BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Minh Kim
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
THƠ BÙI GIÁNG
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
`
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bùi Giáng là một trường hợp đặc biệt và độc đáo của nền thi ca hiện đại
Việt Nam cuối thế kỉ XX. Nhắc đến Bùi Giáng người ta nghĩ đến một hiện
tượng mà
168 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2451 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho đến tận hôm nay hãy còn đó rất nhiều vấn đề hấp dẫn vẫn chưa
được tỏ tường.
Các nhà phê bình chính thống hầu như ít “chạm” đến ông trong khi số
lượng người yêu thích thơ ông lại rất đông đảo. Báo chí có ghi chép lại rằng
đám tang của ông có tới hàng ngàn người tham dự, là một trong những đám
tang lớn nhất kể từ sau năm 1975. Nhà thơ Huy Cận cũng có lần bày tỏ lòng
yêu mến với Bùi thi sĩ:
Đôi lời thăm bạn thơ
Thăm tấm lòng tri kỷ
Bao giờ đến bây giờ
Tình thơ không hoen rỉ
(Thân tình gửi anh Bùi Giáng)
Dường như xưa nay độc giả yêu thơ ông, đến với thơ ông chỉ mới bằng
tâm thế “kính nhi viễn chi” mà thôi. Ai cũng dễ dàng cảm nhận Bùi Giáng
“rất Bùi Giáng”, Bùi Giáng rất “không giống ai”, thế nhưng cái bản chất Bùi
Giáng rất riêng, rất độc đáo ấy là gì thì lại không mấy ai đủ tự tin để lý giải
cặn kẽ. Chung quanh Bùi Giáng có vô số giai thoại đáng nhớ lại càng dễ
khiến người ta cảm thấy mơ hồ khó nắm bắt.
Trước nay đã có rất nhiều người viết về Bùi Giáng nhưng phần lớn đều
là những bài viết tản mạn đăng báo hoặc đăng ở các tập san chuyên đề về Bùi
`
Giáng. Hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào nói đầy đủ về toàn bộ cuộc đời
và tác phẩm của ông nói chung và nghiên cứu chuyên sâu về thơ Bùi Giáng
nói riêng.
Bùi Giáng là tác giả của khoảng sáu bảy mươi đầu sách đủ mọi thể loại,
từ văn thơ cho đến dịch thuật, từ giới thiệu tác giả tác phẩm nước ngoài cho
đến bàn luận về triết học phương Tây…
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số tập thơ của Bùi Giáng đã
được xuất bản và lưu hành hợp pháp tại Việt Nam.
Luận văn hướng tới xác định những cảm hứng chủ đạo và đặc điểm
nghệ thuật thơ Bùi Giáng, góp phần đánh giá thơ Bùi Giáng- một thi sĩ được
xem như một hiện tượng độc đáo trên thi đàn Việt Nam cuối thế kỷ XX.
Nghiên cứu về Bùi Giáng quả là một thử thách không nhỏ nhưng chúng
tôi thiết nghĩ đó cũng là điều nên làm để góp phần giải mã và giới thiệu một
chân dung văn học rất đáng quan tâm của nền thơ ca Việt Nam cuối thế kỉ
XX.
Tìm hiểu ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ BÙI GIÁNG là cách
chúng tôi chọn để mở một lối nhỏ trên hành trình tiếp cận thi sĩ tài hoa và dị
biệt này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Khi tìm hiểu và khảo sát các nguồn tư liệu viết về Bùi Giáng, chúng tôi
nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được công bố,
xuất bản và hiện đang lưu hành hợp pháp ở Việt Nam không nhiều.
Về luận văn, chúng tôi có dịp khảo sát được ba luận văn đã chọn Bùi
Giáng làm đối tượng nghiên cứu, mỗi luận văn tiếp cận vấn đề ở những góc
độ khác nhau. Trong luận văn tốt nghiệp của mình, với đề tài Bùi Giáng –
`
Một cuộc đời, một cõi thơ, năm 2000, Đinh Vũ Thùy Trang đã sống trong
tiếng thơ Bùi Giáng bằng sự thẩm âm của một người mong mỏi là một khách
tri âm. Luận văn biểu đạt những Ngổn ngang nỗi niềm tâm sự: yêu quê
hương, tuổi thơ hồn nhiên, nỗi buồn, tình yêu… trong thơ ông. Bên cạnh đó,
luận văn đã cảm thụ và lý giải quan niệm của nhà thơ về thế giới về con
người, với một tiêu đề Khởi nguyên cõi tinh mật. Và cõi tinh mật trong thơ
ông là gì? Là một thực tại đầy ắp nhiên giới, là thế giới của hoài niệm, chiêm
bao, là nguyên lý mẹ, là kinh thơ? Tựu trung lại, luận văn đã đi đến một kết
luận: cõi thơ u mật…thơ và ngôn ngữ của Bùi Giáng vốn viên mật , nhưng có
lẽ “mẹ huyền nhiệm” là cõi tinh mật sâu kín chỉ sau Kinh thơ, mà ông sở dĩ
có nguồn thơ thâm mật, trác tuyệt bởi nó đã được lấy từ cõi nguồn Phật giáo
uyên nguyên (trang 52). Tất cả những nhận định, nghiên cứu trên của người
viết giúp ta tiến thêm một bước khi thâm nhập vào cõi thơ Bùi Giáng. Luận
văn tiếp theo mà chúng tôi khảo sát là luận văn cử nhân của tác giả Nguyễn
Văn Quốc, với đề tài Đặc điểm nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bùi Giáng. Ở
luận văn này, phần gợi nhiều hứng thú nhất có lẽ chính là phần nghiên cứu về
hình thức khẩu ngữ trong thơ Bùi Giáng. Đáng tiếc, phần này lại không được
xây dựng thành một tiêu đề riêng và chưa được nghiên cứu sâu. Gần đây nhất
là luận văn thạc sĩ với đề tài Thơ Bùi Giáng của tác giả Trương Thị Mỹ
Phượng đã bảo vệ thành công vào năm 2007. Tác giả đã cố gắng bao quát một
đề tài khá rộng là Thơ Bùi Giáng bằng việc đi sâu nghiên cứu hệ thống những
đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ Bùi Giáng. Tuy nhiên, trong phần
kết luận ở cuối công trình nghiên cứu, dường như tác giả cũng còn khá lúng
túng và chưa đưa ra được một nhận định thực sự có sức nặng về một chân
dung văn học độc đáo của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Về sách, tính đến tháng 06 năm 2009, chúng tôi tiếp cận được với bốn
cuốn sách viết về Bùi Giáng. Có hai cuốn sách viết về Bùi Thi Sĩ đã được
`
xuất bản cách đây vài năm và khá quen thuộc với những người quan tâm đến
Bùi Giáng. Đó là cuốn Bùi Giáng trong tôi của tác giả Hồ Công Khanh, do
Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh in năm 2005 và cuốn Bùi
Giáng – thi sĩ kì dị của tác giả Trần Đình Thu do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản
năm 2005 và đã tái bản lần thứ hai.
Tác giả Hồ Công Khanh hiện đang sinh sống tại Đà Nẵng, còn tác giả
Trần Đình Thu sống tại TPHCM. Qua tiếp xúc và trò chuyện với hai tác giả
này, chúng tôi có cơ hội hiểu thêm về họ, cũng như tiếp cận thêm nhiều thông
tin về Bùi Giáng- con người mà họ rất quan tâm và dành nhiều tâm huyết để
giới thiệu với độc giả khắp nơi. Tác giả Hồ Công Khanh tự nhận mình là
người “cuồng si” Bùi Giáng và cũng là người có khá nhiều kỉ niệm riêng tư
với Trung Niên Thi Sĩ khi Bùi Giáng còn tại thế. Bùi Giáng là người ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống và cách sống của tác giả Bùi Giáng trong
tôi. Hồ Công Khanh trong nhiều năm liền đã dày công sưu tầm, bảo quản gần
như đầy đủ các tác phẩm của Bùi Giáng, thuộc đủ mọi thể loại, trong đó có cả
những tài liệu chưa được xuất bản chính thức tại Việt Nam.Có thể nói không
ngoa, ở Việt Nam bây giờ, Hồ Công Khanh là một trong số ít những người
gìn giữ cái “thư viện riêng” về Bùi Giáng, bằng tất cả tấm lòng của mình với
tiền nhân. Hồ Công Khanh hầu như chưa bao giờ vắng mặt trong những buổi
lễ kỉ niệm, tưởng niệm về cố thi sĩ. Đây cũng là cách tác giả thể hiện sự kính
trọng và ngưỡng mộ một tài năng độc đáo. Bên cạnh đó, Hồ Công Khanh còn
là một nhà thư pháp có tiếng. Trong cuốn Bùi Giáng trong tôi, Hồ Công
Khanh đã trổ tài viết thư pháp rất nhiều tác phẩm thơ Bùi Giáng. Còn tác giả
Trần Đình Thu xuất thân là nhà báo, là cộng tác viên của nhiều tờ báo tại
TPHCM. Sau cuốn Bùi Giáng- thi sĩ kì dị, Trần Đình Thu vẫn ấp ủ ý định sẽ
có một công trình nghiên cứu sâu hơn về thi sĩ Bùi Giáng. Cả hai tác giả đều
rất yêu mến con người và thơ ca của Bùi thi sĩ, hai cuốn sách ra đời đầu tiên
`
để thoả mãn những cảm xúc của chính bản thân tác giả , và sau nữa cũng là
góp phần giới thiệu một chân dung lạ trên thì đàn Việt Nam thế kỉ thứ XX.
Tác giả Hồ Công Khanh không phải là người viết sách chuyên nghiệp.
Cuốn Bùi Giáng trong tôi như là một cuốn sách lưu giữ kỉ niệm nhiều hơn là
một công trình nghiên cứu mang tính học thuật về Bùi Giáng. Tác giả tìm
thấy sự đồng điệu lớn lao với nhà thơ này. Cuốn sách gồm năm phần: Một vài
cảm nhận về thi sĩ Bùi Giáng, Thông lộ Bùi Giáng, Bùi Giáng- những điều
chưa nói hết, Bùi Giáng- người không đem trần gian giấu vào hạt bụi, Bùi
Giáng- cội nguồn bí ẩn của thơ ca. Những bài viết của Hồ Công Khanh nặng
về cảm nhận hơn là phân tích, phê bình những thi phẩm của Bùi Giáng. Hồ
Công Khanh tìm thấy bóng dáng cùa mình trên hành trình sống, hành trình
thơ ca của Bùi Giáng.Với tất cả tấm lòng trân trọng một tài năng và niềm yêu
kính một nhân cách, tác giả của Bùi Giáng trong tôi cũng có gợi mở ít nhiều
cho chúng ta đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thêm về nhà thơ này.
So với cuốn Bùi Giáng trong tôi của Hồ Công Khanh, cuốn sách Bùi
Giáng- thi sĩ kì dị làm tốt hơn vai trò của một công trình nghiên cứu nhiều
mặt về văn nghiệp Bùi Giáng. Cuốn sách được ra đời trong kế hoạch viết một
bộ sách “phác hoạ chân dung các nhà văn nhà thơ trong đời sống thường
ngày và trong lao động nghệ thuật. Nó không phải là sách phê bình văn học.
Nhưng đôi chỗ vẫn kết hợp việc phân tích tác phẩm để minh hoạ cho cuộc đời
tác giả. Tuy nhiên việc phân tích này sẽ không đi quá sâu như những cuốn
sách phê bình” (Vài lời đầu sách). Cuốn sách chia làm hai phần, phần đầu
dành cho những bài viết về Bùi Giáng, phần sau dành để tuyển chọn và giới
thiệu một số thi phẩm tiêu biểu của Bùi Giáng theo tiêu chí phân loại của tác
giả cùng một số bài Bùi Giáng trả lời phỏng vấn các tờ báo. Các bài thơ trong
phần sau này được trích từ nhiều tập thơ của Bùi Giáng đã được xuất bản
hoặc sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Phần đầu gồm gần ba mươi bài viết
`
đi vào rất nhiều khía cạnh khác nhau về cuộc đời và văn nghiệp của Bùi
Giáng. Trần Đình Thu kể chuyện cuộc đời Bùi Giáng, kể về tài viết sách với
tốc độ kinh hồn, về những nguồn thi hứng dào dạt trong thơ ông, về những tác
phẩm văn học dịch mang đầy tính tư tưởng và triết lý…Có thể nói Trần Đình
Thu đã bao quát khá rộng về đề tài Bùi Giáng mà ông đã chọn để nghiên cứu.
Không chỉ dừng lại nghiên cứu các phần nội dung tư tưởng trong các tác
phẩm của Bùi Giáng, Trần Đình Thu còn có những bài đi sâu vào Ngôn ngữ
thơ Bùi Giáng- vốn là thế mạnh và là một trong những dấu hiệu khiến Bùi
Giáng không thể lẫn vào với ai. Trần Đình Thu nhận định dường như Bùi
Giáng “chơi” vốn ngôn ngữ chứ không có ý thức vận dụng ngôn ngữ theo kĩ
thuật này nọ để làm thành thơ. Tác giả đề cập đến một số cách “chơi” với
ngôn ngữ ở Bùi Giáng: nói lái, vờn chữ…
Chúng tôi khá tâm đắc với một đoạn mà Trần Đình Thu nhận định về
toàn bộ văn nghiệp của Bùi Giáng- thi sĩ tự khoác và được thiên hạ khoác cho
mình danh xưng “nhà thơ điên”: “ Bản chất của văn chương Bùi Giáng là sự
tổng hòa của những nghịch lý. Trong cái cà rỡn có sự đau xót, trong bỡn cợt
có nỗi ngậm ngùi, trong sự nghịch ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác,
trong điên loạn cuồng si là một cõi mộng bát ngát đẫm tình…Cái nét riêng ấy
không ai có được, không ai bắt chước được và không thể có người thứ hai”.
