BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________
TRẦN THANH BÌNH
ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA THƠ CA
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TÁC ĐỘNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ NGỌC TRÀ
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thực tế sáng tác và tiếp nhận thơ ca từ xưa đến nay cho thấy, mặc dù xã
hội phát triển ngày một văn minh hơn, mặc dù bây giờ nhân loại đang bước vào
thời đại của công nghệ kỹ thuật cao,
160 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2441 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và mặc cho người ta không ngừng đổi thay
những quan điểm về thơ ca do những ý thức hệ tư tưởng khác nhau của những thời
đại khác nhau chi phối, thì thơ ca vẫn tồn tại bên cạnh con người như một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu. Cuộc sống càng xô bồ, càng làm con người mệt mỏi thì
con người lại càng muốn giải phóng tinh thần mình ra khỏi quy luật sinh tồn - diệt
vong của thế giới vật chất để tìm về với nghệ thuật. Thơ ca vẫn là nơi để người ta
trở về. Thơ ca vẫn là tri âm tri kỷ của con người.
Nhưng do đâu mà thơ ca có sức hút mạnh mẽ như vậy? Cái gì đã kéo người
ta đến với thơ? Cái gì đã khiến người ta phải sáng tác và đọc thơ như một nỗi đam
mê không cưỡng lại được? Là một người yêu thơ, tôi luôn bị những câu hỏi ấy ám
ảnh. Và rồi nỗi ám ảnh ấy thôi thúc tôi đi vào thế giới thơ để tìm câu trả lời. Đề tài
“Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động” là một hướng nghiên
cứu những căn cơ của việc sáng tác thơ và những đặc điểm nghệ thuật trong thơ mà
thi nhân đã sử dụng như một thủ pháp để chuyển tải thông điệp từ trái tim mình
đến với độc giả để tác động đến lý trí và cảm xúc của họ. Trong phần nghiên cứu
một tác gia điển hình cho xu hướng thơ tác động, chúng tôi chọn nhà thơ Tố Hữu
bởi những đóng góp to lớn của ông dành cho thơ ca và cách mạng Việt Nam.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong sáng tác và trong cả hoạt động nghiên cứu, thơ ca không còn là một
lĩnh vực thần bí. Trên thế giới và ở Việt Nam, đã có không ít các công trình nghiên
cứu về lý luận thơ ca, từ những công trình tầm cỡ thế giới như "Nghệ thuật thi ca"
của Aristote, "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp hay "Tùy viên thi thoại" của Viên
Mai đến những công trình nghiên cứu của các nhà lý luận phương Tây và của các
nhà lý luận Việt Nam… Mặc dù đã khai thác bao quát hết các vấn đề thuộc về đặc
trưng, bản chất, chức năng hoặc có cả kinh nghiệm sáng tác thơ, nhưng các công
trình ấy không dừng lại tìm hiểu thi pháp của thơ như một hình thức nghệ thuật có
khả năng tác động vào công chúng độc giả. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thu thập được
ở những tác giả ấy những ý kiến khẳng định ý nghĩa tác động của thơ ca từ những
góc nhìn khác nhau:
Từ góc nhìn của các nhà lý luận và sáng tác:
Trong tác phẩm "Dẫn luận nghiên cứu văn học", Pospelov cho rằng "các
tình cảm của nhà thơ trữ tình có uy lực "lây truyền" người đọc, trở thành tài sản
tinh thần của người đọc" [114, tr.332]. Công trình của ông khám phá đặc điểm của
tác phẩm trữ tình từ góc nhìn đặc điểm cấu trúc của lý luận truyền thống qua việc
nghiên cứu các đối tượng, nội dung, các dạng thức của trữ tình, đặc điểm biểu cảm
của lời văn trữ tình… và chỉ dừng lại ở những đặc điểm chung nhất của thể loại trữ
tình chứ không đi sâu vào đặc trưng thi pháp hoặc những hình thức có khả năng tác
động của thơ ca.
Nhà nghiên cứu V. Skholovskij trong bài viết "Nghệ thuật như là thủ
pháp" cho rằng thủ pháp "lạ hóa" trong tác phẩm nghệ thuật giúp người ta “trở lại
cảm giác về cuộc sống, để cảm nhận được các sự vật, để làm cho hòn đá thành hòn
đá (...). Mục đích của nghệ thuật là đem lại cảm nhận về sự vật như đã nhìn thấy
mà không phải đã nhận biết nó; thủ pháp của nghệ thuật là thủ pháp biệt hóa các
sự vật và là thủ pháp tạo ra một hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó
hơn và dài hơn, vì quá trình cảm thụ trong nghệ thuật mang mục đích tự thân và
phải kéo dài ra; nghệ thuật là sự cảm nhận cách làm ra sự vật, còn cái được làm ra
trong nghệ thuật thì không quan trọng” [151, tr.150]. Mặt khác, Skholovskij cũng tán
đồng ý kiến của Aristote yêu cầu ngôn ngữ thơ phải có tính chất xa lạ, gây kinh
ngạc và theo ông, một trong những yếu tố gây tác động đến người đọc là mặt ngữ
âm và nhịp điệu của thơ.
M.B. Khrapchenko trong bài "Sức sống vĩnh cửu những thuộc tính và chức
năng nội tại của tác phẩm văn học", sách "Những vấn đề lý luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học" đã quan tâm sâu sắc đến những biểu hiện nghệ thuật tạo
nên giá trị nghệ thuật và của một tác phẩm văn học: "nhà văn không đơn giản chỉ
làm cái việc truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện
nghệ thuật của mình, anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho
chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả" [68, tr.177].
Nhà phê bình văn học Đức M. Reich – Ranicki trong bài viết "Một lời biện
hộ cho thơ" đã đưa ra những lập luận khác nhau về việc có hay không hữu ích của
thơ đối với đời sống con người. Ông cũng cho rằng "thi ca có lúc có khả năng – cho
dù không thay đổi được ngay thế giới – song có thể làm cho thế giới đó trở nên dễ
chịu hơn (…), có thể lay động con người khỏi trạng thái thờ ơ, và thậm chí có thể
đánh bật nó khỏi những lối mòn tư duy cố hữu" [118, tr.72]. Bài viết của ông góp
phần khẳng định khả năng tác động của thơ ca, tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu các
hình thức tác động cụ thể.
Trong công trình "Hệ thống kết cấu lý luận "Thi ngôn chí", Cổ Phong đã
bàn đến 8 chức năng của thơ ca trong đó có chức năng giáo dục. Ông đã đồng tình
với ý kiến của Khổng Dĩnh Đạt, Dương Duy Trinh, Ba Nhật Hưu… khi nói về khả
năng giáo huấn con người của thơ và cho rằng "thơ nói chí, chí lại có khả năng cảm
hóa, giáo dục con người" [189, tr.36].
Lê Ngọc Trà trong "Lý luận và văn học" khẳng định: "Nghệ thuật trở
thành một phương tiện tác động quan trọng và có hiệu quả chính là nhờ những đặc
điểm vốn có của nó. Bản chất của nghệ thuật là tình cảm. Đánh vào tình cảm là tác
động vào khâu then chốt để lay chuyển con người", "trong quá trình tác động để cải
biến con người, tác phẩm nghệ thuật hiện ra không phải như người thầy, nhà thuyết
giáo mà như là người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc, với khán giả", "nghệ
thuật ảnh hưởng đến con người lâu dài, dần dần và tác động theo kiểu lây lan" [157,
tr.109 - 111].
Bàn về các yếu tố thơ, trong quyển "Lý luận và văn học, vấn đề và suy
nghĩ", Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương cho rằng "nhịp, sự trở đi trở lại đều
đặn làm cho bài thơ tác động đến người đọc theo từng làn, từng đợt sóng, một cách
nhịp nhàng, liên tục, khiến con người như bị cuốn đi, rơi vào trạng thái đê mê. Nhịp
có tính "ru người", tạo chất "say" cho thơ" [40, tr.83]. Cũng trong tác phẩm này,
Huỳnh Như Phương quan tâm đến mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, ông đã
bàn đến chức năng giao tiếp như một “sự tác động qua lại giữa người viết và người
đọc” [40, tr.140].
Trong "Thi pháp hiện đại", Đỗ Đức Hiểu cũng thừa nhận khả năng tác
động của thơ ca rất mạnh mẽ: "Nhà thơ càng tài năng, những làn sóng âm vang
càng nhiều, càng rộng, có khi không bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỷ" [49,
tr.70].
Trần Đình Sử trong tiểu luận "Những thế giới nghệ thuật thơ" đã cho
rằng khả năng tác động như là một đặc điểm nổi bật của thơ cách mạng: "Thơ văn
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng có một sức tác động lớn
trong đời sống tinh thần người Việt Nam (…). Đặc điểm của thơ ca cách mạng là
gắn chặt với phong trào đấu tranh cách mạng, là vũ khí đấu tranh của phong trào
đó. Tính chiến đấu là đặc điểm nổi bật được các nhà thơ cách mạng ý thức rất rõ"
[122, tr.94]. Nhìn dọc theo chiều phát triển của tư duy nghệ thuật từ thơ cổ điển, lãng
mạn, tượng trưng, đến thơ cách mạng, Trần Đình Sử đã thấy rõ khả năng tác động là
một thành công lớn của thơ cách mạng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở những
nhận định đó chứ không đi vào nghiên cứu cụ thể hệ thống thi pháp có khả năng tác
động.
Đinh Gia Trinh trong "Hoài vọng của lý trí", khi bàn về trách nhiệm của
các văn sĩ và nghệ sĩ, đã khẳng định: "Sức cảm hóa của văn chương và của nghệ
thuật là một điều hiển nhiên. Những kẻ khinh sự truyền bá tư tưởng bằng văn
chương, coi những trang sách như một vang bóng vô ích chỉ là những kẻ xét đoán
hẹp hòi" [161, tr.52, 53]. Và khi đọc "Xuân thu nhã tập", ông cũng cho rằng: "Bởi
nhạc điệu, bởi sự hòa hợp âm thanh, bởi màu sắc của hình ảnh, tức khắc lời thơ đọc
lên "mê hoặc" ta, làm ta đắm say. Cốt thơ chính là có cái năng lực cảm hóa ấy, cái
năng lực làm người ta rung động… Thi sĩ là người khơi nguồn lưu thông cái run
rẩy huyền diệu của Thơ, mình cảm, mình rung động, rồi lựa lời, lựa âm thanh, điều
hòa màu sắc làm người ta cảm, người ta rung động, đem cái run rẩy huyền diệu
làm tràn sóng sang người đọc" [161, tr.201].
Công trình lý luận về thơ "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại" của Hà Minh Đức bàn đến nhiều vấn đề của thơ ca Việt Nam, trong đó, ông có
viết: "Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là lời ca chiến đấu, giàu ước
mơ và khát vọng", "nhà thơ không chỉ nhân danh mình để nói lên một điều gì, mà
chính là nhân danh xã hội, nhân danh đất nước, nhân danh giai cấp", "quan điểm
chính trị bộc lộ công khai và trực tiếp trong thơ tạo nên chất thép, chất chiến đấu
của thơ ca. Các nhà thơ với vị trí chiến đấu của người công dân giác ngộ lý tưởng
luôn có dụng ý lấy thơ ca làm vũ khí tuyên truyền trực tiếp những tư tưởng chính trị
nhằm động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng" [34, tr.103].
Và trong "Bình luận văn học", Như Phong cũng viết: "Văn nghệ không thể
tự coi là đã mãn nguyện, nếu nó chỉ làm cho người ta đứng ở ngoài cuộc mà phân
biệt đúng sai, mà còn phải lôi người ta vào trong cuộc đập tan cái lãnh đạm bàng
quan của họ, gọi dậy ở họ những sức mạnh vẫn ngủ yên, làm cho họ có thái độ tích
cực trước cái gì đáng yêu hoặc đáng ghét, gây cho họ ý thức và ý chí đấu tranh để
tiêu diệt cái gì hoặc bảo vệ cái gì. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ
cũng làm cho người đọc xong, ra khỏi tác phẩm ấy, không còn nguyên như trước
nữa, không thể sống yên với chính mình, vì đã yêu thương hay căm thù tột độ, cần
phải giải quyết vấn đề trên đời sống thật, cần phải hành động" [110, tr.244].
Trong quá trình tìm hiểu "Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam
(1945 – 1995)", Vũ Văn Sỹ đã khẳng định: "Về hình thức, văn học cách mạng vẫn
chủ yếu là thơ ca tuyên truyền, vận động và thơ ca tâm sự giác ngộ", "thơ không
còn là của riêng, đựng trong "túi", trong "bầu" mà là một thứ vũ khí kháng chiến, là
tài sản tinh thần chung của nhân dân. Sứ mệnh cao cả của thơ ca là phụng sự nhân
dân, phụng sự đất nước" [126, tr.43, 56]. Chuyên luận của ông tập trung nghiên cứu
những hình thức nghệ thuật đặc thù của thơ ca trong mối tương quan mật thiết giữa
sự vận động của xã hội và sự phát triển của thơ ca.
Mã Giang Lân trong khảo luận "Tìm hiểu thơ" có viết: "Chúng ta có tiếng
nói trữ tình quen thuộc kết hợp một cách nhuần nhị, tự nhiên với chất tự sự; khi cần
thiết vận dụng châm biếm, đả kích để đánh kẻ thù có hiệu quả hơn. Đến kháng
chiến chống Mỹ thơ có thêm tiếng nói chính luận đanh thép sắc sảo, có sức thuyết
phục, lay động mạnh tạo nên âm hưởng hùng tráng và vẻ đẹp sử thi" [80, tr.103, 104].
