Đặc điểm thơ Yến Lan

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________________ Lê Thị Thể ĐẶC ĐIỂM THƠ YẾN LAN Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1.1. …. Mà ông lão say trăng đầu gối sách Để thuyền hồn bơi khỏi Bến My Lăng Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng… … B

pdf130 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1803 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm thơ Yến Lan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến My Lăng ấy ở đâu? Câu hỏi ấy đã vang lên trong tâm trí của biết bao người khi tiếp xúc với thi phẩm ấy. Tiếng gọi đò ngày ấy, chỉ tiếng "gọi đò - thôi" mà "run rẩy cả ngành trăng" dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ như một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách và cũng tiếng gọi đò ấy thôi neo lòng người lại với Bến My Lăng. Những ai yêu thơ, đã một lần lướt qua khu vườn Thơ mới ngày ấy dường như đã để lòng mình lại, vương vấn Bến My Lăng, để tiếng gọi đò khắc khoải ấy dẫn mình đến với chàng thi sĩ tài hoa xứ Đồ Bàn cũ, đến với Yến Lan. Có cái gì đó như thật bất công, khi mà nếu hỏi Yến Lan là ai thì chắc câu trả lời không sẵn có, nhưng nếu bảo rằng đó là tác giả Bến My Lăng thì họ liền "À…" thích thú. Phải chăng đó là sự bất công hay nói như Chế Lan Viên "Có nhiều lí do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng" [110, tr.10] thế nên thi sĩ ấy như một kiếp tằm, rút ruột nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi mình lặng im hóa kiếp chẳng ai hay, chỉ biết rằng mình hoàn thành nhiệm vụ "trả nợ dâu" và thanh thản! Yến Lan là thế chăng? Mà suốt gần trọn một thế kỷ dâng hiến cho đời biết bao khúc nhạc lòng mà người đời dường như cố tình hờ hững. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và sự nghiệp thơ văn của Yến Lan dường như bị lãng quên. Cho đến những năm gần đây tác phẩm của ông - sau khi vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian - đã được tuyển chọn, in trong hàng loạt các tuyển tập những bài thơ hay, những câu thơ tài hoa Việt Nam, những bài thơ tiêu biểu của thơ ca - đặc biệt là Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945. Không chỉ có vậy, sự ghi nhận về thành quả hoạt động nghệ thuật của Yến Lan còn ở giải thưởng Xuân Diệu - Đào Tấn của hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định 1997 cho tập thơ Cầm chân hoa; giải thưởng cấp nhà nước năm 2007 cho các tập thơ từ sau 1945: Nhữmg ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu, Lẵng hoa hồng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và xuất bản thơ Yến Lan vẫn còn quá ít ỏi chưa xứng với những đóng góp của ông cho thi ca dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Yến Lan để góp phần xác định vị trí vốn có và những đóng góp của ông trong nền thi ca nước nhà là việc làm cần thiết. 1.2. Nghiên cứu một tác gia văn học không chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí cá nhân của tác gia ấy. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều thuộc về một giai đoạn lịch sử nhất định. Bởi vậy nghiên cứu tác gia văn học còn có ý nghĩa không nhỏ về mặt lịch sử văn học. Khám phá về đặc điểm thơ Yến Lan vì thế góp phần giúp cho việc hình dung diện mạo thơ Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử dân tộc, qua những biến cố lịch sử cũng là một việc làm cần thiết và quan trọng. 1.3.Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tích lũy được nhiều hơn tri thức khoa học và phương pháp nghiên cứu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và giảng dạy thơ ca sau này. 2 . Lịch sử vấn đề Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh năm 1916, mất năm 1998, quê quán xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cuộc đời trải dài gần suốt thế kỷ XX, qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đời thơ của Yến Lan bắt đầu từ rất sớm, 16, 17 tuổi Yến Lan đã nổi tiếng với bài thơ Bến My Lăng và chỉ chịu dừng lại trước khi ông về cõi vĩnh hằng độ mươi ngày. Trải qua những lúc hưng thịnh khác nhau nhưng nhắc đến Yến Lan là người ta nhắc ngay đến Bến My Lăng ngày trước cũng như những thi phẩm - tình cảm máu thịt của ông đối với quê hương Bình Định và đồng thời người đọc cũng không quên được những dòng tứ tuyệt tuyệt vời mà ông đã say đắm gửi trao cho tới ngày nhắm mắt. Tuy nhiên, như trên đã nói, Yến Lan là một tác giả văn học ít được nghiên cứu. Những ý kiến, nhận định về thơ Yến Lan thường rải rác tản mạn. Chúng tôi xin điểm lại những nhận định cơ bản về thơ Yến Lan qua những giai đoạn sau: 2.1. Những ý kiến nhận định trước 1945 2.1.1 Chế Lan Viên, Bến My Lăng, tập thơ đầu của Yến Lan, đăng trên tiểu thuyết thứ Năm ngày 11/ 5/1939. Nhận định về sự xuất hiện của Yến Lan trên thi đàn qua tập Bến My Lăng, Chế viết : "Hình như mặt trời sắp mọc - không, hình dung như mặt trăng thì đúng hơn".[11,tr.11] Viết về thơ Yến Lan , Chế giới thiệu "đây là sự thực thu nhỏ lại , vô cùng nhỏ lại, cho đến lúc người ta có thể lẫn nó với mơ màng …cũng ở đây, người ta thấy sự giản dị của những câu ca dao, vẻ hiền hòa của bao nhiêu khúc hát cổ , một cái gì thân mật, tuy rằng mới lạ với chúng ta , như mặt trăng có tự muôn đời, hôm nay vẫn còn gây thơ mộng"[11, tr.11].Yến Lan đã nói rằng thực sự thì tập thơ chưa xuất bản, nhiều nhà in sau khi đọc bài giới thiệu của Chế Lan Viên thì có liên lạc với Yến Lan để in tập thơ, nhưng Yến Lan chưa ưng ý lắm, muốn sửa chữa và hoàn chỉnh hơn, thế rồi chưa kịp xuất bản thì tập thơ thất lạc. Nó chỉ còn lại là những bài được đăng trên Tiểu thuyết thứ Năm mà thôi. 2.1.2 Hoài Thanh, 1942, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, thì nhận định về thơ Yến Lan Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng lâu dần cơ hồ như ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định [90, tr171] Dường như tác giả Thi nhân Việt Nam không mấy mặn mà lắm với Yến Lan, tuy nhiên trong nhận định của mình ông cũng nhận thấy một nét đặc trưng của thơ Yến Lan mà cho đến tận bây giờ người đọc cũng vẫn bị cuốn hút: "cái không khí lạ lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích". [90, tr171] 2.2 Những ý kiến nhận định từ 1945 cho đến trước 1975 2.2.1. Văn Cao, lời giới thiệu tập thơ “Những ngọn đèn”, NXB Hội nhà văn 1957. Thơ Yến Lan càng ngày càng muốn đi gần lại cuộc sống hiện đại: một người đi từ vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ. Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta.[10,tr6] Văn Cao đã nhận thấy sự thay đổi mạnh mẽ của Yến Lan với sự vận động đổi thay của đời sống văn học nước nhà, trong khi những nhà thơ khác chỉ còn là "sáng ánh lân tinh". Và chính sự nhạy bén đổi thay trước thời cuộc đó mà thơ Yến Lan "còn có thể làm bạn đường với nhiều lứa tuổi khác".[10,tr.6]. Và trong cái đổi thay đó Văn Cao đã nhấn mạnh về tính chiến đấu trong thơ Yến Lan: "Thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội".[10,tr8] Do hoàn cảnh lịch sử của một thời mà những lời giới thiệu đầy trang trọng của Văn Cao với tập thơ ấy cũng đã tạo thành một trong những đề tài bị phê phán, bị lên án, và rồi những con người thời ấy cũng gặp không ít lận đận với cái án văn chương. 2.3. Những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan sau 1975 2.3.1 Chế Lan Viên, lời giới thiệu “Thơ Yến Lan”, NXB Văn học 1987 Những vần thơ, những ngôn từ mà Yến Lan đã sử dụng từ những ngày đầu được Chế giới thiệu như là một tài năng hiếm gặp trong những ngày đầu Thơ mới Hiện đại mà Việt Nam, mà dân tộc. Một nhà thơ có tài là có thể sử dụng thập bát ban võ nghệ, là như cây xương rồng có hai cực đối lập, gai rất là gai mà hoa lại hoa rất dịu dàng. Lan không phải chỉ có loại thơ điêu khắc kỳ khu vào đá ấy, mà lại có loại nước chảy đưa ru như nhạc.[110,tr.7] Bước đường sáng tạo của Yến Lan trong những ngày đầu gặp cách mạng, bén duyên với thơ ca cách mạng Chế viết: Có những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm vang ngắn lại. Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng đã viết không những khác đi mà lại hay hơn.[110,tr.8] Bên cạnh đó những hạn chế, lệch lạc trong thơ Yến Lan của giai đoạn chuyển đổi ấy cũng được Chế đề cập một cách khách quan: "Có điều, ai ỷ vào sở trường của mình, thì có lúc cái ấy thành sở đoản. Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt, chạy theo cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh nhẹ tình, nặng hình thức mà rung động nhẹ".[110,tr.9] Tuy nhiên cũng như bao nhiêu nhà nghiên cứu khác Chế không thể không nhận thấy một nét đặc biệt thành công của bạn mình đó chính là thơ tứ tuyệt, cho dù cả hai người cùng học thể thơ ấy từ Quách Tấn, nhưng Yến Lan vẫn có gì đó của riêng mình trong thể loại tưởng rằng đơn giản mà lại bác học này:"Yến Lan cũng là người viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt". [110,tr.9] Chế nói rằng đường văn chương của bạn không may mắn như mình, nhưng Chế cũng khẳng định rằng Yến Lan cũng sẽ trở thành bất tử trên hải trình văn chương, như những tên tuổi khác cho dù họ chỉ đóng góp vào sự nghiệp ấy chỉ một vài sản phẩm mà thôi:"Có người chỉ bắt được một con cá thôi mà cũng thành bất tử".[110,tr.10] 2.3.2 Nguyễn Bao, Từ Bến My Lăng …, bài giới thiệu về Tuyển tập thơ Yến Lan , NXB Văn học 1996. Trước hết tác giả khẳng định về vị trí "khiêm nhường nhưng vững chắc" của Yến Lan trong Thơ mới và trong lòng bạn đọc đã được xác định từ những năm 1940 qua "Thi nhân Việt Nam". Tiếp đó tác giả viết về cái đã tạo nên giọng thơ rất Yến Lan Có lẽ sự am hiểu thơ Đường và thơ Pháp cộng với chất thơ cổ điển của cha ông từ bao thế kỷ đã góp phần cho nhà thơ trẻ ngày ấy tạo nên những khóm chữ giàu hình tượng và mới mẻ của thơ ca Việt Nam từ sáu mươi năm trước.[6,tr.11] Yến Lan mạnh trong tạo hình, bằng vài nét chấm phá nhà thơ đủ sức gợi lên cả một khung cảnh, một tình huống, một tâm trạng.[6,tr.12] 2.3.3 Thơ văn Bình Định thế kỷ XX. Nxb Văn học , 2003. Hội văn học nghệ thuật Bình Định giới thiệu về Yến Lan và những người bạn trong nhóm tứ linh bằng những lời lẽ trang trọng: Ký ức cũng nhắc nhở mọi người, nhất là những ai yêu thơ ca, rằng trên dải đất này, vào giữa thế kỷ trước, thế kỷ XX, đã là nơi hội tụ nhiều ngôi sao lớn của thơ ca dân tộc làm nên cả trường thơ Bình Định, như nhiều nhà nghiên cứu văn học đã viết, ghi lại một dấu ấn không phai mờ trong tiến trình phát triển Thơ mới , tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đó là những tên tuổi Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn …[37,tr.5-6] 2.4. Bên trên là những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan, về những tập thơ của riêng ông. Ngoài ra trong giai đoạn đổi mới sau này, qua một số tạp chí, một số tiểu luận, nghiên cứu của một số tác giả ta còn thấy nhiều bài viết đề cập về Yến Lan. Đó có thể là những bài viết về cuộc đời về con người ông như: Về An Nhơn với Yến Lan; Yến Lan những lời kể cuối cùng; Những chuyện tình chưa kể của nhà thơ Yến Lan; Yến Lan và bài thơ không cùng; Nhà thơ Yến Lan bây giờ sống ra sao; Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân….các tác giả đã khai thác về cuộc đời riêng, về chuyện tình, về bút danh Yến Lan, về bản tính hiền lành cần kiệm hay thậm chí về cuộc đời nghèo khổ của Yến Lan từ những ngày thơ ấu sống với dì ghẻ cho đến cuộc sống vất vả thời tem phiếu, đến tận khi tóc bạc răng long mà cuộc sống vẫn còn cơ cực. Những bài viết ấy giúp ta hiểu thêm về nghị lực của một con người, về phẩm chất tốt đẹp của nhà thơ trước những khó khăn vất vả của cuộc sống mà như một nhà thơ đã từng nói : Thói đời cơ cực đang giơ vuốt Cơm áo không đùa với khách thơ Tuy nhiên, bên cạnh những bài viết về cuộc đời riêng ấy, ta cũng bắt gặp không ít những ý kiến đây đó nhận xét về thơ Yến Lan: 2.4.1. Viết về đặc điểm thơ Yến Lan ta bắt gặp: Đinh Quốc Toàn, Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ, Bình Định 10/4/ 92 Nguyễn Thanh Mừng - Bóng tà dương của một đời thơ; 50 năm nhà xuất bản văn học - NXB Văn học 1998. Hoài Anh, Yến Lan, ông lái đó trên Bến My Lăng giao cảm, Văn số 97/ 1999. Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức. NXb Hội nhà văn H. 2000 Anh Chi, Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng, Thơ, phụ bản báo văn nghệ quý II/2003. Võ Văn Trực, Từ bến My Lăng, - Gương mặt những nhà thơ, NXB Thanh Hóa, 2004. Thanh Thảo, 2004, Người cuối cùng của "trường thơ Bình Định" đã ra đi, Mãi mãi là bí mật - phê bình và tiểu luận. Qua các bài viết ấy, các tác giả, các nhà nghiên cứu đã khẳng định về những nét rất riêng của Yến Lan : Ông không lao vào ca tụng tình ái, khao khát yêu đương như những nhà thơ mới cùng thời mà đi vào chính hiện thực cuộc sống, cuộc sống của chính mình và " cảnh sắc phong vị miền Trung" nhuần nhuyễn đến tự nhiên, để từ đó tạo ra những nét " gần gũi", " đồng cảm", "trầm lặng, tinh nhã", "thanh sáng, tinh túy và cao thượng" qua từng câu thơ, bài thơ.… Đặc biệt cái không khí trong thơ Yến Lan mà như Hoài Thanh đã nhận xét gần nửa thế kỷ trước, nay lại được bạn đọc một lần nữa làm sống dậy: " hư hư, thực thực", " bàng bạc, khắc khoải và ẩn chứa". Các tác giả cũng ngợi ca sự khổ luyện trong lao động nghệ thuật mà Yến Lan đã khắc được những "dấu ấn sâu sắc, khó phai" trong lòng người đọc. Hay thậm chí tác giả Hoài Anh đã say mê ví thơ Yến Lan như "vị thuốc ngâm rượu bổ đặc sánh và có hậu, người uống vào khiến tình cảm khỏe ra, nhưng vẫn vương chút chạnh trong tâm hồn". 2.4.2. Viết về hình tượng trong thơ Yến Lan ta thấy các bài viết sau: Mang Viên Long, 74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến, báo Bình Định 1990. Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức. NXb Hội nhà văn H. 2000 Mang Viên Long, Tình hoa trong thơ Yến Lan, Bình Định nguyệt san Mang Viên Long, Bình Định qua ba bài thơ của Yến Lan, Bình Định nguyệt san. Thanh Huyền (2002), Yến Lan bến sông và phố huyện, Văn hiến số 81. Nguyễn Thanh Mừng, Năm tháng còn trên mấy đốt tay, Bình Định nguyệt san. Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san. Trước hết về hình tượng thiên nhiên. Với Yến Lan thì thiên nhiên với ông là người bạn, nên ông đến với nó "bằng tấm lòng trân trọng, chí thành và hồn nhiên". Qua hoa, lá mà Yến Lan " vẽ được khung cảnh" chất chứa tâm sự. Còn trăng nó là "một lực hấp dẫn" không chỉ với riêng ông mà còn với các thi sĩ khác của xứ Đồ Bàn. Trăng trong thơ ông "vừa lay động, vừa an tĩnh trong từng hơi thở", ông yêu trăng đến thành "bệnh", " đờ đẫn đến quên hết mọi sự". Quê hương Bình Định cũng là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong thơ ông. Ông "khắc khoải với quê hương" và viết về nó "sâu đậm và tạo ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc". 2.4.3 Ngoài ra thơ tứ tuyệt của Yến Lan cũng gợi nhiều cảm hứng trong các bài viết 2.4.3.1. Chế Lan Viên, lời giới thiệu Thơ Yến Lan, NXB Văn học 1987 Yến Lan cũng là người viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt. 2.4.3.2. Nguyễn Bao, từ Bến My Lăng …, báo văn nghệ 1996 Chính bởi có tài khắc họa và điêu luyện trong chọn chữ , sắp xếp câu nên Yến Lan đã nổi tiếng trong làng thơ hiện đại của chúng ta về tứ tuyệt 2.4.3.3. Từ Quốc Hoài, Yến Lan cốt cách một đời thơ, Bình Định xuân Kỷ Mão 99 Thơ tứ tuyệt Yến Lan, những tác phẩm nghệ thuật được ông tinh lọc từ bao cảnh đời, tình đời, giống như những bức tượng, những phù điêu được chạm khắc tinh xảo, đặt bên cạnh ngọn cổ tháp - Bình Định 1935 - tạo nên một " bảo tàng văn hóa" mang phong cách rất riêng của Yến Lan. Thơ tứ tuyệt Yến Lan mang đậm phong vị Đường thi, song vẫn phảng phất cái không khí mơ hồ bảng lảng hư hư thực thực của những bài kệ của các bậc thiền sư. 2.4.3.4. Mang Viên Long, Những bài thơ sau cùng của Yến Lan, Bình Định nguyệt san số 10/ 2002 Thơ tứ tuyệt là loại thơ sở trường của ông, Yến Lan đã rất thành công khi sáng tác thể thơ này. Lời, ý trong thơ tứ tuyệt của ông được chắt lọc, được dồn nén, tích lũy để bùng vỡ thành tiếng thơ - dịu dàng, mà sâu sắc, luôn thấm sâu vào hồn người đọc. 2.4.3.5. Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san Bên cạnh tứ tuyệt sâu lắng, nghiêm cẩn, chặt chẽ thi pháp Tống Đường của Quách Tấn, tứ tuyệt có nét độc đáo bất ngờ của Chế Lan Viên, tứ tuyệt Yến Lan tinh tế, tài hoa. Như giọt sương tròn vẹn long lanh chứa cả đại ngàn và biển cả, tứ tuyệt - Yến Lan - luôn được những đợt sóng thơ bất tận dồn nén, đưa về vô hạn 2.4.4. Từ điển văn học (Bộ mới), 2004, NXB Thế giới mới. Nguyễn Văn Long giới thiệu về Yến Lan: "Thơ Yến Lan có cốt cách khỏe, hình ảnh và ngôn ngữ sắc nét, giọng điệu phóng khoáng".[32,tr. 2116] 2.4.5. Năm 2005, Trần Tiến Thành bảo vệ luận văn cao học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài " Thế giới nghệ thuật thơ Yến Lan". Trong luận văn này tác giả đã tìm hiểu những chi tiết về cuộc đời ảnh hưởng đến thơ Yến Lan. Về thơ Yến Lan, tác giả luận văn đã khai thác ở phương diện cảm hứng trong sáng tác, đi vào ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ Yến Lan. Tác giả luận văn đã lập những bảng đối chiếu, so sánh về các thể thơ mà Yến Lan đã sử dụng qua từng giai đoạn và những đặc điểm về lời thơ, câu thơ, giọng điệu riêng của Yến Lan để từ đó kết luận: "Kế thừa và dung hòa truyền thống, thơ Yến Lan vừa có sức vang vọng của thanh âm nguồn cội, vừa có hơi thở thời đại nuôi sống hồn thơ. Phong cách nghệ thuật thơ Yến Lan phát triển đa dạng, phong phú ở nhiều thể loại, ở những giai đoạn khác nhau nhưng lại thống nhất trong cội nguồn gốc rễ. Với giọng thơ hiền hòa, nhỏ nhẹ mà lay động, xoáy sâu trong dư ba vang vọng, Yến Lan đã mở ra cho đời và cho thơ một lối đi giữa lòng cuộc đời." [91,tr113]. Có thể nói rằng đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tác giả, đã góp phần vào nhìn nhận và đưa thơ Yến Lan đến gần người đọc hơn, là một tài liệu tham khảo đáng quý cho những ai quan tâm đến thơ ca nói chung và thơ Yến Lan nói riêng. Tuy nhiên, luận văn vẫn chưa có một sự đối sánh để đánh giá cho đúng, cho xứng tầm những đóng góp của Yến Lan cho thơ ca nước nhà trong từng giai đoạn. Do đó thơ Yến Lan dường như vẫn còn lẩn khuất. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu thơ ca Yến Lan: - Việc tìm hiểu về thơ ca Yến Lan, ngoài lời bạt cho ba tập thơ của Yến Lan thì còn lại hầu hết đều tản mạn ở các báo - đa phần là chuyên san của địa phương Bình Định hoặc An Nhơn - chỉ là những bài nhận xét về một hoặc vài bài thơ của ông mà người đọc tâm đắc. - Các nghiên cứu đều thống nhất ở một số điểm sau: về phương diện nội dung, thơ Yến Lan chan chứa tình cảm với con người, với quê hương đặc biệt là Bình Định - thị trấn Bình Định - quê hương ông; về nghệ thuật, phần thành công nhất của ông chính là sử dụng thể thơ tứ tuyệt một cách nhuần nhuyễn, ngôn ngữ thơ từ chỗ mơ hồ đã gần gũi, đời thường và nồng thắm. Vấn đề còn tồn tại: - Cuộc đời thơ của Yến Lan trải dài theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước: Từ những ngày đầu của phong trào Thơ mới - với Bàn thành tứ hữu tại Bình Định, rồi khi ông tập kết ra Bắc, những ngày kháng chiến và sau khi đất nước thống nhất giai đoạn nào Yến Lan cũng sáng tác thơ không nhiều thì ít. Các sáng tác ấy đều có sự vận động biến đổi theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thế nhưng các bài viết các công trình nghiên cứu hầu như còn thiếu một chút sự chuyên sâu để nghiên cứu những bước vận động biến đổi của nghệ thuật thơ Yến Lan qua từng giai đoạn. - Nghiên cứu thơ ca Yến Lan tất nhiên còn nhiều vấn đề cần được đi sâu khai thác những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật tạo nên một vị thế đúng và xứng đáng với những đóng góp của ông cho thơ Việt Nam nói chung; việc tiếp cận cũng cần được tiến hành từ nhiều hướng phong phú hơn. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu văn bản thơ có kết hợp với các yếu tố thời đại, hoàn cảnh cá nhân của nhà thơ, luận văn nhằm khám phá thêm về đặc điểm thơ của Yến Lan qua từng giai đoạn lịch sử. 3.1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một thể thống nhất bao hàm các thành tố cấu trúc và quy luật riêng, thể hiện quá trình cái tôi của nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng tượng của mình. Một mặt, thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với kinh nghiệm cá nhân, với phong cách sáng tác chủ quan của nhà thơ, mặt khác, nó phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại nhất định. Bởi vậy luận văn khám phá đặc điểm thơ Yến Lan vừa như một sản phẩm sáng tạo độc đáo của cá nhân, vừa như là một tiêu biểu cho khuynh hướng chuyển đổi trong sáng tác của văn nghệ sĩ theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước. 3.1.2. Tìm hiểu về đặc điểm thơ Yến Lan, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về thế giới hình tượng trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn, có sự so sánh với các thi sĩ tương ứng cùng thời. 3.1.3. Các đặc điểm thơ nói trên tất yếu phải được thể hiện ra bằng văn bản ngôn từ. Bởi thế, một nhiệm vụ quan trọng nữa được đặt ra cho luận văn đó là: Nghiên cứu những phương thức, phương tiện biểu hiện trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn. Trên cơ sở đó luận văn phân tích mối tương quan biện chứng giữa nội dung và hình thức trong sáng tác thơ của ông. 3.2. Đóng góp mới của luận văn Thực hiện được các nhiệm vụ trên, luận văn sẽ làm nổi bật được những đặc trưng tiêu biểu của thơ Yến Lan trong cái nhìn chỉnh thể. Kết quả của luận văn nhằm thể hiện được những đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và cho thơ ca Việt Nam nói chung. Từ đó, luận văn mong góp phần nhìn nhận quá trình vận động của thơ ca dân tộc từ góc độ văn hóa nghệ thuật. Người viết cũng mong rằng kết quả của luận văn sẽ đóng góp một phần phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ nói chung trong nhà trường hiện nay. 4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở nguồn tư liệu có được, luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm thơ Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của của nó dưới cái nhìn tổng thể. Còn những khía cạnh khác xin dành cho những công trình nghiên cứu khác. Luận văn tập trung khảo sát thơ được in trong 10 tập thơ của Yến Lan đã được xuất bản và một số tác phẩm thơ sưu tầm được trên các báo trước 1945 do gia đình nhà thơ Yến Lan và bạn bè thân hữu của ông còn lưu giữ được. Phần văn xuôi, chỉ khi thật cần thiết luận văn mới liên hệ phần nào để có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Giải quyết đề tài này, chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: 4.2.