Trong năm 2008, để kỉ niệm mười năm ngày mất của Trung Niên Thi
Sĩ ( 1998 – 2008), có thêm hai cuốn sách về Bùi Giáng đã được Nhà xuất bản
Lao động và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phối hợp xuất bản. Đó là
Bùi Giáng qua 99 giai thoại do Huyền Li sưu tầm và biên soạn, và Bùi Giáng
trong cõi người ta do Đoàn Tử Huyến chủ biên. Hai cuốn sách xuất hiện trên
thị trường vào khoảng cuối năm 2008 và gây được một “cơn sốt” nho nhỏ
trong cộng đồng độc giả yêu thơ ông. Bùi Giáng và 99 giai thoại là một cuốn
sách đễ đọc và và gây nhiều hứng thú. Người ta tìm thấy trong đó những giai
`
thoại về một con người chưa bao giờ thôi đặc biệt. Từ những người đã từng
tiếp cận văn nghiệp Bùi Giáng cho đến những người chưa hề đọc qua một tác
phẩm nào của ông cũng đều tìm thấy sự thú vị khi đọc tập sách mỏng này.
Cuộc đời Bùi Giáng bao phủ bởi số lượng không đếm được những giai thoại
mà người ta không thể rõ thực hư. Con số 99 chỉ là một con số tương đối,
mang tính giới hạn để làm hấp dẫn thêm “một hiện tượng lạ, có thể nói, độc
nhất vô nhị, là Bùi Giáng”. Bùi Giáng trong cõi người ta là một công trình
biên soạn nghiêm túc, tập hợp một số lượng lớn những bài nghiên cứu về Bùi
Giáng từ trước đến nay, từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi nhà nghiên cứu đều
chọn cho mình một khía cạnh tâm đắc nhất để nhìn về con người cũng như
phê bình, nhận định về văn nghiệp của Bùi Giáng. Cuốn sách này thuộc vào
loại đầy đặn và chỉn chu mà mang tính học thuật cao trong số những công
trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được xuất bản hợp pháp từ trước đến nay ở
Việt Nam.
Về những nguồn tài liệu khác như sách, báo và mạng internet, chúng
tôi nhận thấy thông tin về Bùi Giáng khá đa dạng và đáng được lưu tâm,
nhưng cũng đòi hỏi người nghiên cúu phải có kĩ năng thẩm định và chọn lọc
thông tin để có thể nhìn nhận về Bùi Giáng một cách khách quan và khoa học
nhất. Tuy sách viết bề Bùi Giáng hiện không có nhiều nhưng các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí hoặc trên mạng internet lại khá phong phú và đa dạng,
được viết từ trước và sau năm 1975.
Đầu tiên là giai phẩm Văn, số đặc biệt về nhà thơ Bùi Giáng tháng 5
năm 1973, đăng hàng loạt những bài viết: Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn –
Thanh Tâm Huyền, Thi ca và tư tưởng – Tuệ Sỹ, Bùi Giáng về cố quận –
Nam Chữ, Bùi Giáng cải lương ca – Cao Huy Khánh, Bùi Giáng trên đường
về cố hương – Trần Hữu Cư, Ẩn ngữ cung bậc thi ca – Thục Khư, Chung
quanh vấn đề Bùi Giáng – Trần Tuấn Kiệt... Phần lớn những bài viết này đều
`
cố gắng chỉ ra cái độc đáo trong sáng tác của nhà thơ, nhất là ở bình diện
ngôn ngữ và tư tưởng. Có người, thậm chí còn đồng thuận trong cách đánh
giá, gọi ông là một thiên tài, thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt
Nam hiện đại. Có người đánh giá rất cao khi đọc tác phẩm Thi ca tư tưởng
của ông, cho ông là người đầu tiên mở ra một cuộc Hội thoại của Tại thể
chúng ta giữa Tồn sinh và Lịch sử, và mượn ý của M. Heidegger, Wozu
Dichter để ngợi ca: Trong thời đại của đêm tối cõi đời, của cái vực sâu không
đáy kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiện tận miên bạc bình
sinh. Mà muốn được như vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái
chỗ cùng tận của cái vực sâu không đáy (Tuệ Sĩ – Thi ca và tư tưởng – Giai
phẩm Văn – tháng 5 – 1973 – trang 27). Tìm hiểu về một tác giả, những cứ
liệu trên cũng chỉ dừng ở mức độ tham khảo.
Đến năm 1997, tạp chí Thời Văn, số 19, ra số đặc biệt về nhà thơ
Bùi Giáng, đã xuất hiện một số cây bút phê bình mới: Đôi nét về thi sĩ Bùi
Giáng – Phạm Văn Hạng , Tản luận về Bùi Giáng – Ban biên tập báo, Bùi
Giáng – Cuộc đùa vui ngôn ngữ - Vũ Đức Sao Biển, Mượn lời anh Sáu Giáng
– Nguyễn Lương Vy, Bùi Giáng – Đào Hiếu, Bùi Giáng – Đi vào cõi thơ –
Trần Hữu Dũng, Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng – Khiêm Lê Trung,
Thử một lần đối diện với thơ và con người thơ Bùi Giáng – Trương Vũ Thiên
An, Mùa xuân trong thơ Bùi Giáng – Hồ Ngạc Ngữ, Bùi Giáng với Ly Tao –
Bửu Khánh Hồ, Vài cảm nghĩ về Bùi Giáng – Nhất Thanh, Bùi Giáng – Thi sĩ
kỳ dị - Huỳnh Ngọc Chiến… Đọc qua những bài viết này, tôi thấy có những
điểm nhìn quen thuộc trong các bài viết trước và một vài điểm mới. Cách nhìn
của giới văn nghệ về thơ Bùi Giáng nhìn chung vẫn nghiêng về tư tưởng và
ngôn từ. Tuy nhiên, một số cây bút đã có phần dè dặt hơn trong tiếp cận thế
giới thơ ca Bùi Giáng. Họ đã có cái nhìn cẩn trọng hơn , nhưng đều đồng nhất
Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo của văn học, một hiện tượng rất khó
`
nắm bắt và thấu hiểu một cách chính xác. Vẫn còn đó những lời khen tặng,
nhưng đã bớt phần dị thường. Ta thử điểm lại: Bùi Giáng là một hiện tượng
thơ khá phức tạp của miền Nam trước 1975… Có thể nói cả đời ông là sự tận
hiến cho thơ và vì thơ (Khiêm Lê Trung – Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi
Giáng – trang 45). Có quá nhiều người viết về thơ Bùi Giáng – ông được gọi
là tài hoa, ông là người nghỉ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ, chứ
không phải nghĩ ra thơ, làm thơ (Trần Hữu Dũng – Bùi Giáng – Đi vào cõi
thơ – trang 43). Chưa có ai dám sống và dám chết hết mình cho thi ca nhu
Anh. Và cũng có thể nói rằng Anh là một trường hợp cực kỳ hiếm trong lịch
sử thi ca Việt Nam (Nguyễn Lương Vỵ - Mượn lời anh Sáu Giáng – trang 42).
Thêm vào hành trang cho chuyến du hành của tôi vào cõi thơ Bùi Giáng, đó là
những đánh giá có sắc thái song hành trong lời đề tặng và phê phán: Hiện
tượng Bùi Giáng không phải là hiện tượng thi ca hay tư tưởng mà là hiện
tượng về sự phá hủy… Toàn bộ những suy nghĩ của ông chỉ là sự tập hợp của
những khát vọng vụn vặt về tình ái và lẽ tử sinh… Hễ ai dính dáng tới ái tình,
tới chuyện tử sinh là ông khen, bất chấp hay dở, cũ mới, lớn bé, bất chấp
người đó là ông A bà B nào mà ông tình cờ nhặt được trong cơn nổi hứng. Đủ
thấy “Thi ca tư tưởng” là một phê bình nhận định ngẫu hứng vừa sâu sắc vừa
ba phải tào lao đến cở nào (Đào Hiếu – Bùi Giáng – trang 40). Những góc
nhìn đó đã góp phần không nhỏ trong quá trình tìm hiểu đầy đủ hơn về con
đường thơ đầy phức tạp của thí sinh Bùi Giáng. Và gần đây nhất, báo Thanh
niên, những số báo trong tháng , năm 2005, ở trang Văn hóa nghệ thuật, tiêu
đề Bùi Giáng – Thi sĩ kỳ dị, đã cho đăng tải nhiều kỳ các bài viết về con người
và thơ Bùi Giáng. Nhìn chung, đó là những bài viết phần lớn nghiêng về
thông tin hơn là tính nghiên cứu, học thuật.
Nếu dùng công cụ tìm kiếm thông tin phổ biến nhất, nhanh nhất và hữu
hiệu nhất hiện nay là “Google” để search những từ khoá (key) liên quan đến
`
Bùi Giáng trên mạng internet, chúng ta sẽ không khỏi bất ngờ vì một số lượng
khá lớn các trang tin có liên quan đến Bùi Giáng. Lẽ dĩ nhiên, công cụ tìm
kiếm google chỉ có giá trị đầu tiên ở mặt cung cấp số lượng những trang tin,
chứ chúng tôi chưa đủ sức để kiểm chứng độ chính xác của toàn bộ các trang
tin vốn vẫn biến động từng ngày trong cái thế giới thông tin cứ rộng lên từng
ngày. Tuy nhiên, số lượng không nhỏ các trang tin liên quan đến Bùi Giáng
trên mạng internet cũng góp phần khẳng định sự hấp dẫn của tên tuổi cũng
như văn nghiệp Bùi Giáng đối với bạn đọc Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung.
Cuối cùng, chúng tôi xin trích lại nhận định đánh giá của tác giả T.
Khuê viết về Bùi Giáng trong Từ điển văn học – NXB Thế giới – bộ mới ,
xuất bản năm 2004, để khép lại tiêu mục này: Bùi Giáng viết rất nhiều, nhưng
những gì còn lại chính là thơ… Thơ Bùi Giáng ngay từ thuở đầu đã rong chơi
lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp
lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể,
ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở Xuân Hương… Tính chất “bất khả tri”
trong triết lý Đông phương và triết học hiện sinh gặp nhau trong thơ Bùi
Giáng: nếu trường phái hiện sinh vô thần bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở
Bùi Giáng định mệnh và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư
tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Đạm Tiên, hắt ra những ảnh siêu
thực… Bi kịch của Bùi Giáng là ông lặp lại chính mình, ngay cả trong thơ,
cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại
nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa. Dù sao chăng nữa, Bùi giáng ao được
một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ XX,
khác với Nguyễn Khuyến trong kỷ 19 hoặc Tản Đà đầu thế kỷ 20 (trang 163).
`
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng đa dạng phương pháp nghiên
cứu, trong đó đặc biệt phát huy tối đa tác dụng của phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp hệ thống và phương pháp thống kê, phân loại. Phương
pháp phân tích và tổng hợp giúp chúng tôi nhìn sâu vào đề tài đã chọn, không
những thế, phương pháp này còn giúp xem xét vấn đề đó trong mối liên quan
với những vấn đề khác có những sự tương đồng tương đối. Phương pháp hệ
thống giúp hệ thống hóa cách tiếp cận Bùi Giáng ở những phương diện khác
nhau. Phương pháp thống kê phân loại rất cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn này vì nó giúp chúng tôi thống kê được tần số xuất hiện của một số
từ ngữ đặc biệt, những kết cấu dòng thơ đặc biệt…trong thơ Bùi Giáng.
4. MỘT SỐ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn hướng đến việc cung cấp một cái nhìn tương đối toàn diện về
những cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ Bùi
Giáng, để từ đó góp thêm tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị thế của
nhà thơ trong tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại. Bên
cạnh đó, luận văn cũng mong muốn góp phần bước đầu khắc hoạ chân dung
văn học của Bùi Giáng và khơi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Dẫn luận và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được
triển khai thành ba chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về Bùi Giáng
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Bùi Giáng
Chương 3: Đặc điểm thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu thơ Bùi Giáng
`
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÙI GIÁNG
1.1.VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, quê ở làng Thanh Châu, xã
Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông là con thứ hai trong gia
đình có 8 người con. Thân sinh của Bùi Giáng là cụ Bùi Thuyên, thân mẫu là
bà Huỳnh Thị Kiền. Khi vào miền Nam ông được gọi là Sáu Giáng. Thưở nhỏ
ông theo học tiểu học ở Hội An, học trung học tại Thuận Hoá- Thừa Thiên.
Năm 1948 gia đình ông tản cư về Trung Phước. Từ 1950 đến 1952 ông chăn
bò ở vùng rừng núi Trung Phước. Đây là khoảng thời gian mà ông gọi là 15
năm chăn dê như Tô Vũ thời xưa. Trong thập kỷ 60,70 của thế kỷ XX, ông có
dạy học tại một số trường tư thục của Sài Gòn. Có thời gian ông điều trị bệnh
ở dưỡng trí viện Biên Hoà. Ông mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại TPHCM.
Bùi Giáng là một con người gây kinh ngạc cho bất kỳ ai quan tâm đến
ông. Làm thơ, dịch tiểu thuyết của các tác gia danh tiếng trên thế giới, viết
sách nghiên cứu triết học đông tây kim cổ với những kiến thức vô cùng uyên
bác… nhưng Bùi Giáng đồng thời lại còn chạy nhảy la hét ngoài đường trong
bộ dạng của những con người mà ta quen gọi là điên. Cuộc đời Bùi Giáng vì
vậy luôn được bao phủ bởi vô số những giai thoại ly kỳ, những thông tin hư
hư thực thực. Từ năm 1962 trở đi, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu
sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Càng về sau càng nhiều hơn. Nói về số
lượng, thì ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền
Nam trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ
`
thì phải kể bằng đơn vị ngàn bài. Tuy nhiên, ông hoàn toàn không phải một
học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư viện, miệt mài bên trang
sách mà thậm chí còn ngược lại. Nhiều người từng gần gũi ông ngạc nhiên
nói rằng họ chỉ thấy Bùi Giáng suốt ngày lang thang rong chơi nhàn nhã, bia
rượu uống tràn, thế nhưng khi nhà xuất bản cần, chưa đến một ngày ông đã
mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Vậy ông viết sách vào lúc nào? Một
nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể lại chuyện viết sách của
ông như sau: "Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy
Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm lúc đó) vì một tấm lòng liên tài
đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn phương tiện cho ưu
tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn
có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt
nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ
sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy
giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy
giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm". Nhà
văn này kể tiếp: "Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng
giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất thong dong, tưởng chừng
như thi sĩ chẳng hề có điều chi vướng bận, rộn lòng cả”.