Tuyển tập phê bình tiểu luận "Tiếng vọng những mùa qua" của Nguyễn
Thị Thanh Xuân có bài viết về văn học kháng chiến ở Nam Bộ. Bàn về thơ ca giai
đoạn này, bà khẳng định: "Thơ ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn
học ở chiến khu Nam Bộ, cả về số lượng lẫn chất lượng". "Nội dung của thơ ca giai
đoạn này là ca ngợi cuộc kháng chiến, lên án sự tàn bạo của quân thù, biểu dương
những tấm gương anh hùng của nhân dân và kêu gọi những người đi theo giặc trở
về với chính nghĩa" [175, tr.225].
Lê Thành Nghị trong tác phẩm "Văn học sáng tạo và tiếp nhận" cho rằng
hiệu quả tác động của tác phẩm là tất yếu khi người cầm bút cố gắng và không bị
hạn chế trong việc "sử dụng những biện pháp hiệu quả nhất, kể cả các biện pháp
của các phương pháp sáng tác phi hiện thực như lãng mạn, viễn tưởng, huyền
thoại… miễn là tất cả sự vận dụng và tìm tòi nghệ thuật này nhằm đạt đến tính chân
thực thuyết phục của hình tượng văn học, đạt đến hiệu quả cao nhất trong việc tác
động vào tư tưởng và tình cảm người đọc" [101, tr.58].
Trong tiểu luận "Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy", Xuân
Diệu viết: "Có một cái gì rất lôi cuốn trong bộ phận thơ cách mạng viết theo nhạc
điệu thơ truyền thống; bây giờ chúng ta tuyên truyền, cổ động, hô hào, nhưng các
bài hịch của ông cha ta kêu gọi đánh giặc, kêu gọi đi theo, chính nghĩa, đã mở lối
văn, hơi văn chiến đấu ấy" [20, tr.55]. Trong cái nhìn này, Xuân Diệu nhận thấy rõ
thơ ca cách mạng "có rất nhiều bài cổ động: Em khuyên chị, chị khuyên em; cổ
động binh lính; cổ động học sinh, thanh niên; cổ động công nhân; cổ động dân cày;
cổ động dân nghèo làm cách mạng; hiệu triệu đồng bào đánh đuổi đế quốc Pháp;
kêu gọi quốc dân, và rất nhiều bài cổ động phụ nữ"…[20, tr.56].
Trúc Chi trong "Ba mươi năm một nền thơ cách mạng" cho rằng: "Thơ
đã trở thành sự sống cho xã hội một cách thực sự. Vũ khí của thơ là ở chỗ đó. Cách
mạng đã trả về cho thơ một nhiệm vụ nặng nề là góp phần xây dựng cuộc sống, xây
dựng con người, làm thức dậy những tình cảm cao thượng và chiến đấu cho một lẽ
sống công bằng đạo lý" [13, tr.130].
Trong giáo trình "Đại cương Mỹ học", Tạ Văn Thành cũng có cùng ý kiến
như trên: "Nghệ thuật tác động tổng hợp đến trí tuệ và trái tim, và không một ngõ
ngách nào của tâm hồn con người mà nghệ thuật lại không thâm nhập được", "bằng
cách giáo dục cho con người về nhiều mặt và tác động cả vào tình cảm lẫn lý trí
con người, cổ vũ họ đấu tranh cho những lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nền nghệ thuật
chân chính thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng là chức năng cải tạo xã
hội" [140, tr.104, 105].
Đông La trong "Biên độ của trí tưởng tượng" cho rằng: "Thơ ca không
chỉ tạo nên sự xúc động, sự khoái cảm, sự tâm đắc mà còn gợi nên những suy tư,
những trăn trở, ý thức trách nhiệm lớn lao đối với đồng loại" [70, tr.98]. Nguyễn Thị
Dư Khánh với "Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường"
có phần bàn về mục đích của môn Ngữ Văn, trong đó, theo bà, "thơ trữ tình là loại
tác động trực tiếp và sâu xa hơn cả" [63, tr.133].
Trong cuộc hội thảo về “Văn học và hiện thực”, “Phản ánh hiện thực là
chức năng hay thuộc tính của văn học?”, các nhà nghiên cứu lý luận cũng bày tỏ
mối quan tâm về khả năng tác động của tác phẩm. Từ quan điểm thông báo, Hoàng
Ngọc Hiến cho rằng “tác phẩm văn học phải truyền cho người đọc ham muốn cải
tạo hiện thực cuộc sống” [45, tr.6], còn Nguyễn Huệ Chi thì thừa nhận chính sự tự do
sáng tạo và tài năng nghệ thuật của tác giả đã tạo nên sự giao cảm kỳ diệu và “đánh
thức dậy trong người đọc một thế giới bí ẩn chưa từng biết trong hiện thực” [11,
tr.14].
Trong các công trình nghiên cứu, các giáo trình lý luận văn học, khả năng
tác động của thơ được nói đến từ góc nhìn về chức năng của văn học. Trần Đình Sử
trong "Lý luận và phê bình văn học" cho rằng: “Văn học vừa khơi gợi khoái cảm,
mở mang trí tuệ, dạy khôn con người, vừa thức tỉnh lương tri, lương tâm, dạy con
người biết yêu thương, căm giận…” [123, tr.216], giáo trình "Lý luận văn học" do
Phương Lựu chủ biên thì nhìn nhận “văn học có tác dụng khách quan là có thể tác
động vào đời sống tinh thần lý trí, tình cảm con người” [91, tập 1, tr.221] và khi nhìn
từ đặc điểm thể loại thơ, tác giả cũng khẳng định: “thơ trữ tình công dân có sức tác
động mạnh mẽ… khi nhà thơ lấy tư cách công dân cổ vũ và ca ngợi…, lên án và
đấu tranh…” [92, tr.364]. Các giáo trình Lý luận văn học trong phần trình bày chức
năng của văn học, thường xem chức năng tác động là một trong những chức năng
của văn học, dù đôi khi lồng nó vào chức năng giáo dục hoặc giao tiếp.
Các bức thư của ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam gửi
Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, III, IV đều có nhấn mạnh tác dụng của văn
học: “Mỗi tác phẩm văn nghệ phải có tác dụng rọi ánh sáng mới vào nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của xã hội, cổ vũ nhân dân phấn khởi tiến lên” [4, tr.17]. Đó cũng là
mối quan tâm sâu sắc đến việc thơ văn phải phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái
mới, quan tâm đến tác dụng giáo dục tư tưởng và truyền cảm sâu sắc của tác phẩm
nhằm góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển.
Từ góc nhìn của các nhà ngôn ngữ học:
Gần đây, việc nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ
học Việt Nam quan tâm. Đã có Mai Ngọc Chừ với "Tìm hiểu vần thơ Việt Nam"
(1986), Bùi Công Hùng với "Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca" (1989), Phan
Ngọc với "Tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều"
(1985), "Cách giải thích Văn học bằng ngôn ngữ học" (2000), Nguyễn Phan Cảnh
với "Ngôn ngữ thơ" (1987), Hữu Đạt với "Ngôn ngữ thơ Việt Nam" (1993), Triều
Nguyên với "Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ" (2006)... Mỗi một người có
những đóng góp khác nhau vào cái nhìn tổng thể của ngôn ngữ học đối với thơ ca.
Qua đó, và qua các tác phẩm khác, vấn đề tác động của thơ cũng được nhìn nhận.
Trong "Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa", Hoàng Tuệ cho rằng vấn
đề phong cách trong văn chương thực chất là "một sự tạo nghĩa", nhưng cần nhấn
mạnh rằng đó là một sự tạo nghĩa đặc biệt, trong sự giao tiếp xã hội bằng nghệ
thuật, nhằm tạo nên một tác động đặc biệt" [164, tr.23].
Phan Ngọc thì nhìn thấy khả năng tác động như là một thuộc tính của thơ.
Trong quyển "Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ", ông viết: “Thơ là một
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm
xúc và, phải suy nghĩ…” [102, tr.29]. Theo ông, sở dĩ, có những câu thơ được nhớ đến
hàng ngàn năm là nhờ cách tổ chức ngôn ngữ của nó.
Trong "Phong cách học Tiếng Việt", Đinh Trọng Lạc cho rằng “tính cụ
thể hóa nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật. Nó giải thích
bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc (...). Sự cụ thể hóa nghệ
thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ (...),
do đó, thơ đặc biệt sử dụng biện pháp trùng điệp ở các cấp độ để nhấn mạnh, để
xoáy sâu những ý tình, những hình tượng mà nhà thơ cho là quan trọng” [71, tr.154,
158].
Công trình "Ngữ pháp của thơ" của Nguyễn Thế Lịch đã nghiên cứu các
hình thức nghệ thuật như những đặc điểm ngữ pháp của thơ được các nhà thơ
thường xuyên sử dụng. Đó là con đường "từ ngữ liệu thơ ca rồi khái quát thành mô
hình của "ngữ pháp thơ" [84, tr.16]. Bài viết trình bày lần lượt các vấn đề về đơn vị
của ngữ pháp thơ, việc sử dụng các dấu câu, hiện tượng tỉnh lược thành phần, dùng
cấu trúc đối, đảo, điệp, sử dụng hạn chế các hư từ, cấu trúc dòng thơ và bài thơ, các
kiểu câu cảm thán, câu hỏi tu từ, sự kết hợp bất thường, sự đổi mới cấu trúc câu
thơ… Ông thừa nhận trùng điệp là một dạng thức tác động hiệu quả vào tình cảm
của người đọc: “hai tiếng “khi mô” (trong bài "Tiếng hát sông Hương") được nhắc
lại mấy lần để xoáy sâu vào lòng người đọc nỗi day dứt, lòng mong mỏi ngày được
giải thoát khỏi cuộc đời ô nhục của cô gái trên sông Hương” [84, tr.59]. Tuy nhiên,
công trình này không đi sâu sát vào các đặc trưng ngữ pháp có xu hướng tác động.
Trong "Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt", Hữu Đạt
cho rằng "Các đơn vị ngôn ngữ hoạt động trong phong cách nghệ thuật với chức
năng nổi bật nhất là chức năng tác động bằng hình tượng (…). Tác động của nghệ
thuật trước hết là tác động tình cảm và thẩm mỹ, (…), chức năng tác động tình cảm
lại là yếu tố nổi bật lên trước nhất" [29, tr.285 - 287]. Ông cũng chỉ ra rằng việc sử
dụng thường xuyên các lời than gọi, các câu hỏi tu từ nghệ thuật, nhiều từ láy, từ
tượng hình, là một trong những điểm tạo nên dấu hiệu khác biệt giữa phong cách
nghệ thuật và các phong cách chức năng khác.
Trong sách "Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học", Nguyễn Lai
cho rằng quá trình sáng tác, dù được thể hiện dưới dạng nào, "cuối cùng và thực
chất nhất là nó phải bắt đầu từ sự rung động của chính mình để qua đó tạo ra sự
rung động cho người khác" [73, tr.59]. Hà Công Tài trong bài viết "Cấu trúc ẩn dụ
hóa trong thơ" cho rằng thơ ca có khả năng tác động bằng các yếu tố nghệ thuật,
trong đó có ẩn dụ, một phương tiện tu từ đặc sắc trong văn chương có thể giúp các
nhà thơ khai thác nhiều hình ảnh tân kỳ. Ẩn dụ cũng là một “phương cách tác động
và gây hấp dẫn nơi người đọc” vì "nghệ thuật thường tác động lên người đọc bởi sự
sáng tạo những ký hiệu lạ lùng hấp dẫn" [128, tr.46]. Còn Phong Hồng Anh trong bài
viết "Tín hiệu thơ - cuộc đối thoại giữa nhà thơ và bạn đọc" xem thơ như một
“hình thức đối thoại trữ tình trực tiếp không ngừng của nhà thơ với cuộc đời” và
khẳng định đó là thuộc tính thể loại quan trọng nhất của thơ. Tác giả này dùng các
quy tắc của lý thuyết giao tiếp, lý thuyết dụng học để nghiên cứu ngôn ngữ thơ và
cho rằng: “Đích giao tiếp - tác động của thơ là để được chia sẻ, đồng cảm, được
giải tỏa một cảm xúc cao trào nào đó đang diễn ra với nhà thơ”. “Thơ là hành trình
của một người đến với muôn người, từ nhu cầu tự bộc lộ mình của nhà thơ tìm đến
sự đồng cảm với cuộc đời” [1, tr.26].