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống Quan niệm thơ Yến Lan là một chỉnh thể, luận văn chú ý tìm ra những thành tựu tạo nên chỉnh thể này và quy luật cấu trúc của nó. Mọi đối tượng và vấn đề khảo sát của luận văn được đặt ra trong tương quan hệ thống và trong quy luật của cấu trúc này. 4.2.2. Phương pháp phân loại, thống kê Với từng thành tố của chỉnh thể cũng như các yếu tố thuộc phương thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật ấy, khi cần thiết luận văn sẽ thực hiện phân loại và thống kê qua các con số cụ thể. 4.2.3. Phương pháp so sánh đối chiếu Để khẳng định những nét tiêu biểu cũng như những nét riêng thuộc phong cách của Yến Lan (trong phạm vi giới hạn của đề tài), luận văn đặt tác giả và tác phẩm trong mối tương qua so sánh với các tác giả, tác phẩm khác qua từng giai đoạn cụ thể. 4.2.4. Theo hướng điều tra xã hội học. Để có được những tư liệu đầy đủ và chuẩn xác hơn, chúng tôi đã thực hiện việc đi thực tế để sưu tập, chụp hình, trò chuyện và ghi âm những gì có liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của nhà thơ. Khi cần thiết chúng tôi sẽ có trích dẫn và phụ chú ở phần phụ lục. 5. Cấu trúc của luận văn Do đã có luận văn khai thác về cuộc đời của Yến Lan, do đó để phù hợp với logic nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được triển khai trong 3 chương và không có phần về tiểu sử, cuộc đời nói chung. Chương 1: Bước đường sáng tạo nghệ thuật của Yến Lan Chương 2: Hình tượng nghệ thuật trong thơ Yến Lan Chương 3: Các phương thức biểu hiện trong thơ Yến Lan Chương 1. BƯỚC ĐƯỜNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA YẾN LAN Cuộc đời lao động nghệ thuật của mỗi nhà văn nhà thơ hầu như đều gắn liền với xã hội, với những biến động của thời cuộc mà mình trải qua. Nếu không bị động mà bị cuốn theo những biến động thì ít hay nhiều bối cảnh sống của xã hội cũng để lại những dấu ấn trong các tác phẩm của họ, Yến Lan cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc đời lao động nghệ thuật của ông trải dài gần ngót thế kỷ, đi qua những biến cố thăng trầm suốt mấy mươi năm của dân tộc, lần giở những trang thơ của ông ta như đang đọc những trang đời trước những biến thiên lịch sử của dân tộc. Những tác phẩm của ông gần như cầm tay nhau bước vào đời, nó phản ánh về cuộc sống xã hội, về cuộc đời về tâm tư tình cảm của ông, của con người nói chung, đó là thành quả lao động không mệt mỏi suốt cuộc đời ông. Đọc Yến Lan ta bắt gặp một sự vận động của cái tôi trữ tình tuy tích cực nhưng luôn ẩn chứa một sự trầm tư đến bình đạm trước cuộc sống mà nói như Nguyễn Thanh Mừng đó là sự: “trầm lặng và tinh nhã cả trong văn chương lẫn cuộc đời”. [65,tr. 442] 1.1. Trước cách mạng tháng Tám - với Bàn thành tứ hữu 1.1.1 Khi Yến Lan làm thơ, phong trào Thơ mới đã bắt đầu được vài năm. Công chúng yêu thơ đương vồ vập tiếp nhận “những bài thơ mô tả những sóng gió ái tình và khao khát yêu đương” [11,tr.11] bởi đây là đề tài phải kiêng dè, và bị cấm đoán suốt hàng ngàn năm, giờ đây Thơ Mới đang bứt tung mọi xiềng xích để mọi cung bậc của ái tình được đường hoàng lên tiếng, phơi mình ra trước nhân gian. Những vần thơ tình yêu cháy bỏng đang làm háo hức bao tâm hồn thanh niên ngày ấy, nó bộc lộ những gì mà họ không thể nói, không dám nói: Đôi hơi thở tìm nhau trong bóng tối Đôi linh hồn chìm đắm bể u sầu. (Đêm tàn – Chế Lan Viên ) Hay Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em… Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi! (Tương tư chiều – Xuân Diệu ) Vậy mà trong thơ Yến Lan, những vần thơ yêu đương đôi lứa lại rất ít. Phải chăng chàng không yêu? Hoàn toàn không phải vậy, bởi là con người nói chung và thi nhân nói riêng thì tình yêu đôi lứa là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và đặc biệt là trong việc nuôi dưỡng nguồn cảm hứng cho thi nhân. Yến Lan cũng viết về thơ tình, nhưng ta bắt gặp một thứ tình cảm thật nhẹ nhàng Vì với tình tôi, phải nhẹ nhàng Phải là ý ngọc, phải tim vàng Phải là trọn vẹn, là trong sámg Là một bài thơ khắc chữ " chàng" (Đồng nội hồn tôi) Sự xa cách nhớ nhung ta hoàn toàn không thấy chàng rên rỉ hay gào thét cho tung hê trời đất, mà là sự lắng đọng trong tâm: Em đi, ngày tháng biệt mùi tăm Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm Một mảnh hồn ta còn đọng mãi Trên vành nong úa sắc thời gian. (Mùa xuân này lạnh lắm em ơi) Tình yêu tan vỡ bởi sang hèn ngăn cách, ta đã bắt gặp nhiều những cung bậc về sự oán hận, căm ghét số phận, đớn đau vật vã đến đày đọa bản thân, làm hao tốn bao nhiêu giấy mực của các thi nhân, lấy bao nước mắt của đôc giả. Nhưng với Yến Lan, ta không bắt gặp những sự oán than cay nghiệt đó mà vẫn chỉ là sự lặng thầm ray rứt với bản thân: Giận cái ngây thơ tự lúc đầu Thấy rằng tường giậu chẳng ngăn nhau Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy Còn bức thành cao giữa khó giàu (Gần nhà xa ngõ) 1.1.2. Không vồ vập ca ngợi ái tình, không bị cuốn theo làn sóng thơ tình ái mà thơ Yến Lan giai đoạn này, hay nói cho chính xác là khuynh hướng thơ của Yến Lan ngay từ thuở ban đầu cầm bút chính là lấy cuộc sống của mình, lấy cảnh sắc quê hương làm đề tài trong các sáng tác. 1.1.2.1. Tác phẩm đầu tiên đưa Yến Lan đến với công chúng chính là bắt nguồn từ hoàn cảnh đặc biệt của bản thân. Từ tiếng gọi đò của cậu bé mỗi ngày khi mang thức ăn cho mẹ đang bị ốm ở bên kia sông, cho đến tiếng gọi đò thê thiết trong đêm đi báo tin mẹ qua đời. Tiếng gọi đò ấy dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ như một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách. Để rồi tiếng gọi đò ấy đi vào thi phẩm làm run rẩy bao tâm hồn, níu lòng người lại để đi tìm Bến My Lăng Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng… (Bến My Lăng) Ngày xưa, khi Tú Xương “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” thì bỗng “giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”, đó là sự tưởng nhớ về những kỉ niệm êm đẹp của cuộc sống miền thôn quê, tiếng gọi đò của khách sang sông khi dòng sông chưa bị lấp, đồng quê chưa bị đô thị hóa, tiếng gọi trong tiềm thức đó là một sự tiếc nhớ. Còn trong văn học giai đoạn 30 -45 này có hai bài thơ cùng chứa đựng những tiếng kêu não nùng trong đêm vắng. Độc giả yêu thơ có lẽ không quên những âm thanh não nùng của hàng trăm con quạ giật mình kêu hoảng loạn trong bóng đêm qua bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn. Từ Ô Y Hạng rủ rê sang, Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng… Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng Bồn chồn thương kẻ nương sòng bạc. Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng. Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi Tình hoang mang gợi tứ hoang mang… Tiếng của một đàn quạ kêu rộn lên ở những bờ tre cạnh sông Côn nằm trên chặng đường từ An Vịnh về Phú Phong đã gây cho Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ, suốt đời ông vẫn nhớ, nó khiến ông viết hẳn một bài thơ Đường nổi tiếng mà nhiều người phải bàn đến. Giữa đêm khuya, tiếng đàn quạ kêu thật ấn tượng, tiếng kêu ấy thật não nùng trong làng Thơ mới ngày ấy. Thế nhưng cái âm thanh trong bóng đêm ấy so với tiếng gọi đò làm “run rẩy cả ngành trăng” kia thì có lẽ tiếng gọi đò ngày ấy nó không chỉ ám ảnh suốt phần đời của tác giả mà nó cũng làm khắc khoải bao lớp người yêu thơ. Nó đưa Yến Lan bước lên thi đàn của dân tộc, đóng dấu khai sinh tên gọi cho một miền sông nước bằng Bến My Lăng. Một tuổi thơ sớm chịu mồ côi đến hoàn cảnh sống đặc biệt của bản thân mình cũng được Yến Lan bộc bạch : Đây tôi sống trong xanh nghiêm thánh thất Đèn lưu ly hao sáng mộng tràn đầy Lan can đỏ xuống dần từng bậc bậc Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy, Cùng hồn trưa quấn quýt lấy giao lâ._.n. Tám phương bạn – chợp hàng mi – mộng thấy Xứ tâm tình, vàng rộn lá thu phân. (Bình Định 1935) Mẹ mất sớm, nhà nghèo, cha làm thủ từ ở Chùa Ông, gia đình cũng phải nương nhờ nơi mái chùa ấy. Tuổi thơ gắn liền với việc hương khói của cha nơi điện Phật, thế nên bạn bè quấn quýt trong giấc mơ nhiều khi lại chính là những linh vật trong huyền thoại và cũng bởi một phần phận nghèo nên không ai muốn cho con kết bạn cùng. Cũng chính cái cảnh nghèo khó ấy khiến những bâng khuâng xao xuyến buổi đầu rung động nhiều khi thật bẽ bàng. Chàng hăm hở “băng đồng” đi hái hoa để tặng người, thế nhưng cái dáng “thư sinh lam lũ”, nghèo nàn cộng với bó hoa đồng nội thì người ở lầu cao kia “đâu dễ động tình” dù chàng đã đợi chờ đến khi hoa héo, đến độ “chòm mây trên đỉnh núi” kia cũng héo theo. Vậy mà, chàng có trách ai đâu, chỉ âm thầm tự trách mình quá đỗi vụng về nên chỉ hiểu được hoa thôi: Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi Vụng về đến phải vô duyên vậy Bởi hiểu hoa thôi chẳng hiểu người. (Hoa tặng) 1.1.2.2. Tuy nhiên, hoàn cảnh riêng ấy không làm giảm đi tình cảm của chàng với mảnh đất Bình Định thân yêu. Hầu như những thi phẩm trong giai đoạn này của Yến Lan chính là thiên nhiên, cảnh sắc quê hương Bình Định với muôn hình muôn vẻ. Một mảnh đất cằn cỗi khiến người ta không thể nào gieo trồng được gì cả, người phải bỏ hoang, thành “đất góa”, “ruộng mồ côi”. Bởi cây cối nào có thể trụ được với đất sỏi, đồi trọc ấy. Sự cằn cỗi đến đỗi mà “chuối chực bồng con, thân đã cỗi”, “ngọn tre” không vượt lên nổi “lùm gai”: Ở đây đất góa, ruộng mồ côi Cao, thấp chen chân những lũng đồi: Gò Hội, gò A nung sỏi đỏ Gò Nghiêm, gò Mỹ trọc mưa trôi! (Én Đào) Chính cái cằn cỗi ấy mà không chỉ thực vật, động vật mà đến những sinh vật phù du cũng khó tồn tại: Lặn lội – cò, le vẫn đói mồi Bàu Đưng, bàu Gốc mảng bèo phơi Bàu Hồ cỏ vượt, bàu Sim cạn Cái tép con tôm cũng lạc loài (Én Đào) Một cái tỉnh nhỏ không có sức sống, mà chỉ qua một đoạn thơ ngắn, tác giả đã khái quát được sự mòn mỏi, đìu hiu, bế tắc của nó mà nói như tác giả Đỗ Lai Thúy đó là: “Chỉ bằng mấy chục câu thơ mà Yến Lan đã làm được cái mà một nhà văn xuất sắc như Nam Cao cũng phải dựng hẳn một thiên tiểu thuyết “sống mòn” nổi tiếng” [96, tr.376] Tỉnh nhỏ, Võ vàng Nắng thắt ngang hầu thị trấn Gập ghềnh trên đường vắng: Cuộc đời – hay cỗ xe bò- Nhắm về phía mả mồ Chậm rãi lê từng bước một. (Lại về tỉnh nhỏ) Người ta thường ví cuộc đời với muôn vàn những danh từ mĩ miều khác nhau, vậy mà ở đây ngay tại cái thị trấn này, sự ngưng đọng, bế tắc của cuộc sống đến mức tác giả ví nó như cỗ xe bò, chưa hết, cỗ xe bò ấy đang chậm rãi lê từng bước về phía mã mồ. Một cuộc sống không hề còn có ý nghĩa, không tương lai, không đợi chờ. Một phiên chợ nghèo xơ xác ven sông, trong cái lạnh của chiều cuối năm càng làm nổi lên cái cám cảnh cho quê nghèo, buồn là vậy thế mà thi nhân nhìn thấy đây đó chính là nét mộc mạc của quê mình, tiếng kẽo kẹt của bụi tre trước những cơn gió lạnh thì chàng lại thấy rằng tre đang nhại tiếng thi nhân, hay chính xác hơn tre như cũng đang tập làm thơ, nghe sao mà thi vị - hình như cố thi vị để mà tồn tại: Chiều nghe chuông chở rét