Chưa bao giờ những người gần gũi Bùi Giáng bắt gặp ông đang ngồi
viết sách. Có người ngạc nhiên quá, tìm cách rủ Bùi Giáng tới quán uống
rượu để tìm hiểu. Nhưng chỉ tốn rượu đãi Bùi Giáng chứ chẳng khai thác
được chút thông tin nào. Vặn hỏi mãi ông cũng không giải thích điều gì. Bùi
Giáng chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu và nói "vui thôi mà"
trước sự ngơ ngẩn của người hỏi chuyện. Trước sau ông không hề giải thích
bất cứ thắc mắc nào.
`
Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái
bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Quá trình tư duy và lao động
sáng tạo trong con người Bùi Giáng như thế nào? Ông đã hình thành những tứ
thơ ra sao? Vì sao ông có thể tuôn ra được những câu thơ mà không cần suy
nghĩ? Đó là những câu hỏi mà rất nhiều người tò mò muốn biết nhưng có lẽ
không ai tìm hiểu được. Ông Huỳnh Ngọc Chiến, một người quen biết với Bùi
Giáng kể, một lần nọ có mấy người bạn Quảng Nam cùng ngồi uống cà phê
với Bùi Giáng, một người rất ái mộ Bùi Giáng tò mò hỏi ông thường làm thơ
như thế nào, thì Bùi Giáng cười và nói: "Qua làm thơ cũng giống như em là
kỹ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi".Theo ông Huỳnh Ngọc Chiến thì lúc đó
Bùi Giáng trả lời rất thành thật, chẳng có một chút biểu hiện cao ngạo nào cả.
Vì thế có thể tin lời Bùi Giáng rằng với ông, làm thơ là một công việc dễ
dàng, đơn giản như ta làm toán cộng toán trừ, đặt bút vào là làm chứ không
cần phải suy nghĩ. Chính nhờ khả năng viết nhanh đó mà Bùi Giáng đã cho ra
đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ như trên. Giai đoạn ra sách nhiều nhất của
Bùi Giáng là khoảng từ năm 1964 đến năm 1970. Riêng năm 1969 Bùi Giáng
cho ra đời đến mười cuốn sách. Cũng trong những năm này có những người
đứng ra thành lập nhà xuất bản với mục đích chủ yếu để in tác phẩm của Bùi
Giáng.
Có một số người Bùi Giáng nhắc lại mãi trong những trang viết của
mình như là một nỗi ám ảnh. Hình bóng họ đã ăn sâu vào tiềm thức ông do
những ấn tượng mạnh mẽ lúc ban đầu. Khi bệnh tình bộc phát, những hình
bóng đó sẽ xuất hiện trở lại trong văn thơ ông theo những cách khác nhau.
Trên lĩnh vực tri thức, đại thi hào Nguyễn Du và triết gia người Đức Martin
Heidegger được ông lặp lại nhiều nhất. Khi bước vào con đường nghiên cứu,
Bùi Giáng quan tâm đến Nguyễn Du đầu tiên cùng với một số tác giả cổ điển
khác. Chúng ta nhớ lại, cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện
`
Phan Trần được ông viết vào năm 1957 thật sáng trong mạch lạc. Kể từ đó,
thiên tài Nguyễn Du bắt đầu "nhập hồn" Bùi Giáng. Cái tên Nguyễn Du xuất
hiện với tần số dày đặc trong những bài viết của Bùi Giáng. Trong thơ, trong
văn, trong giới thiệu tư tưởng và triết học, thậm chí cả trong những bản dịch
tiểu thuyết nước ngoài… đâu đâu ta cũng bắt gặp hình bóng Nguyễn Du. Bùi
Giáng còn sáng tác nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Một số bài thơ khác không
liên quan, thì ông lại đề tặng Nguyễn Du. Tuy nhiên, không phải như thế là
Bùi Giáng sẽ dành những câu chữ hay ho nhất để viết về "cố nhân" của mình.
Ngược lại, phần lớn những bài thơ viết về Nguyễn Du đều rất cà rỡn. Ta hãy
đọc vài đoạn thơ Bùi Giáng viết về Nguyễn Du. Đây là một đoạn trong bài
Nhớ ông: "Nhớ hoài ông Nguyễn ông Du / Ông Như ông Tố Điếu Đồ biển
Nam / Hồng Sơn Liệp Hộ hội đàm / Hồng Sơn sơn nguyệt minh quang một
mình". Hoặc một đoạn khác trong bài Tố Như nhớ quê: "Tôi nay lão nhược
hơn ông / Tôi ngoài bảy chục thong dong một mười / Ông chưa tới tuổi sáu
mươi / Lìa đời lúc mới tuổi ngoài năm lăm". Đó là trong thơ. Vì thơ thì không
phải lúc nào cũng đưa được một người nào đó vào mãi nên sự xuất hiện của
Nguyễn Du cũng có giới hạn. Nhưng trong văn xuôi thì Bùi Giáng liên tục
đưa Nguyễn Du vào. Đi sâu vào các trang sách của Bùi Giáng, ta thấy
Nguyễn Du xuất hiện dày đặc. Khen thơ Hồ Dzếnh, Bùi Giáng viết: "Cũng
may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ
Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm
gì". Viết về một câu chuyện không đâu vào đâu, Bùi Giáng cũng lại nói về
Nguyễn Du: "Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm sau có
kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ
rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau". Viết về Albert Camus,
Bùi Giáng cũng không quên Nguyễn Du: "Rồi những điều Nguyễn Du nói với
ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ. Những điều Nguyễn Du nói với quỷ, thì
`
thần thánh lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ
không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du". Trong
những cuốn sách như Mùa thu trong thi ca, Thi ca tư tưởng, Đường đi trong
rừng… cứ một đôi trang là ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua cái
lăng kính hài hước của Bùi Giáng: "Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui.
Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma, vùng vẫy rú lên một tiếng như Zarathustra
also sprach. Ông điềm nhiên làm Nam Hải Điếu Đồ. Kẻ câu ấy câu cái gì tại
Nam Hải?"… "Và đó cũng là duyên do kỳ dị thiên biến vạn hóa đã khiến
Nguyễn Du mở một trận Ẩn Tàng kỳ bí cổ kim bằng cách: cả hư không đặt để
nên lời, cả nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung của song trùng tịch hạp
thượng thừa huyền môn tâm pháp – Nguyễn Du đều đem gán vào môi miệng
Bạc Bà Tú Bà"… Bùi Giáng còn có cái thú làm thơ giả Kiều để ký tên chung
Bùi Giáng - Nguyễn Du hoặc Bùi Giáng - Tố Như. Đó là những đoạn lục bát
chen vào giữa những đoạn văn xuôi, có tí chút "chất Kiều". Trong cuốn
Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại có nhiều đoạn giả Kiều rất dài. Những
câu giả Kiều ấy có khi sai cả vần sáu tám.
Từ trước đến nay có rất nhiều người đặt câu hỏi: Bùi Giáng có phải là
một người bị mắc bệnh điên hay không? Cũng đã có rất nhiều bài viết về Bùi
Giáng đề cập đến vấn đề này, trong đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là
người điên trong khi một số khác lại nói ngược lại. Trong một bài viết, tác giả
Trần Đới khẳng định: "Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng
như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước
bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà
chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi
Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và
hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật
thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó... Bây giờ người thi sĩ này chỉ
`
còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống". Một người
khác, ông Nhất Thanh, thì viết như thế này: "Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích
hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương
nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta".Bùi Giáng hiển nhiên cũng
biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên hay là không điên. Ông
đã tự viết về mình như sau: "Nó điên? Vâng nhưng điên m._.ột cách vui vẻ. Bạ
đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên.
Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ
điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng
mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa
nay vậy". Đọc đoạn đó của ông người ta thấy hơi bối rối. Vậy thì Bùi Giáng là
người như thế nào? Ông là một người điên hay là một người bình thường?
Nhưng có một sự thật không thể chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của
bệnh viện tâm thần hẳn hoi. Năm 1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm
nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi
Giáng bị hỏa hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách vở quý hiếm, một số tranh và
đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm đắc. Con người hồn nhiên
của Bùi Giáng có lẽ không bị sốc vì chuyện này, nhưng sau đó người thân của
ông phải đưa ông vào Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa để chữa trị. Cung Tích
Biền kể: "Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta đưa ông vào nhà thương
điên Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương
điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường tình:
"Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!". Ông trả lời tỉnh queo: "Chữa
trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà
thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp;
trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình
nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên". Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn
`
người ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không giống ai của ông là do
ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Nhà văn Đào Hiếu viết:
"Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý,
là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn...". Chung quanh
vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có
mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất
nhiều bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ... Họ
có thể vẽ tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều
họ không có sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở
thành hiện tượng đặc biệt mà thôi. Hai là, những hành vi khác người của Bùi
Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi
chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh quan gì cả. Có điều, vì ta
thấy cái điên của ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần
dần ta sẽ được rõ hơn khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không
riêng gì Bùi Giáng mà nhiều bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi
ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho
nên chúng ta không thể kết luận được về tình trạng của họ mà phải là các nhà
chuyên môn.
Không ai biết Bùi Giáng, đọc Bùi Giáng mà không yêu mến ông. Đó là
sự thật. Gọi ông là người tỉnh cũng được, điên cũng được, dù là tỉnh hay điên
ông cũng đã để lại cho đời những vần thơ mênh mang trác tuyệt. Ông mở ra
một thế giới thi ca cao vời, ảo diệu. Nói như một người từng gần gũi với ông:
"Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi
là nếu có được thêm ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta còn được lạ lùng
được kỳ ảo biết bao nhiêu". Quả đúng như vậy !
`
1.2 SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève về Đông Dương
được ký kết vào tháng 7 năm 1954. Do sự can thiệp của Mỹ, đất nước ta tạm
thời chia đôi, lấy vĩ tuyến 17, sông Bến Hải, làm ranh giới. Sau hai năm, cả
nước sẽ tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Bản hiệp định chưa ráo
mực, Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, với chiêu bài
tự do, chống lại chế độ Cộng sản ở miền Bắc, phá vỡ hiệp định Genève. Như
vậy, tình hình chính trị xã hội của đất nước ta trong giai đoạn này cực kỳ phức
tạp. Miền Bắc bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm rồi năm năm đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam, chính quyền Mỹ - Diệm đưa ra luật 10/59, dã
tâm xóa trắng những cơ sở cách mạng. Nhân dân miền Nam vẫn kiên cường
gầy dựng lại cơ sở cách mạng, đấu tranh chính trị. Đến năm 60, đồng bào
miền Nam làm nên phong trào Đồng Khởi, chính thức tiến hành cuộc đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trên bình diện rộng. Từ đó, nhân dân cả
hai miền Nam Bắc cùng đấu tranh chống Mỹ - Ngụy. Miền Bắc vừa chiến đấu
chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa trở thành hậu phương lớn của
tiền tuyến lớn miền Nam cho đến ngày chiến thắng 30/4/1975, thống nhất đất
nước. Tình hình chính trị xã hội ở các đô thị miền Nam, vùng giặc tạm chiếm
cũng không kém phần phức tạp. Nền kinh tế miền Nam trong thời kỳ này chủ
yếu tồn tại được là nhờ hàng viện trợ của Mỹ. Mỹ ồ ạt đổ hàng viện trợ vào
miền Nam Việt Nam, tạo nên một nền kinh tế phồn vinh giả tạo. Danh xưng
Sài gòn hòn ngọc viễn đông đã lừa bịp được một số người nhẹ dạ. Trong
quyển Nhìn lại một chặng đường văn học, giáo sư Trần Hữu Tá cũng đã viết:
Viện trợ của Mỹ chủ yếu là cung cấp hàng tiêu dùng, làm giàu cho những nhà
nhập cảng mà số lượng nhảy vọt từ vài trăm lên tới hai chục vạn người,
nhưng lại bóp chết nhiều ngành sản xuất bản xứ. Và ông cũng đã trích dẫn
nhận xét của tạp chí kinh tế Phát triển, của Pháp, tháng 6 năm 1972: Sự suy
`
sụp của dân chúng về sức khỏe, về nhà cửa, về giáo dục cũng không kém
phần bi thảm, cũng như sự tan nát hay đồi bại của cả môt thế hệ tài năng
dùng để xây dựng đất nước đều mất sạch. Đã nhiều năm rồi, miền Nam Việt
Nam sống nhờ của bố thí. Dân chúng ở các thành thị sống một mức sống
hoàn toàn giả tạo (trang15,16). Sống trong thời đại như thế, Bùi Giáng sống
và làm thơ trong thế giới của riêng ông. Không bị chi phối bởi chính trị,
không chọn con đường đến với cuộc đấu tranh chống Mỹ dữ dội và khóc liệt,
Bùi Giáng ngao du vào cõi riêng, ở đó, ông khóc cười với cuộc đời, với mọi
biến động của tha nhân. Ông bắt đầu sáng tác vào cuối năm 50 thế kỷ XX.
Ông sáng tác rất nhiều, nhưng chúng ta vẫn chưa thống nhất được số lượng
chính xác các tác phẩm của ông. Từ năm 1952 trở đi, ông liên tục sáng tác và
dịch thuật.
Những sáng tác của Bùi Giáng đã được in khá nhiều trong giai đoạn
này. Đầu tiên có thể kể đến sách giáo khoa và luận đề. Bùi Giáng đã nghiên
cứu về các tác giả sau đây: -Bà Huyện Thanh Quan - Lục Vân Tiên - Chinh
Phụ Ngâm - Quan Âm Thị Kính - Truyện Kiều - Truyện Phong Trần - Cung
Oán Ngâm Khúc - Nguyễn Công Trứ - Tản Đà - Phan Bội Châu - Chu Mạnh
Trinh - Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, xuất bản từ 1957 - 1959.