Nhìn chung, những tài liệu chúng tôi đã tiếp cận tuy chưa dừng lại tìm hiểu
thi pháp tác động của thơ ca nhưng cũng đã ít nhiều chạm vào những vấn đề liên
quan đến khả năng tác động của thơ. Chúng tôi xin ghi nhận các ý kiến trên và sẽ
xem đó như những gợi ý quý báu để đi sâu vào tìm hiểu thi pháp thơ ca từ góc nhìn
tác động. Với luận văn này, chúng tôi hy vọng được góp vào diễn đàn nghiên cứu
thơ ca một tiếng nói nhỏ, nhưng phần nào cũng làm cho lý luận thơ ca Việt Nam
ngày thêm phong phú hơn, đầy đặn hơn và mới mẻ hơn.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Thế giới thơ ca vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp, bước chân vào
lãnh địa này trong một khoảng thời gian nhất định và trong phạm vi một luận văn
tốt nghiệp, người viết chỉ tập trung vào việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến
khả năng tác động của thơ ca. Cụ thể là thông qua một số ý kiến về thơ của các nhà
nghiên cứu lý luận, các nhà ngôn ngữ học, các nhà sáng tác ở trong và ngoài nước
cũng như từ thực tế lịch sử thơ Việt Nam suốt mấy ngàn năm qua... để khẳng định
thơ ca là một nghệ thuật có khả năng tác động cao. Đồng thời, trong khi tìm hiểu
các yếu tố làm nên sức mạnh tác động của thơ, luận văn liên hệ với các bài thơ,
đoạn thơ, câu thơ của các nhà thơ Việt Nam. Ở chương 3, luận văn khảo sát thơ Tố
Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp một tiếng nói khẳng định ý nghĩa của
thơ trong đời sống con người. Thông qua quá trình tìm hiểu những quan niệm của
đông đảo các học giả từ xưa đến nay, luận văn hướng đến tìm hiểu trạng thái và
nhu cầu tác động của nhà thơ khi sáng tác; đồng thời khẳng định rằng thơ ca là một
nghệ thuật có sức mạnh tác động đáng kể, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu
tranh giữ nước Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
- Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn góp thêm hướng nghiên cứu về thi pháp
bằng việc tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật nổi bật nhất có khả năng tạo nên ấn tượng
sâu đậm và tác động mạnh mẽ vào công chúng. Mặc dù người ta vẫn đã và đang
sáng tác và thưởng thức thơ, nhưng lý thuyết về thi pháp thơ nhìn từ góc độ tác
động sẽ góp phần đáng kể cho quá trình sáng tác của các nhà thơ đương đại và
trong tương lai – nhất là khi thị hiếu thẩm mỹ của công chúng ngày càng được
nâng cao và quy luật đào thải càng trở nên nghiệt ngã.
- Khảo sát các yếu tố nghệ thuật trong thơ Tố Hữu như một biểu hiện tiêu
biểu cho loại thơ tác động, luận văn cũng góp phần khẳng định giá trị nghệ thuật và
sức mạnh tác động của thơ Tố Hữu đồng thời lý giải vì sao tiếng thơ Tố Hữu đã
vinh dự trở thành tiếng gọi đàn cho cả dân tộc ta trong những ngày tháng đấu tranh
gian khổ nhất.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương
pháp sau đây:
Phương pháp hệ thống: Trong quá trình tìm hiểu các quan niệm về
thơ của các học giả, tìm hiểu các biểu hiện tác động của thơ ca trong lịch sử, và tìm
hiểu các hình thức thi pháp tác động cụ thể, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, hệ
thống và trình bày các yếu tố này theo từng luận điểm thích hợp.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình
khảo sát các tác phẩm thơ ca Việt Nam và thơ Tố Hữu để làm rõ vấn đề cần nghiên
cứu.
Phương pháp loại hình: Luận văn tập trung nghiên cứu thể loại thơ
ca, chủ yếu là thơ trữ tình có xu hướng tác động.
Phương pháp thống kê: Để khẳng định những giá trị tác động nổi
bật của thơ Tố Hữu, chúng tôi sẽ tiến hành phương pháp thống kê một số hình thức
nghệ thuật.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung trọng tâm của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sức mạnh tác động của thơ
Chương 2: Một số hình thức thi pháp hướng tới sự tác động trong thơ
Chương 3: Nghiên cứu một trường hợp cụ thể: thơ Tố Hữu
Chương 1
SỨC MẠNH TÁC ĐỘNG CỦA THƠ
1.1 Sức tác động của thơ:
Là một trong những loại hình nghệ thuật đến với loài người sớm nhất, thơ
chiếm lấy một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người ngay từ khi
họ biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với nhau. Cho đến hôm nay, sau một chặng
đường rất dài, nhìn lại, ta vẫn thấy thơ còn đó ở bên mình. Thơ vẫn rất thủy chung,
vẫn đằm thắm dịu dàng len lỏi qua dòng xiết nghiệt ngã của cuộc đời để đến với trái
tim người đọc. Thơ giăng mắc trong lòng người những cảm thức tinh tế về cái
Chân, cái Thiện, cái Mỹ; thơ gợi thức trong lòng người những hoài niệm xa xôi,
những ước mơ đẹp đẽ; thơ thôi thúc, giục giã trong ta những lý tưởng, kêu gọi ta
hành động phụng sự Tổ Quốc... và rồi dần dần, con người không thể sống thiếu thơ.
Bằng sức mạnh của riêng mình, thơ đã góp phần nâng cuộc sống này lên như một
thiên chức đáng tự hào. Mỗi một lần ngoái nhìn lại thơ ca là mỗi một lần chúng ta
không khỏi ngạc nhiên vì sức mạnh ấy.
1.1.1 Trong suy nghĩ của nhiều học giả xưa nay
Thơ được viết ra để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của con người: nhu
cầu thưởng thức cái đẹp, nhu cầu nâng cao tri thức, nhu cầu tiếp thu và khám phá
thế giới tình cảm của con người v.v… Mỗi bài thơ được thai nghén từ những trăn
trở, suy tư, những trải nghiệm đầy nỗi niềm và thấm trong từng câu chữ là những
giọt mồ hôi, giọt nước mắt của người sinh ra nó. Nhưng mọi sáng tạo đó chỉ trở nên
thật sự hữu ích cho xã hội loài người khi nó có thể góp phần nâng cuộc sống lên,
góp phần khiến cho người càng Người hơn. Sức mạnh của thơ thật vô cùng, và
trong thực tế, nó không chỉ giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách cho con người
mà nó còn góp phần tác động vào tư tưởng, quan điểm, lập trường của con người, từ
đó mà cải tạo xã hội. Thật ra, người ta đã phải trải qua thật nhiều những tranh luận,
nhiều thể nghiệm để khẳng định chân lý ấy. Tuy nhiên, thơ ca là một lĩnh vực nhạy
cảm nên vẫn thấy xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau. Mỗi nhà thơ, mỗi nhà
nghiên cứu hay cả những chính trị gia đều có những ý kiến riêng được hun đúc từ
những trải nghiệm của chính bản thân họ về thơ ca, nhưng điểm chung của họ là
nhìn nhận sức mạnh tác động của thơ ca đối với xã hội như một chức năng quan
trọng.
Thơ thể hiện sức mạnh của mình khi tác động đến tư tưởng con người với
tinh thần nhân văn cao cả. Ở phương Tây, từ thời cổ đại, Platon đã từng muốn đuổi
những nhà thơ ra khỏi đất nước mình vì nhìn thấy những ảnh hưởng khôn lường của
thơ đối với công chúng. Ông cho rằng, “ngoài loại thơ ca tụng thần linh và người
tốt, còn không cho phép mọi loại thơ khác xâm nhập vào lý tưởng quốc” [93, tập 2,
tr.512]. Theo Platon, tình cảm buồn, vui, yêu thương, căm thù khi còn ở ngoài đời thì
còn được lý trí chế ngự, nhưng một khi đã bước vào thơ, sẽ được “bộc lộ thỏa mãn
trong thơ, càng gây tác dụng xấu cho con người” [93, tập 2, tr.513]. Nhà hiền triết này
đã nhìn thấy ảnh hưởng rất mạnh của thơ đối với đời sống tinh thần của nhân dân ở
cả hai mặt tốt xấu.
Aristotle cũng rất đề cao sức mạnh của thơ. Ông cho rằng thơ có sức mạnh
của tình cảm, của trái tim và sức mạnh ấy có thể khiến mọi người tự thanh lọc tâm
hồn mình, có thể kéo mọi người đến gần nhau hơn: “Bi kịch đúng là gây ra nỗi buồn
và khiếp sợ, từ đó dẫn đến sự thanh lọc đối với những tình cảm này”, nó khiến cho
“một số người cảm thấy một sự khoan khoái, nhẹ nhàng, dễ chịu” [93, tập 2, tr.513].
Từ quan niệm này, Aristote chủ trương bộc lộ, kích phát tình cảm để thanh lọc. Về
sau, Sigmund Freud phát triển quan niệm "thanh lọc" của Aristotle theo cách lý giải
rằng văn học có thể giải tỏa những ham muốn, những ẩn ức về tính dục mà con
người bị đè nén, không thể thỏa mãn trong thực tế. Theo cách nghĩ của Freud, văn
học nói chung và thơ ca nói riêng có khả năng giúp con người thoát ra khỏi những
giày vò, giăng bủa của mớ bòng bong phức tạp để tìm lại sự cân bằng cho thế giới
tinh thần. Thật vậy, khi cuộc sống càng biến động thì các nhà thơ càng không ngừng
đi tìm lẽ sống, không ngừng suy nghiệm về lẽ đời, về con người. Tác phẩm của họ -
những bài thơ được viết ra để chuyển tải những thông điệp đó đến loài người. Một
bài thơ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa khiến người ta thỏa mãn những thị hiếu thẩm
mỹ của người đọc mà nó còn có ý nghĩa “giao tranh để đoàn kết mọi người” [143,
tr.79]. Thơ không phải là những bài đạo đức khô khan phục vụ cho một chế độ, một
giai cấp nào nhưng nó lại có sức mạnh tuyệt đối để “khiến con người, tất cả mọi
người thành ra thuần khiết” [143, tr.80].
Từ hướng tác động vào con người, thơ ca đi đến khả năng thay đổi xã hội. Ít
nhiều các nhà làm chính trị từ xưa đến nay vẫn nhìn thơ như một thế mạnh thuộc
một lĩnh vực tinh thần phong phú không những có khả năng xâm nhập và làm thay
đổi đời sống tinh thần con người mà thậm chí còn làm thay đổi cục diện xã hội. Các
nhà tư tưởng phương Đông cổ đại cho rằng, cuộc sống bình yên hay loạn lạc bắt
nguồn từ trong tư tưởng mà ra và trong đó, thơ là một yếu tố có khả năng gây ảnh
hưởng không nhỏ. Tuân Tử nghĩ rằng những âm thanh gian trá sẽ làm loạn nhân
sinh và ngược lại, những âm thanh tốt đẹp có khả năn._.g cảm hóa con người, làm cho
cuộc sống bình yên. Quan niệm của Tuân Tử khẳng định chắc chắn khả năng tác
động của nghệ thuật: bất kể là xấu hay tốt, tác phẩm nghệ thuật có sức mạnh lớn lao
đối với tính “an” hay “loạn” của xã hội. Cùng quan điểm đó, Khổng Tử chủ trương
truyền dạy đạo đức, khiến người, giúp người tu thiện, rèn luyện nhân cách bằng
kinh sách. Một trong những cách thức “tu thân” mà Khổng Tử đề ra cho học trò là
đọc sách, đọc thơ, đọc Kinh Thi và bàn luận về Kinh Thi để nâng cao tri thức: “Bất
học thi, vô dĩ ngôn” [93, tập 1, tr.39]. Ở góc độ lý luận văn học mà nhìn, ta thấy
Khổng Tử đã rất xem trọng khả năng tác động của thơ ca và đề xướng một quan
niệm văn học tuyên truyền và bảo vệ chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến. Mặc Tử
đề cao khả năng tác động đến mức xem nhẹ hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Ông
cho rằng: “Một thành tựu về mặt sáng tạo là khéo léo nếu nó bổ ích cho con người,
và nó là thô lỗ nếu nó không bổ ích” [93, tập 1, tr.45]. Trong khi đó thì Hàn Phi Tử lại
chủ trương bài trừ văn nghệ triệt để. Hàn cho rằng: “Nếu tôn chuộng kẻ sĩ, thi, thư
và nói lý thuyết thì dân sẽ thích chơi không, vô nghề nghiệp, và khinh nhà vua; nếu
tôn chuộng kẻ sĩ ở nhà không làm quan thì dân sẽ xa lánh và chê bai người trên” [93,
tập 1, tr.48]. Suy cho cùng, thái độ phủ nhận văn học của Hàn Phi không phải là
không hiểu biết về nghệ thuật mà ngược lại ông hiểu rất rõ, ông nhận thấy khả năng
tác động rất lớn của chúng vào nhân dân và ông lo sợ xã hội nổi loạn. Chủ trương
chuyên chế cực đoan của Pháp gia - Phi Tử không dung hòa với tiếng nói của lương
tri, của khát vọng con người trong văn thơ nên ông cổ vũ hành động hủy diệt thi thư
nhưng nếu nhìn ở góc độ nhận thức thì ông lại là người hiểu rõ sức mạnh cải biến
xã hội của văn thơ. Tiếc là ông không biến nó thành một phương tiện để giáo huấn
nhân dân mà lại đặt nó vào thế đối lập để rồi hủy diệt nó. Hành động đó thật trái với
tiến bộ xã hội. Hàn Phi Tử quả thật đã nhìn thơ văn với một sức mạnh vô cùng,
giống như quan niệm của đại đế Napoleon: “Súng đại bác phá tan thành quách, tác
phẩm phá tan xã hội” [185, tr.1344].
