng lúc nào được thanh thản thế này?” [42, tr. 486, 487]. Nhiều đoạn độc thoại sắc cạnh mà đa nghĩa của nhân vật Lý (Mùa lá rụng trong vườn), đã cho thấy được cảm xúc thật mạnh mẽ trong con người này, cũng như gây nơi người đọc một ấn tượng khó quên. Lý từng nghĩ rằng “Thôi đi Sài Gòn một chuyến cùng anh ta cho đỡ buồn”. Một lời độc thoại gỏn lọn nhưng lại có ý nghĩa tô đậm bước ngoặt tâm lý buông xuôi của chị. Đọc Mùa là rụng trong vườn, ta bắt gặp rất nhiều lần câu nói của Lý: “Không hiểu tôi ăn phải bùa mê thuốc lú nào mà lại đâm đầu lấy ông, hả ông Đông?”. Câu nói này có khi là ngôn ngữ đối thoại, có khi là ngôn ngữ độc thoại. Nhưng dù đối thoại hay độc thoại thì câu nói ấy vẫn luôn toát lên một khát vọng sống cháy bỏng nơi con người Lý. Chị muốn sống với hiện tại, tận hưởng mọi khoái lạc ngay hôm nay, chứ không chờ đến tương lai, cũng không cần quay đầu nhìn về quá khứ, sống mòn theo nếp sống cũ mèm kiểu “giấy rách phải giữ lấy lề” mà ông Bằng thường răn dạy dâu con của mình. Với hình thức độc thoại nội tâm đó, tác giả đã để cho nhân vật được bộc lộ mình, được nói bằng giọng điệu và suy nghĩ của chính mình. Vì thế, ngôn ngữ độc thoại của nhân vật cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên tính chất đa thanh của ngôn ngữ tiểu thuyết. Mặt khác, những đoạn độc thoại như thế của các nhân vật, cho thấy ý thức tỉnh táo, sáng suốt của con người trong việc “tự vấn” bản thân mình, vừa chứng tỏ sự tự nhận thức ở mỗi con người là một quá trình không dễ dàng. Nhìn chung, ngôn ngữ độc thoại trong tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng đã thể hiện rõ tính cách, tâm lý cũng như đời sống nội tâm của nhân vật. Mỗi một nhân vật đều có ngôn ngữ độc thoại phù hợp với đặc điểm tính cách, phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng của họ. Trên đây là những thành công đáng ghi nhận về phương diện ngôn ngữ trong tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ấy, ở chỗ này chỗ kia, Ma Văn Kháng vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong các tiểu thuyết, ở những đoạn đối thoại, có lúc, nhà văn hơi sa vào những cuộc tranh luận liên tiếp xảy ra trong tác phẩm. Những cuộc tranh luận giữa ông Cần và Trọng, giữa ông Cần và người nước ngoài (trang 155- 167), giữa ông Cần và ông Tiếu… đã làm cho không khí truyện ồn ào hẳn lên, khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng dường như các nhân vật đã có một diễn đàn riêng, mỗi người đều phát biểu một quan điểm riêng của mình. Như thế, các nhân vật bỗng trở nên sơ lược, giản đơn trong mắt người đọc. Còn ở ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng có vấn đề cần lưu ý. Đã đành, loại người nào thì ngôn ngữ ấy. Tục tĩu, bổ bã là ngôn ngữ của loại người kém đạo đức, kém văn hóa, nhưng đôi lúc, ở chỗ này chỗ kia, tác giả cũng “bật đèn xanh” quá nhiều cho loại ngôn ngữ này. Các nhân vật chửi rủa một cách khá thoải mái như ngoài đời, tiêu biểu là ở Mưa mùa hạ. Ngôn ngữ của một số nhân vật chính diện như Tự, Khiêm, Trọng, Thiêm… còn mờ nhòa màu sắc cá thể, chưa thực sự tinh, gọn trong nhiều cuộc đối thoại. Đôi khi ngôn ngữ của người kể chuyện giấu mặt vẫn còn chút gượng gạo, thô cứng như đoạn giới thiệu chuẩn bị cho nhân vật Thưởng xuất hiện trong Mưa mùa hạ: “Trong danh sách những tên bất lương, bất tri ở thành phố này, Thưởng là một gã trẻ tuổi rất đáng nêu danh. Thành phố có hơn một vạn cái xe máy, chiếc Hon-đa đỏ của Thưởng hoạt động hăng hái, ráo riết nhất. Thật ra văn chương cần gì đếm xỉa đến loại hắn. Ông Đốt khuyên đại ý: miêu tả tâm lý bọn con buôn làm gì ! Nhưng vì Thưởng nằm trong một cơ cấu có quan hệ đến các nhân vật khác trong chuyện nên đành phải cho hắn ít dòng” [46, tr. 192]. Dẫu vậy, so với những thành công đã đạt được thì những hạn chế đó cũng không đáng kể, vì “cuộc đời thì rộng lớn, hai con mắt người dù to đến đâu cũng là có hạn”. Ngôn ngữ nhân vật mang màu sắc cá thể; ngôn ngữ người kể chuyện giàu chất thơ, gợi cảm thể hiện sự tinh tế nhạy cảm, hướng tới lối kể chuyện đa điểm nhìn… những đặc điểm đó đã tạo nên tính chất đa âm, phức điệu cho tiểu thuyết. Có thể coi những thành công như trên về phương diện ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức sống lâu bền cho tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói chung và tiểu thuyết thế sự của ông nói riêng. KẾT LUẬN Thành công trên cả hai phương diện truyện ngắn và tiểu thuyết, Ma Văn Kháng đã thực sự có những đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Đặc biệt ở mảng tiểu thuyết thế sự, với những nét đặc trưng ở một số phương diện như đề tài, cảm hứng nghệ thuật và nhân vật, đặc trưng nghệ thuật (kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ), ông đã thực sự có những đóng góp quan trọng cho nền văn xuôi Việt Nam đương đại. 1. Tiểu thuyết Ma Văn Kháng được viết với hai đề tài tiêu biểu: đề tài dân tộc và miền núi, đề tài về đời sống của người dân thành thị sau 1975. Ở mỗi một đề tài, tiểu thuyết cả Ma Văn Kháng đều có những nét đặc trưng và đóng góp riêng. Với đề tài dân tộc và miền núi, tiểu thuyết Ma Văn Kháng thực sự là bức tranh sắc nét về cuộc sống của đồng bào các dân tộc anh em ở vùng núi biên giới phía Bắc, cụ thể là ở Lào Cai. Góp phần làm phong phú thêm cho mảng văn học viết về miền núi. Với đề tài về đời sống của người dân thành thị sau 1975, Ma Văn Kháng được xem là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Ngòi bút của ông đã chạm đến những vấn đề nhức nhối của xã hội lúc bấy giờ. Ông tỏ ra rất nhạy cảm với những mặt trái của xã hội, đặc biệt là sự ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đời sống của người dân. Khoảng cách giữa hai thế hệ trong gia đình, đạo đức ứng xử của con người, sự giữ gìn những chuẩn mực đạo đức, lối sống thực dụng coi trọng vật chất… là những vấn đề chính trong những tiểu thuyết viết về đề tài này của Ma Văn Kháng. 2. Có thể nhìn thấy sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người, cảm hứng nghệ thuật trong các sáng tác của Ma Văn Kháng qua hai giai đoạn sáng tác của ông. Ở giai đoạn đầu là vẫn là cảm hứng sử thi, quan niệm nghệ thuật về con người là con người cộng đồng, con người tập thể. Tư duy nghệ thuật Ma Văn Kháng thực sự có sự chuyển biến từ những năm 80, với sự đánh dấu bằng tiểu thuyết Mưa mùa hạ. Con người trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng lúc này là con người cá thể được soi chiếu từ nhiều góc độ. Cảm hứng nghệ thuật chính trong tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng là cảm hứng phê phán, cảm hứng thế sự và cảm hứng bi kịch. Đây không phải là những dạng thức cảm hứng mới lạ trong văn học, nhưng trong tiểu thuyết thế sự Ma Văn Kháng chúng được thể hiện với những đặc trưng riêng. 3. Về mặt kết cấu, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có sự chuyển đổi rõ rệt khi chuyển từ tiểu thuyết sử thi sang tiểu thuyết thế sự, đời tư. Đó là sự chuyển đổi từ kết cấu sự kiện sang kết cấu số phận. Ông luôn luôn làm mới các tác phẩm của mình thông qua việc xây dựng kết cấu tác phẩm khá đa dạng, biến hóa. Có khi là kết cấu theo dòng đời nhân vật chính, theo trật tự thời gian tuyến tính (kỹ sư Trọng - Mưa mùa hạ), có khi vừa vừa kết cấu theo dòng đời nhân vật chính vừa là kiểu kết cấu luận đề (Tự - Đám cưới không có giấy giá thú). Nhưng kiểu kết cấu mang tính đổi mới rõ nhất và thành công nhất trong tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng là kết cấu lắp ghép. Đây cũng chính là một kiểu kết cấu phổ biến của tiểu thuyết hiện đại. Và chính sự thành công của những tác phẩm Ma Văn Kháng được xây dựng theo hướng kết cấu này đã góp phần làm đa dạng, đổi mới kết cấu trong văn xuôi sau 1975. 4. Ngôn ngữ tiểu thuyết sống động, tự nhiên, tràn đầy cảm giác, giàu chất thơ. Tiểu thuyết thế sự tiếp cận xã hội chủ yếu là ở phương diện đời thường, hướng sự quan tâm đến những con người bình dân nên giọng văn của ông cũng khá đời thường. Trong việc xây dựng tính cách, tâm lý nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện giữ một vai trò không nhỏ. Thông qua ngôn ngữ nhân vật, chứng tỏ Ma Văn Kháng thực sự có tài trong việc xử lý ngôn ngữ, vì qua đó diện mạo, tâm hồn cũng như tính cách nhân vật bộc lộ rất rõ. Ông cũng tỏ ra có khả năng trong việc tổ chức ngôn ngữ đối thoại. những cuộc đối thoại mang tính chất đuổi bắt, đa thanh… đã thực sự đem lại sinh khí cho các thiên tiểu thuyết của ông. Ngôn