Với khả năng am hiểu ngoại ngữ uyên thâm và năng lực chuyển dịch
ngôn ngữ tuyệt vời. Bùi Giáng đã để lại cho chúng ta một số lượng dồi dào và
phong phú những bản chuyển ngữ đậm chất văn chương. Có thể kể đến những
tác phẩm tiêu biểu sau đây: Cõi Người Ta của Saint Exupéry, Trăng Tỳ Hải
của Albert Camus, André Gide, Heidegger, Khung Cửa Hẹp của André Gide,
Hoa Ngõ Hạnh của W. Shakespeare, Bạo Chúa Caligula của Albert Camus,
Con Người Phản Kháng của Albert Camus, Ngộ Nhận của Albert Camus,
Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus, Kẻ Vô Luân của André Gide, Hamlet của
W. Shakespeare, Hòa Âm Điền Dã của André Gide, Hoàng Tử Bé của Saint-
`
Exupéry, Mùi Hương Xuân Sắc của Gérard De Nerval, Kim Kiếm Điêu Linh
của Ngoạ Long Sinh, Biển Đông Xe Cát của Albert Camus, Nhà Sư Vướng
Lụy của Đại sư Tô Mạn Thù.
Chúng tôi xin dành hẳn một phần riêng để viết về một tác phẩm văn
học của một tác giả Pháp mà bao thế hệ ngưởi đọc Việt Nam ta đã say mê
qua ngòi bút tài hoa và tinh tế của dịch giả Bùi Giáng. Bùi Giáng không phải
là người duy nhất chuyển dịch Việt ngữ tác phẩm Le petit prince của nhà văn
Pháp Saint Exupery, nhưng có thể nói không ngoa, rằng với Bùi Giáng,
Hoàng tử bé đã vĩnh viễn sống trong trái tim những người Việt Nam đắm say
thiên truyện ngắn u uẩn vế một “mặt đất trần trọng và đau thương này”.
Chúng tôi dừng lại ở Hoàng tử bé, bởi lẽ không chỉ đơn giản là dịch tác phẩm
này từ tiếng Pháp sang tiếng Việt mà dường như Bùi Giáng của chúng ta
dường như cũng chính là một hoá thân vĩnh viễn của Hoàng tử bé.
Có thể ví "Hoàng Tử Bé" với một bài thơ tuyệt tác, ý tại ngôn ngoại,
mở ra một thế giới vô cùng rộng lớn đằng sau những từ ngữ và hình ảnh, một
bài thơ mà vẻ đẹp của nó không có giới hạn, chỉ phụ thuộc vào sự nhảy cảm
và trí tưởng tượng của độc giả. Hoàng tử bé là một cuốn sách người ta sẽ
không bao giờ cảm thấy chán dù đã đọc hàng trăm lần. Những dòng văn đẹp
như một áng thơ của Hoàng tử bé luôn là lựa chọn số một của những người
yêu sách khi muốn giới thiệu về một cái gì đó tiêu biểu cho sự thơ mộng, sự
trong sáng, về tình yêu, tình bạn, về cái đẹp, về niềm hy vọng của con người
trước những hiểm họa mà chính con người sẽ gây ra cho thế giới của mình.
Hoàng Tử Bé chỉ có một. Trăm năm ngàn năm sẽ không bao giờ có một
hoàng tử bé thứ hai. Hoa hồng của hoàng tử cũng chỉ có một. Dù trên thế gian
có triệu triệu khu vườn, mỗi khu vườn có trăm ngàn đóa hồng giống hệt nhau,
cuối cùng cũng chỉ có một đóa hồng cậu đã chăm sóc, đã yêu thương, đã giận
hờn... Thế gian thì vô cùng. Ước mơ thì vô tận. Hoàng tử bé đi chu du khắp
`
các thiên hà cuối cùng vẫn đau đáu nhớ về cái hành tinh bé nhỏ của mình. Sự
trở về khó khăn và đau đớn. Hoàng tử bé thật có quay về được không? Có
phải bao giờ cũng trở về được đâu...Chuyện mở vào lời kể của tác giả về một
bức tranh của mình vẽ khi còn bé. Bức tranh số một vẽ một con trăn đã nuốt
trọn một con voi vào bụng và nằm để tiêu hóa con mồi. Đưa cho mọi người
xem ai cũng bảo đó là một chiếc… nón nỉ. Cậu bé tức giận vẽ Bức tranh số
hai cũng y như bức số 1 nhưng có vẽ thêm hình con voi nằm bên trong bụng
con trăn cho mọi người… sáng mắt ra. Kết quả là cậu được khuyên… thôi
đừng vẽ nữa. Vậy đó, trẻ em bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn người
lớn… Và chúng thường bị người lớn đối xử bất công theo kiểu “cả vú lấp
miệng em” làm chúng nhiều khi… tức chịu không nổi. Từ đó tác giả cứ đem
hai bức tranh nọ ra như một bài test trắc nghiệm hết thảy những người lớn mà
ông gặp… Ông thất vọng vô cùng… vì nếu chỉ nhìn bức tranh số một thì
chẳng ai “nhìn” ra được con voi nọ trong bụng con trăn. Tác giả chán nản
không thèm nói chuyện văn thơ nghệ thuật với những kẻ đó. Và, để “hạ mình
xuống cho ngang tầm với họ” ông chỉ nói chuyện với họ về đánh bài, đánh
cầu, uống rượu hay về chính trị, về áo quần hay trang sức…Trong đời chúng
tôi sau này và có lẽ bạn nữa cũng vậy, nếu đầu óc bạn cũng đầy tưởng tượng
đầy mơ mộng như tác giả, bạn sẽ nhiều lúc cảm thấy mình “lạc lõng” như thế
giữa cái thế gian này, vốn đầy những kẻ thực dụng, phàm phu tục tử, thô hào,
chẳng chút gì thơ mộng thăng hoa văn nghệ văn gừng….Vậy nên tác giả khôn
xiết ngạc nhiên khi vẽ cho Hoàng tử bé xem cái bức tranh số một vốn có hình
giống như… cái mũ, thì cậu bé liền nhìn ngay ra con voi nằm ẩn tàng sâu kín
trong bụng con trăn nọ. Và khi ông lúng túng không vẽ được một con cừu cho
cậu (ông bỏ “nghề” vẽ đã lâu vì lâu nay phải sống chung với toàn những kẻ
phàm phu thô thiển chẳng thiết gì tới nghệ thuật văn chương) và ông bèn vẽ
đại một cái hộp mà bảo rằng: “Đấy,… con cừu của chú đó” vậy mà Hoàng tử
`
Bé lại mừng rỡ kêu lên đúng rồi con cừu của tôi đó rồi, nó nằm ngoan ngoan
trong cái hộp đây mà. Truyện bắt đầu ngộ nghĩnh như thế. Từ đó chúng ta
chuẩn bị đi vào thế giới ngụ ngôn triết lý đìu hiu thơ mộng của tác giả, cái thế
giới mà người ta không thể chỉ nhìn bằng mắt mà phải nhìn bằng trí tưởng,
bằng trái tim (Hay nói như Mộng Liên đường Chủ nhân trong bài tựa cho
Đoạn trường Tân Thanh là phải nhìn bằng “con mắt trông suốt cả bốn
cõi”)Truyện đầy rẫy những ngụ ngôn nho nhỏ, những lời thơ mộng thở than,
những ngẫm nghĩ ngậm ngùi bâng khuâng tơ tưởng, lãng đãng phất phơ…Tác
giả cùng ta cười buồn cái kiêu hãnh ngô nghê của người lớn bằng cái nhìn
ngây thơ trung thực của cậu Hoàng tử bé nhỏ. Cậu có cái nhìn trong suốt như
cậu bé trong truyện của Andersen đã phát hiện ra ông vua cởi truồng trong khi
tất cả bọn người lớn, vốn đầy mặc cảm, nên cứ nghĩ nhà vua đang mặc cái áo
thần kỳ….Chẳng hạn…Hoàng tử bé găp một ông vua đơn độc trên một hành
tinh nhỏ xíu nọ. Chỉ có một mình không bầy tôi, không thần dân…Nhưng ông
vua vẫn muốn ra cái oai của một đế vương. Ông ra lệnh cấm ngáp rồi lại ra
lệnh ngáp, rồi lại ra lệnh lúc ngáp lúc không… đổi tới đổi lui để sao cho
người ta phải... tuân lệnh mình. Đó là thế giới người lớn kỳ cục. Truyện tưởng
như đùa, nhưng sống lâu năm trên cõi đời này rồi thì bạn sẽ thấy chuyện đó
nhan nhản ở các nhà cầm quyền trên thế giới…Ông vua muốn Hoàng tử bé ở
lại làm bày tôi của ông nhưng chàng nhất định đi. Rốt cuộc nhà vua phải vội
vàng phong chàng làm đại sứ lưu động để …phù hợp với ý muốn của kẻ bầy
tôi duy nhất này!Chàng lang thang trong vũ trụ và gặp tòan những gã người
lớn kỳ cục như thế. Gã khoe khoang thì lúc nào cũng tưởng người ta vỗ tay là
để tán tụng gã. Gã nghiện rượu có đủ lý do để uống rượu. Gã kế tóan suốt
ngày loay hoay với những con số. Vậy đó người lớn là vậy đó. Bạn muốn giới
thiệu một hành tinh mới được khám phá ư? Bạn phải là một nhà khoa học Tây
phương mới được, chứ nếu bạn là một anh chàng Hồi giáo chẳng hạn thì
`
chẳng ai tin!!! Bạn muốn giới thiệu một người bạn mới ư? Bạn phải nói về số
cân của anh ta, tuổi tác, địa vị anh ta, thu nhập của anh ta… chứ đừng nói anh
ta thích gì, anh ta yêu gì…Bạn muốn giới thiệu một căn nhà ư? Đừng nói nó
xây kiểu gì, có sân có vườn có hoa cỏ, có chim chóc gì gì… Cứ nói nó trị giá
một trăm nghìn phật lăng là lập tức người ta xúyt xoa hít hà…Người lớn là
vậy đó.Và chú bé cứ phải lang thang trong cái xứ sở lạ lùng đó, với nỗi nhớ
khôn khuây về một đóa hồng nơi chốn quê nhà mà chàng đã từ bỏ.Tập truyện
là lời phản kháng của cái thế giới ngây thơ con trẻ mộng mơ lãng mạn chống
lại thế giới người lớn thực dụng, khô khan, tính tóan, thô hào, bỉ lậu….Rải rác
lãng đãng trong truyện là những ý tưởng đìu hiu thăm thẳm, bàng bạc thơ
mộng, hắt hiu mà trầm ngâm say đắm..…Cái qúy nhất nó vô hình……Vô
hình như đóa hồng nơi tinh cầu xa xôi mà chàng Hoàng tử giờ chỉ còn ấp ủ
trong tâm tưởng……Vô hình như nguồn nước đâu đó trong sa mạc mà người
ta cứ mãi mãi đi tìm trong vô vọng……Vô hình như tâm hồn khôn xiết ngây
thơ trong sáng, ẩn náu trong thân hình xinh xắn của chàng Hoàng tử bé
con.Vô hình như kho tàng chôn giấu đâu đó trong ngôi nhà cổ.Hoàng tử nhìn
vào cuộc đời của những con người trên quả đất đìu hiu này…Chàng thấy
gì?…Thấy những người lớn mệt nhòai trên những chuyến tàu ngược xuôi
xuôi ngược khắp thế gian. “Chẳng bao giờ người ta hài lòng với nơi chốn
mình đương ở”, nên họ cứ đi suốt, nhưng họ không biết mình đi đâu về đâu.