Các nhà lý luận Trung Quốc như Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị cũng xem trọng ý
nghĩa xã hội của thơ văn, xem văn thơ như một phương tiện bảo vệ và tuyên truyền
cho đạo đức phong kiến. Qua những luận điểm bàn về vấn đề sáng tạo văn học, kết
cấu, từ văn, ngôn ngữ, biện pháp nghệ thuật trong “Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp
cho rằng thơ ca thật sự có ý nghĩa tích cực trong việc giáo huấn nhân dân: “Cái chữ
thâu tóm của 300 bài (Kinh Thi) là không tà dâm. Giữ lấy nó để dạy thì thích hợp
vậy" [47, tr.156]. Lý Bạch - nhà thơ, nhà lý luận thi ca xuất sắc đời Đường rất chú
trọng đến sức đồng vọng diệu kỳ của thơ ca. Ông đề cao chức năng “cảm hóa nhân
tâm” của thơ, cho rằng thơ không chỉ có mục đích tự thân mà còn phải “vì quân, vì
thần, vì dân, vì vật mà sáng tác, chứ không phải vì văn mà sáng tác” [184, tr.572]. Từ
đó, ông khuyến khích sáng tác thơ để giúp vào việc thi hành chính đạo, phản ánh
nỗi đau khổ của nhân dân. Ông coi trọng thơ phúng dụ vì đấy là loại thơ có khả
năng “trị bệnh cứu người, bổ khuyết thời thế” [184, tr.585]. Từ những nhận thức đúng
đắn đó, Bạch Cư Dị sáng tác những tác phẩm có giá trị nhân sinh, được lưu truyền
rộng rãi trong nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước Trung
Hoa. Về cách thức, thơ có cách cải tạo xã hội theo con đường đơn giản mà tinh tế,
quyến rũ nhất. Thơ nhẹ nhàng đi vào lòng người và thức tỉnh họ, kêu gọi họ bằng
nhiều cách khác nhau. Đôi khi, thơ đến với con người như là một tín ngưỡng thiêng
liêng và huyền bí. Chính vì thế mà nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Apollinaire đã kêu gọi
các nhà thơ “hãy quay về với Khổng Phu Tử, Phật Thích Ca, hiền triết Socrate,
Chúa Jesus, là những bậc đạo đức học chịu đói mà lang thang qua các xóm làng”
[143, tr.77] để mang thơ đến với nhân dân. Thiết thực hơn, nhà cách mạng Lương
Khải Siêu cổ động mọi người sáng tác như một hành động cải tạo thế giới. Tuy lập
trường chính trị và tư tưởng triết học còn nhiều hạn chế, nhưng Lương Khải Siêu
luôn đề cao sức mạnh của văn thơ. Ông cho rằng văn thơ có thể thức tỉnh nhân dân,
rửa nhục cho nước. Lương Khải Siêu chủ trương hoạt động văn học cách mạng:
"văn thể cách mạng", "thi giới cách mạng", "tiểu thuyết giới cách mạng" v.v… Qua
"Ẩm băng thất thi thoại", ông kêu gọi thơ phải tuyên truyền, biểu hiện tinh thần
cách mạng, tinh thần thượng võ, chủ nghĩa yêu nước để giúp cho dân khí lớn mạnh.
Tư tưởng của Lương Khải Siêu ảnh hưởng đến giới văn nghệ đương thời, nhiều
người nêu cao khẩu hiệu "tiểu thuyết cứu quốc!", "thi ca cứu quốc!".
Các học giả Việt Nam thời trung đại cho rằng có ba sự nghiệp lớn có thể lưu
danh hậu thế: lập công, lập đức, lập ngôn. Văn thơ được nhìn nhận như một công
cụ, phương tiện để giáo huấn tư tưởng, đạo đức cho nhân dân, góp phần vào cuộc
cải biến nhân quần, xã hội. Vũ Quỳnh nhìn nhận thơ văn rất có ý nghĩa bởi nó “há
chẳng phải là khuyên điều thiện, trừng điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích
phong tục đó ru?” [131, tr.31]. Lê Quý Đôn từng viết: “Văn chương là gốc lớn của sự
lập thân, là việc lớn của sự kinh thế” [131, tr.92] như một lời khẳng định vai trò và
mục đích vì xã hội của văn thơ, khẳng định ý nghĩa thiết thực của thơ trong đời
sống xã hội. Nguyễn Văn Siêu xác định mục đích cao cả của văn chương là phục vụ
cho con người: “Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” [131, tr.125]. Nguyễn
Thượng Hiền khẳng định sức mạnh của thơ: “Thét một tiếng đã nâng dậy chứng ỳ
của một nền phong hóa suy đồi” [61, tr.101] còn Hồng Nhậm cho rằng thơ hay phải
“làm khóc được quỷ thần” và “thông suốt trời đất” [61, tr.88]. Ta thấy rằng, sự liên
kết giữa thơ ca, chính trị và đạo đức là cái gốc để các thi nhân ngày xưa hướng ý đồ
tác động của mình đến độc giả mỗi khi sáng tác. Cảm hứng của nhà thơ được khơi
nguồn từ những điều tai nghe mắt thấy, từ những tồn vong của một triều đại, một
dân tộc và từ những buồn vui, sướng khổ của nhân dân. Theo đà phát triển của lịch
sử, thơ không những được xem là phương tiện giáo dục mà thơ còn là vũ khí góp
phần đấu tranh và phát triển xã hội. Sức mạnh tạo nên ý nghĩa xã hội cao quý cho
thơ còn ở chỗ nó có thể cải tạo xã hội. Tóm lại, cách nói của người xưa tuy chỗ đậm
chỗ nhạt nhưng cũng đã thừa nhận khả năng tác động của thơ vào xã hội như là một
bản chất vốn có. Khi bày tỏ ý kiến về thơ, họ có cả một bề dày sáng tác ở phía sau.
Lời họ nói là những lời được trải nghiệm từ những hoạt động xã hội của một chính
trị gia, hoặc là lời gan ruột của thi nhân về cái nghiệp cầm bút của mình. Về mặt
này, các ý kiến của người đi sau cũng gặp gỡ những người đi trước. Ý nghĩa, vai trò
của thơ ca đã được thế hệ cha ông ta đặt ra từ rất lâu và ngày nay được nhận thức lại
từ góc nhìn của hệ tư tưởng mới.
R. Jakobson trong công trình “Ngôn ngữ và thi ca” đã nghiên cứu thơ ca từ
góc độ lý thuyết giao tiếp của ngôn ngữ và khẳng định “ngôn ngữ phải được nghiên
cứu trong tất cả các chức năng khác nhau của nó” [33, tr.110]. Chính ông cũng xác
định chức năng kêu gọi là một trong sáu chức năng cơ bản của sự giao tiếp ngôn
ngữ. Bàn về chức năng này, ông khẳng định, "sự hướng tới người nhận – chức năng
kêu gọi – tìm được sự thể hiện thuần túy ngữ pháp trong hình thức hô cách và mệnh
lệnh cách [33, tr.113]. Theo ông, một bài thơ, bên cạnh chức năng thơ vốn là chủ đạo,
còn có những chức năng ngôn ngữ khác. Tùy vào đặc điểm của thể loại thơ khác
nhau mà có những chức năng khác nhau: thơ sử thi chủ yếu dựa vào chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ; thơ trữ tình gắn bó chặt chẽ với chức năng biểu cảm; “thơ của
ngôi thứ hai” thấm đẫm chức năng kêu gọi: nó hoặc là cầu xin, hoặc là giáo huấn.
Theo quan niệm của Jakobson, các chức năng nhận thức, biểu cảm và tác động là
các chức năng thường thấy nhất trong thơ. Mặc khác, ông đề xuất hướng nghiên cứu
“tính văn học”, quan tâm đến việc văn học “nói như thế nào” hơn là tìm hiểu xem
văn học “nói cái gì”, nhưng “nói như thế nào” hay “nói cái gì” thì cũng là nói với
độc giả, nói với xã hội chứ không phải tác giả nói với chính mình. Trong những cái
đích mà nhà ngôn ngữ Jakobson hướng đến trên con đường đi tìm hiểu các nguyên
lý để tranh luận cho bản chất của văn học, có mục đích tác động. Vì dù cùng có
chung chức năng giao tiếp như ngôn ngữ của đời sống, nhưng ngôn ngữ thơ không
bao giờ là ngôn ngữ khách quan mà luôn mang trong mình nhiệm vụ bộc lộ tình
cảm, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời. Jakobson và các nhà ngôn ngữ sau này
thường vận dụng các đặc điểm, các quy tắc trong ngôn ngữ để “đọc” thơ. Chẳng hạn
như tìm hiểu các chức năng của thơ (dựa trên các chức năng của ngôn ngữ), các giá
trị tu từ, các loại câu thơ, các yếu tố ngữ âm, ngữ điệu… trong thơ. Trong những
tìm tòi đó, các nhà ngôn ngữ đã dành cho khả năng tác động của thơ một mối quan
tâm đáng kể, đủ để khẳng định rằng “thơ là một nghệ thuật tác động”.
Trên lập trường duy vật biện chứng, Lenin quan tâm sâu sắc đến mối quan
hệ giữa văn nghệ và hiện thực. Trong các ý kiến đánh giá Tolstoi, Lenin thường đề
cao ý nghĩa hiện thực: “Tolstoi không những đã cống hiến những tác phẩm nghệ
thuật mà quần chúng sẽ tán thưởng và sẽ đọc mãi mãi, một khi họ đập tan được ách
của bọn địa chủ và bọn tư bản và tạo được cho họ những điều kiện sống của con
người” [83, tr.258]. Với tư cách là một vị lãnh đạo, Lenin đề cao ý nghĩa xã hội của
văn chương và sử dụng chúng vì mục đích cách mạng. Trong một bức thư gửi cho
M. Gorki, Lenin đã rất băn khoăn trong việc chọn lựa một loại hình nghệ thuật có
khả năng tác động tích cực đến công chúng: “Bây giờ cần phải tác động như thế
nào, cần phải “làm loại văn học” nào cho đúng?” [83, tr.297]. Theo quan điểm của
Lênin, văn thơ luôn là vũ khí đấu tranh giai cấp, là phương tiện để tuyên truyền,
giác ngộ quần chúng nhân dân.
Nhưng để tác phẩm có sức mạnh đấu tranh, người cầm bút phải nhận thức
rõ trách nhiệm của mình. Hay nói cách khác, ý nghĩa đấu tranh của tác phẩm phải
bắt nguồn từ sự dấn thân của hành vi sáng tạo. Sứ mạng cao cả của những người
cầm bút, theo Sartre là phải dấn thân vào công cuộc đấu tranh của xã hội: “Văn học
phải phục vụ cho đấu tranh, nhiệm vụ của nhà văn là vận dụng các loại hình thức
văn học để phơi bày cái thế giới này cho mọi người xem, để cứu vãn cái thế giới
này”, “Chỉ có nghệ thuật cho người khác và bởi người khác” [120, tr.132]. Quan niệm
dấn thân của Sartre xác định thái độ và quan hệ của nhà thơ đối với xã hội từ nhu
cầu, trách nhiệm tự bóc lộ mình, bóc lộ không phải để cho mình mà cho cả người
đọc để từ đó mà cải tạo xã hội.
Sau này, các nhà cách mạng Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ
Nguyên Giáp… trong rất nhiều bài viết, bài phát biểu của mình đều thống nhất một
quan niệm xem văn nghệ là một hoạt động phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc. Theo đó, “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy", "văn thơ phải phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân”
[176, tr.67]. Hồ Chí Minh không ngừng nhắc nhở đội ngũ sáng tác không ngừng mài
sắc ngòi bút của mình để trở thành “những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò
chính trừ tà” [176, tr.53], không ngừng viết “để giáo dục, giải thích, cổ động, phê
bình, để phục vụ quần chúng” [176, tr.69]. Nhận thấy văn học có khả năng đi sâu vào
ý nghĩ, tình cảm của con người, có khả năng làm tốt công tác tư tưởng trên mặt trận
văn hoá, Hồ Chí Minh và những lãnh đạo Đảng rất coi trọng công tác văn học. Do
yêu cầu của cách mạng nên sức tác động của thơ ca, nhất là nhiệm vụ cổ động tuyên
truyền rất được đề cao: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào
việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng [176, tr.101]. Đồng chí
Trường Chinh thường bày tỏ mối quan tâm sâu sắc đến văn nghệ tuyên truyền. Ông
kêu gọi sáng tác những tác phẩm nghệ thuật thiết thực, gắn bó với quần chúng nhân
dân “như nước uống, khí trời”. Bởi “nhân dân ta đang trông chờ những tác phẩm cổ
vũ lòng yêu nước nồng nàn, những tác phẩm văn nghệ tố cáo một cách sắc bén chế
độ tàn khốc của Mỹ - Diệm” [176, tr.178, 180]. Các ý kiến trên không dừng lại từng
thể loại cụ thể, nhưng trên tinh thần ấy, thơ cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Với
tư cách là nhà thơ, Trường Chinh - Sóng Hồng nhiều lần khẳng định khả năng chiến
đấu của thơ: “Thơ là một vũ khí đấu tranh kỳ diệu”, “thơ có thể trở thành một sức
mạnh phi thường khi nó chinh phục trái tim quần chúng nhân dân”, “thơ có thể
truyền cảm mãnh liệt cho quần chúng, cổ vũ quần chúng đấu tranh anh dũng và lao
động sáng tạo”. Quan niệm này còn được ông thể hiện bằng thơ: “Thơ như rót men
nồng, nhen lửa đốt, Khiến người nghe vác súng vút lên đường, Thơ hay nhất phải là
thơ thiết thực, Phải là thơ - vũ khí của nhân dân”… Và quyết liệt nhất vẫn là khẩu
khí kêu gọi nhà thơ hãy “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ, Mỗi vần thơ: bom đạn
phá cường quyền” [176, tr.664, 665, 679, 780]. Những quan niệm trên của nhà thơ Sóng
Hồng được chính bản thân nhà thơ thực hiện triệt để trong suốt quá trình sáng tác.