qua sông Chiều mong lời vui ở cánh đồng Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh Chợ tàn tiễn khách với lều không (Chiều) Một vầng trăng rất riêng của Bình Định, mà đã làm hao tốn bao giấy mực của các thi nhân nơi đây, quyến rũ biết bao bạn đọc tìm đến với vầng trăng: thơ mộng, yêu đương, giận hờn, ghen tuông, bỡn cợt, ma quái và dường như lại rất thật, thật đến độ người ta có thể mang trăng rao bán, thấy trăng khóc, trăng cười và trăng ghì xiết yêu đương. Hình ảnh trăng trong thói quen mang nặng tính ước lệ, nó thường đi liền với quan niệm về sự ước nguyền, trong sáng, trọn vẹn. Thế nhưng với Hàn Mặc Tử trăng gắn liền với hành trình tâm trạng của nhà thơ, nó hầu như không còn là một khách thể thiên nhiên nữa mà dần dần nó biến dị một cách lạ thường, đặc biệt là khi nhà thơ ở vào thời điểm ranh giới giữa sự sống và cái chết, lúc hồn thơ phải kịch liệt chống lại sự tắt dần của sinh lực thì trăng trở nên rùng rợn Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô Và Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. (Say trăng – Hàn Mặc Tử ) Với Chế Lan Viên sự tiếc thương thời đại cũ khiến ông đưa người đọc đến với một thế giới xa lạ, rùng rợn của những nấm mồ hoang, huyệt lạnh, những đầu lâu xương trắng với những linh hồn vật vờ của dân Hời. Chính vì vậy mà trăng trong thơ Chế Lan Viên có thể gọi là một vầng trăng ma quái. Nếu không phải là cảnh trần truồng tắm trăng để quay cuồng lăn lộn cùng trăng, để cho trăng chảy khắp thân thể, trăng ghì riết lấy thịt da thì là cảnh dưới đáy mồ sâu, khi những linh hồn vong quốc đang chạy trốn ánh sáng để thở than thì ánh trăng vỡ ra lả tả rơi từng mảnh từng sợi vào từng ngóc ngách dưới đáy huyệt kia khiến những linh hồn hoảng loạn như phát điên và họ nhìn thấy hình như trăng cũng đang điên: Thôi hết rồi, bây giờ đầy ánh sáng Đã tràn lan, hể hả, chảy mênh mang À cũng còn vài vũng đêm u ám Đang điên cuồng giãy dụa giữa vùng trăng (Trăng điên - Chế Lan Viên ) Còn với Yến Lan, trăng lại là một phần máu thịt, trăng đã là cái nôi từ buổi chào đời, trăng là người bạn suốt tuổi ấu thơ một sự gắn bó sâu sắc và đến bây giờ trăng hình như đã trở thành người yêu, vì trăng cũng giận hờn nũng nịu và cũng ích kỷ muốn giữ thi nhân cho riêng mình mà thôi Trăng chẳng cho tôi mến một người Một trang sách mở dưới ban mai Một hoa hồng nở trong chiều mộng Hay một hồn thơ sáng rực lời. (Bệnh trăng) Một Bình Định với những dấu vết thành quách cũ, những bóng tháp cổ kính thâm u. Từ những suy tư về sự diệt vong của một dân tộc, một vương quốc - Chiêm Thành - đôi bạn thi nhân – Yến Lan, Chế Lan Viên - của thành Đồ Bàn ngày ấy từng bá vai nhau lên lầu cửa Đông nhìn những dấu vết thành quách cũ - thành Đồ Bàn - để rồi cùng thương tiếc, cùng ngậm ngùi cho một dân tộc. Họ bàn với nhau phải viết một cái gì đó cho dân Chàm, về dân Chàm. Thế rối người trước người sau Yến Lan với tập thơ "Giếng loạn" viết về cuộc chiến tranh tang thương làm tan nát, xóa sạch một vương quốc, để bây giờ nó chỉ còn là những dấu tích hoang phế, cuộc chiến ấy gieo đau khổ cho bao kiếp Chiêm nương ngày xưa. Chế Lan Viên với tập "Điêu tàn", những tưởng tượng về hồn ma bóng quế, tiếng nức nở của dân Hời ngày cũ tất cả xoáy sâu vào tâm thức của người yêu thơ đương thời. Nếu như Chế Lan Viên từ những phế tích của vương quốc Chiêm thành đưa người đọc đến với mối sầu vong quốc bằng những hình ảnh kinh dị của thế giới cõi âm, những lời than khóc tiếc nuối cho một quá khứ oai hùng, những hình ảnh rùng rợn của xương trắng đầu lâu, máu me…tất cả đánh vào “tầm đón đợi” của lớp công chúng mới bước ra từ thế giới của những ước lệ và quy phạm tạo ra một “khoảng cách thẩm mĩ” quá lớn, nó là cú sốc mà nói như Hoài Thanh đó là “một niềm kinh dị” thì Yến Lan lại đi vào một khía cạnh khác: thân phận của những Chiêm nương. Từ những gì còn sót lại của tập thơ Giếng loạn bị thất lạc ta có thể cảm nhận được mối cảm thương của Yến Lan với những kiếp đời hồng nhan ngày cũ bằng những dòng tâm tình như với chính những người phụ nữ của ngày hôm nay. Nàng cũng yêu đương mơ mộng như bao thiếu nữ khác thế nhưng cuộc chiến tang thương đã cướp đi của nàng người trong mộng bỏ lại song thân đầu bạc cô quạnh buổi thu tàn đông lạnh, nàng tựa cánh chim câu lẻ bạn biết đi về đâu? Vì lúc ấy, em ơi, Chinh chiến cướp một người, Chiều nay chim bạch câu Về đậu ở bên lầu. Một ngọn đèn cô quạnh. Hai mái đầu trắng phau. Không lẽ trời thu lạnh. Mà vắng vẻ trước sau! (Vắng vẻ) Vết thương ấy không làm nàng rỉ máu vậy mà lần mòn giết nàng trong nỗi nhớ không khuây để rồi một chiều sương nhạt, nàng như ngọn đèn dầu khô cạn, lặng lẽ đi tìm người yêu ở cõi vô cùng, buồn đau thêm một lần rót xuống những mái đầu bạc trắng : Buồn rót trong hồn đắng biệt li Ôi màu nên rộng ứa trên mi ! Những người tóc bạc nhìn hương cháy Bên cỗ quan tài sắp trẩy đi Mai mới mươi lăm, Mai của duyên Của màu, của sắc, của thiên nhiên, Vội vàng rụng trước xoan bừng ngõ Theo nắng hanh vàng biệt mái hiên (Những người qua cửa) Để rồi một đêm trăng nào đó người ta như thấy bóng nàng lẩn khuất bên nhịp cầu, những cánh sen lay động hay bước chân nàng đang lướt đi? Một sự cảm thương đến xót xa bởi nàng như kiếp tằm non đã vội bị hóa bướm khi mà đời nàng chưa nếm đủ mùi dâu : Đêm nay sen nở lòng tươi thắm Hứng bóng nàng qua những nhịp cầu Từ tuổi tằm non sang tuổi bướm Đời nàng chưa nếm đủ mùi dâu. (Sen nở) Tất cả, tất cả những nét riêng tư của cuộc đời, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Bình Định, của vùng đất giao thoa bao nền văn hóa, của những phế tích đền tháp, lăng tẩm tạo thành một dòng nhựa sống trong tâm hồn thi nhân. Chính vì vậy cho dù đi bất cứ nơi đâu, ở bất cứ hoàn cảnh nào tấm lòng thi sĩ vẫn hướng về mảnh đất ấy với một tình yêu vĩnh cửu: Nhánh tòng, bá có đau vì xứ sở, Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi. Không được sống , xin cho cùng được thở, Vạn - lý - tình trong gió ngọt xa xôi. (Bình Định 1935). Có thể nói những tác phẩm giai đoạn trước cách mạng tháng Tám của Yến Lan còn lại không nhiều, nhưng những gì còn đến ngày hôm nay cũng khiến ta cảm nhận được sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà dù là lặng thầm nhưng rất đáng trân trọng. Hơn nửa thế kỷ trước Hoài Thanh đã từng nhận xét về thơ Yến Lan rằng: “Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng lâu dần cơ hồ như ngạt thở” [90, tr.171], cái sự mơ màng cơ hồ như ngạt thở ấy có phải là của riêng Yến Lan không khi mà cả một thế hệ thi nhân lúc ấy chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ thơ Pháp, đặc biệt sự ảnh hưởng của Baudelaire và chủ nghĩa tượng trưng? Sự ảnh hưởng ấy để rồi tạo ra những câu thơ mà nói như Hoàng Ngọc Hiến đó là: “Có những câu thơ người đọc chưa kịp hiểu ý nghĩa đã cảm thấy hay, thậm chí chưa bao giờ hiểu ý nghĩa mà vẫn cứ ám ảnh…”[21, tr.156] thơ Yến Lan rơi vào trường hợp như thế chăng? Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách chính xác những gì Yến Lan đã đóng góp cho phong trào Thơ mới lúc ấy nói riêng và văn học Việt Nam nói chung đó chính là sự cách tân trong câu chữ, góp phần mang lại thắng lợi cho Thơ Mới trên thi đàn văn học nước nhà. Chế Lan Viên đã từng ghi nhận sự đóng góp ấy bằng một thái độ nghiêm túc, nể phục: “Năm 19935 khi nền Thơ mới còn chập chững, Lan đã có nhiều tìm tòi táo bạo. Tả một cánh buồm cô đơn, tìm về nghỉ ngơi trên sóng đảo dịu dàng, Lan viết: Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi Năm kia tôi yêu cái tên một tập thơ nước ngoài Quả lê tam giác (la pavie triangulaire). Nhưng sầu tam giác hay hơn chứ và viết trước lê hơn bốn mươi năm….cánh ủ viên trang, chiều bồ câu, thơ đá chạm biết bao nhóm chữ phối hợp, cấu trúc trong cái tương quan kỳ lạ, ngỡ như mới được viết hôm qua, giữa năm 86 này…” [110, tr.6 – 7] 1.2. Sau cách mạng tháng Tám Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc mà còn mở ra một trang sử mới cho văn học nước nhà. Bên cạnh tư thế mới của một dân tộc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” đó là sự xuất hiện của một phong cách nghệ sĩ mới: nghệ sĩ – chiến sĩ. Có những nghệ sĩ cầm bút trước khi cầm súng, có những người sau khi cầm súng mới biết đến ngòi bút như là một thứ vũ khí thứ hai cũng vô cùng lợi hại. Họ đã tay súng tay bút đi suốt hai cuộc kháng chiến của dân tộc tạo ra một thời kỳ rực rỡ cho văn học nước nhà. Lớp lớp các nhà văn nhà thơ ngày ấy đặc biệt là những nhà Thơ Mới, cách mạng đã mang đến cho họ một đường đi một lối thoát mới cho cuộc đời, đưa họ ra khỏi những cô đơn, chán nản tuyệt vọng của những ngày cũ, chỉ cho họ con đường cần phải đi. Tất nhiên không phải ai ai cũng lập tức chuyển hướng được ngòi bút của mình vốn dĩ đang phục vụ cho một cái tôi cá nhân tuyệt đối sang để phục vụ cho cái ta chung, cho thời cuộc mà họ có một khoảng thời gian “nhận đường” dài ngắn khác nhau, có người ngày một ngày hai, có người một hai năm và cũng có người phải mất đến mười năm. Nhưng điều quan trọng nhất đó là họ đang thực hiện nhiệm vụ của một công dân với Tổ quốc, khi Tổ quốc cần. Trước đây họ có thể thuộc những trường phái khác nhau, những giọng điệu khác nhau nhưng bây giờ họ đang cùng chung một chiến tuyến, cùng cất cao giọng trong cuộc chiến với quân thù. Cũng như rất nhiều nhà thơ khác, sau cách mạng tháng Tám Yến Lan cũng tìm đến với thơ ca cách mạng như một sự vận động tất yếu. Thơ ca với họ lúc này không chỉ đơn thuần là sự giải trí mà nó còn như là một công cụ, một thứ vũ khí phục vụ cho cách mạng. Tuy nhiên, mỗi người có một cách thể hiện rất riêng. Có người ngay thời điểm ấy thơ ca cách mạng của họ rất phổ biến, rất quyết liệt, nhưng với thời gian nó dần bị mai một đi, lặng lẽ mất đi do sự đào thải khắc nghiệt của tiêu chí nghệ thuật. Có người chỉ bình lặng thôi những vần thơ về đất nước, nhưng đến tận bây giờ vẫn là những câu thơ hay mà người ta vẫn còn ngâm ngợi. Yến Lan thuộc nhóm nào? Thơ ông ngày ấy còn “sống” đến hôm nay không? Chế Lan Viên từng nhận xét rằng: “Có những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm vang ngắn lại. Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng đã viết không những khác đi mà lại hay hơn” [110, tr.8]. Bốn tập thơ: Những ngọn đèn (1957), Tôi đến tôi yêu (1965), Lẵng hoa hồng (1968), Giữa hai chớp lửa (1978); hai tập truyện thơ : Nước mắt ngọt (1967), Én Đào (1979) và một bản thảo thơ diễn ca : thư Bác đời ta (1965) lần lượt được hoàn thành và cho ra mắt. Đó là kết quả của cuộc hành trình suốt mấy mươi năm trải qua hai cuộc kháng chiến từ trên miền núi xuống đến miền biển, từ miền Trung đến tận cùng miền Bắc của Yến Lan “Thơ anh in dấu từng bước đi của dân tộc trong những ngày đất nước chia cắt. Lòng anh cuồn cuộn thương nhớ quê Nam, hào hứng cùng chiến công An Lão. …” [104, tr.27]. Tất nhiên con số tác phẩm không phải là quan trọng mà cái quan trọng là vị trí của những tác phẩm đó trong đời sống văn học hôm nay. 1.2.1. Qua những thi phẩm trước cách mạng, điều ta nhận thấy rõ nhất trong thơ Yến Lan đó là “một tâm hồn mạnh mẽ, thơ ông không mấy khi rơi vào bi lụy như phần lớn thơ ca đương thời” [11, tr.34] không than khóc ủy mị, không buồn bã tuyệt vọng bế tắc như các thi sĩ của Thơ mới đương thời thế nên ngay từ những ngày đầu cách mạng, Yến Lan đã tiếp rất nhanh ngọn lửa đấu tranh, ông tích cực tham gia, vận động, cùng bà con đi cướp chính quyền Huyện, những tháng ngày sôi sục ấy nằm mãi trong kí ức của ông. Tôi sống những ngày thân cò lặn lội Gánh gạo, phá thành, đốt đuốc, dời kho Cùng xứ sở chung ngọn đèn le lói Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù (Bình Định 1947) 1947 -1948 khi Pháp tăng cường đổ bộ và đánh phá miền Trung hòng chiếm lại từng dải đất trên lãnh thổ Việt Nam. Lòng căm thù khiến từng gốc cây, ngọn cỏ cũng hóa thành vũ khí, thành trận địa chiến đấu: Đất An Lão đâu nằm im chịu giặc Rẫy dứa hầm chông, ngọn cau liên lạc Anh cầm cày, chị bắt ốc ven sông Đặt bẫy, gài mìn chờ cuộc phân công. (An Lão) Tuy nhiên, cái đáng nhớ chính là những hoạt động nghiêng về văn nghệ mà Yến Lan đã làm trong thời kì này, đó chính là tuyên truyền đường lối, giải thích những thuật ngữ cách mạng, bình những bài thơ văn hay trên báo và sáng tác những bài ca dao về truyền thanh – một công việc mà ông phụ trách trong những ngày đầu cách mạng - để tuyên truyền cho bà con quan tâm tới truyền thanh - tiếng nói cách mạng, tới những thông tin bổ ích trong cuộc sống. Những bài ca dao ấy, nhiều bà con đương thời vẫn còn nhớ: Chẳng hạn: Ăn dừa đập sọ dừa ra Ăn chuối lột vỏ, ăn na bỏ cùi Nghe ai, chợ quán trao lời Phải lọc ra cốt phải xoi ra luồng Kẻo mà lộn ghét thành thương Nhầm người đoan chính ra phường gian ngoa Ta về ta mở tiếng loa Điều hơn lẽ thiệt phân qua tỏ tường Hay Dây tơ hồng dài nên dây tơ hồng rối Dây truyền thanh dài đường lối thêm thông Đôi ta xa chợ cách sông Mà nên em vợ, anh chồng vì đâu Phải chăng từ nối mối đầu Tiếng loa bắc tới nhịp cầu tâm giao 1.2.2. Năm 1954, hiệp định Generve được kí kết, đất nước chia đôi, sông Bến Hải chính là ranh giới. Khi biết rằng những kẻ cầm quyền mới sẽ điểm mặt những người tham gia cách mạng để thủ tiêu thì Yến Lan quyết định đưa gia đình đi tập kết, một nửa hân hoan về với độc lập tự do, một nửa kia rất đỗi ngậm ngùi khi phải xa lìa quê hương. Ta về phía bên kia giới tuyến Tiếp nửa trời, sông, biển Việt Nam Nửa nhành phổi, nửa con tâm Nửa mình áo lụa, nửa mâm cơm vàng (Khúc hát những người tập kết) Trên đất Bắc, những ngày kháng chiến, những gì còn sót lại cộng với những sáng tác mới nhất mãi đến năm 1957 ông mới đem in thành tập Những ngọn đèn, được Văn Cao đề tựa. Tuy nhiên, một mặt nói như nhà thơ Vũ Quần Phương là “ thời thế và cảm nghĩ người đọc lúc đó đã đổi khác, các bài viết lãng mạn đó không được đón nhận nồng nhiệt mà còn bị phê phán là mang theo nỗi u buồn cá thể vào tâm trạng một Yến Lan cách mạng” [78, tr.5] ; mặt khác những câu thơ về muôn mặt cuộc sống trong những ngày kháng chiến như: Bây giờ anh mới nghĩ ra: Vì đời chật chội nên ta hẹp hòi (chạy mưa) Hay: Bởi họ thiếu Con tim Khối óc Luôn động đậy nhưng chỉ là tĩnh vật Họ không bằng tĩnh vật sống trong tranh (Tĩnh vật) mà được Văn Cao giới thiệu là: “Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta” và “thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội” [10,tr.6] đặt trong hoàn cảnh của thời kì chống phong trào “Nhân văn giai phẩm” ngày ấy nên Yến Lan cũng phải một thời “điêu đứng” [45,tr.91]. Sau đó, cùng với nhiều văn nghệ sĩ đương thời ông được đưa đi thực tế về nông thôn để thực hiện “ba cùng” với nông dân. Sau đợt phê phán, Yến Lan đã “có sự phấn đâu cật lực để đổi khác” [78,tr.5] . Lần lượt những tập thơ như trên đã nói ra đời, chúng mang đậm không khí thời sự những ngày xây dựng cuộc sống mới và cuộc đấu tranh giành trọn vẹn đất nước: “ Thơ anh đã in dấu từng bước đi của dân tộc trong những ngày đất nước bị chia cắt” [104, tr.27]. đến Tây Bắc, Sa Pa cảm nhận cuộc sống từng ngày đổi thay, mang mầm của sức sống mới: Sapa, Sapa Rau dàn mặt đất Bàn tay thành thị đến tăng gia Sapa, Sapa Biệt thự công viên Tây nghỉ mát Nay hố bom tròn dê nhảy qua. (Mùa xuân lên cao) Nương theo gió xuân lên tận biên giới, anh xúc động trước mảnh đất tận cùng Tổ quốc, hạnh phúc trong sự gần gũi thâm giao của hai dải đất: cây trồng bên này mà trái vươn sang cả đôi bên: Đi lên – đi lên cây số “không” Mà vẫn dài thêm tình núi sông Như gốc ổi bên phần đất Việt Cành phía Trung – hoa tiếp tiếp bông. (theo gió xuân lên biên giới) Công cuộc hợp tác xã nông thôn cũng được Yến Lan ghi nhận với bao háo hức, bỡ ngỡ của những ngày đầu đổi mới. Tuy đến nay, mô hình này không còn phù hợp, hay nói chính xác hơn là nó đã thất bại, nhưng những ngày ấy nó lại là một sách lược trong buổi đầu xây dựng hòa bình và công bằng xã hội: Từ tổ đổi công Tiến lên hợp tác. Kinh nghiệm người già góp thành bóng mát Gái trai góp lộc đầu xuân. Ta dắt ruộng xa về với ruộng gần, Cộng kép ghép đơn, cày sâu bừa lỏng; Trâu tám ngõ ra, về chung một cổng (Bài ca hợp tác thôn tôi) 1.2.3.Từ năm1965, Mĩ ồ ạt đổ quân vào chiến trường miền Nam, tăng cường đánh phá miền Bắc hòng làm tê liệt nền kinh tế, đập tan hậu phương lớn của chiến trường miền Nam, hòng xóa bỏ quyết tâm chiến đấu thống nhất Tổ quốc của dân tộc. Đất nước là cả một chiến trường lớn. Sự khốc liệt được Yến Lan phản ánh ở mọi mặt của cuộc sống rất đời thường. Đó là những người dân vạn chài bất chấp sự cấm đoán, bất chấp súng đạn, tàu chiến của giặc vẫn kiên cường bám biển để giữ lấy sự sống và nguồn tiếp tế cho chiến trường miền Nam: Mặc chúng nó tầm xa đại bác Thùng mắm ván bay, cần câu phao dạt… Mặc chúng nó kéo còi đổ bộ Xăng tưới vạn nghề, lửa hun bãi sú… Mặc chúng nó bay là mặt sóng Thuyền máy, ca nô đan dày giữa lòng Ta thuyền nan vượt bể tròng trành Rẽ mái chèo theo ánh lân tinh (Bài ca những người bám biển). Đó là những con người thầm lặng ở cứ điểm Khe Sanh - con đường tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Biết chắc đó con đường huyết mạch của cuộc chiến, thế nên giặc Mĩ tăng cường đánh phá đường Trường Sơn ấy. Khe Sanh, đường 9 trở thành một trong những địa điểm ác liệt nhất ngày ấy. Yến Lan nhẹ nhàng đưa lời ru của người mẹ Vân Kiều như muốn xoa dịu đi tính chất khốc liệt của những ngày máu lửa Mẹ hát cho con Sáu chàng dũng sĩ Trên điểm cao làm sáu vị thiên thần Dập xuống tro bùn hơn trăm quỷ sa tăng Mẹ hát cho con Những cụm đồi úp nón Bom tọa độ đã phạt bằng trên ngọn Vẫn mọc lên từng trận thét xung phong Lật xe thù ngang bước phản công. (Khe sanh – đường 9) Đó là những người yêu xa người yêu, họ ở những trận tuyến khác nhau, nhưng luôn nhớ về nhau và gặp nhau qua những chớp lửa: lửa nơi hậu phương em sơ tán , lửa nơi chiến trường anh đang ngày đêm chiến đấu: Em lên bếp đèn Đánh que diêm nỏ Pháo anh vừa nổ Ta nhìn thấy nhau Giữa hai chớp lửa. (Giữa hai chớp lửa ) Đó là đội công tác chim Én tí hon của quê hương. Những em thiếu niên dũng cảm, biết tập đánh trận, giết thù bất chấp hiểm nguy. Sự hi sinh của các em chính là góp thêm một viên gạch cho việc dựng xây tương lai cho đất nước. Các em ngả xuống rồi nhưng với quê hương thì các em vẫn còn quanh đây: Ơi Én Đào ơi ! sống đây mà Cùng về giải phóng cả quê ta Vẫn mười sáu tuổi như hôm ấy Bên những người thân sương nắng pha… (Én Đào) 1.2.4. Trên tất cả chính là những đổi thay của quê hương Bình Định cho dù có những quãng thời gian tác giả không ở gần bên, nhưng những gì thu thập được cùng với nỗi nhớ da diết khiến tác giả có những loạt bài như vắt cạn cả tâm tư. Mỗi dòng, mỗi chữ ta như cảm nhận được ông đang “ cùng được thở” với hơi thở quê hương. Không còn là một Bình Định của những tháng ngày héo hắt đợi mong của 1935, mà ở đó cuộc sống từ vật chất đến tinh thần đều xơ xác kiệt quệ, đàng thì chờ xe mà sông nước phải ước mong thuyền... Bình Định 1945 đã ghi dấu sự đổi thay, một sự hồi sinh đến mức thần kì: Không, Bình Định đã qua cơn sốt rét, Nước da vàng lột theo vỏ cây khô. Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt, Trăng lạc loài đã gặp lại giữa đêm thu. (Bình Định 1945) Hai năm sau cách mạng tháng Tám, sức sống tràn căng cùng với niềm hi vọng nhưng khó khăn chưa hề chấm dứt. Kẻ thù vẫn còn đó, chúng quyết không chấp nhận thua một dân tộc bé nhỏ nên bao nhiêu những vũ khí hủy diệt hiện đại, chúng mang vào trút xuống từng dải đất thân yêu. Người băng nẻo tuông qua lòng Bình Định Rứt quê hương như rứt tóc, rứt da Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga. (Bình Định 1947) Thế nhưng bom đạn hủy diệt càng khốc liệt bao nhiêu thì lại càng khơi dậy lòng yêu nước và sự căm thù hừng hực bấy nhiêu. Già, trẻ, gái, trai đều một lòng chống giặc. Từ những con người hiền lành, bình dị vô danh trở họ trở thành dũng sĩ: Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn. Gái quạt trấu cũng hóa thành dũng sĩ…. (Bình Định 1947) Để rồi hai mươi năm đất nước Bắc – Nam chia cắt, cả một đời người với nỗi nhớ quắt quay. Ngày chiến thắng, cứ ngỡ trong mơ. Trở lại quê hương sau cơn cách biệt, vui sướng đấy mà cũng không nén được nỗi ngậm ngùi: Tôi trở lại với mái đầu đốm bạc Bé u – ơ nhà lạ đón nhìn “ông” Láng giềng cũ quá nửa phần xiêu bạt Cả bầu trời cũng vợi hết mênh mông. (Bình Định 1975 – 1976) Tâm trạng ấy, tâm trạng của thời đại: sung sướng ngập tràn mà nước mắt rưng rưng. Thời gian không chờ đợi một ai, ngày trở lại thân quen, xa lạ, vui mừng mà cũng hờn tủi trong nhau: Mặt bè bạn đông dần quanh gác xép Trời rưng rưng, sông nước cũng rưng rưng Ngoài nghìn dặm, hai mươi năm cách biệt Lạ vẫn từng quen, hờn tủi vốn vui mừng. (Bình Định 1975 – 1976) Giải phóng rồi, thống nhất rồi, niềm vui của ngày sum họp vẫn còn đầy ắp trong nhau, nhưng trái tim nghệ sĩ của ông không dừng ngang đó, trái tim của những thổn thức đời thường đang quặn lên trước những hệ lụy của cuộc chiến đang diễn ra: Thị trấn bé cũng ngẩn ngơ lạc ngõ Áo rằn ri tả tước góc rào gai Vỏ chai, hộp găm đau lòng hố cỏ Tiếng xới tìm chiu chít trẻ con lai (Bình Định 1975 – 1976) Thị trấn bé nhỏ chắc chắn không thể nào xa lạ đến mức làm lạc ngõ người con mấy mươi năm vẫn đau đáu hướng về, mà cái lạc đây chính là hình ảnh “áo rằn ri” đang còn phất phơ nơi góc rào gai. Điều đáng nói hơn chính là chiến tranh đã đi qua nhưng một nỗi đau không hình hài đang vò xé những trái tim, hình ảnh “trẻ con lai” đang chiu chít nhặt tìm những gì có thể để bảo tồn cuộc sống. Chúng là những đứa trẻ vô tội nhưng chúng lại là nhân chứng của những đau thương, chúng vừa là hình ảnh của quá khứ lại vừa là hiện tại của tương lai bằng xương bằng thịt, một tương lai mà ông đã nhìn thấy chắc chắn rằng sẽ có nhiều xót xa. Một chặng đường thơ kết thúc, hàng trăm bài thơ đã ra đời, sức sáng tạo của người nghệ sĩ thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, thơ Yến Lan giai đoạn này không hẳn đã hoàn hảo, Chế Lan Viên đã nhận xét rằng : “Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt, chạy theo cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh, nhẹ tình, nặng hình thức mà rung động nhẹ” [110,tr.9] Thế nhưng nói đi rồi cũng cần phải nói lại Yến Lan không phải là trường hợp duy nhất mà “cả một giai đoạn dài từ thưở kháng chiến chín năm nhiều nhà thơ khi đạt được thực thì mất thơ, khi giữ được thơ thì mất thực” [78, tr.6] mặt khác như nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tiềm đã từng phát biểu rằng . “Khi Tổ quốc lâm nguy, nhà thơ đứng vào hàng ngũ cùng nhân dân chiến đấu, thì đương nhiên thơ chuyên chở phải là chủ yếu” [98, tr15] mà đã là thơ chuyên chở thì xúc cảm đôi khi khó song hành cùng hiện thực, từ đó ta thấy cái hạn chế nữa của Yến Lan trong giai đoạn này chính là cảm xúc bao quát toàn bài chưa đủ mạnh để thâu tóm các chi tiết vì thế bài thơ thường dàn đều và dễ bị kéo dài. Cái đóng góp lớn nhất của Yến Lan lúc này đó chính là những trang viết đầy ắp chất hiện thực từ muôn mặt đời thường của cuộc sống kháng chiến. Ông không giống như nhiều nhà thơ đương thời lấy hình tượng trung tâm là anh bộ đội cụ Hồ, là những phút giây huy hoàng nơi tiền tuyến mà nguồn mạch trong thơ ông chính là cuộc sống bình thường chung quanh, cho dù cuộc sống ấy đang ở thời kì nào của lịch sử. 50 năm sau những ngày bị phê phán bởi tư tưởng chưa thông, chưa dứt được con người cũ, năm 2007 Yến Lan và rất nhiều những văn nghệ sĩ ngày ấy đã được nhìn nhận một cách nghiêm túc về những đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà. Ba tập thơ : Những ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu và Lẵng hoa hồng được trao tặng giải thưởng cấp nhà nước về văn học nghệ thuật. Đó là một cách tri ân - dẫu muộn màng cho những năm tháng ông lặng lẽ dâng cho đời những tinh hoa của đời nghệ sĩ. Một bài thơ ở một thời điểm chiêm nghiệm nào đó, ông đã từng ví mình như một cây đu đủ lặng lẽ ở góc ao, khi bị trầy xước thì tự ứa nhựa để hàn vết thương và lặng lẽ dâng cho đời quả ngọt, không đòi hỏi, không đợi chờ một sự hàm ơn, đó là một đặc điểm để ta nhận ra Yến Lan chăng? Ứa nhựa hàn vết đau Tĩnh yên cành gió quật Quả đu đủ góc ao Lặng dâng đời quả ngọt. (Đu đủ) 1.3. Sau ngày thống nhất đất nước Sau ngày đất nước thống nhất. Những nhà thơ thuộc thế hệ Yến Lan bắt đầu bước vào lứa tuổi "tri thiên mệnh". Có nhiều người đã từng lừng vang trên thi đàn trước cách mạng, trong kháng chiến, nhưng đến giai đoạn này hầu như chẳng còn thấy tăm hơi, họ dừng lại cả trên thi đàn lẫn cuộc đời mà nói như Chế Lan Viên " Dữ dội lắm, Xuân Diệu gắng thế cũng chỉ 69 thôi" hoặc giả họ có cố gắng thì chỉ còn lại là những bài văn vần chứ hoàn toàn chẳng thấy hồn thơ. Còn Yến Lan thì sao? Thơ ông liệu còn níu được hồn người không? Tập thơ “ Cầm chân hoa” – giải thưởng văn học nghệ thuật Xuân Diệu – Đào Tấn năm 1997 của tỉnh Bình Định là kết quả của những tháng ngày ông tìm lại với thế mạnh của ông, thơ tứ tuyệt và một giọng tâm tình thủ thỉ về một việc nào đó trong đời thường, một hình ảnh gây xúc động hay một tâm sự riêng tư. “Sau 1975 thơ ca quay về với cái tôi trong muôn mặt đời thường, thơ trở về với tư duy “hướng nội”, các nhà thơ có ý thức đào sâu hơn vào bản thể tâm hồn” [25, tr889]. Yến Lan cũng vậy, sau khi hoàn thành trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, trở lại với cuộc sống đời thường ta lại bắt gặp một Yến Lan với cái tôi trữ tình đời tư đằm thắm. Đó là cái nhìn thảng thốt của người thợ dệt khi đang hoàn thành tấm vải may áo cưới cho cô dâu, sự thảng thốt về cái vô lí của kiếp nhân sinh: Để cho Người được xúng xính với tà áo đẹp trong ngày cưới, thì bao nhiêu kiếp Bướm đã phải cuộn mình trong tấm lụa, chúng mãi mãi không bao giờ được biết đến khu vườn đầy hoa lá với bầu trời cao rộng ngoài kia Vuốt xong sợi nhợ mắc vào go Cô gái bên khung bỗng sững sờ Cho đẹp vu qui tà áo cưới Bao nhiêu hồn bướm cuộn vào tơ. (Áo cưới ) Đó là tấm lòng, là tình thương bao la của người mẹ, lặng thầm gửi theo con trong buổi tiễn đưa, giấu giọt nước mắt, giấu sự yếu lòng bằng việc thản nhiên xuống ruộng cấy, sợ mình quyến luyến._.ật ? 3.3.2. Sau cách mạng tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, khi đất nước cần thì thơ Yến Lan thực sự đã gân guốc hơn khi phản ánh kịp thời những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Mặc dù vẫn chọn góc nhìn lặng lẽ, nhưng cảm xúc đã dẫn dắt để Yến Lan có được những vần thơ mang hơi thở chung của thời đại rực lửa đấu tranh. Với kẻ thù hùng mạnh và hiện đại thì cuộc chiến không phải ngày một ngày hai mà tất cả đã được Bác Hồ xác định là trường kỳ: năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn thế nữa, nhưng điều chắc chắn rằng ta phải đánh đuổi được giặc xâm lăng. Chính vì mục tiêu phục vụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến đó mà việc sắp xếp cuộc sống như thế nào, đòi hỏi một sách lược đúng đắn, sách lược đó chính là rời bỏ những thành phố trung tâm, lập những cơ sở sản xuất tại các làng quê hòng phục vụ cuộc chiến lâu dài của dân tộc. Những tiết tấu ngắn gọn, gieo vần liên tiếp, kết câu hầu hết bằng thanh trắc thể hiện được những hành động dứt khoát, khẩn trương và không kém phần chu toàn của cả một tập thể: Ra đi – ra đi, dốc trèo suối lội Tháo rời máy những xưởng đường , xưởng sợi Đe, búa vào rừng lập trại công binh Đến xứ dừa nương thế lá tre xanh Tước dó, giã rơm, đắp lò seo giấy Về những cánh đồng hạn khô chờ cấy Siết nồi hơi vặn chạy máy bơm Tiếp đường mòn qua bãi mía, nương thơm Sắp chữ, dập khuôn in đều sách báo Giữ vẹn màu xanh công nhân trên áo Sức cần lao dựng mới lại quê hương Cái ốc, hòn bi đem ráp máy, chuyển guồng Dây điện, lá tôn buộc che lều lán. (Những thành phố ra đi) Nơi nào cần phải rời bỏ và nơi nào cần phải bám trụ, tất cả đều là những quyết định sinh tử với từng người và với toàn bộ cuộc chiến. Yến Lan đã đến với biển, đến với môi trường hoạt động duy nhất của những ngư dân, để thấy được họ đã kiên cường như thế nào trong cuộc đọ sức với giặc, bất chấp lệnh cấm, bất chấp súng đạn, bất chấp cả thủy lôi: Này anh em ơi Tay lái đừng lơi Mở “đường tiếp máu” Ta chèo ra khơi… Lượn theo nồm, bấc Lênh đênh sóng dồi Khoang ta chở chật Cái ăn, cái mặc Hòm đạn, nồi hơi… (Bài ca những người bám biển) Bằng thể thơ 4 chữ, nhanh chắc gọn, đặc biệt khi cần thiến tiết tấu thơ rã ra 3 -1, hoặc 2-2 , nhịp thơ như những nhịp chèo gấp rút tránh tầm ngắm của kẻ thù, mang về “cái ăn, cái mặc” và cả những khí tài cần thiết cho cuộc chiến. Với một tinh thần đồng lòng và quả cảm như vậy thì chiến thắng tất yếu chỉ còn là thời gian. Chiến tranh kết thúc, Yến Lan lại trở về với cuộc sống đời thường. Thơ ông lại được trở về với góc tâm tình quen thuộc. Tuy nhiên, giai đoạn này Yến Lan tìm về với thể thơ truyền thống: thơ tứ tuyệt mà tác giả Lê Thiếu Nhơn đã nói khi đọc những tác phẩm mà ông sáng tác trong giai đoạn cuối đời này rằng “Nếu in trọn vẹn tuyển thơ này sẽ khiến những ai nao núng cách tân, ồn ào cải tiến thơ phải giật mình” [119]. Cái giật mình mà Thiếu Nhơn đề cập đến đó chính là nét chuẩn mực trong thể loại mà không phải nhà thơ nào cũng có thể đạt đến: Một chút nỗi niềm riêng của người con sớm mồ côi mẹ được thể hiện trọn vẹn trong thi pháp nghiêm ngặt của thơ tứ tuyệt: hiệp vần, phối thanh, ngắt nhịp, niêm, luật chặt chẽ. Bài thơ như một khúc ngân nhẹ nhàng mà thấm thía với bất kỳ ai cho dù có vô tâm đến mấy khi được thưởng ngoạn: Đò ngang gối bãi / bóng trăng lồng Chợ khuất sương chiều / bóng trẻ trông Ta ước như em / còn có mẹ Dẫu cùng đăm đắm / một ven sông (Chờ) Thơ xưa thường tìm mối giao hòa với thiên nhiên, Yến Lan đã để tâm hồn mình hòa nhập cùng vạn vật trong vũ trụ. Cảm nhận đến tận cùng một quy luật của tự nhiên: tình mẫu tử thiêng liêng và sự đau đớn khi mất mát chia lìa không phải chỉ dành riêng cho con người: Chiều qua / gió dập tổ chim non Mẹ mãi tìm mồi /để mất con Tối đến / nương sao / bươi cát sạn Nhặt từng mảnh vụn / của hoàng hôn. (Tìm con) Sự đồng cảm ở đây được tác giả thể hiện bằng nhịp điệu thơ trái với quy luật 4 -3 như thường thấy của thể loại này. Mặc dù vẫn cách gieo vần, phối thanh mực thước nhưng nhịp điệu ở đây là nhịp điệu của cảm xúc: 2 – 5; 4 – 3; 2 – 2 – 3; 4 – 3 cái bình thường xen kẽ với cái bất thường, sự xáo trộn đó lột tả hết nỗi lòng của chim mẹ và đồng thời tác giả thể hiện được sự giao hòa, đồng cảm đến trọn vẹn giữa con người với tự nhiên. Mỗi nhà thơ thường có một phương thức biểu hiện tạo ra nét riêng cho phong cách thơ của mình. Có thể Yến Lan không phải là người xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất trong việc tạo ra cái mới cho thơ Việt Nam từ những ngày đầu cũng như sau này. Nhưng với những tìm tòi và cách tân của ông: ngôn ngữ của cảm xúc, chuyển đổi cảm giác, những câu thơ vắt dòng hiện đại, những kiểu phối thanh hiệp vần tạo cảm xúc nhẹ nhàng sâu lắng cho thơ; tuy có những lúc có quá đà, khiên cưỡng nhưng nhìn chung hiệu quả nó mang lại cũng thật đáng trân trọng, đã góp phần vào thắng lợi của Thơ mới trong những ngày đầu và khẳng định vai trò vị trí của thơ ca trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong đời sống của văn học dân tộc sau này. KẾT LUẬN 1.Gần một thể kỷ sống và viết, Yến Lan để lại một sự nghiệp thi ca không phải là ít: gần hai mươi tác phẩm gồm nhiều thể loại từ thơ ca, truyện ngắn, truyện thơ đến dịch thuật…ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc cũng như của lịch sử thơ ca Việt Nam. Đi qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, trải qua suốt những biến động của những cuộc lột xác trong văn học Việt Nam, thơ Yến Lan cũng có những đóng góp nhất định. Với hướng tiếp cận nghiên cứu “Đặc điểm thơ Yến Lan”, luận văn một mặt khẳng định những nét riêng độc đáo của Yến Lan, mặt khác làm toát lên được những đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và thơ ca nước nhà nói chung. Như vậy, tìm hiểu về “Đặc điểm thơ Yến Lan” như một chỉnh thể nghệ thuật, luận văn đi vào tìm hiểu giá trị thơ Yến Lan trên ba phương diện: 1) Tư tưởng, tâm hồn. 2) Tài năng nghệ thuật 3) Những đóng góp cho văn học nước nhà. Qua nghiên cứu thơ Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của nó dưới cái nhìn tổng thể, chúng tôi đi đến kết luận sau: 1.1. Về nội dung, thơ Yến Lan thể hiện một con người có thái độ sống tích cực, luôn trân trọng cuộc sống của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trước cách mạng trong lúc hầu hết những bạn bè trang lứa của ông thường có thái độ bi quan trước thời cuộc và thậm chí trốn tránh thức tế bằng cách đi vào thế giới siêu thực, ma quái hoặc chìm đắm trong tình yêu thì ông vẫn cố tìm lấy mặt tích cực của cuộc sống, dù là nhỏ nhoi để tồn tại. Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, Yến Lan tích cực, xông xáo đi làm nhiệm vụ của một công dân đối với đất nước. Mặc dù có những lúc cuộc sống không thuận lợi, không như ý muốn chủ quan, nhưng Yến Lan vẫn thể hiện một tấm lòng hồn hậu, thủy chung, vẫn lạc quan tin yêu cuộc sống. Niềm tin yêu đó biểu hiện ở tình cảm chân thành của ông đối với những gì bình dị nhất diễn ra ở chung quanh mình. Mặt khác thơ Yến Lan còn thể hiện tình cảm gắn bó chân thành của con người đối với quê hương đất nước, đặc biệt là đối với miền quê chôn nhau cắt rốn của mình. Tình cảm đó được thể hiện tha thiết từ thuở mới chập chững bước lên thi đàn cho tới ngày xuôi tay nhắm mắt. Đó là sự gắn bó vô tư, chí thành và hồn hậu nhất. 1.2. Về phương thức biểu hiện. Yến Lan cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ sự đổi mới của văn học – trong xu hướng ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp. Có thể ông không phải là người tiêu biểu nhất, xuất sắc nhất trong việc tạo ra sự “đột phá” trong việc tìm ra cách biểu hiện thật mới cho thơ. Nhưng thực sự chúng ta không thể phủ nhận được sự đóng góp của ông cho những thắng lợi của phong trào Thơ mới ngày ấy và “chiến công”của thể loại thơ trữ tình cách mạng, trữ tình thế sự, đời tư sau này. Từ những khóm từ cảm xúc, cảm giác mới mẻ ngày ấy, đến những câu thơ vắt dòng hiện đại, chứa đựng nhiều thông tin trong một giai đoạn thơ cần phản ánh nhiều sự kiện và cuối cùng là sự phá cách trong phối thanh, gieo vần tạo nhạc điệu thơ biến hóa dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, trong sự cố gắng đổi mới của mình, đôi khi Yến Lan hơi lạm dụng gây ra sự tối nghĩa trong sử dụng từ ngữ và đơn điệu trong cảm xúc thơ. Đây có lẽ cũng chính là những hạn chế cơ bản trong thơ Yến Lan khiến cho sự nghiệp thơ có thể nói là đồ sộ của ông với những thành tựu cũng thật đáng trân trọng nhưng chưa được giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc. Tuy nhiên, những hạn chế này cũng không phải chỉ chủ quan do ông. 2. Mặc dù sự nghiệp cầm bút của Yến Lan kéo dài hơn nửa thế kỷ, ông cũng góp phần tích cực vào sự thắng lợi của Thơ mới nói chung và tiếng vang của nhóm thơ Bình Định ngày ấy nói riêng. Nhưng tên tuổi của ông thường lu mờ, có thể nói là bị chìm lấp đi trong khi các nhà nghiên cứu không tiếc bút mực khi viết về Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử - hai thành viên của nhóm. Có một nhà nghiên cứu nào đó đã nói rằng: “Cố ý để mà hiểu lấy tác giả. Vì lẽ rằng không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi mà góp vào sự xây dựng một cái tòa lầu nghệ thuật…” [114, tr120]. Yến Lan có nhỏ hay không? Thiếu kém hay là một nhà thơ lớn của văn học nước nhà? Thời gian đã và đang dần dần trả lời câu hỏi ấy. Chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng: Những gì Yến Lan đã làm và đóng góp cho văn học nước nhà thật đáng trân trọng. Chúng tôi xin mượn lời ông Nguyễn Thanh Mừng, Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định, trong bộ phim tài liệu “Yến Lan những trang đời còn lại” của Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng để một lần nữa nói lên cái vị trí của trong đời sống văn học Bình Định nói riêng, của Việt Nam nói chung: “Những vần thơ như khắc chạm, những vần thơ như có nét đặc trưng của đời sống văn hóa Bình Định. Yến Lan là một trong những bộ phận cấu thành của văn hóa Bình Định”. 3. Về thơ ca Yến Lan vẫn còn nhiều vấn đề để ngỏ, chưa được nghiên cứu, đặc biệt là mảng kịch thơ và thơ tứ tuyệt của ông. Để có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn cần có sự đóng góp, nghiên cứu của nhiều người trên nguồn tư liệu đầy đủ hơn. Trong điều kiện hạn hẹp về thơi gian và tư liệu, luận văn của chúng tôi chỉ tìm hiểu được phần nhỏ trong sự nhiệp thi ca của ông. Chắc chắn công trình của chúng tôi còn nhiều thiếu sót, người viết chỉ mong góp một phần nhỏ nào đó trong việc giữ gìn và tôn vinh vẻ đẹp của một hồn thơ bình dị, từ đó thể hiện lòng mong muốn tìm hiểu những vẻ đẹp trong thi ca dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thị Ân (2004), luận án “ So sánh đặc trưng từ vựng của Thơ mới với thơ truyền thống Việt Nam”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH KHXH và NV. 2. Thục Anh (2001), “Chuyện tình duyên của thi sĩ Yến Lan”, báo Phụ nữ 5/2001. 3. Hoài Anh (1999), “Yến Lan, ông lái đò trên Bến My Lăng giao cảm”, Văn số (97/ 1999). 4. Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng (1998), Phim " Yến Lan những trang đời còn lại". 5. Ban văn nghệ ĐTHVN - Mỗi tháng một chuyến đi, Phim " Ai về Bình Định mà coi". 6. Nguyễn Bao (1996), “Từ Bến My Lăng”, Tuyển tập thơ Yến Lan, NXB Văn học. 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Sách giáo khoa văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục. 8. Bộ giáo dục và đào tạo (2001), Thơ văn Lý Trần, NXB Giáo dục. 9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Sách giáo khoa văn học 10, tập 2, NXB Giáo dục. 10. Văn Cao (1957) “Lời giới thiệu”, tập thơ Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn. 11. Anh Chi (2003), “Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng”, Thơ, phụ bản báo Văn Nghệ (quý II/2003), (11). 12. Nguyễn Viết Chính (2006), “Yến Lan , những chặng đường thơ”, Báo Nông nghiệp (3/2006), (8). 13. Ngô Kim Cúc (2002), “Còn đò bến My Lăng”, Thanh niên,(11). 14. Võ Chân Cửu (1990), “Một ngọn đèn sót”, Báo xuân Bình Định, tr15. 15. Phan Cự Đệ (2007), “Văn học lãng mạn Việt Nam 30-45”, NXB Văn học, tái bản lần thứ 4. 16. Phan Cự Đệ - chủ biên- (2001), Lí luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX, NXB Đà Nẵng. 17. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học. 18. Lưu Nhi Dũ (1999), “Tình yêu, mùa xuân trong thơ Yến Lan”, Người lao động xuân 1999, tr26. 19. Lưu Nhi Dũ (2001), “Trĩu nặng một tình yêu”, Người lao động, (9/10/2001) 20. Hà Minh Đức (2001), Văn chương – tài năng và phong cách, NXB KHXH, Hà Nội. 21. Hà Minh Đức – Huy Cận (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (60 năm phong trào Thơ mới ), NXB Giáo dục. 22. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998),Lí luận văn học, NXB Giáo dục. 23. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục. 24. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca về phong trào Thơ mới 1932 - 1945, NXB KHXH, Hà Nội. 25. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX – viện văn học -, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 26. Khổng Đức (1998), “Tưởng nhớ nhà thơ Yến Lan”, Tạp chí Văn, (85). 27. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa, NXB ĐHQG tp. HCM. 28. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lí luận văn học, NXB ĐHQG tp.HCM. 29. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 – 1945, NXB Giáo dục. 30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục 31. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), luận án “Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH KHXH và NV. 32. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên) (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới. 33. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn. 34. Từ Quốc Hoài “Yến Lan cốt cách một đời thơ”, Bình Định xuân Kỷ Mão 99, tr15. 35. Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1996), Phim " Yến Lan - một Bến My Lăng " 36. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mac – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2006). Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 37. Hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định (2003), Tuyển tập thơ Bình Định thế kỷ XX, NXB Văn học. 38. Quỳnh Hương (2002), “Nàng thơ tuyệt với của thi sĩ Yến Lan”, Gia đình và xã hội, (2). 39. Thanh Huyền (2002), “Yến Lan bến sông và phố huyện”, báoVăn hiến (số 81). 40. Phan Huỳnh, Đào Đức Tuấn (1996), “Thi sĩ cuối cùng của “Bàn thành tứ hữu””, Phụ nữ chủ nhật, (Số 32), tr 8 – 9. 41. Nguyễn Thụy Kha (1998), “ Yến Lan – ngày cuối cùng lặng lẽ”, Văn nghệ, (37), tr5. 42. Nguyễn Thụy Kha (1996), “Về An Nhơn với Yến Lan”, Lao động, (55), tr5. 43. Khhrapchenko (1987), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. 44. Nguyễn Thị Lan (2006) “Trở lại Bến My Lăng”, báo Bình Định 22/9/ 2006. 45. Nguyễn Thị Lan (2001), Yến Lan – Nhớ mãi về anh, NXB Văn học. 46. Yến Lan (1957), Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn 47. Yến Lan (1987), Một vài tâm sự với các nhà thơ, Tham luận tại hội thảo thơ miền Trung từ 24 đến 27 - 7 - 1987. 48. Yến Lan (1962), Tôi đến tôi yêu, NXB Văn học. 49. Yến Lan (1968), Lẳng hoa hồng, NXB Văn học. 50. Yến Lan (1978), Giữa hai chớp lửa, NXB Văn học 51. Yến Lan (1987), Thơ, NXB Văn học . 52. Yến Lan (1991), Cầm chân hoa, NXB văn học nghệ thuật An Nhơn. 53. Yến Lan (1996), Thơ tứ tuyệt Yến Lan, NXB Hội nhà văn. 54. Yến Lan (1996), Tuyển tập Yến Lan, NXB Văn học. 55. Yến Lan (2006), Tuyển tập thơ tứ tuyệt, NXB Văn học, Hà Nội. 56. Yến Lan (1965), Thư Bác đời ta, bản chép tay, chưa xuất bản. 57. Mang Viên Long (2001), “Tình băng hữu trong thơ Yến Lan”, báo Bình Định 9/3/01. 58. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định nguyệt san số, (10/ 2002). 59. Mang Viên Long(1990), “74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến”, báo xuân Bình Định, tr15. 60. Mang Viên Long (2001), “Cuối năm thăm phòng lưu niệm nhà thơ Yến Lan”, Bình Định nguyệt san (12),(tr23.) 61. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định nguyệt san, (10), (tr21). 62. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng (1968), Thi nhân Việt Nam tiền chiến, quyển trung, Sống mới xuất bản. 63. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển hạ, NXB Văn học. 64. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình (1985), Lí luận văn học, (tái bản lần thứ 5), NXB Giáo dục. 65. Nguyễn Thanh Mừng (1998), "Bóng tà dương của một đời thơ", 50 năm nhà xuất bản văn học, NXB Văn học 1998, tr 442-443-447-449-450. 66. Nguyễn Thanh Mừng, “Đôi nét về thơ Bình Định qua phong trào Thơ mới 1932 – 1945”, Báo Bình Định. 67. Nguyễn Thanh Mừng (1993), “Năm tháng còn trên mấy đốt tay”, Bình Định nguyệt san xuân Quý Dậu, tr14. 68. Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang (2005), Huyền tích kinh xưa, NXB Khoa học xã hội. 69. Nguyễn Thanh Mừng (1991), “Nhà thơ Yến Lan với Nha Trang”, Tạp chí Nha Trang, (7). 70. Phạm Thị Ngọc, Vũ Nguyễn (2007), Điêu tàn- Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học . 71. Hồ Ngọc (1994), Tuyển tập kịch thơ, NXB Sân Khấu. 72. Bùi văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. 73. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và Văn hóa từ một góc nhìn, NXB Văn học. 74. Lê Thiếu Nhơn (1997), "Thi sĩ Yến Lan, một đời người, một đời thơ", Hải quan Việt Nam ,(109). 75. Ngô Văn Phú (2000), “Yến Lan, hồn thơ Việt”, Văn chương và người thưởng thức. NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 76. Ngô văn Phú (1998), “Nhà thơ Yến Lan”, Nhân dân (ngày 18/10/1998). 77. Bá Phùng (1998), “Yến Lan một bóng cau giữa rừng”, Thế giới mới, tr 75-76-77-78. 78. Vũ Quần Phương (2001), “Lời giới thiệu”, Yến Lan - Thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng. 79. Đào Xuân Quý, 1999, Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân 2003 80. Trần Huyền Sâm (2001) “Ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với phong trào Thơ mới Việt Nam (32 -45)”, Tạp chí văn học số (12),Tr 63. 81. Chu Văn Sơn (2000), “Thơ Điên của Hàn Mặc Tử thi học của cái tột cùng”, Tạp chí văn học (11). 82. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới, NXB Giáo dục. 83. Trần Đình Sử(2003), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục. 84. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà nội. 85. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục. 86. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB ĐHQG Hà Nội. 87. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu,NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 88. Quách Tấn (Quách Giao sưu tầm – biên soạn) (2000), Bóng ngày qua – về Bàn thành tứ hữu, NXB Văn nghệ. 89. Nguyễn Toàn Thắng (2006), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, NXB Giáo dục. 90. Hoài Thanh - Hoài Chân(2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học. 91. Trần Tiến Thành (2005), Thế giới nghệ thuật thơ Yến Lan, Luận văn thạc sĩ văn học, trường Đại học KHXH và NV. 92. Thanh Thảo(2004), Mãi mãi là bí mật , NXB Lao động, tr 73-74-75. 93. Thanh Thảo (1995), “Nhà thơ của một bến sông”, Bình Định nguyệt san, (5), tr21. 94. Lan Thư (1998), “Yến Lan – Những lời kể cuối cùng”, Văn nghệ trẻ, (99). 95. Đỗ Lai Thúy, 2000, Mắt Thơ, NXB Văn hóa thông tin. 96. Đỗ Lai Thúy, 1999, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc. 97. Lâm Bích Thủy (2007), “Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân”, Báo công an, (48),tr.15. 98. Nguyễn Vũ Tiềm (2000), Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, NXB Văn học. 99. Đinh Quốc Toàn (1992) “Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ”, Bình Định 10/4/ 92. 100. Đặng Tấn Tới (1998), Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san, (11), Tr20. 101. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm, Hoàng Văn Cẩn (1997), Lý luận văn học, Đại học quốc gia Tp. HCM, Trường Đại học sư phạm. 102. Trà Văn Tri (2002), “Yến Lan - Một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam và của tỉnh Bình Định”, Văn nghệ Bình Định ,(39). 103. Phan Lai Triều (1995), “80 xuân, Yến Lan”, Báo Phụ nữ, (3-6-1995). 104. Võ Văn Trực (1998), Gương mặt những nhà thơ, NXB Văn học. 105. Tô Đình Tuân (1996), “Yến Lan và tiếng gọi đò trên Bến My Lăng”, Kiến thức ngày nay, (206), tr 3-4-5-6-7-8. 106. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, NXB Giáo dục. 107. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ văn thế kỷ XI – XVI, Thơ Thiền Lý – Trần, NXB Văn nghệ tp.HCM. 108. Hưng Văn (1991), “Yến Lan vào tuổi 75: Vẫn còn trăng”, Sài Gòn giải phóng,(4955). 109. Huyền Viêm (2000), “Yến Lan với bến My Lăng huyền thoại”, Kiến thức ngày nay, (474). 110. Chế Lan Viên (1987), “Lời giới thiệu”, Yến Lan- Thơ, NXB Văn học. 111. Viện ngôn ngữ (1995), Từ điển Tiếng Việt, tái bản lần thứ 4, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng. 112. Viện văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 113. Đăng Vũ (1998), “Nhớ ông lão "Bến My Lăng"”, Báo Văn nghệ tháng 10/1998. 114. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 – 1945), NXB ĐHQG Tp. HCM. Các bài viết về Yến Lan trên Internet. 115. 116. 117. 118. 119. 120. www.baobinhdinh.com.vn/tuoithocuayenlan/3600A466 . 121. 122. 123. 124. PHỤ LỤC 1/ CA DAO TRUYỀN THANH CỦA THỌ LÂM (YẾN LAN). Cái dốt ra cổng mà treo Để cho nó mốc, nó meo lụi dần Cái khôn thì ấp trong chăn Qua cơn thức ngủ vẫn gần hôm mai Cái dốt ai rước mặc ai Cái khôn đi lạc hỏi đài tìm ra. ************************ Từ khi anh bạn đường dây Cái loa đóng cột dựng ngay giữa làng Thế là thơ, kịch, cải lương Sớm, trưa, chiều, tối rộn ràng lòng em. Đi cấy cúi mặt lặng im Giờ cảm đảnh mạ cất lên tiếng hò Đáp bạn, nói ngang như cua Giờ vào cuộc họp đắn đo từng lời Ngỏ tình, anh rủ đi chơi Em rào đón trước chuyện đời, chuyện ta Duyên em thêm nết thêm tình Chính nhờ các buối truyền thanh đắp bồi Ơn này, ơn Đảng anh ơi Đẹp người sẽ đẹp lứa đôi vợ chồng. ********************** Nghĩ xưa cha mẹ càng thương Biết đâu chớp bể mưa nguồn mà day Bây giờ sương đông, tuyết tây Bão trong lục địa, tố ngoài biển khơi Làng quê đã có tin đài Chỉ lo mưa nắng lòng ai – thất thường. ******************** Hoa cúc vàng, hoa trang đỏ thắm Khéo vun trồng, mãi ngắm lòng ưa Trên tường mắc một cái loa Đến giờ nó nảy tiếng tơ tiếng đồng Lắng tai nghe nhịp đời chung Âm thanh quyện với sắc hương đẹp nhà ******************** Ra đi chín chợ ba thành Học cô nâng giá,học anh tráo hàng Tưởng bở, mang cả về làng Hóa ra cái dại cầm bằng trắng tay Phải chi nghe lấy tiếng đài Ở ngay đầu ngõ nên bài học khôn ******************* Người ta câu bể câu sông Anh ngồi câu cá rồng rồng trong ao Rồng rồng chẳng chịu cắn câu Nó rỉa, nó rúc giây lâu mất mồi Nhắc anh học lấy sự đời Đừng hoài tai đón những lời rủ rê Tin đài ta phải lắng nghe. ******************* Hoa cau thơm nức vườn em Xưa anh tìm đến theo tìm mùi hương Đêm nay sững bước bên đường Cái loa đầu xóm cầm chân anh rồi Ước gì em đến sánh đôi Chung tai nghe vọng lời lời nước non ***************** Con trâu đạp phải cán mai Cái đầu chẳng gãy cho tôi lấy chồng Khen tôi giỏi việc cấy trồng Chỉ vì lý sự không thông bạn cười Mai này theo dõi tin đài Điều hay lẽ đẹp mở mày thử xem Dập dìu là gió cành chim. ****************** Mây mù ấp ngọn núi xa Lúc em xếp giỏ, lúc cha tháo bừa Chàng rể vừa dứt tiếng cưa Cô dâu xếp gọn guồng tơ né tằm Cơm chiều mẹ dọn lên mâm Cũng vừa sân, ngõ vang trầm tiếng loa Bát canh thêm ngọt lời ca Bản tin càng mặn tiếng cà giòn tan ********************** Con mèo lục đục mẻ rang Con cún tưởng mở nhạc vàng đến nghe Cu cườm trên chót đọt me Nhìn quanh vắng bạn tìm về trúc mai Lá hoa xao xuyến tiếng đài Thanh tao tiếng bổng, khoan thai giọng trầm Oanh kêu, nhạn hót, quyên ngâm Tươi vui mở hội ca cầm đón xuân. *********************** Câu dài gió thoảng qua tai Câu ngắn rành rọt thấm dai trong lòng Ngọn lửa thì phả hơi nồng Đám sương bàng bạc lạnh lồng tóc da Lời vàng thì của mẹ cha Lời lời châu ngọc cái loa đem về Em ơi, lẳng lặng mà nghe. *********************** Tìm em Nhơn Hậu, Nhơn Thành Em đang truyền đạt tình hình vụ đông Tìm em – Nhơn Hạnh,, Nhơn Phong Ngược lên Đập Đá, Nhơn Hưng tìm vào Em đang cất giọng ca dao Phổ điều chính sách thành câu ân tình Tìm em - Nhơn Thọ cây xanh Nhơn Hòa, Nhơn Lộc âm thanh còn lồng Tìm em chẳng phải nhọc công Nhơn Phúc, Nhơn Mỹ thêm nồng hơi tăm. Tìm em cuối tháng, cùng năm Dẫu khi nắng hạn mưa dầm vẫn ra Biết em chẳng lúc nào xa Nhưng yêu em, cứ nhẩn nha đi tìm. ********************** Em về manh hết theo đi Đôi chân em bước, đôi tay em cầm Lưng, vai nắng dãi, mưa dầm Môi hồng, mắt biếc âm thầm đợi duyên Chỉ mong em để làm tin Đôi tai lắng bấy lời khuyên, ghi lòng Ở đây đài điện đã thông Phổ câu hát ngọt, phổ dòng ca vui Phổ niềm tin Đảng xây đời Nên khung hạnh phúc ghép đôi chúng mình. ************** 2/ Từ ngày 24 đến 27 -7-1987, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức hội thảo thơ miền Trung tại thành phố Nha Trang. Hội nhà văn tỉnh Nghĩa Bình đã tham dự. Yến Lan đã được mời phát biểu tại hội thảo. chúng tôi xin trích dẫn một vài ý trong phát biểu của ông: “… Chớ lấy tuổi tác, giai đoạn lịch sử mà phân biệt cũ mới. Đó là một sai lầm. có phải bao giờ cái cổ hủ cũng thuộc về người già, về thời buổi trước, mà cái tân tiến là sản phẩm đặc trưng của tuổi trẻ. Một điều đáng phấn khởi là gần đây, thơ đang ngày càng tập hợp lại thành lực lượng đông đảo và rầm rộ tiến quân vào những mảnh đất mới, đầy kỳ thú mời khai phá. Tiến quân về cả những chân trời xa, rất xa. Thơ đi gặt hái và cả gieo trồng. xin các nhà thơ chúng ta hãy sáng mắt sáng lòng để sớm phân biệt được mật hương và gai góc. Đừng nhầm lẫn cái mới và cái lạ. cái mới là cái phải chắt lọc từ bao nhiêu cái đã có để thay thế. Cái lạ là cái được thấy lần đầu, nhưng thường là lạ ở chỗ này nhưng lại nhìn quen ở chỗ khác. Hơn nữa, thể hiện cái lạ chưa sành, thường làm cho nó thành ra lố lăng, lai căng và méo mó. Lại cón có cái dễ dãi nữa. Xin hạn chế sản sinh ra những bài thơ chỉ đọc qua một phần, một nửa hay may mắn lắm là một lần, rồi không nhớ gì nữa. chúng ta đi tìm cái mới, có bạn lứa đông vui. Tất nhiên ở loại hình nghệ thuật nào cũng thế, thường do xu hướng cảm thụ, có khi do ngẫu hứng nhất thời, đã tự phát nảy sinh ra thành trường phái. Trường phái chính thống thường nhắm vào mục đích thay đổi hình thức và tư duy của một nền thơ ca nào đó đã thành lì mòn, nhạt nhẽo đối với thời thượng. có khi chỉ một số ít người được tài năng ưu đãi, xướng lên rồi thành trường phái. nói chung lại tôi rất đồng tình thơ có trường phái nhưng đừng biến thành bè phái. Mà bè phái như các bạn thấy đó, tự bản thân nó đã gây ấn tượng không hay rồi. Điều này quan trọng lắm đấy các bạn ạ, bè phải vốn là nơi sản sinh ra nhiều tiêu cực mà cũng có lúc khó thấy, tác động vào nội dung của tác phẩm, nó gây ra chia rẽ hoặc tân bốc nhau, dần nghiêng về những việc phi văn hóa, văn nghệ để phục vụ cho lợi ích cá nhân và dần đi xa chức năng tác phẩm. không nói đến những chức năng của thơ hiện nay chúng ta làm kim chỉ nam để sáng tác, đã lâu đời, thơ đã được đánh giá là một sán phẩm có bản chất thanh cao, vì vậy mà người có phong độ dùng thơ để di dưỡng tính tình để nâng cao phẩm chất. chẳng lẽ người làm ra sản phẩm có phẩm chất thanh cao ấy lại để sa sút phẩm chất của mình….”. 3/ CÒN MÃI NHÀ THƠ YẾN LAN. (Nhà thơ Hữu Thỉnh – Phó tổng thư kí thường trực Hội Nhà văn Việt Nam – đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan, tổ chức ở Hà Nội, ngày 8 -10 – 1998.) Hôm nay Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản văn học, các nhà văn và nghệ sĩ có mặt tại Hà Nội cùng đội ngũ những người cầm bút và bạn đọc của cả nước hướng về Qui Nhơn, thương tiếc đưa tiễn nhà thơ Yến Lan, nhà thơ xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam, một người con thân yêu của quê hương Bình Định về nơi an nghỉ cuối cùng… Ngay từ thuở nhỏ Yến Lan đã vừa học vừa làm, chăm sóc cha mẹ. năm mới sáu tuổi đã mồ côi mẹ, Yến Lan luôn khao khát tình mẫu tử, khao khát tình thương yêu, trìu mến của gia đình, quê hương. Ngay từ trên ghế nhà trường, thi sĩ Yến Lan đã hăng say học tập, viết báo làm ca kịch, làm thơ và tham gia các hoạt động xã hội như việc quyên góp cứu trợ cho đồng bào Thanh Nghệ Tĩnh trong nạn đói 1934. Tài năng của Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan (bút danh là Xuân Khai)được thưởng giải cao của báo Thanh - Nghệ - Tĩnh khi Yến Lan chưa đầy hai mươi tuổi. truyện ngắn của Yến Lan liên tục được giới thiệu trên các tờ Tiểu thuyết thứ Hai, Tiểu thuyết thứ Năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông… Cùng với Tế Hanh và nhiều cây bút đương thời, Yến Lan đã có những đóng góp lớn cho nền văn học và đã trở thành bậc thầy mẫu mực cho nhiều các thế hệ nhà văn noi theo". 4/ Một số hình ảnh tư liệu về nhà thơ Yến Lan. 1:Yến Lan và dịch giả Thúy Toàn tại NXB Văn học. 2:Yến Lan (đứng, thứ 2 từ phải sang) cùng với các văn nghệ sĩ trong thời gian đi lao động thực tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc. 3: Bãi bồi, bến sông Côn, hình ảnh đôi “my tằng lăng” mà sau này vào thi phẩm Yến Lan chính là Bến My Lăng 4: Sông Côn – nỗi nhớ niềm thương của Yến Lan. H:5. Cửa Đông thành Bình Định, Chế Lan Viên gọi là “Lầu tư tưởng”. Đôi bạn thơ Yến Lan và Chế Lan Viên thường lên “lầu tư tưởng” này ngắm tháp Chàm và bàn luận chuyện đời, chuyện thơ. H:6. Cửa Đông thành Bình Định ngày nay. Ảnh của: Thiên Lộc. H:7. Từ trái qua Yến Lan, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử tại lầu cửa Đông thành Bình Định . H:8.Yến Lan qua báo chí, gia đình lưu giữ. H9.Nơi yên nghỉ của nhà thơ Yến Lan. H10, 11. Phòng lưu niệm tại quê nhà: 19 Quang Trung, An Nhơn, Bình Định . Nhà thơ Yến Lan (1916 – 1998 ) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7401.pdf
Tài liệu liên quan