Họ ngủ suốt. Chỉ có những đứa trẻ là thức… chúng dùng hết thời gian để tiêu
phí cho một con búp bê rách: Chỉ có chúng là biết điều chúng tìm kiếm. Và
khi con búp bê rách bị cướp đi thì chúng khóc…Trong những ngày buồn
người ta thích ngắm Hoàng hôn. Và trên tinh cầu nhỏ xíu của mình có ngày
Hoàng tử bé đã ngắm bốn mươi ba buổi hòng hôn. Và tôi hiểu rằng trong cái
ngày đó cậu đã xiết bao là u sầu…“Thật huyền bí khôn xiết là cái xứ sở của lệ
vàng”“Chuyện hệ trọng là chuyện phi cơ hay truyện đóa hoa chứ?Bác nói
`
thật y như …người lớn!!!”Cái con người chỉ biết làm toán cộng, không biết
hít hương hoa, không biết ngắm trăng sao, không yêu ai…Thì có khác gì một
cây nấm!!! Con chồn nói với Hoàng tử bé: cái quý nhất ở xứ sở loài người là
những con gà mái, (cậu chắc cũng đi tìm gà?) Còn cái xấu nhất là lũ thợ săn
chồn. Xứ sở của cậu không có bọn thợ săn à?? Thật tuyệt vời!!! Nhưng nó
cũng không có gà ư??? Thật trên đời không có chi là hòan hảo cả!!!“Chẳng
bao giờ nên nghe hoa nó nói, chỉ nên ngắm nhìn hoa và hít thở hương
hoa…”“Buồn xiết bao nếu phải quên một người bạn thiết. Đâu có phải ai ai
trong thiên hạ cũng có một người bạn thiết…”“Con trẻ phải nên rất mực độ
lượng với những người lớn”“Nếu có một kẻ yêu một đóa hoa duy nhất duy
chỉ có một mà thôi trong hàng triệu tinh cầu, chừng ấy đủ để kẻ ấy sung
sướng mỗi khi nhìn lên ngàn sao trên bầu trời…”
“Chính cái thời giờ chú đã tiêu hao mất đi với đóa hồng của chú, chính nó đã
làm đóa hồng của chú trở nên xiết bao hệ trọng đối với chú”“Nhưng con
người trong xứ sở của bác họ trồng năm ngàn đóa hoa hồng chung trong một
thửa vườn…Và họ chẳng tìm ra cái mà họ tìm kiếm… Ấy thế mà cái họ tìm
kiếm có thể tìm ra trong riêng một đóa hồng hoặc trong một tí nước
giọt…”Vậy đó. Đã có một chàng Hoàng tử nhỏ bé ngây thơ lãng mạn lạc
bước xuống trần phiêu du lãng đãng giữa sa mạc cát vàng cồn nọ bụi hồng
dặm kia, và gặp chàng văn sĩ của chúng ta. Chú đã đem lại cho văn sĩ cái giấc
mơ phiêu bồng của mộng mơ, của nghệ thuật, của hội họa văn chương mà thế
giới đã vô tình hủy hại nơi chàng văn sĩ từ thuở chàng còn là một em bé. Họ
đã gặp nhau trong cuộc ngẫu nhĩ thiên thu. Tình trong giây phút mà thành
thiên thu. Như cuộc tình của Hoàng tử với đóa hồng, cuộc tình dang dở của
ông văn sĩ-phi công với hội họa. Gặp nhau đây, rồi chia tay u uẩn, bàng bạc
lãng quên… Đường trường sông núi hẹn nhau có gặp lại???Gió xanh cát vàng
trăng tàn đêm lạnh. Cái giấc mơ của con người u hòai lãng đãng đã mất đi qua
`
đôi nanh độc của con rắn thâm hiểm trầm ngâm nọ, đã dụ dỗ chàng quay về
với đóa hồng xa thẳm của chàng…bỏ lại chúng ta trên thế gian sa mạc hoang
vắng này. Cám ơn Saint Antoine de Exupery nhà văn đã ghi lại cho chúng ta
cuộc gặp gỡ thơ mộng trầm ngâm của một văn sĩ, đại diện cho chúng ta, với
chàng Hoàng tử, đại diện cho mộng đời bất tuyệt, lãng mạn phù du hắt hiu
phiêu lãng…Đọc lại bản dịch của Bùi Giáng, người ta không chỉ thấy ông lột
tả được bản chất của nguyên tác mà còn "nhập hồn" vào câu chuyện. Có lẽ từ
tâm hồn ngây thơ khoáng đạt của mình mà ông đã dịch đến chỗ vi diệu nhất
của tác phẩm. Trong trang đầu của cuốn sách, Bùi Giáng trích 4 câu thơ của
Huy Cận: "Bích Câu đâu nữa bóng chàng Uyên/Sông núi thô sơ bặt tiếng
Huyền/Có lẽ hồn ta không đẹp nữa/Nét thần thôi họa bức thiên duyên". Bốn
câu thơ đó không dính dáng gì đến câu chuyện của Saint Exupéry cả, nó như
một tiếng tơ rung khởi động trong tâm hồn trước khi đọc tác phẩm. Và đọc
xong câu chuyện thì ta chợt hiểu... Chưa hết, ông còn làm thơ tặng tác giả
"Trung niên tặng Saint Exupéry": "Ngậm ngùi từ biểu ngôn trưng/Âm dong
tiếu mạo hình dung xa vời". Và trong phần cuối cuốn sách, Bùi Giáng còn
đăng kèm một chùm mười bài thơ của mình. Cảm ơn Bùi Giáng đã chuyển
dịch tài tình để chúng ta có thể đọc và nâng niu từng dòng văn xuôi đẹp như
thơ.
Về thơ- phần quan trọng và có giá trị nhất trong văn nghiệp của Bùi
Giáng, chúng tôi đã ghi nhận tên một số tập thơ tính đến thời điểm này. Đó là:
Mưa Nguồn, Hoa Lá Cồn , Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, Bài Ca
Quần Đảo, Sa Mạc Trường Ca , Rong Rêu, Đêm Ngắm Trăng, Chớp Biển do
nhóm Việt thường ở Canada xuất bản, Thơ Bùi Giáng- Hoa Kỳ xuất bản,
Thơ Bùi Giáng 1995 do Bùi Vịnh và thân hữu thực hiện tại Hoa Kỳ, Tập thơ
Như Sương - Nhà xuất bản Trẻ.
`
Bùi Giáng còn có những thành tựu đáng ghi nhận trong những công
trình biên Khảo và sáng tác văn xuôi. Có thể kể ra ở đây: Tư Tưởng Hiện Đại
1, 2 và 3 - Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại 1 và 2 - Sao Là Không
Có Triết Học Heidegger - Đi Vào Cõi Thơ - Thi Ca Tư Tưởng - Sa Mạc Phát
Tiết - Sương Bình Nguyên - Trăng Châu Thổ - Mùa Xuân Thi Ca - Thúy Vân
Tam Hợp Đạo Cô - Ngày Tháng Ngao Du - Đường Đi Trong Rừng - Lời Cố
Quận - Lễ Hội Tháng Ba - Con Đường Ngã Ba…
Ngoài những tác phẩm đã nêu (chưa đầy đủ) còn rất nhiều bài thơ ngẫu
hứng tức thì của tác giả viết tặng riêng cho những anh em thân hữu, bà con đó
đây vào những dịp được gặp ông. Bên cạnh đó là những cuốn băng ghi âm,
ghi hình được ghi lại với tư cách cá nhân để giữ làm tư liệu sau nầy…
`
CHƯƠNG 2
NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG
THƠ BÙI GIÁNG
Thơ chiếm một số lượng và vị trí đáng kể trong toàn bộ văn nghiệp Bùi
Giáng. Nhắc đến Búi Giáng người ta nhớ đến một giọng điệu thơ rất riêng, rất
độc đáo. Hành trình thơ Bùi Giáng có thể tạm chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu tiên là thời ki sơ khai trong thơ Bùi Giáng Đây là thời kì
các sáng tác thơ của Bùi Giáng tuy tiềm ẩn nhiều yếu tố mới mẻ nhưng vẫn
mang bóng dáng tiêu chí mỹ học của thơ xưa nay, vẫn còn tuân thủ theo các
niêm luật thơ thường thấy. Thơ có nhịp, có vần, tương đối sáng rõ. Những đặc
điểm này thể hiện rõ trong những bài thơ lục bát "đối thoại" với Nguyễn Du
và những bài thơ "hoạ" thơ Thân Thị Ngọc Quế. Có thể nói thời kì sơ khai
này là thời kì thơ Bùi Giáng dễ đọc nhất, dễ hiểu nhất và nhưng cũng ít “chất
Bùi Giáng” nhất.Giai đoạn tiếp theo có thể xem như là một cuộc “giải trừ tri
thức” trong con người cũng như trong thơ văn của Bùi Giáng. Thời kì này hết
sức đặc biệt và góp phần hình thành nên một con người kì lạ, một cá tính thơ
độc đáo. Đây là thời kì các sáng tác thơ Bùi Giáng bắt đầu thoát khỏi những
khuôn khổ của những nguồn tri thức bao la và đa dạng mà nhà thơ đã lĩnh hội,
từ rất nhiều nguồn, rất nhiều lĩnh vực để khẳng định một phong cách thơ Bùi
Giáng, một phong cách không dễ xếp loại và gọi tên. Có thể nói đây là thời kì
những tinh hoa tri thức đã từng ngấm vào tư tưởng Bùi Giáng, thông qua bộ
`
lọc của riêng ông và giờ đây chuyển hóa thành tư tưởng cao vượt bậc, không
nghiêng theo một luồng tư tưởng nhất định nào cả. Thơ Bùi Giáng giai đoạn
này có sự đối thoại giữa Ý thức- Tiềm thức- Vô thức, trong đó những giao
hòa cũng như phản biện giữa ý thức và tiềm thức làm nảy sinh những vô thức
mang giá trị lớn lao. Thời kì sau cùng- thời kì thứ ba trong thơ Bùi Giáng có
thể ví như là một “khúc ca thiên tiên”. Đây là thời kì thơ Bùi Giáng thực sự
đạt đến ngưỡng tự do cao nhất, vượt trên mọi giới hạn để chuyển tải được hệ
tư tưởng rất riêng của Bùi Giáng, sáng tạo những cách cảm, cách nghĩ rất
riêng của Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng đến thời kì này hầu như đã vượt khỏi mỹ
học cổ điển về thơ. Vì thế, Bùi Giáng giống như một "người phá đường biên"
cũ, đẩy nó đến một nơi dường như không nhìn thấy chân trời, không rạch ròi
được những ranh giới. Người ta ngỡ ngàng, kinh ngạc và hãy còn bị quyến rũ
dài lâu ở cái phong cách thơ “rất Bùi Giáng” như thế này. Đôi khi thơ không
còn là thơ nữa, đôi khi thơ dường như méo mó xẹo xọ, thơ là các kiểu dị hình.
Thế nhưng bằng một tài năng phi thường và một trí óc không hề tầm thường,
Bùi Giáng đã để lại cho hậu thế những “niềm sửng sốt” khôn nguôi.
2.1 THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG THƠ BÙI GIÁNG
Thân phận trong thơ Bùi Giáng tương đồng và thấm nhuần tư tưởng về
con người của Phật giáo. Phật dạy con người trở về với bản lai diện mục, Bùi
Giáng hô hào đi tìm “nguyên mộng”, “nguyên xuân” và “trở về cố quận”. Thế
giới thơ Bùi Giáng là thế giới biểu tượng thơ mộng và dịch giải ra, ấy là lời
Phật. Bùi Giáng có lúc cao hứng còn cho rằng: có ngày “mưa nguồn” sẽ
chuyển dịch thành “kinh điển thơ ca… lúc đó Tăng Ni… sẽ ngâm thơ thay cho
tụng kinh đọc chú”. Bùi Giáng nói như vậy, tất nhiên, trừ ông ra mãi mãi sẽ
không có ai nói lời tương tự. Cho nên, nội lực thâm hậu của Bùi Giáng chỉ có
thể là “tiếp dẫn đạo sư” cho nguồn thơ Việt, là ngọn gió tọc mạch khiến cho
mây bình nguyên vần vũ đảo điên chứ không thể không ít nhiều làm đổ rụng,
`
xiêu lệch tư tưởng Phật giáo uyên nguyên. Nhưng trừ những cố chấp đó ra,
Bùi Giáng vẫn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu “thi sĩ Bồ tát” mà giới bạn đọc
đã dành tặng cho ông.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
Bốn câu tự họa trên đây dường như đã gói trọn bản chất thơ ca và tư
tưởng Bùi Giáng. Một bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một
"đạo khờ" gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp
nhận Nguyễn Du như một thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.
Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu
lại? Ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Ðến
bản thân ta, ta còn không biết, nữa là... Nếu trường phái hiện sinh (Sartre) bác
bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng, định mệnh (Kiều) và hiện sinh giao
hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm
dấu Ðạm Tiên, hắt ra những ánh siêu thực:
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại bên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn chân trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
`
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
(Mưa nguồn)
Ít ai trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại lại viết nhiều về trần gian
như ông. Lúc thì nguyện “yêu trần gian nguyên vẹn”, lúc thì “sẽ tiếc thương
trần gian mãi mãi”, lúc khác là:
Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
Đời chúng ta là mấy trăng tròn
Yêu thiết tha cõi trần gian, nhiều khi ông nhìn trời đất như đứa bé. Ông
hỏi sông: “Ngàn mây về cuối mãi trời xa. Nước có bằng lòng đứng đợi ta”.
Ông bập bẹ: “Trần gian do cánh bướm cánh chuồn chuồn. Con kiến bé cùng
hoa hoang cỏ dại. Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”. Ông kêu lên
thảng thốt: “Ồ gót chân, anh đứng ngó như ngây”. Ông òa khóc không gìn
giữ: “Em ra đi đời bưng mặt khóc òa”. Nhưng Bùi Giáng là đứa trẻ biết rằng
“Diều đứt dây trẻ cũng cầm bằng”. Thơ ông từ bài này sang bài khác, từ trang
này sang trang khác thắm đượm mối âu lo cho “Những nỗi đau về chẳng hẹn
giờ”, “Những thân xương máu đã đàng là ủy mị”. Ông ngẫm về thân phận
mình, về con người:
Người kia đứng lại
Nghe trời đầy xuống hai vai
Gánh nặng đó ông gánh chịu suốt cả cuộc đời đơn độc của mình. Nhiều
khi ông đã thốt lên “Đời dại khờ như một giấc chiêm bao”, nhiều khi ông lắng
nghe “Mấy đời ly biệt rẽ đau một mình”. Nhiều khi ông van nài “Em ở lại với
`
đời ta em nhé. Em đừng đi cho ta nắm tay em”…Ý thức sâu xa về sự hữu hạn
của kiếp người, của lẽ hợp tan, ông luôn phấp phỏng lo lắng:
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi
Và:
Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ
Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi
Mỗi cảnh, mỗi vật đều in dấu nỗi phấp phỏng, lo lắng ấy. Nào là
“Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo”, nào là “Tờ cảo thơm như lệ ứa pha
hồng”, nào là “Mình cát lạnh chân lạc đà bé bỏng - Bóng hình em tơi tả dưới
trăng rằm”, nào là “Ngày đi đổ bóng sau người- Mộng hờ biết có buồn vui em
về”, nào là “Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai”…
Con người quả thật bé nhỏ trước lẽ vô thường, trước những chuyển
xoay của tạo vật. Trong thơ Bùi tiên sinh có thể thấy sự chuyển dịch, đổi thay
của không gian, thời gian, bản chất và hiện tượng. Thời gian đi là nước đi.
Hay đời người cũng đi? Bùi Giáng buộc mình ý thức trong từng sát-na sự ra
đi của xác thân, của tình yêu, của vạn vật trong cõi ban sơ:
Thân xương máu đã đành là ủy mị
Em ở lại với đời ta em nhé
Em về mấy thế kỉ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ý thức rằng màu sương đang mòn ruỗng, chiếc lá chuyển màu, dòng
nước miệt mài trôi và những yêu thương rồi cũng mất… là những ý thức tạo
nên nghị lực sống thù thắng phi thường, một can đảm để chấp thuận ngang
`
ngửa bể dâu, dù lắm lúc cũng dở khóc cười và chất ngất điêu linh. Nhưng …
hãy mỉm cười đi, trong huỷ diệt đã sẵn mầm sự sống, trong buốt giá mùa đông
“thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”:
Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới.