Như vậy đó, từ trong thực tế cuộc sống, thơ đã được sinh ra và đã gắn liền
với xã hội loài người bằng nhiều ý nghĩa tích cực. Trong nhiều ý nghĩa của thơ thì
khả năng đóng góp vào quá trình phát triển xã hội của thơ là điều mà các nhà tư
tưởng lỗi lạc cổ kim đã thừa nhận. Trong dòng chảy của thơ Việt Nam, chúng ta
nhận thấy rất rõ khả năng tác động mạnh mẽ của thơ không chỉ là ở một giai đoạn,
một phong trào mà trong mỗi một nhà thơ, mỗi một bài thơ cũng tiềm ẩn thứ "năng
lượng" đó. Lịch sử "một trăm năm đô hộ giặc Tây, một ngàn năm đô hộ giặc Tàu"
và những thăng trầm của xã hội đã đẩy nhân dân ta vào cuộc chiến tranh vệ quốc
trường kỳ mà kiêu hãnh. Và trong hoàn cảnh đó, thơ Việt Nam vẫn đồng hành với
người dân Việt, thơ là tri âm, là đồng chí đồng đội, là tiếng kèn dõng dạc thúc
quân…
1.1.2 Trong lịch sử văn học dân tộc
Thơ Việt Nam gắn bó với người Việt Nam từ mấy ngàn năm nay. Nếu hiểu
nghệ thuật kết tinh từ ba nguồn sức mạnh: môi trường, thời điểm và bản ngã thì ứng
vào thơ Việt Nam, ta thấy được tính cách kiên cường của dân tộc Việt Nam trong
suốt chiều dài đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dân tộc ta trải qua nhiều giai đoạn
kháng chiến chống xâm lăng nên lịch sử tác động của thơ ca càng phong phú. Thơ
như con sông chảy qua nhiều phong cảnh khác nhau của lịch sử, và mỗi thời điểm
mà nó đi qua đã tạo nên một sắc thái riêng, mang đến những ý nghĩa đặc biệt đối
với sự tồn vong của dân tộc. Những tác động mạnh mẽ, những ảnh hưởng sâu rộng
vào lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của thơ Việt Nam là một minh chứng
hùng hồn cho sức mạnh của nền thơ ca dân tộc.
Thơ của các nhà thơ lớn có sức mạnh của một tầm tư tưởng lớn, bao quát
khắp nhiều lĩnh vực: khoa học, sử học, chính trị, văn hóa, quân sự… Những tác
phẩm ấy gắn liền với những biến động của thời cuộc, bên cạnh khả năng khơi dậy
những rung động thẩm mỹ, nó còn dần dà tác động, cảm hóa tư tưởng con người.
Như thể đáp ứng lòng mong mỏi của nhà thơ, hàng triệu triệu độc giả đã lĩnh hội và
lan truyền đi, từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác. Ở phương
Đông lẫn phương Tây đã có những thi phẩm có khả năng chi phối tư tưởng và sinh
hoạt tinh thần của cả một thời đại. Nhiều quyển sách mạnh hơn giáo gươm, nhiều
tác phẩm dấy lên những cuộc cách mạng tinh thần. Paul Bourget khẳng định: “Đời
sống tinh thần trong một xã hội văn minh gồm nhiều nhân tố hợp lại. Văn chương là
một nhân tố ưu đẳng. Quyển sách là một người hướng dẫn quan trọng vô cùng”
[161, tr.53]. Trong ý nghĩa ấy, thơ đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Nhìn lại truyền thống thơ ca của dân tộc, ta tự hào trước
lấp lánh những hồn thơ minh triết của ông cha – những hồn thơ mạnh mẽ như sóng
cồn, đã tác động vào tư tưởng chúng ta, chỉ cho ta những nẻo vào đời, vực dậy và
hâm nóng trong ta bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, cuốn ta vào đại cuộc bằng tinh thần ái
quốc quên thân.
Từ khi văn học thành văn đến hết thế kỷ XX, thơ Việt Nam đã trải qua
nhiều chặng đường phát triển với những thành tựu khác nhau nên sức mạnh tác
động của thơ vì vậy mà cũng thăng trầm. Đôi lúc, thi nhân phải đơn độc tìm đường,
cất lên tiếng thơ lẻ bạn nhưng cũng có lúc thơ ca phát triển thành những phong trào
mạnh mẽ, thậm chí, có nhiều bài thơ tuy không biết tên tác giả nhưng vẫn cứ được
truyền đọc như truyền cho nhau sức mạnh đấu tranh. Đến thời đại cách mạng, thơ
thật sự là tiếng thét căm thù, là lời kêu gọi hành động, được truyền đi, lan xa, lan xa
như sóng biển. Những làn sóng ấy làm nên một nền thơ cách mạng có sức chiến đấu
như vũ bão, có sức cuốn hút nhân dân hăng hái nhiệt tâm bước vào cuộc chiến đấu
tranh vì độc lập dân tộc.
Trong cuộc chiến chống phong kiến phương Bắc, thơ ca thời Lý Trần nêu
cao tinh thần quật cường, kiên quyết bảo vệ nền độc lập. Các nhà thơ Lý Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… cũng là những thiên tài
quân sự với những chiến công sáng chói trong lịch sử giữ nước, họ luôn đứng hiên
ngang trên tuyến đầu chống giặc. Vì vậy mà thơ của họ đã truyền cho ta sức nén
dồn của lòng yêu nước, của lòng căm thù giặc sâu sắc. "Nam quốc sơn hà" xứng
đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Bài thơ đã bất ngờ
vang vọng trên đoạn sông Như Nguyệt thuộc phòng tuyến sông Cầu làm nao núng,
lung lay ý chí chiến đấu của quân sĩ Tống, khiến quân tướng Đại Việt thêm bừng
bừng khí thế: "Nam quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khang, thủ bại hư" [65, tr. 68].
"Nam quốc sơn hà" đã được toàn dân tộc Việt Nam xem như một "bài thơ thần" có
sức tác động mạnh mẽ. Thấm trong từng câu chữ là sức mạnh tiến công, ý chí diệt
thù và lòng tự hào dân tộc nung nấu suốt hàng ngàn năm trước nên đã tạo thành một
âm vang đặc biệt, dội mạnh vào tâm hồn của biết bao thế hệ Việt Nam. Trong hào
khí Đông A, có nhiều bài thơ rừng rực lửa chiến công, kích thích lòng tự hào dân
tộc và ý chí tiến công của binh sĩ như "Hịch tướng sĩ", "Tụng giá hoàn kinh sư",
"Thuật hoài", "Bạch Đằng Giang phú"… Nền thơ ca Lý Trần với âm hưởng lạc
quan, hào hùng thể hiện lý tưởng chiến đấu của thời đại và góp phần xây dựng một
nền văn hóa thuần túy Việt Nam, đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi ảnh
hưởng sâu đậm của Trung Quốc.
Sớm ý thức rõ tác dụng của thơ trong đời sống tinh thần của con người, nhà
thơ - vị quân sư tài ba Nguyễn Trãi đã sáng tác để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc khỏi ách bóc lột của ngoại bang. Đối ngoại, ông chủ trương
"mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng" bằng những lập luận sắc bén, hào
hùng. Ông giáng lên đầu giặc những đòn nặng nề khiến chúng phải kinh hãi, hạ vũ
khí và lui về nước. Đối nội, ông truyền dạy cho nhân dân những bài học nhân nghĩa
ở đời, nêu cao tinh thần khẳng khái trung quân, ái quốc. "Bình Ngô đại cáo" của
Nguyễn Trãi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam, là một áng "thiên
cổ hùng văn" của dân tộc với khí phách dời non lấp bể và chiến công vang dội đất
trời. Tội ác kẻ thù khiến người ta căm phẫn, niềm tự hào của nhà thơ cuốn người ta
tự hào theo, và lòng nhân ái của nhà thơ khiến người ta nể phục. Càng đọc "Bình
Ngô đại cáo" ta càng thấy gần gũi, yêu mến nhân dân theo tư tưởng thân dân cao cả
của nhà thơ: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo, (…),
Ta mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng, Nó đã tham sống sợ chết, thực
bụng cầu hòa, Ta coi toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức" [169, tr.23]. "Bình
Ngô đại cáo" đã tiếp thêm cho nhân dân ta sức mạnh, niềm tin vào chính nghĩa, vào
tinh thần quật khởi của giống nòi trước thế lực tàn bạo của kẻ thù mà đứng dậy tiến
công.
Sau Nguyễn Trãi, sự nghiệp của các nhà thơ lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đều có tác động đáng kể đối với công chúng. Nguyễn
Bỉnh Khiêm dùng văn thơ để giáo huấn, truyền thụ đạo lý cho nhân dân khi chứng
kiến sự suy yếu và thối nát của chế độ phong kiến. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được
viết ra với hy vọng vực lại đạo đức, phong hóa suy đồi để xoay được cái thế thiên
hạ. Người đời sau vẫn chịu ảnh hưởng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, vẫn nhớ đến
phong vị riêng của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm bởi những lời triết lý và giáo huấn sâu
sắc. Họ luôn tìm thấy trong mỗi bài thơ của ông một lẽ biến dịch, tương sinh, tương
khắc; một lời răn dạy; một lời mỉa mai chê trách; một quan niệm nhân sinh... Sức
tác động nhẹ nhàng ấy của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giúp người ta tự răn mình, tự
dạy mình thành "nhân". Đặc biệt, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nâng thơ thành
tiếng kêu thương, thành tiếng nói nói hộ nỗi khổ đau của nhân tình thế thái. Với
"Truyện Kiều" và "Văn tế thập loại chúng sinh", ông đã làm rung chuyển cả lòng
người, đã khóc cho số phận con người và đặt vào trời đất những câu hỏi ai oán
khiến đất trời không thể đứng yên. Đến Nguyễn Du, thơ đi sâu vào trái tim người,
thơ Nôm của Nguyễn Du phản ánh tư duy của cộng đồng và thời đại với những câu
hỏi lớn về xã hội, về kiếp người; thơ chữ Hán của Nguyễn Du có những câu hỏi đau
đáu niềm u uất của một đời người, có nỗi buồn thê thiết, xót thương cho những kiếp
người cơ cực và nỗi bất bình cho những người tài hoa, bạc mệnh. Thế nên, thơ của
Nguyễn Du có sức tác động mạnh. Mộng Liên Đường đã từng cho rằng nếu Nguyễn
Du “không phải có con mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng hiểu thấu nghìn đời” [157,
tr.181] thì thơ ông không thể làm thấm thía và đớn đau lòng người đến như vậy. Ở
góc độ lý luận tác động của thơ ca mà nhìn, Nguyễn Du đã tác động mạnh đến trái
tim người đọc bằng chính những thông điệp nhân ái cao đẹp từ trái tim mình. Cùng
tấm lòng như Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương dùng thơ để phản kháng thay cho
những phụ nữ bị giam cầm trong bốn bức tường của xã hội phong kiến hà khắc. Bà
mạnh dạn đưa vào thơ những vấn đề riêng tư, những đau đớn mà người phụ nữ phải
chịu đựng mà chủ yếu là những bi kịch thuộc về giới tính và còn cất cao giọng đả
kích những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến từ vua, quan đến đám sĩ tử, nhà
sư - những kẻ mà bà cho rằng đạo đức giả và bất tài. Thơ của bà có độ bén nhạy,
đánh một cái cho đối tượng ngã gục ngay tức khắc khiến người trong sạch đọc lên
thì thấy hả hê còn kẻ xấu đọc lên thì tức trào nước mắt. Về sau, người ta vẫn đọc
thơ bà để chế giễu những phường trêu hoa, ghẹo nguyệt hoặc những kẻ bất tài. Hồ
Xuân Hương đã xuất sắc đi trước thời đại mình mấy trăm năm bằng cách dùng thơ
đấu tranh cho phụ nữ, vì mãi đến thế kỷ XX, chúng ta mới đề cập đến vấn đề nam
nữ bình quyền và thơ ca cũng mới chính thức trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp.
Ngay sau khi thực dân Pháp lấn chiếm nước ta, từ ngòi bút của các nhà Nho,
các ông tú, ông cử, thầy đồ, và cả nghĩa sĩ đánh Tây, thơ ca Việt Nam đã hăng hái
bước vào cuộc chiến chống xâm lược. Tư tưởng yêu nước thời kỳ này vận động
theo nhiều hướng khác nhau. Nguyễn Khuyến tỏ thái độ phản kháng, bất bình trước
thời cuộc bằng một phong cách thơ đặc biệt. Ông dùng thơ để bộc bạch lòng yêu
nước thương dân. Người ta yêu thơ Nguyễn Khuyến từ những vần thơ hoài cổ, da
diết tìm về với những vàng son phong kiến một đi không trở lại đến những bài thơ
phủ nhận không khoan nhượng những kẻ xấu xa, hèn kém, những con người trong
chế độ phong kiến đã bị tha hóa, biến chất trước cơn lốc thực dân. Tuy không “bốp
chát” như thơ Tú Xương hay “đánh một cái chết tươi” như thơ Hồ Xuân Hương
nhưng thơ Nguyễn Khuyến khơi gợi trong ta kín đáo một ý chí bất khuất trước kẻ
thù. Đó là tiếng nói của một nhà nho tiết tháo, một trái tim yêu nước thiết tha đằm
thắm. Cùng thời với Nguyễn Khuyến, Tú Xương dùng thơ như một phương tiện tố
cáo hiện thực xã hội. Tiếng cười trong thơ Tú Xương rất sắc sảo và cay độc, nó
khiến người ta chán ghét sự xuống cấp của đạo đức xã hội thực dân nửa phong kiến
và những cái nhố nhăng pha tạp của cuộc sống bước đầu bị Âu hóa, khiến người ta
không thể chấp nhận cái bản chất lai căng của những kẻ sính ngoại cầu vinh. Qua
thơ, Tú Xương truyền cho người đọc niềm trắc ẩn đau đớn vì cảnh nước mất nhà
tan, khiến người ta buồn cười mà cũng nhận biết đó là những nụ cười "ra nước
mắt". Cũng giống như Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương chỉ gián tiếp xây dựng tinh
thần yêu nước khi nói lên nỗi nhục mất nước, gián tiếp xây dựng một tinh thần tranh
đấu kiên trinh khi bộc lộ khí tiết cá nhân chứ vẫn chưa đủ sức bao quát được thời
đại nên nhà thơ vẫn chưa thể đứng vào hàng những nhà thơ “dùng cán bút làm đòn
xoay chế độ”. Nhưng điều đó không giảm đi giá trị tác động trong thơ của Tú
Xương và Nguyễn Khuyến bởi những tiếng thơ ấy vẫn chất chứa căm hờn và thôi
thúc niềm ái quốc trong nhân dân.