ngữ tiểu thuyết mang tính triết luận cao. Ở tác phẩm nào cũng có một vài câu suy lí, tranh biện. Đó là những triết luận về cuộc đời, con người và văn chương nghệ thuật với hệ thống lí lẽ chặt chẽ, hợp lôgic. Có thể nói, chính ngôn ngữ là một trong những yếu tố có vai trò hết sức quan trọng góp phần làm nên sự thành công của tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Hơn thế, ngôn ngữ ấy cũng làm nên sự phong phú, giàu có và góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật văn xuôi đương đại. Trong một chừng mực nào đó, người viết đã tìm hiểu những đặc trưng của tiểu thuyết thế sự Ma văn Kháng một cách có hệ thống. Tuy nhiên, khi đến với đề tài này, người viết không có tham vọng sẽ giải quyết rốt ráo mọi vấn đề về tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng. Do đó, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Người viết đã cố gắng tìm hiểu và rút ra được một số nét đặc trưng trong phong cách của Ma Văn Kháng, với mong muốn đem lại một cái nhìn tương đối bao quát về mảng tiểu thuyết này của ông. TÀI LIỆU THAM KHẢO (Sách nghiên cứu lý luận, phê bình, các bài báo trong Tạp chí văn học (TCVH) – Tuần báo văn nghệ (Văn nghệ) – Văn nghệ quân đội (VNQĐ) – Tạp chí văn nghệ (TCVN) và trên các trang Web: ***---*** 1. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 2. Tào Văn Ân, “Khuynh hướng hiện thực trong một số tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn”, 3. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, TCVH (9) 4. Vũ Bằng (1955), Khảo về tiểu thuyết, NXB Phan Văn Tươi, Sài Gòn. 5. M.Bakthtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Người dịch: Phạm Vĩnh Cư, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 6. M. Bakthtin (1993), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Đôxtôiépxki, Người dịch: Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội. 8. Đào Ngọc Chương, “Tiểu thuyết – những vấn đề thi pháp” (Từ một cái nhìn so sánh), 9. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa, Nxb ĐHQG TPHCM. 10. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Trần Thanh Đạm (1989), Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học, Văn nghệ (35) 12. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 13. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. 14. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập (Tập 1), Nxb Giáo dục. 15. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập (Tập 2), Nxb Giáo dục. 16. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học. 17. Hà Minh Đức (chủ biên, 1993), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 18. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn - Trào lưu - Tác giả, Nxb Giáo dục. 19. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, Tập II, Nxb ĐH & THCN 20. Văn Giá (1994), “Quan niệm về tiểu thuyết trong khoa nghiên cứu giai đoạn 1932-1945”, TCVH (8). 21. Hoàng Ngọc Hà (1990), Cái đẹp trong tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú”, Văn Nghệ 17/3/1990. 22. Nguyễn Hải Hà (2006), Thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi, Nxb Giáo Dục. 23. Nguyễn Hải Hà – Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb Hà Nội. 24. Đỗ Dức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 25. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NxbGiáo Dục. 26. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 27. Đào Duy Hiệp, “Độ dài và cấu trúc tiểu thuyết”, 28. Nguyễn Thị Huệ (1998), “Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80”, TCVH (2). 29. Nguyễn Mạnh Hùng, Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 (qua đề tài và nhân vật), Luận án tiến sĩ. 30. Phan Mạnh Hùng, “Tiểu thuyết lịch sử - một khuynh hướng nổi bật trong văn xuôi quốc ngữ nam Bộ đầu thế kỉ XX”, 31. Ngô Hoàng, Bảo Hưng, Văn học 75 – 85, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn 1997. 32. Tô Hoài (1953), Truyện Tây Bắc, Nxb Văn học, Hà Nội. 33. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM. 34. Ma Văn Kháng nói về phim "Mùa lá rụng trong vườn”, 35. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tập 1, Nxb Công An Nhân Dân. 36. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tập2, Nxb Công An Nhân Dân. 37. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tập 3, Nxb Công An Nhân Dân. 38. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tập 4, Nxb Công An Nhân Dân. 39. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Tập 1, Nxb Công An Nhân Dân. 40. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Tập 2 , Nxb Công An Nhân Dân. 41. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Tập 5, Nxb Công An Nhân Dân. 42. Ma Văn Kháng (2003), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Tập 6, Nxb Công An Nhân Dân. 43. Ma Văn Kháng (1977), Gió rừng, Nxb Thanh Niên. 44. Ma Văn Kháng (1995), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Văn học. 45. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao động. 46. Ma Văn Kháng (1996), Mưa mùa hạ, Nxb Văn học. 47. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Người dịch: Nguyên Ngọc, Nxb Đà Nẵng. 48. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà Văn. 49. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại lịch sử và lý luận, Nxb KHXH. 50. Phong Lê (2006), Người trong văn, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 51. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục. 52. Phương Lựu – Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – La Khắc Hòa – Thành Thế Thái Bình (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 53. Chu Giang Nguyễn Văn Lưu (2004), Luận chiến văn chương, Nxb Văn Học. 54. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 55. Lê Thành Nghị (1986), Mấy ý nghĩa về tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, VNQĐ 6/1986. 56. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 57. Vương Trí Nhàn (1982), Tiểu thuyết hôm nay, VNQĐ 10/1982. 58. Đỗ Hải Ninh (2002), Nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Sông Hương số 10. 59. Huỳnh Như Phương (1988), Cảm hứng phê phán trong văn học hôm nay, Văn Nghệ 11/06/1988. 60. Nhiều tác giả: Chủ biên: GS. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 61. Nhiều tác giả: Ngô Văn Phú – Phong Vũ – Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX (Tập 2), Nxb Hội nhà văn. 62. Nhiều tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Đình Chú – Nguyễn An (1992), Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục. 63. Nhiều tác giả (2006), Trò chuyện với một trăm nhà văn Việt Nam, Nxb Văn Hóa Sài Gòn. 64. Nhiều tác giả: Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 65. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học. 66. Trần Đình Sử (2003), Tự sự học, Nxb ĐHSP Hà Nội. 67. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội. 68. Doãn Quốc Sỹ (1973), Văn học và tiểu thuyết, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn. 69. Đỗ Ngọc Thạch (1985), Đọc Vùng biên ải của Ma Văn Kháng, TCVH (2). 70. Hồ Anh Thái (1999), Ma Văn Kháng “Ngược dòng nước lũ”, Tác phẩm mới, Số 7 71. Đỗ Phương Thảo (2005), Quan niệm về văn chương nghệ thuật của Ma Văn Kháng, TCKH (5). 72. Ngô Thảo – Lại Nguyên Ân (1995), Nhà văn Việt Nam chân dung tự họa, Nxb Văn học, Hà Nội. 73. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 74. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội. 75. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn cần mẫn, 76. Hoàng Tiến (1980), Đọc “Đồng bạc trắng hoa xòe”, TCVH (1) 77. Nguyễn Văn Toại (1983) Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn, Văn học (5) 78. Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (Sưu tầm và biên soạn), Văn học 1975 - 1985: Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 1997 79. Lý Hoàn Thục Trâm, Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, 80. Mỹ Trân 2006, Nhà văn Ma văn Kháng – Văn chương là sự nghiệp của những kẻ k biết sợ, Sân khấu, 2, tr.41 81. Nguyễn Văn Xuất (1995), Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện đại, Luận án tiến sĩ. 82. Nguyễn Việt – Bùi Kim Chi (1990), Tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú” - khen và chê, Văn Nghệ 26/5/1990. 83. Tôn Phương Lan, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa Học Xã Hội, 2002 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7405.pdf
Tài liệu liên quan