( Nhìn thấy- Đêm ngắm trăng, trang 27)
Có ý thức từng hơi thở vào ra mới thấy sự quý trọng và cần thiết của
hơi thở. Bình lặng thở vào, mỉm cười thở ra, dẫu “mặt trời lặn”, “mặt trời
mọc” thì hơi thở cũng trong lành và tĩnh tại. Đó là thông điệp nhuốm màu
thiền, mà đã ngân nga suốt từng thời thơ Bùi Giáng. Nhìn vạn vật đổi thay,
em hãy là tấm gương sáng trong để tất cả qua đi soi mình vào đó. Sống là
phụng hiến, là vươn lên. Nếu em buông thả cho tất cả qua đi trong vô ý thức,
cuộc đời sẽ xám đen một màu ảm đạm. Đừng tỏ ra bất cần và chẳng hề tỉnh
táo để nhận diện sự mầu nhiệm xung quanh. Nhưng nếu em “đưa tay nắm bắt
để cầm; (em sẽ) nghe trong chút nắng sương chầm chậm bay”. Nắng giữ
chẳng được, buông thả không xong, tất cả qua đi trong ý thức. Cứ nghe chim
hót, lá reo. Cứ nhìn mặt trời mọc, mặt trời lặn mỗi sớm, mỗi chiều để thấy
một bình minh, một mặt trăng đang nhón gót đến gần. Đừng cố níu giữ làm
gì, rồi mặt trời sẽ mọc, mặt trời sẽ lặn, mỗi ngày mỗi mới, em sẽ tìm ra đúng
nghĩa một đời vui. Tha thiết cầu cứu cho chuồn chuồn, châu chấu, nguyên
mộng, nguyên xuân… thơ Bùi Giáng vì vậy văng vẳng lời kêu “phản quan tự
kỷ”. Chỉ với thiên nhiên huyền nhiệm, ta đã giàu có mà ta lại làm “cùng tử
lang thang” đi tìm cầu mọi thứ để khi sức mòn lực kiệt mới thảng thốt gào
kêu: Cố hương ơi, đường trở về sao quá xa xôi! Ôi quê hương, cố quận! Ôi,
`
nguyên mộng, nguyên xuân! Cuối cùng rồi ta cũng gặp ngươi, gặp lại tình ta.
Hoát nhiên ta “đại ngộ” vì sao Bùi Giáng nói:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà
Hay
Từ đâu ngươi đến?- Từ đây ta về
Hành trình lữ thứ để quy hồi cố quận, có ai ngờ, càng đi càng xa. Hãy
đi để trở về, “hãy đến đi để thấy”, “hãy như thực tri chứng”. Cũng như:
Người nằm ngủ thấy gì,
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi…
(Có lẽ – Mưa nguồn…tr. 359)
Nắng, lá, bông ngươi thấy không như thấy. Cái ngươi thấy sẽ khác cái
ta thấy. Hãy ngủ đi để thấy, hỏi có ích gì.._.hữ Hán hoặc những câu thơ hoàn
toàn vô nghĩa, trong đó, chỉ có những tiếng động lanh canh lách cách của các
âm, các vần, các thanh điệu va chạm vào nhau mà thôi. Có thể nói Bùi Giáng
làm thơ như một người chơi cờ không nhắm tới mục đích chiếu tướng mà
nhắm tới việc khám phá khả năng biến chuyển vô tận của các nước cờ. Bùi
Giáng là người làm thơ thuộc loại hồn nhiên nhất trong thơ Việt Nam. Ông là
kẻ làm thơ, trước hết, với chữ. Nhưng khi các từ ngữ chỉ, hay chủ yếu chỉ,
liên hệ với các từ ngữ khác thì quan hệ giữa các từ ngữ ấy và hiện thực được
chúng ám chỉ trở thành hàm hồ và xa xôi hẳn như cái điều các nhà hậu cấu
trúc luận đã từng phân tích. Bùi Giáng, từ rất sớm, đã nhận ra điều đó. Bùi
Giáng đã cảm nhận sâu sắc hơn ai hết sự bất lực của ngôn ngữ. Không phải là
sự bất lực của người sử dụng ngôn ngữ mà là sự bất lực của chính ngôn ngữ.
Thơ Bùi Giáng có khi là thơ về sự bất lực của ngôn ngữ. Do đó, một mặt,
người ta có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ hồn nhiên, nhưng mặt khác, người ta
cũng có thể nói Bùi Giáng là một nhà thơ bi quan nhất trong lịch sử văn học
Việt Nam, người đi đến tận cùng sự tuyệt vọng đối với cái gọi là chức năng
phản ánh hay tái hiện hiện thực và từ đó, chức năng truyền thông và giao cảm
của ngôn ngữ. Với các nhà thơ khác, ngôn ngữ là một thứ chất liệu. Với Bùi
Giáng, ngôn ngữ không phải chỉ là một chất liệu mà còn là một đề tài, một
cảm hứng. Bùi Giáng làm thơ không phải bằng ngôn ngữ, với ngôn ngữ mà
còn về ngôn ngữ. Cái bi kịch của Bùi Giáng là ở chỗ: là người cầm bút, ông
chỉ có một thứ vũ khí duy nhất phải sử dụng, đó là ngôn ngữ, một thứ vũ khí
ông rất yêu, nhưng đồng thời, tự thâm tâm, khác hẳn các nhà thơ khác, ông
không ngớt hoang mang hoài nghi về hiệu năng của nó.
Sự đùa bỡn với ngôn ngữ thi ca bằng cách sử dụng kiểu nói lái tinh
quái của quê hương ông nhiều khi thô thiển một cách cụ thể chứ không bóng
bẩy kiểu Hồ Xuân Hương. Người đọc rất hay bắt gặp trong sách ông những
`
cụm từ như “tồn lưu, tồn liên, liên tồn, lưu tồn, tồn ;lí tí ngọ, tồn lập tập trung,
tồn lập tập hợp…để đuà nghcịh với triết học, nghịch với thi ca, nghịch với
cuộc đời và nghịch ngay với chính bản thân ông:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
( Mưa nguồn)
Trong văn học Việt Nam, hình như chưa có ai đi đến tận cùng chủ
nghĩa hư vô như Bùi Giáng. Ở khía cạnh này, có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ
tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc mọi niềm tin đều bị sụp
đổ.Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ lãng mạn 1930 – 1945 (
Ly Tao I, Ly Tao III, Màu trời đó…) Cảm hứng chính của thơ Bùi Giáng là
cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Nguyên Xuân, Cỏ hoa hồn du
mục, Dư vang…)Bùi Giáng có phong cách ngôn ngữ riêng, người ta có thể nói
đến kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng. Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ
thuần Việt, đó là vốn từ Hán Việt của nhà Phật và của văn chương cổ điển,
đồng thời ông tạo nên những từ lạ so với vốn từ đã quen dùng. Nhiều bài, từ
Hán Việt dày đặc đến nỗi trở nên rất khó đọc với độc giả bình thường:
Em từ non nước Viễn Khơi
Trùng lai Cố Quận chịu chơi một lần
( Em Từ)
Thiệt thòi đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát ;ầm
Giấc quày quả lạnh trâm anh
`
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi
( Mùa phượng cũ)
Điều này giải thích tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu. Bùi Giáng cố ý
dùng nhiều từ Hán Việt trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu
trúc bình thường để tạo nên “mật ngữ” của riêng ông. Có điều lạ là tuy có
nhiều từ Hán Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển, có lẽ vì ông khai thác thi
tứ, đề tài, chất liệu và tạo ra trường nghĩa mới so với thơ cổ điển chăng. Cách
dùng chữ Hán Việt của Bùi Giáng rất khác Nguyễn Du. Nguyễn Du đặt từ
Hán Việt bên cạnh những từ Thuần Việt sao cho người đọc dù không biết chữ
Hán vẫn có thể cảm hiểu được thơ.
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Thiên hương quốc sắc lạ thay
Một toà sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam đuên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
( Gà gáy sáng- Bùi Giáng)
Với Bùi Giáng, làm thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghĩa của một
con người tài hoa. Trong đoạn thơ trên rõ ràng có một bàn tay nghịch ngợm
rất mực tài hoa của Bùi Giáng, xáo trộm nghịch ngợm triệt để những từ Hán
Việt, chữ nghĩa trở nên xa lạ không sao hiểu được. Mật ngữ của Bùi Giáng là
`
ở đó. Phong cách thơ Bùi Giáng trước hết thể hiện ở trò chơi ngôn ngữ thách
đố người đọc như trong trò chơi ú tim. Bùi Giáng có khả năng biến hoá ngôn
ngữ một cách tài hoa. Tôi không nghĩ đó là thi pháp, mà chỉ là sự tài hoa của
ngòi bút, của cá tính sáng tạo. Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm torng thi pháp thơ
cổ điển và thơ lãng mạn.
“Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi”
Ầm trang sử lịch. Hình như đây là chữ dùng đặc biệt của Bùi Giáng.
Trước ông, hình như chưa có ai dùng từ sử lịch. Và kể từ Bùi Giáng, mỗi khi
viết về ông, hoặc mỗi khi viết theo thể điệu của ông, ngưòi ta thường dùng từ
này để nói lên cái tính lịch sử của đời sống, của con người, của một cuộc lữ,
hay của một vòng quay, một vòng vận động. Có thể nhiều người trong chúng
ta thấy từ ấy lạ, đầy nét Bùi Giáng, và đã tưởng người thi sĩ “cho nét chữ lên
đàng quẩn quanh”. Và chúng ta cũng cho nét chữ của mình quanh quẩn lên
đàng đuổi theo nét chữ của người. Điều đó cũng là hợp lý khi đi tìm hay nói
về phong cách của nhà thơ. Có lẽ ít người biết rằng dù có một phong cách từ
độc đáo, trong việc dùng từ “sử lịch” này, Bùi Giáng có quan niệm rõ ràng
của ông. Ông sáng tạo từ “sử lịch” để diễn tả một khái niệm triết lý. Sử lịch là
lịch sử nhuốm đẫm màu thời gian phôi pha thiên cổ. Tôi nhớ trong tập Mưa
nguồn, Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
`
Từ láy trong ngôn ngữ Việt chứa một nội hàm đặc biệt. nó như cái tạng
của con người Việt Nam vậy, cứ ngỡ là bông lơn nhưng thật ra rất tinh tế và
sâu sắc. nó có khả năng diễn tả đến tận cùng những uẩn khúc của tâm trạng
con người. Từ láy qua lời ăn tiếng nói của người bình dân trong thơ ca dân
gian là một minh chứng điển hình. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế
Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Tuân… là các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng về
vận dụng từ láy trong sáng tạo nghệ thuật. chúng ta khó có thể quên lửa lựu
lập lòe, quyên gọi hè quang quác quác, gà gáy tẻ tè te, vừng quế đỏ lòm lom,
chí cha chí chat khua giày dép, tiếng ca nông đì đòanh chấm câu cho nhữung
vần thơ yêu nước… Bùi Giáng cũng rất giỏi sử dụng từ láy. Trong thơ ông có
đủ cả các dạng thức của từ láy, láy tiếng láy, thanh, láy âm vần, láy phụ âm
đầu… tôi xin được ghi ra đây những dạng từ láy mang giọng điệu của riêng
Bùi Giáng:
Em bước tới em là con gái Việt
Em bước về là Lục Tỉnh phanh phơi
(Con mắt mở ra-Ngàn thu rớt hột)
Người đã hỏi hấp hô trong hơi thở
Đã điêu tàn sao vọng mãi dư vang
(Hòang hôn vẽ bong-Mưa nguồn hòa âm)
Thấy em như thấy mặt trời
Lung linh dưới nguyệt rạng ngời rêu rong
(Thấy em-Đêm ngắm trăng)
Tuổi mười sáu bây giừo lên gấp gảy
Mộng miên man là mây phủ lưng đèo
`
(Những nhành mai-Mưa nguồn)
Đường về đó dựng mình xuân bên lá
Buổi mai nào từ ly biệt bẻ bai
(Trở lại-Mưa nguồn)
Màu trời đó để ngàn sương hớt hải
Xuống li ti là dựng vội con đường
Tơ vàng óng là đà đua đẩy nhẹ
Nắng hây hẩy là hồng lên he hé
Chảy vi vu là giọt nhẹ xuống vai
(Tuổi trẻ-Mưa nguồn)
Mùa sau thu xế
Hang rừng gió thổi giòng khe
Em về dây để
Rạc rời tiếng cũ còn nghe
(Gái buồn-Mưa nguồn)
Rời rã em đi để một mình
Ta nhìn trăng lại xuống bên hiên
Chân bước bây giờ ta rất sợ
Tiếng vọng bao giừo em nín thinh
(Tàn nhẫn-Mưa nguồn)
Lạc về đầu rú khe truông
Vốc năm ngón nhỏ gieo buồn rã riêng
`
(Phượng-Mưa nguồn)
Lục Tỉnh phanh phơi, hơi thở hấp hô, rạng ngời rong rêu, gấy gảy tuổi
mười sáu, mộng miên man, ly bịet bẻ bai, ngàn sương hớt hải, nắng hây hẩy,
hồng he hé, chảy viv u, nghe tiếng xưa rạc rời, em đi ta rời rã nhìn trăng,
buồn rã riêng..., đó là những từ láy có chức năng bổ nghĩa mang dấu ấn nghệ
thuật của Bùi Giáng. Hai chữ phanh phơi đã cực tả tấm lòng rộng mở của Lục
Tỉnh. Phải thẩm thấu đến tận cùng nỗi lòng người, mới nghe được hơi thở hấp
hô. Tình yêu đối với em thật mãnh liệt, nhưng tình yêu ấy đã có tự lâu rồi, lâu
lắm, rất lâu, đủ lâu để thời gian phủ lớp rêu phong. Giờ đây, ta thấy em và mở
lớp rêu rong rạng ngời. hai tiếng gấp gảy, miên man khiến ta hình dung tuổi
mười sáu thật đầy đặn. ly bịet ta nghe cũng đã nheìeu, nhưng ly biệt bẻ bai, có
lẽ chỉ có ở Bùi Giáng. Nỗi buồn ly biệt đâu chỉ có vị mặn của nước mắt, nhà
thơ đã thêm vào đó vị chát đắng của lòng mình. Sương, ta thấy cũng đã nhiều.
Màu trời sương, thỉnh thỏang ta cũng bắt gặp ở đâu đó. Nhưng, ngàn sương li
ti hớt hải vội dựng con đường, đường sương là cách nói riêng của Bùi Giáng.