Khi kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi bôn đào, hịch Cần Vương truyền
khắp mọi nơi thì các sĩ phu yêu nước cũng trở thành những nghĩa sĩ đánh Tây, đánh
bằng cả gươm đao lẫn thơ văn. Thơ ca thời kỳ Cần Vương truyền bá lý tưởng vì
nước vong thân của một số thủ lĩnh Cần Vương: Tôn Thất Thuyết, Phan Đình
Phùng, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, Kỳ Đồng… Họ
sáng tác thơ không chỉ cho riêng mình mà để khóc, để gọi, để đánh thức đồng bào
cùng đứng lên tranh đấu. Phần nhiều, những bài thơ được gợi cảm hứng từ một trận
đánh, một sự hy sinh, và từ những lời tuyệt mệnh khẳng khái nên rất hào sảng, tràn
đầy khí khái, sục sôi lòng căm thù, thiết tha lòng mến nghĩa yêu dân. Bên cạnh đó,
còn có những thi phẩm không lưu tên tác giả nhưng không kém sức tác động. Cả hai
dòng thơ ca bác học và thơ ca vô danh thời Cần Vương đều được sáng tác với mục
đích cao đẹp là kích động lòng yêu nước, hâm nóng bầu nhiệt huyết chống ngoại
xâm cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Ở miền Nam, vì không thể cùng những người bạn đồng niên xông pha trận
mạc nên nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu kiên trì mài nhọn ngòi bút của mình thành
vũ khí đánh giặc: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian,
bút chẳng tà” [135, tr.192]. Từ quan điểm nhân dân và dân tộc, thơ Nguyễn Đình
Chiểu đã cho ta thấy rõ nét đẹp khẳng khái của những lãnh tụ nghĩa quân dám vì
dân mà cãi lệnh vua, chống giặc cứu nước, những người nghĩa dân và người sĩ phu
“Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây", "Vì nước tấm thân đã gửi còn mất cũng cam,
Giúp đời cái nghĩa đáng làm nên hư nào ngại” [19, tr.34], thấy rõ bản chất triều đình
yếu hèn cắt đất dâng cho giặc và bọn nhà nho làm tay sai cho Pháp. Với Nguyễn
Đình Chiểu, cầm bút làm thơ là một thiên chức, tiếng thơ ông rất giàu cảm xúc
trước những biến động nóng bỏng của thời cuộc nên gây tác động mạnh đến các sĩ
phu yêu nước và đồng bào Nam Bộ. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" được Nguyễn
Đình Chiểu sáng tác khi trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc (16 - 12 - 1864) của
nghĩa sĩ bị thất bại. Tác phẩm đã hòa chung tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ
với những khí phách anh linh, với tinh thần quyết chiến, bất khuất của những người
nghĩa binh hy sinh vì nước. Vì vậy, tuy bài văn tế là để khóc người mất nhưng lại có
sức mạnh cổ vũ tinh thần chiến đấu cho những người còn sống, làm nức nở những
người trong cuộc và làm bồi hồi những kẻ thờ ơ trước thực trạng nguy nan của đất
nước. Âm vang của "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một minh chứng cho sức mạnh
của thơ văn cụ Đồ.
Trước uy tín của Nguyễn Đình Chiểu, bọn thực dân và tay sai tìm mọi cách
mua chuộc hòng ngăn chặn mọi tác động có hại cho chúng nhưng chúng đã thất bại.
Tầm tư tưởng tiến bộ và "Trái tim biết chọn lời ru, Câu thơ biết nhắm giặc thù tiến
công" [19, tr.55] của ông đã có ảnh hưởng sâu rộng cho công chúng. Nguyễn Đình
Chiểu xứng đáng là nhà thơ hàng đầu của văn học yêu nước Việt Nam thế kỷ XIX.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc ta có rất nhiều nhà thơ lớn: Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông, Phan
Đình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền… Trong số đó, Phan Bội Châu là người xuất
sắc tiếp nối Nguyễn Đình Chiểu trong việc sử dụng thơ như một vũ khí đấu tranh
giải phóng dân tộc. Là một nhà cách mạng nhiệt huyết, Phan Bội Châu tích cực
tuyên truyền giáo dục thanh niên, lập hiệp hội, tìm đường du học và kêu gọi toàn
dân đoàn kết. Thơ Phan Bội Châu vượt qua phạm trù đạo đức để vươn tới hành
động chính trị, vượt thoát sự chi phối của tư tưởng quân chủ để vươn tới tư tưởng
cách mạng. Cái tình trong thơ Phan Bội Châu nóng bỏng tình yêu đất nước, quê
hương. Thơ ông là tiếng khóc, tiếng than dữ dội trước thảm cảnh mất nước nên có
sức tác động, thức tỉnh lòng người rất mạnh mẽ. Ý đồ sáng tác "Ba tấc lưỡi mà
gươm, mà súng, Một ngòi lông, vừa trống, vừa chiêng" được ông thể hiện ngay từ
những đầu đề: “Đề tỉnh quốc dân hồn”, “Ai Việt Nam”, "Hòa lệ cống ngôn”, “Hải
ngoại huyết thư” v.v... Hiểu rằng văn thơ là vũ khí lợi hại trong sự nghiệp đấu tranh
cách mạng, ông sáng tác say sưa không mệt mỏi. Trong hoàn cảnh bấy giờ, thơ
Phan Bội Châu vang lên như những tiếng thét căm hờn dữ dội, như những bản cáo
trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác của thực dân cướp nước và phong kiến tay sai.
Bên cạnh những tình tự sâu sắc về lịch sử, về nòi giống, về đồng bào đồng chí, thơ
ông khẩn thiết một lẽ sống anh hùng, vang vọng, giục giã lời kêu gọi cứu nước. Hơn
ai hết, Phan Bội Châu đã góp vào lịch sử văn học dân tộc một kiểu mẫu văn
chương: văn chương tuyên truyền cổ động chiến đấu. Vì thế nó làm cho nhiều chính
khách Trung Hoa, Nhật Bản biết đến, khâm phục tác giả và ủng hộ cách mạng Việt
Nam.
Theo chiều dài đấu tranh đó, rất nhiều bài thơ đã song hành với những sự
kiện lịch sử và gây tác động mạnh mẽ vào ý thức của đông đảo nhân dân. Năm
1902, khi thực dân Pháp tổ chức khánh thành cầu Long Biên, Phan Trọng Mưu viết
“Thăng Long hoài cổ” kêu gọi “rửa hận” cho non sông. B._.TIỂU KẾT CHƯƠNG BA
Thơ Tố Hữu là thơ của một người say mê cuộc sống, say mê cách mạng, say
mê đấu tranh. Bằng những hình thức biểu hiện thích hợp, Tố Hữu đã tạo cho thơ
mình một sức mạnh đáng kể, một sức sống bền lâu, ám nhiễm và tác động sâu sắc
vào tâm hồn người đọc. Sức mạnh của thơ Tố Hữu "chính là vì nó nói với trái tim,
chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự". Bằng thơ, Tố
Hữu "có thể đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa" [20, tr.36],
thơ Tố Hữu là "một trường nghị lực cho người đọc" [75, tr.401].
Bên cạnh những hình thức thi pháp nổi bật đã được trình bày ở trên, chúng
ta vẫn thấy một số yếu tố khác cũng mang những nét riêng cho phong cách thơ Tố
Hữu, cũng giúp thơ Tố Hữu tăng thêm khả năng tác động vào độc giả. Đó là cách
thức sử dụng đại từ nhân xưng, cách sử dụng nhiều hô ngữ, cách ngắt câu giữa
dòng, và cả cách mà nhà thơ cho ra đời một bài thơ: ra đời rất kịp thời.
Không thể phủ nhận, thơ Tố Hữu sử dụng hệ thống đại từ nhân xưng đa
dạng. Tình cảm cách mạng có liên quan không nhỏ đến cách xưng hô trong thơ Tố
Hữu. Ông là nhà thơ, cũng là chiến sĩ cách mạng, ông gọi quần chúng là cha, mẹ,
anh, chị của mình. Thơ ông hướng đến hàng triệu người, cũng có khi dành cho riêng
một số con người anh hùng tiêu biểu. Khi đó, ông gọi tên họ chính xác: Lượm,
Nguyễn Văn Hòa, bà má Hậu Giang, mẹ Tơm, mẹ Suốt, Nguyễn Chí Diểu, Phan
Đăng Lưu, Huỳnh Ngọc Huệ, Lê Chưởng, Trần Thị Lý, Lê Thị Hồng Gấm, Hồ
Giáo, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp… Đối với ngôi thứ nhất,
ông luôn xưng hô cụ thể: tôi, chúng tôi, ta, chúng ta, con, anh, em… với nhân dân.
Cách xưng hô trực tiếp ấy tạo nên không khí thân mật, chan hòa gắn bó, tạo cảm
giác thoải mái, dễ tiếp nhận.
Mặt khác, nó còn có khả năng gợi lên những cảm xúc riêng, dễ làm thỏa
mãn yêu cầu biểu đạt cảm xúc và tác động vào cảm xúc độc giả của nhà thơ.
Thơ Tố Hữu thường sử dụng nhiều hô ngữ. Hô ngữ được sử dụng khi nhà
thơ hướng đến đối tượng bên ngoài, đến số đông hoặc chỉ với một ai đó. Hô ứng tạo
nên mối quan hệ cộng hưởng, tác động lẫn nhau. Với Tố Hữu, dường như con người
không cô đơn, không cô lập mình trước thời đại, trong rất nhiều tình huống, nhà thơ
sử dụng hô ngữ như một lời kêu gọi hưởng ứng, đồng tình từ mọi người. "Ít có nhà
thơ nào sử dụng hô ứng rộng rãi như Tố Hữu" [122, tr.191]. Thế giới hô ứng trong thơ
Tố Hữu giúp tiếng thơ ông luôn xao động, nôn nao, rạo rực, không bình lặng. Đỉnh
cao của trạng thái này là nhà thơ cất lên lời gọi. Những dòng thơ được bắt đầu hoặc
kết thúc bằng hô ngữ thường mang lại cảm giác hài hòa, thân ái. Hô ngữ làm cho
tiếng thơ không đơn độc, tiếng thơ luôn được định hướng, tiếng thơ giàu âm vang.
Kiểu hô ngữ trong thơ Tố Hữu cũng là những ơi, hỡi, này, kìa, ê, a, à, nhỉ, nhé, hỡi,
hả (hở), nè… kết hợp với đại từ hoặc danh từ phía sau. Tiếng gọi trong thơ Tố Hữu
luôn gắn liền với một đối tượng cụ thể, đó là những người dân Việt Nam yêu
thương: Bác ơi, anh em ơi, hỡi đồng bào, hỡi người bạn thân, bạn hỡi, bầm ơi, má
ơi, em ạ, hỡi cô tiên nữ, hỡi em, anh Trỗi ơi… và đôi khi là những địa danh: Huế ơi,
Hương Giang ơi, Tây Nguyên ơi, Mạc Tư Khoa ơi, và ông gọi cả những đối tượng
trừu tượng: xuân ơi, năm 2000 ơi, ôi Việt Nam,Tổ Quốc ơi, Người ơi, quê hương
ơi… Tố Hữu hay chạy, đi, chào, mời và hô, gọi. Đó là kiểu nhà thơ đặt mình vào
nhịp đời đang cuồn cuộn chảy của nhân dân, là kiểu nhà thơ cùng hít thở, nói cười,
buồn, khóc với nhân dân. Khi hô gọi, nhà thơ hướng đến đối tượng cụ thể, đồng
thời còn tạo nên những làn sóng cộng hưởng, lây lan cảm xúc trong nhiều người.
Thơ Tố Hữu còn tác động mạnh vào người đọc bởi tính kịp thời, thời sự.
Maiakovski đã từng có trường ca Vladimia Ilich Lenin năm … và đến 1969 Tố Hữu
có "Theo chân Bác", điều này đã đáp ứng kịp thời sự chờ đợi của đông đảo độc giả.
Ngoài trường ca "Theo chân Bác", Tố Hữu còn có "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên",
"Ta đi tới", "Việt Bắc", "Việt Nam máu và hoa", "Hãy nhớ lấy lời tôi", "Toàn thắng
về ta", "Vui thế, hôm nay"... Những bài thơ này đã được ông sáng tác như một sự
giải quyết kịp thời, như một bản tổng kết, ghi công, giúp người đọc thêm phần hồ
hởi, phấn khởi.
Có thể khẳng định rằng, "về mọi phương diện, Tố Hữu luôn luôn là lá cờ
tiền phong, lá cờ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam" [116, tr.465]. Ông viết
những câu thơ khiến "người ta có thể uống như nước ngọt, có thể hít thở như khí
trời lành" [20, tr.37]. Thơ ông đã đạt tới sự "ngọt ngào như là mỗi người có thể tự
làm ra những câu thơ Tố Hữu mà họ đọc ấy" [20, tr.37] vì ông đã nhập tâm sâu sắc,
thu hút và "chế biến" những tư tưởng, ý tưởng cách mạng thành ra thức ăn của tâm
hồn. Bằng tài năng của một nhà thơ và lý tưởng của một nhà cách mạng, Tố Hữu đã
xây dựng được một sự nghiệp thơ ca cao quý, đã thực hiện cái sứ mệnh cao quý
nhất của nghệ thuật: "giúp người ta suy nghĩ, hành động, đấu tranh, giúp người ta
biết yêu, biết ghét, biết phân minh, giúp cho người ta biết sống, biết chết một cách
xứng đáng nhất trong những giờ quyết định của đời mình" [75, tr.376].
KẾT LUẬN
Bước sang thế kỷ hai mươi mốt, chúng ta như bị cơn lốc của những phương
tiện vật chất ùn ùn kéo đến vây quanh, nó chiếm chỗ trong không gian, trong tâm
hồn con người làm những giá trị tinh thần trở nên hạn hẹp, thưa thớt và thậm chí trở
nên lạc lõng. Nhu cầu hưởng thụ vật chất cao hơn cũng góp phần làm cho thị hiếu
thẩm mỹ của con người trở nên khắt khe hơn. Thơ ca nói riêng và văn học nói
chung, đôi khi đã trở thành "hàng hóa" bởi sự cạnh tranh gay gắt của quá nhiều tác
phẩm, nó nhiều đến mức khiến người ta phải sợ, phải "ngấy". Trong quá trình thay
đổi đó, hơn lúc nào hết, thơ càng phải phát huy tối đa sức mạnh của mình. Đối với
riêng người sáng tác, sự phát triển của xã hội kích thích ý thức sáng tạo của họ hơn,
đời sống xã hội phức tạp lại là tiền đề hun đúc cho họ nguồn năng lượng, niềm đam
mê sống hết mình vì nghệ thuật. Thơ ca vừa phải là món ăn tinh thần bổ ích đối với
xã hội, là quyển sách đưa đường dẫn lối cho công chúng, vừa là người bạn đường
thân thiết của mọi người. Quan trọng nhất, thơ phải là một trong những công cụ
giáo dục tư tưởng tình cảm lành mạnh và thiết thực cho thanh thiếu niên, là vũ khí
đấu tranh cho sự phát triển trong sạch và vững mạnh của xã hội. Giữa những xô bồ
chộn chạo của cuộc đời, điều đáng mừng là thơ vẫn tồn tại như một sứ giả của thế
giới tâm linh.
Kinh nghiệm lịch sử chứng minh rằng người ta không hề hoặc rất ít có cơ
hội tìm thấy quyền lợi, chức vụ hay những lợi ích vật chất lẫn tinh thần khác nếu
dấn thân vào con đường nghệ thuật nhưng tất cả họ vẫn hăng say sáng tạo với một
sức mạnh không cưỡng lại được. Sự đam mê kỳ lạ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến
những đàn cá vượt qua bao thác ghềnh tìm về đồng bằng đẻ trứng, dù rất nhiều con
chết, nhưng chúng vẫn tuân theo bản năng và hy sinh kỳ lạ. Mặt khác, những nhà
thơ sống trong xã hội hiện đại ngày nay càng thấm sâu hơn cái quy luật sàng lọc
sòng phẳng của cuộc đời đối với mọi giá trị tinh thần mà họ tạo ra, thế mà họ vẫn
viết. Lý giải rằng chính vì bản thân văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng là một trong những niềm vui lớn nhất của con người và họ không ngừng tạo
tác để mở rộng tâm hồn người, để tạo nên muôn nghìn sợi dây nối liền ta với người,
để nhân sự sống lên, để giúp cho người ta bước qua cuộc sống chật hẹp tù túng của
mình và tìm đến sự đồng cảm của hàng trăm cuộc đời khác, nghe ra hợp lý hợp tình.
Nhất là đối với một dân tộc mà chiều dài lịch sử gắn liền với những cuộc chiến
tranh giành độc lập, thì thơ ca tuyên truyền, cổ động đấu tranh phải có một vị trí
quan trọng, khác thường. Đối với một dân tộc mà bão táp chiến tranh không ngừng
gây thương tích, vấn đề tìm đường cứu nước, tìm ra chân lý cho cuộc đời luôn đặt
con người vào những tình huống căng thẳng thì thơ ca yêu nước đã cho thấy sức
mạnh, ý nghĩa của mình trong việc trở thành người bạn, người thầy, người dẫn
đường đáng tin cậy của nhân dân.
Tồn tại giữa cuộc đời như một thực thể có tư duy và có khả năng sáng tạo,
bất cứ ai trong chúng ta cũng có nhu cầu giao tiếp. Vì sống là phải sống với người
khác, cần người khác và vì người khác. Khi mọi phương tiện liên lạc càng hiện đại
thì mối liên hệ giữa nhà thơ và độc giả càng gần gũi, cởi mở và thân thiện. "Giao
tiếp là một điều kiện của sự sống. Đã có giao tiếp là có trao đổi, có tác động lẫn
nhau" [158, tr.487]. Cho nên, tác động là một phạm trù thuộc lĩnh vực sáng tác lẫn
tiếp nhận văn học, là biểu hiện cụ thể từ nhu cầu giao cảm mãnh liệt của nhà thơ khi
sáng tác. Để đạt được hiệu quả cao nhất, nhà thơ luôn cố gắng chọn lựa hình thức
nghệ thuật thích hợp sao cho diễn đạt thành công nhất ý tưởng, cảm xúc của mình
và tạo được sức tác động mạnh nhất, sức lan truyền bền bỉ nhất trong lòng độc giả.
Do đặc trưng thể loại, thơ nghiêng hẳn về phương diện bộc lộ cảm xúc, tâm hồn nhà
thơ. Bộc lộ để mà bộc lộ, bộc lộ cũng để mà tác động đến người đọc. Quá trình sáng
tác là quá trình nhà thơ vừa trăn trở, bộc lộ, giãi bày, vừa đi tìm sự chia sẻ, đồng
cảm, tìm mối dây liên kết với tri âm, với cộng đồng. Ai cũng phải nhọc nhằn, vất vả
gieo vào trang viết từng con chữ, từng ý nghĩ với mong muốn khi nó đến được với
người đọc thì có thể mắc lại nơi ấy. Trong tâm thức của mỗi người họ, thường trực
là niềm khắc khoải muốn tạo ra những tác phẩm có hằng số nghệ thuật mới lạ, có tư
tưởng nhân văn sâu sắc, có sức lay động vào tâm thức con người. Chính vì vậy mà
câu hỏi làm thế nào để người đọc đọc mình, hiểu mình, nghe theo mình… trở nên
thật sự cần thiết đối với mỗi người cầm bút.
Đứng về phương pháp luận, nghiên cứu các biểu hiện thuộc về hình thức thi
pháp của thơ chỉ là một hướng trong nhiều hướng nghiên cứu văn học. Nó được
chúng tôi chọn nghiên cứu như một hướng đi tìm những nguyên nhân tạo nên sức
sống bền bỉ, âm vang mạnh mẽ và nhất là sức tác động mãnh liệt của thơ ca. Trong
xu hướng cần nên chú trọng việc nâng cao tính khoa học của ngành nghiên cứu văn
học, phát hiện ngày càng sâu hơn bản chất và quy luật của văn học, từng bước khám
phá ra con đường, hệ thống thao tác đáng tin cậy để hiểu sâu tác phẩm, hiểu sâu quá
trình sáng tác và tiếp nhận, góp sức vào việc tạo ra những giá trị văn học mới và
phát huy tác dụng của văn học trong cuộc sống thì đề tài nghiên cứu này là một nét
nhỏ trong nhiều vấn đề mà thi pháp học hiện đại đang hướng tới. Mặt khác, như ý
kiến của các nhà nghiên cứu văn học thì trong sáng tác và nghiên cứu ngày nay,
chúng ta cũng đã không còn thơ ngây mà khẳng định một chiều, phiến diện theo
kiểu hoặc chỉ thấy thơ là vũ khí của tư tưởng, hoặc chỉ thấy thơ ca là nghệ thuật,
hoặc chỉ thấy thơ ca là ngôn ngữ. Đã trải qua một quá trình tranh luận lành mạnh và
nghiêm túc để thấy rõ: thơ là tổng hợp của ba yếu tố đó. Lịch sử từ xưa đến nay
cũng đã chứng minh cho ta thấy rõ rằng: nếu đã là một nghệ sĩ tài năng thì đồng
thời cũng là một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa lớn, một nhà ngôn ngữ học uyên
bác. Cho nên, việc lựa chọn một góc nhìn hay một lĩnh vực nghiên cứu nào đối với
văn thơ không còn là vấn đề để bàn luận vì mục đích cuối cùng của nó là mang lại
một nét mới để bổ sung cho những vấn đề lý luận truyền thống thêm hoàn chỉnh
hơn.
Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu luận văn này từ những cơ sở thực tế đó,
và cũng từ hy vọng quá trình sáng tác và nghiên cứu thơ ca ngày càng phong phú
hơn, hoàn thiện hơn. Bởi chúng tôi cho rằng, đúng như lời của Nguyễn Văn Hạnh
từng viết: "Không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương nghệ thuật
trong việc giúp con người hiểu được cuộc sống và hiểu chính mình, sống có tình
thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để
ước mơ, vươn đến chân thiện mỹ. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái đẹp, sự hài hòa, sự
sống" [42, tr.255]. Chưa bao giờ văn học rời xa con người, chưa bao giờ văn học phản
bội lại những ước mơ cao cả của con người. Trong mọi thời đại, sáng tạo văn học
vẫn mãi là một hoạt động sáng tạo cao đẹp, đầy thánh thiện, đáng để tôn vinh.
Cuối cùng, chúng tôi muốn khẳng định rằng, như một lẽ tất yếu, các yếu tố
thi pháp có khả năng tác động mạnh vào công chúng luôn giữ vai trò không nhỏ
trong tiến trình thúc đẩy sự đổi mới và phát triển thơ ca Việt Nam, nó góp phần
khẳng định và định hướng cho người cầm bút trong ý đồ đưa tác phẩm của mình
đến với độc giả thêm sắc nét và có sức sống bền lâu hơn trong lòng người. Nỗ lực
mà luận văn hướng tới là góp phần tìm tòi và khẳng định những hiệu quả nghệ thuật
của các hình thức thi pháp ấy để góp thêm vào bề dày nghiên cứu thơ ca Việt Nam
một cách nhìn nhận mới, thiết thực, bổ ích cho đội ngũ những người sáng tác trẻ ở
Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phong Hồng Anh (2005), "Tín hiệu thơ - cuộc đối thoại giữa nhà thơ và bạn
đọc", Tạp chí Ngôn ngữ, (9).
2. Đỗ Ảnh (1990), "Thử vận dụng quan điểm cấu trúc – chức năng để nhận diện
miêu tả câu cầu khiến Tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, (2).
3. Arnaudop M. (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Ly
dịch, Nxb Văn học.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam (1970), "Thư gửi Đại
hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, IV", Tạp chí Tác phẩm mới, (6).
5. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp Tiếng Việt tập 1 và 2, Nxb Giáo dục.
6. Diệp Quang Ban (1998), Một số vấn đề về câu tồn tại trong Tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
7. Nguyễn Bính (1992), Thơ Nguyễn Bính chọn lọc, Nxb Văn học.
8. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb ĐH và Giáo Dục CN, Hà Nội.
9. Nguyễn Bính Hồng Cầu (2007), Nhặt bóng mình, Nxb Văn nghệ.
10. Hoàng Minh Châu (1978), "Trả lời Tạp chí văn học", Tạp chí Văn học, (1).
11. Nguyễn Huệ Chi (1988), Hội thảo về "Phản ánh hiện thực là chức năng hay
thuộc tính của văn học", Tạp chí Văn học, (5).
12. Tân Chi tuyển chọn và biên soạn (1999), Thạch Lam văn và đời, Nxb Hà Nội.
13. Trúc Chi (1999), Ba mươi năm một nền thơ cách mạng, Nxb Thanh niên.
14. Nguyễn Đình Chú, Trần Hữu Tá chủ biên (2002), Văn học 11, tập 1, phần
Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
15. Mai Ngọc Chừ (1991), "Những đặc điểm của âm tiết Tiếng Việt và vai trò của
nó trong thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
16. Nguyễn Dương Côn (1994), "Phác thảo về quan hệ giữa ảo và phi lý trong
thơ", Tạp chí Sông Hương, (8).
17. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Phan Bội Châu, Nxb Thanh
niên.
18. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh
niên.
19. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Thanh
niên.
20. Xuân Diệu (1978), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy, Nxb Tác phẩm
mới.
21. Xuân Diệu (1978), "Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống”, Tạp chí Văn
học, (1).
22. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Xuân Diệu (tái bản 1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học.
24. Dovsdilskj S. (1961), "Nhiệm vụ của nhà thơ", Tạp chí Văn nghệ, (49).
25. Nguyễn Du (tái bản 1996), Truyện Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.
26. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học Xã hội.
27. Hữu Đạt (1996), "Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ ca và ca dao", Tạp
chí Ngôn ngữ, (4).
28. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
29. Hữu Đạt (1998), Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt, Nxb
Văn hóa thông tin Hà Nội.
30. Phan Cự Đệ chủ biên (tái bản 1998), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo
dục.
31. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Văn học.
32. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học.
33. Trịnh Bá Đĩnh biên soạn (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học.
34. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục.