Những từ láy hây hẩy, he hé, vi vu đã là cho sắc hồng của nắng, nhà thơ gọi
đó là sợi tơ vàng óng của trời, căng tràn nhựa sống như tình yêu tuổi trẻ. Miêu
tả nỗi sầu muộn tái tê của lòng người, nhữung rạc rời, rời rã, ta nghe đã thấm,
nhưung rã riêng buồn thì nỗi buồn ấy đã thấm vào xương tủy mất rồi! Đọc thơ
Bùi Giáng, cái rã riêng ấy đâu chỉ vài lần: Máu trong mình mòn ruỗng /
Xương trong mình rã riêng ( Bờ lúa), Bước chân giẫm sỏi trên đồi / Những
thân đau khổ nhữung đời rã riêng (Tặng bạn)…
Láy phụ âm đầu là một hiện tượng khác, không thể không nhắc đến trong
cách sử dụng từ láy của nàh thơ: Dập dìu cành lá lắc qua / Lung lay lai láng lân
la lội làn (Nàng tiên) hoặc: Về sau tôi cứ lầm lì / Hoặc hò hét hoặc hoắc huy
hiêu hùng (Cái gì là nàng tiên). Hiện tượng này không mang tính nghẹ thuật,
`
nhưng trong nhữung năm 70 của thế kỷ XX, đã thấy vài người làm thơ ở Sài
Gòn cố gắng bắt chước, làm thơ theo cách láy âm đầu này.
Xin ghi ra đây một đọan thơ trích trong Nhan sắc hôm nay, Bùi Giáng
dùng từ láy rất độc đáo, để khép lại tiêu mục này:
Bờ thánh thót động giòng em đi đến
Làn lênh lang lau lách lại luân lưu
Hoa cỏ phanh phơi đón đợi dê cừu
Tung bốn vó nhịp nhàng về nhảy cởn
Cho quay tít sắc bên màu ngả ngớn
Cho quanh co giòng khe nước tăn teo
Cho ngổn ngang gò bến đống cheo leo
Cho uốn éo đường thu thêm thiên thẹo
Một trong những chữ dùng độc đáo nữa của Bùi Giáng là chữ “hột”.
Bùi Giáng không dùng từ hạt, mà là hột. Nó là phương ngữ, từ của người
phương Nam. Hột của nhà thơ cũng lắm thú vị: hột đầm sương là chốc chốc
mơ màng, hột tròn quá khứ ruổi rong, màu hoa rớt hột phù du trên ngàn, ngàn
thu rớt hột chôn vùi tình nhau, tàn thu rớt hột trăm năm, ngàn thu rớt hột lũy
hào tan hòang, ngànt hu rớt hột trang liều lĩnh hoa, mắt người chìm hột sao
khuya, miệng người bỏ hột bên rìa mép hoang… Từ một từ vựng mang một
nghĩa cụ thể, nàh thơ đã nâng lên thành nghĩa biểu tượng với nhiều màu sắc
khác nhau. Không còn là hạt của hoa quả ngũ cốc, hạt nước, hạt sương… mà
là cái cốt lõi bền vững của tâm can con người. Nó bền bỉ hiện diện để chứung
kiến cuộc bể dâu của thời đại, của lòng người đa đoan. Và, kể từ nay, tiếng
Việt ta đã có thêm một từ hột theo kiểu của Bùi Giáng. Tiếp theo là ngẫu nhĩ.
Ngẫu đắc, ngẫu nhiên thăng hoa trong ngẫu hứng nghệ thuật trở thành ngẫu
`
nhĩ của Bùi Giáng: về đây ngẫu nhĩ mông lung, em từ ngẫu nhĩ đa mang, nơi
ấy một lần ngẫu nhĩ, một hôm ngẫu nhĩ thấy người đi giữa phố hoa, giờ ngẫu
nhĩ như hồng bay em ạ, giờ khép mắt nhớ một lần ngẫu nhĩ, em từ vạn thuở
long đong – gặp anh ngẫu nhĩ thuận tòng chịu chơi… Lúc trong cõi nhớ đầy
cảm xúc, lúc trong dòng hồi tưởng mông lung, lúc trong nỗi hoan hỷ, lúc suy
tư triết lý…, ngẫu nhĩ của nhà thơ đặt con người luôn luôn ở trạng thái tương
giao. Con người không thể và không bao giờ bị tách khỏi cuộc sống. Hơn nữa,
ngẫu nhĩ còn là tùy thuận, tùy duyên của nhà Phật, là cái ngẫu nhiên và tất
nhiên trong triết lý của tư duy biện chứng. Vậy thì, ngẫu nhĩ rất đáng được đặt
trong kho lưu trữ ngôn ngữ dân tộc.
Và cuối cùng là ngôn ngữ của cái đẹp:
Ta đã nhặt nhành mai kia của đá
Và đã trao cho nham thạch phiêu bồng
…
Về tuế nguyệt bước ngao du tận tụy
Người có nghe tang hải réo vô thường
(Hoàng hôn vẽ bóng-Mưa nguồn)
Mai sau hẹn với ban đầu
Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân
(Hẹn ước-Mưa nguồn)
Mở mắt bên người tôi chẳng biết
Màu sau lá có rộng bên mình
Bùi Giáng có rất nhiều dạng thức ngôn ngữ dẫn ta đến cái đẹp trong
cảm xúc nghệ thuật văn chương như thế. Đó là kiểu ngôn ngữ được cách điệu,
`
là những bước chân trong vũ điệu lạ thường mà giai điệu của nó thóat ra từ
nhịp tim của một nhà thơ biết yêu và trân trọng những giá trị của cuộc sống.
Có người gọi đó là những xoang điệu hào hoa, vũ điệu balet… tôi lại muốn
đặt nó một tên gọi khác: ngôn ngữ của cảm xúc thẩm mỹ bay bổng, tuyệt vời.
Phong cách Bùi Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật của cả bài thơ. Thơ Bùi
Giáng là một thế giới riêng, thế giới thơ cổ điển của hôm nay. Thế giới của
nghệ thuật kết hợp với tư tưởng, của tâm thức hiển hiện trong ý thức, của câu
chữ thật nói lời vô ngôn, của sự trộn lẫn tài hoa và bi thương, của thực tướng
và hư huyễn. Tiếng Việt trở nên sang trọng và phong phú vô cùng, câu thơ
trùng trùng nghĩa, chữ gợi chữ chữ thai nghén nghĩa mới, nghĩa gọi tâm, tâm
lay động thái hứ, vang vọng mãi vào vô biên. Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay,
không chỉ câu thơ hay.
“Dù sao chăng nữa, Bùi Giáng tạo ra được một mẫu ngông thời đại,
sáng tạo một kiểu say sưa chán đời của thế kỷ XX, khác vớ Nguyễn Khuyến
trong thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế kỷ XX”. Đó là kết luận của Tự điển văn
học.
3.3 GIỌNG ĐIỆU
3.3.1 Giọng đối thoại
Khi Bùi Giáng làm thơ, ông thường hay “gửi” đến một ai đó. Vì thế
mỗi bài thơ dường như là một cuộc trò chuyện vô hình giữa người gửi và
người nhận. Với ông, làm thơ, bình thơ là một cuộc đối thoại. Đối thoại với
trời đất thiên nhiên hoa cỏ bốn mùa, đối thoại với người kim cổ Đông Tây,
đối thoại với chính bản thân mình. Trong những vần thơ của ông, không ít lần
Bùi Giáng đối với chính mình
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
`
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.
( Ngày tháng ngao du)
Đó là một cuộc đối thoại không theo lệ thông thường : Người thi sĩ xuất
chúng xuất thần thường có phong thái khác thường. Họ nói rất ít mà nói rất
nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hỗ như chẳng thẩy gì hết. Họ nói cho
họ mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hội chẳng bận
tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe. (Bài viết bình thơ Tuệ sĩ –
Đi vào cõi thơ).
Cuộc đối thoại đó, không phải lúc nào cũng thành công.
Sầu như si độn thập dư niên
Liễu nhập tàn hồng cộng nhứt thiên
Di mạn tằng du văn khiệp ý
Hàn thiền hý lộng lục thương thiên
- Cô phì cười ?
- Vâng cháu phì cười.
- Phì cười chuyện chi ?
- Bác làm thơ như thế thì có trời mà hiểu. Có quỷ ma mà hiểu.
- Nhưng tôi xin tặng cô…
- Tặng cháu để làm gì. Khổ cho cháu đã đành mà còn khổ luôn cho bác
nữa.
- Sao gọi là khổ cho bác ? Sao gọi là khổ cho cháu đã đành ?
`
- Khổ cho cháu đã đành có nghĩa là : người ta tặng cho mình cái gì mình
chẳng hiểu đâu vào đâu cả, có phải là khổ không ? Sự tình thật dễ hiểu.
Còn khổ luôn cho bác ? Ấy có nghĩa là : đem tặng cho người ta một cái
gì mà người ta không hiểu, người ta bực bội, người ta khổ, thì mình
cũng khổ theo. Sự tình cũng thật dễ hiểu.
- Té ra là thế.
(Ngày si độn – Ngày tháng ngao du)
Hoặc, thi nhân trong cuộc đối thoại với thiên nhiên vạn vật không
thành, là bởi : Nếu có gì khiếm khuyết, thiếu sót đáng tiếc, thì ấy là ở tại nơi
ta, chớ không phải ở tại nơi rừng biển. Lòng ta không đủ rộng để đón nhận
núi rừng (Ngày tháng ngao du). Và, đó là những cuộc đối thoại dữ dội nhất :
Kẻ nào say mê "Đoạn trường tân thanh" của ông Nguyễn Du, kẻ đó khó mà
trường thọ (Sở dĩ nhiên – Ngày tháng ngao du). Thơ Bùi Giáng còn là một
cuộc đàm thoại miệt mài, vơi những câu hỏi liên tục và những câu trả lời
không rõ rệt, vì mong lung và phổ quát, như trong bài "Tặng Mã Giám Sinh"
(Bùi Giáng.193):
"Hỏi tên rằng biển xanh dâu
"Hỏi quê ? rằng mộng ban đầu đã xa
"Gọi tên ? rằng một hai ba
"đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Cuộc vấn hỏi này, dù xuất xứ từ ai, cũng chỉ mang lại một hồi âm mơ
hồ và bất tận, liên can tới một hiện tượng biến đổi liên tục. Dù vĩ đại và
trường kỳ đến mấy, sự biến đổi đó chỉ hiện hữu trong ý thức và tâm thức của
thi nhân về một nhân sinh quan và vũ trụ quan luôn luôn khác biệt và khiếm
khuyết. Trước hết, sự biến cách hay "sái diện" (BG.5) của cái "ta" nơi Bùi
Giáng theo diễn tiến một sự kết cấu qua thể hủy tạo hay phá thể
`
(déconstruction-défiguration) đa diện và đa trạng. Đó là một trào lực có
khuynh hướng vừa ly tâm, vừa hướng tâm, nhằm phá vượt hai chiều những
biên giới bản thể, để chủ thể trở thành khách thể, cái "ta" trở thành "không-
ta", thành "mình", thành "em", hoặc ngược lại, trong một thế tách-nối vô định
và bao quát liên hệ tới nhân thể, như trong câu:
Nhìn em như thể nhìn người ...
Nhìn người như thể nhìn ta
Tự mình nâng cốc rót ra rót vào
(Bùi Giáng, 1995)
hoặc:
Nhớ quên người nhớ quên người
Tầm sương sái diện ai người ai ta
(Bùi Giáng.1995).
Đặc biệt là hiện tương người "láng giềng": đó là vị thế của một thứ tha
nhân, vừa xa lạ, vừa gần gũi, ở bên kia hàng rào, nhưng lại bên cạnh vách
tường, từng sống giáp ranh như những mảnh "ta" chia cách, nhưng vẫn còn
luyến tiếc tâm giao:
Láng giềng tâm sự là ta với mình
Trong quan niện tách-nối này, thi nhân có lúc cảm thấy bớt lẻ loi, đỡ cô
đơn, vì có khả năng "khuếch xung" thành những thân phận khác. Nhờ đó, thi
nhân thẩm thấu được những cảnh huống đa thể, đôi khi như mâu thuẫn với
chính mình: sống hộ người khác; sống qua người khác; hoặc sống-bên-cạnh
và lạc lõng ngay chính bản thân mình. Cũng như sống và không sống, đôi khi
chi là một cảm giác, một quan niệm hai bề. Đó là viễn tượng "trùng khơi" qua
những bản thể và trạng huống tư duy khác nhau thành những trào lực dây
`
chuyền tiếp nối. Ngay với tại bản thể, sự "sái diện" của cái "ta" cũng là một
hiện tượng "điệp trùng" nhân cách, được thể hiện qua tâm thức và ấn tượng đa
diện từ chính bản thân mình. Cái "ta" đó luôn luôn là môi trường xung đột
hoặc gặp gỡ của những tâm trạng tỉnh và say, điên cuồng và sáng suốt, vui và
buồn, lẫn lộn. Đôi khi tình, tỉnh và điên cũng có thể tiếp ứng nhau một cách
kỳ diệu để trở thành thứ "tình điên...chơi vơi" so với "tình không điên" cũng
đầy hỗn mang -- tĩnh và loạn cùng một nơi, và có thể cùng một lúc. Đảo điên
đôi khi lại tách biến thành "cuồng mộng" , thành "niềm vui vô hạn" và "niềm
đau vô lượng" (trong một thể luân phiên hư hư thực thực: "Vui quá giả bộ
buồn". Sự sái diện của cái ta đảo điên đôi khi còn đi song song với hiện tượng
"khuếch xung" và phản "khuếch xung", qua những giai đoạn so sánh hay ám
chỉ dí dỏm như sau:
Điên cuồng mà tưởng nên thơ
Cuồng điên mà tưởng làm thơ như thần
Phải chăng đây là những lời tự mỉa mai (phản khuếch xung), hay tự
tâng bốc (khuếch xung), nói thế nào cùng đúng, và cũng có thể sai, vì làm sao
biết được thi nhân điên hay không điên, thơ hay thẩn, thần hay ngợm ? Sự
"sái diện", "điệp trùng" và "khuếch xung" của cái "ta" trong thơ Bùi Giáng,
không những chỉ có tính cách thuần nhân, liên hệ tới ta và không-ta, mà còn
thẩm thấu xuyên qua các giới sinh vật, qua thiên nhiên, trong một vòng "trùng
sinh thái thậm". Có lúc thi nhân muốn truy dụng cái phong độ của "tuổi cọp"
mình để đủ bản lãnh "giữ mộng đười ươi". hoặc theo "ngựa về núi đá đầu
thai" . Cũng có lúc thi nhân như có thể thu kết được cả vũ trụ, thấy "mưa gió
trong thân", hoặc nghe "mùa Sự "sái diện", "điệp trùng" và "khuếch xung" từ
nhân sinh quan tới vũ trụ quan luôn luôn ám ảnh Bùi Giáng đến nỗi thi nhân
đã phải thốt lên:
`
Từ đó về sau Trẫm đau đớn thiết tha
Và không còn biết mình là cái gì nữa cả
Nhưng sự tách-biến hoặc phá thể siêu hình này không hoàn toàn đưa
đến sự khước từ nhân cách hoặc tự hủy trong tư tưởng, mà lại có ích dụng
hoặc chức năng làm rẫy và mở đường phóng toả, nhằm truy dụng những "ngõ
ban sơ", như thể tìm kiếm "dấu" tích của một nguồn gốc xa xưa; như để tìm
lại huyền sử trong "trang phai cỏ". Nguồn gốc của bản thể trong ta và ngoài ta
được Bùi Giáng gọi chung là quê quán của "mộng ban đầu đã xa", là "cố
quận" vừa thực thể dưới hình thức tương tự của "phố cũ", hoặc "viễn phố",
vừa trừu tượng như quan niệm "nguyên thủy của không gian và thời gian vô
tận, của những "nghìn xa vắng “ còn phảng phất mơ hồ trong tiềm thức nhân
loại.