35. Trinh Đường (2001), "Trăm năm thơ", Tạp chí Nhà văn, (1).
36. Bùi Giáng (tái bản 2006), Mưa nguồn, Nxb Văn nghệ.
37. Nguyễn Thiện Giáp (2004), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
38. Phạm Thị Hà, Nguyễn Thị Thìn (2002), "Câu hỏi trong thơ trữ tình", Tạp chí
Ngôn ngữ, (10).
39. Nguyễn Văn Hạnh (1985), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí, Nxb Thuận Hóa.
40. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận và văn học, vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa
học Xã hội.
42. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, Nxb Giáo dục.
43. Đỗ Thị Hằng (2005), "Ẩn dụ bổ sung - một phương tiện tu từ đặc sắc trong
văn chương", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (11).
44. Cao Xuân Hạo (tái bản 2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb
Khoa học Xã hội.
45. Hoàng Ngọc Hiến (1988), "Phản ánh hiện thực là chức năng hay thuộc tính của
văn học", Tạp chí Văn học, (5).
46. Hoàng Ngọc Hiến (2004), "Năng khiếu cảm nhận tiết tấu", Tạp chí Văn học và
tuổi trẻ, (1).
47. Lưu Hiệp (1996), Văn tâm điêu long, bản dịch trong Tạp chí Văn học nước
ngoài, (3).
48. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi… và nhiều tác giả khác biên tập (1983), Từ
điển văn học tập 1, 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
50. Hirsch E. (2004), "Thơ và độc giả", Tạp chí Văn học nước ngoài, (1).
51. Nguyễn Thái Hòa (1996), "Tiếp đoạn trong một dòng thơ", Tạp chí Ngôn ngữ,
(1).
52. Bùi Công Hùng (1973), "Về một số quan điểm sáng tác thơ ở Sài Gòn", Tạp
chí Văn học, (2).
53. Bùi Công Hùng (1974), "Những ý kiến sai trái về thơ của Nguyễn Văn Thi",
Tạp chí Văn học, (4).
54. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
55. Hoàng Hưng (1994), "Về bản sắc dân tộc và thơ hôm nay", Tạp chí Sông
Hương, (11).
56. Tố Hữu (1961), "Thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình, tiếng nói đồng chí", Tạp
chí Văn nghệ, (48).
57. Tố Hữu (1973), Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta,
thời đại ta, Nxb Văn học.
58. Tố Hữu (1981), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật, Nxb Văn học.
59. Tố Hữu (1998), "Phải sống đến tận cùng cuộc sống mới có được thơ hay", Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, (8).
60. Tố Hữu (tái bản lần 7 năm 2005), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học.
61. Đỗ Văn Hỷ biên soạn (1990), Người xưa bàn về văn chương tập 1, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
62. Jauss H. R. (2002), "Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học", Trương Đăng Dung dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, (1).
63. Nguyễn Thị Dư Khánh (1996), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học
trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
64. Đinh Gia Khánh chủ biên (tái bản 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XV nửa đầu
thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục.
65. Đinh Gia Khánh chủ biên (tái bản 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu
thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục.
66. Trần Đăng Khoa, Vũ Quần Phương tuyển chọn và giới thiệu (2007), Những
nhà thơ Việt Nam thời chống Mỹ, Nxb Kim Đồng.
67. M.B.Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
68. M.B.Khravchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn học, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
69. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
70. Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.
71. Đinh Trọng Lạc chủ biên (2002), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
72. Chu Lai (1993), "Nghề khổ", Tạp chí Văn nghệ, (1).
73. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo
dục.
74. Đinh Lan (2001), "Không gian nghiêng – một nét độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (3).
75. Phong Lan tuyển chọn (2003), Tố Hữu, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
76. Đào Thanh Lan (2005), "Cách biểu hiện hành động cầu khiến gián tiếp bằng
câu hỏi – cầu khiến", Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
77. Mã Giang Lân (1996), "Sự hình thành các bài thơ", Tạp chí Văn học, (10).
78. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
79. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu (2001), Thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Văn
hóa thông tin.
80. Mã Giang Lân (2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
81. Mã Giang Lân (2004), "Tản Đà - từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tạo hình
thức thơ ca", Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8).
82. Phong Lê chủ biên (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
83. Lenin V. I (1977), Bàn về văn hóa, văn học, nhiều người dịch, Nxb Văn học.
84. Nguyễn Thế Lịch (2000), "Ngữ pháp của thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, (11) và
(12).
85. Nguyễn Thế Lịch (2004), "Nhịp thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
86. Vân Long sưu tầm (1995), Xuân Quỳnh thơ và đời, Nxb Văn hóa Hà Nội.
87. Lotman IU. M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, (nhiều người dịch), Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
88. Nguyễn Lộc (tái bản 2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế
kỷ XIX, Nxb Giáo dục.
89. Phan Trọng Luận chủ biên (2006), Ngữ Văn 10 tập hai, Nxb Giáo dục.
90. Lưu Trọng Lư (1961), "Một vài cảm nghĩ về thơ", Tạp chí Văn nghệ, (48).
91. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học tập 1, Nxb Đại học Sư phạm.
92. Phương Lựu chủ biên (tái bản lần thứ 4, 2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo
dục.
93. Phương Lựu (2005), Tuyển tập tập 1, 2, 3, Nxb Giáo dục.
94. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (tái bản 2006), Văn học 12 tập
1, Nxb Giáo dục.
95. Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, Nxb Văn học.
96. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Để dạy tốt văn học Việt Nam lớp 12, Nxb Giáo
dục.
97. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong
cách, Nxb Trẻ.
98. Nguyễn Đăng Mạnh (tái bản 2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục.
99. Hồ Chí Minh (tái bản 1999), Nhật ký trong tù, Nxb Thanh niên.
100. Nguyễn Thanh Mừng (2006), "Nguyên Tiêu", Tạp chí Nhà văn, (3).
101. Lê Thành Nghị (2003), Văn học sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội nhân
dân.
102. Phan Ngọc (tái bản 2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Trẻ.
103. Nguyễn Hữu Ngô sưu tầm và biên soạn (2005), Trần Quang Long, cuộc đời và
tác phẩm, Nxb Thuận Hóa.
104. Bàng Sĩ Nguyên (1978), "Thơ của đời sống", Tạp chí Văn học, (1).
105. Triều Nguyên (2006), Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục.
106. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
107. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí
Minh.
108. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.
109. Đái Xuân Ninh (1985), Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb Tp.
HCM.
110. Như Phong (1977), Bình luận văn học, Nxb Văn học.
111. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
112. Vũ Quần Phương (1992), "Vài ý nghĩ về thơ hôm nay", Tạp chí Tác phẩm
mới, (3).
113. Pauxtovskj K. (2001), Bông hồng vàng, Kim Ân dịch, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
114. Pospelov G. N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch, Nxb Giáo dục.
115. Vũ Đức Phúc (1978), "Thơ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Văn học,
(4).
116. Vũ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, Nxb Khoa học xã hội.
117. Bùi Minh Quốc (1993), "Góp mấy suy nghĩ về người nghệ sĩ, chiến sĩ”, Tạp
chí Văn học, (3).
118. Ranicki M. R. (1994), "Một lời biện hộ cho thơ", Trương Hồng Quang dịch,
Tạp chí Văn học, (3. 2003).
119. Nguyễn Xuân Sanh (1973), "Cuộc sống với lý tưởng, trang thơ, người bạn
đọc", Tạp chí Văn học, (1).
120. Sartre J. P. (1999), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.
121. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Hà Nội.
122. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
123. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
124. Trần Đình Sử (tái bản 2001), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Văn hóa thông tin.
125. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm.
126. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
Hội, Hà Nội.
127. Trần Hữu Tá nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn (2000), Nhìn lại một chặng
đường văn học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
128. Hà Công Tài (1997), "Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ", Tạp chí Văn học, (5).
129. Nguyễn Trọng Tạo (1994), "Thơ lục bát Việt Nam, lạm bàn", Tạp chí Sông
Hương, (6).
130. Nguyễn Trọng Tạo (2007), 36 bài thơ, Nxb Lao động.
131. Nguyễn Minh Tấn biên soạn (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
132. Khâu Chấn Thanh (1995), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc,
Nxb Giáo dục.
133. Hoài Thanh, Hoài Chân (tái bản 2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
134. Vũ Thanh tuyển chọn (1998), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
135. Tuấn Thành, Anh Vũ tuyển chọn (2002), Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm và dư
luận, Nxb Văn học.
136. Tuấn Thành, Anh Vũ tuyển chọn (2005), Việt Bắc tác phẩm và lời bình, Nxb
Văn học.
137. Đào Thản (1990), "Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát", Tạp chí Ngôn ngữ,
(3).
138. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Tp.Hồ Chí Minh.
139. Nguyễn Bá Thành (1991), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
140. Tạ Văn Thành (1998), Đại cương Mỹ học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
141. Thanh Thảo (1995), "Cuối cùng, thơ chiến đấu với chính nó", Tạp chí Tác
phẩm mới, (11).
142. Thanh Thảo (2002), "Sự bền lòng, một tên gọi khác của thơ ca", Tạp chí Nhà
văn, (11).
143. Đoàn Thêm dịch và giới thiệu (1962), Quan niệm và sáng tác thơ, theo lời thi
nhân và học giả phương Tây, Viện Đại Học Huế.
144. Nguyễn Đình Thi (1961), "Mở rộng cửa cho cuộc sống mới vào thơ, cho thơ
vào cuộc sống mới", Tạp chí Văn nghệ, (48).
145. Nguyễn Đình Thi (1992), "Mấy ý nghĩ về thơ", Tạp chí Tác phẩm mới, (3).
146. Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên (1997), Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam tập
3, Nxb Văn học.
147. Vũ Duy Thông biên soạn (2003), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 – 1975, Nxb Giáo dục.
148. Trúc Thông (1995), "Một ngả đường đến với thơ", Tạp chí Tác phẩm mới,
(11).
149. Chu Thị Thơm (2006 ), "Thơ trẻ: Bức tranh chưa phân định sắc màu", Tạp chí
Nhà văn, (2).
150. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội.
151. Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp - Lý
thuyết Chủ nghĩa hình thức Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
152. Nguyễn Thị Phương Thủy (2004), "Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ
Mới bảy chữ", Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
153. Trần Thức tuyển soạn và giới thiệu (2005), Viết trên đường tranh đấu, Nxb
Thuận Hóa.
154. Phạm Văn Tình (2002), "Im lặng – một dạng tỉnh lược ngữ dụng", Tạp chí
Ngôn ngữ, (5).
155. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, Nxb Hội nhà văn.
156. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb
Thanh niên.
157. Lê Ngọc Trà (tái bản 2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
158. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục.
159. Võ Gia Trị (2002), "Lý luận là nền tảng cho thơ ca vươn cao", Tạp chí Nhà
văn, (11).
160. Coocnây Trucốpxki (1993), "Những bí quyết làm thơ hay cho trẻ em", Bùi
Hòa dịch, Tạp chí Văn học, (5).
161. Đinh Gia Trinh, (tái bản 2005), Hoài vọng của lý trí, Nxb Hội nhà văn.
162. Hoàng Trinh chủ biên (1978), Văn học, cuộc sống, nhà văn, Nxb Khoa học Xã
hội.
163. Hoàng Trinh (1996), "Giao tiếp trong văn học", Tạp chí Văn học, (4).
164. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, Nxb Giáo dục.
165. Hoàng Tuệ (1998), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
166. Ủy ban Khoa học Xã hội (1983), Ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
167. Valery P. (2000), "Các vấn đề thi ca", Phương Ngọc dịch, Tạp chí Văn học, (1).
168. Kiều Văn tuyển chọn (2002), Thơ Lưu Quang Vũ, Nxb Đồng Nai.
169. Kiều Văn (2006), Những gương mặt tiêu biểu thơ ca Việt Nam, Nxb Văn học.
170. Chế Lan Viên (1973), "Trả lời Tạp chí văn học, hay là nói chuyện thơ đầu
năm", Tạp chí Văn học, (1).
171. Chế Lan Viên (1993), Di cảo thơ, tập II, Vũ Thị Thường góp nhặt, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
172. Chế Lan Viên (tái bản 1997), Điêu tàn, Nxb Hội nhà văn.
173. Hồ Sĩ Vịnh (2004), "Yếu tố phi lý tính trong thơ", Tạp chí Nhà văn, (8).
174. Xâytlin (1968), Lao động nhà văn, Nxb Văn học.
175. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Tiếng vọng những mùa qua, Nxb Trẻ.
176. Nhiều tác giả (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh) (1976), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
177. Nhiều tác giả (1979), Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học
Xã hội.
178. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật Đà
Nẵng.
179. Nhiều tác giả (1984), Tổng tập văn học Việt Nam tập 36, Nxb KHXH Hà Nội
và Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
180. Nhiều tác giả (1990), Tình bạn, tình yêu, thơ…, Nxb Giáo dục.
181. Nhiều tác giả (1992), Thơ Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Giáo dục.
182. Nhiều tác giả (1994), Tuyển tập Thơ lục bát Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
183. Nhiều tác giả (1997), Thi ca Việt Nam thời Cần Vương, Nxb Văn học.
184. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, Sở nghiên cứu văn học,
Viện văn học Trung Quốc.
185. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Lời hay ý đẹp, tập 2, Nxb Thanh niên.
186. Nhiều tác giả (2004), Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
187. Nhiều tác giả (2005), Ngô Kha, ngụ ngôn của một thế hệ, Nxb Thuận Hóa.
188. Nhiều tác giả (2006), Thơ hay Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hóa thông tin.
189. Nhiều tác giả (2006), Cái nhìn mới về lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Tài
liệu của Trường Đại học KHXH và Nhân văn.
190. Nhiều tác giả (2006), Văn chương một thời để nhớ, Nxb Văn học.
191.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5232.pdf