3.3.2 Giọng bông đùa
Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh
nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý
nghĩa cuộc đời, về lẽ tồn sinh, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một
dục tình khép mở Xuân Hương:
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
hoặc:
Bỏ hai chân xuống một vùng
Nước truông là lá thu rừng xuống khe.
(Bỏ hai chân)
`
Thơ Bùi Giáng tự nhiên và mang phong vị hài hước, hóm hỉnh.
Triết lý trong cuộc chơi và kiếm tìm ngôn từ của Bùi tiên sinh cuối cùng chỉ
còn lại mấy chữ "vui thôi mà!" cứ ngỡ rằng ai hiểu thế nào cũng được.
`
KẾT LUẬN
Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo trên thi đàn văn học dân tộc, cụ
thể ở địa phận miền Nam vùng bị giặc tạm chiếm, vào nửa cuối thế kỷ XX.
Xác định vị trí của tác giả phải đặt họ vào trong thời đại mà họ sống, xét
những đóng góp tích cực của họ đối với nền văn học nước nhà. Luận văn
không có tham vọng xây tòa nhà to lớn cho thơ Bùi Giáng, nhưng quả thật,
nhà thơ rất xứng đáng có một chỗ đứng vững chắc trong lòng người yêu thơ.
Thơ ông, lời khen tiếng chê đều có đủ. Để cảm nhận chính xác hồn thơ Bùi
Giáng, bạn đọc cần phải gạn đục khơi trong, khách quan và khoa học trong
đánh giá và nhận định về con người cũng như văn nghiệp Bùi Giáng. Thật
khó để có một Bùi Giáng chung cho tất cả mọi người, tuy nhiên, đã là Bùi
Giáng, ắt hẳn tên tuổi đó xứng đáng là một hiện tượng. Trong tập Mưa nguồn,
Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Bùi Giáng đã ra đi rồi. Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi nguyên
một màu sơ thuỷ. Những lá hoa cồn hay những dòng chữ mà ông để lại cho
đời vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng sương mù của thi ca, của hồn
nguyên tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân lại trong lòng những
ngưởi yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu của những cơn
mưa nguồn ngày cũ, của những bài ca quần dảo hoang vu, của những lời cố
quận mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi
`
Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông đã không còn
như xưa nữa. Dù quê hương hay cố quận đó được hiểu như thế nào đi nữa thì
ông cũng đã “chết nhiều lần trong trận sống”, và trong cuộc đời này, hình như
nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm đường về của những đường
xưa lối cũ của những Hồn Nguyên Tiêu, có lẽ người thi sĩ ấy chỉ còn có thể
tìm về và tìm vào trong những cuộc chiêm bao:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
( Rưọu uống, Mưa nguồn )
Bùi Giáng đã ra đi vào cõi thiên thu vĩnh biệt, thân ngũ uẩn trả về cho cát
bụi:
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa?
(Mắt buồn - Mưa nguồn)
Nhưng trên tinh thần tư tưởng nhà thơ thì thật sáng láng bao la, dù biết
trần gian này là phiền não, tối tăm, khổ đau mà vẫn vui vẻ NGUYỆN đi vào
cõi người:
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây sống đủ vui sầu
(Phụng Hiến - Bùi Giáng)
`
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bùi Giáng-Mưa nguồn-NXB Văn học 2002
2 Bùi Giáng -Lá hoa cồn-NXB Sài Gòn
3 Bùi Giáng -Ngàn thu rớt hột-Màu hoa trên ngàn
4 Bùi Giáng -Bài ca quần đảo-Nguyễn Đình Vượng-1973
5 Bùi Giáng -Sa mạc phát tiết-NXB An Tiêm-Saigon 1963
6 Bùi Giáng -Đêm ngắm trăng-NXB Trẻ TPHCM-1997
7 Bùi Giáng -Chớp biển-Saigon-Anaheim-Koln 1996
8 Bùi Giáng -Mười hai con mắt-NXB Văn học 2000
9 Bùi Giáng -Mưa nguồn hòa âm-Saigon 1973
10 Bùi Giáng -Như sương-NXB Trẻ Tp HCm 1998
11 Bùi Giáng -Rong rêu-NXB Đà Nẵng 1995
12 Bùi Giáng -Thơ vô tận vui-NXB Thuận Hóa 2004
13 Bùi Giáng -Thi ca tư tưởng-NXB Ca dao Saigon 1969
14 Bùi Giáng -Ngày tháng ngao du-NXB An TIêm Saigon 1971
15 Bùi Giáng -Đi vào một cõi thơ-NXB Ca dao Saigon 1969
16 Bùi Giáng -Mùa thu thi ca-NXB An Tiêm Saigon 1970
17 Bùi Giáng -Một vài nhận xét về Truyện Kiều, Phan Trần, Thúy
Vân, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm, Quan âm Thị Kính, Bà
Huyện Thanh Quan-NXB Hội nàh văn 1998
18 Bùi Giáng -Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại-NXB Văn
học 2000
19 Đinh Vũ Thùy Trang-Bùi Giáng, một cuộc đời, một cõi thơ-luận
văn thạc sĩ 2000
`
20 Nguyễn Văn Quốc-Đặc điểm nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bùi
giáng-luận văn cử nhân 2004
21 Trương Thị Mỹ Phượng, Thơ Bùi Giáng, Luận văn thạc sĩ văn
học, 2007
22 Giai phẩm Văn-Số đặc biệt về nhà thơ BG tháng 5/1973
23 Tạp chí Thời Văn-số đặc tuyển về thi sĩ BG số 19, tháng 6/1977
24 Tưởng nhớ thi sĩ Bùi Giáng-NXB Trẻ TpHCM 1999
25 Trường Vũ Thiên An-Thử một lần đối diện với thơ và con người
thơ Bùi Giáng-Tạp chí Kiến thức ngày nay số 41, trang Chân
dung văn học
26 Sư nữ Trí Hải-Thông điệp của thơ-Bài nói chuyện buổi tưởng
niệm thi sĩ Bùi Giáng tại tịnh thất TH VVạn Hạnh 8/10/1998
27 TS Nguyễn Công Lý, ThS Đặng Ngọc Như-Thơ Bùi Giáng: Đôi
điều cảm nhận-Tạp chí Nha Trang số 81, tháng 6/2002
28 Trần Trung Phượng- Bùi Giáng,kẻ đùa giỡn với tư tưởng-Báo Tia
sang số 61
29 Trần Đình Thu-Một năng lực phi thường của kẻ súôt ngày rong
chơi-Bài thơ lạ lung của anh chăn bò-Dịch giả tài hoa nhưung
không bình thường-Ngày tháng ngao du-Văn chương Bùi Giáng
trong những cuốn sách đầu tiên-Những người phụ nữ đẹp thóat
trần- Bùi Giáng có phải là một người điên không-Báo Thanh
niên các số tháng 3/2005
30 Đặng Tiến-Thơ là hạnh phúc- Bùi Giáng nguồn xuân-Hòai vọng
tìm về thiên tính con người-Báo Thanh Niên các số tháng 3/2005
31 Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng-Bàng Giúi tiên sinh-Phóng túng
hình hài, ngang tang tính mệnh-Báo Thanh Niên các số tháng
3/2005
`
32 Hòang Kim-Ngây thơ trong cõi người ta-Thăng hoa cuối đời và
lá thư tình chưa công bố-Báo Thanh Niên các số tháng 3/2005
33 Nguyễn Khắc Mai-Nén hương thắp cho chàng Bội Lan hiện đại-
Báo Tuổi trẻ chủ nhật 18/10/1998
34 Trần Huệ Hiền –Bùi Giáng,viên ngọc quý.
35 Tần Hòai Dạ Vũ- Bùi Giáng còn ở lại
36 Từ điển văn học-NXB Thế giới 2004
37 Biên tập dựa theo tài liệu của Ủy ban thống nhất trung ương và
Tổ văn học miền Nam-Viện văn học-Vài nét tình hình chung và
tình hình văn học vùng tạm chiếm miền Nam Việt Nam
38 Huy Tâm-Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại ( 1933-
1963)-1969
39 Phan Cự Đệ chủ biên-Lý luận phê bình văn học miền Trung kỷ
XX-NXB Đà Nẵng
40 Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận-NXB Sự Thật
1959
41 Minh Huy-Những khuynh hướng thi ca Việt Nam (1932-1963)-
Lãng mạn-Tượng trưng-Tả thực-Hiện sinh-1962
42 Phần đóng góp của văn học miền nam những bước đầu của báo
chí, tiểu thuyết và thơ mới-NXB Lửa Thiêng 1975
43 Tạ Ty-Mười khuôn mặt văn nghệ-NXB Kim Lai 1970
44 Tủ sách Khoa Ngữ Văn-báo chí ĐH KHXH-NV TPHCM –Thơ-
Nghiên cứu-Lý luận-Phê bình-NXB ĐHQG TPHCM 2003
45 Hà Minh Đức-Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt nam hiện đại-
NXB Giáo dục 1998
46 Trần Đình Sử-Những thế giới nghệ thuật thơ-NXB ĐHQG Hà
Nội 2001
`
47 Từ trong di sản-NXB Tác phẩm mới-Hội nàh văn Việt Nam-Hà
Nội 1981
48 Phương Lựu-Về quan điểm văn chương cổ Việt Nam-NXB GD
1985
49 Đỗ Văn Hỷ-Người xưa bàn về văn chương-NXB KH XH Hà Nội
1993
50 Trầ Trọng Đăng Đàn-Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam
những năm 1954-1975- NXB Sự Thật 1991
51 Roman Jakobson-Cao Xuân Họa dịch-Ngôn ngữ và thi ca
52 Thế Phong-Chiêu niệm bốn nhà văn Saigon 1969
53 Những nhà văn hôm nay-NXB Nhà văn Việt Nam 1969
54 Phương Lựu-Từ văn học so sánh đến thi học so sánh-NXB Văn
học Hà Nội 2002
55 Đỗ Đức Hiếu-Đổi mới đọc và bình luận-NXB Hội nhà văn Hà
Nội 1999
56 Nguyễn Đăng Điệp-Giọng điệu trong thơ trữ tình-NXB Văn học
2002
57 Phan Ngọc-Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ-NXB Trẻ
2000
58 Phương Lựu-Tiếp tục khơi dòng-NXB Văn học 2001
59 Tzvetan Todorov-Đào Ngọc Chương dịch-Mikhail Bakhtin-
Nguyên lý đối thoại-NXB ĐHQG TpHCM 2004
60 Hòang Ngọc Hiến-Văn học… gần và xa-NXB GD 2003
61 Trần Đăng Xuyền-Nhà văn hiện thực đời sống vào cá tính sang
tạo-NXB Văn học 2002
62 Nguyễn Thanh Hùng-Đọc và tiếp nhận văn chương-NXB GD
2002
`
63 Trần Đình Sử-Một số vấn đề thi pháp học hiện đại-Bộ GD và
ĐT-Vụ GV hà Nội 1993
64 Bùi Văn Nguyên-Hà Minh Đức-Thơ ca Việt nam hình thức và thể
loạii-NXB ĐHQG Hà Nội 2003
65 Nguyễn Bá Thành-Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại-
NXB Văn học 1996
66 NGô Văn Phú-Chuyện văn chuyện đời-NXB Lao Động Hà Nội
2004
67 Thơ Mới 1932-1945 tác giả và tác phẩm-NXB Hội nhà văn 1998
68 Tạp chí Sáng tạo-số 1,2,3(1956), 4,5(1957),16-27(1958),
2831(1959), 17(1960)
69 Tạp chí Nghiên cứu phê bình Văn học số
1(1967),5,6(1968),110(1972)
70 Nguyễn Dược-Trung Hải-Sổ tay địa danh Việt Nam-NXB GD
2005
71 Trần Thái Đỉnh –Triết học hiện sinh -NXB SG 1969
72 Nguyên Sa-Một bông hồng cho văn nghệ-NXB Trình bày 1969
73 Đinh Hùng-Đốt lò hương cũ-NXB Lửa thiêng 1971
74 Nguyên Sa-Mây bay đii-NXB Trí Dũng 1967
75 Nguyên Sa-Thơ-NXB K.D 1963
76 Vũ Hòang Chương-Ta đợi em từ ba mươi năm-NXB An Tiêm
1971
77 Trần Hữu Tá-Nhìn lại một chặng đường văn học-NXB TPHCM
2000
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7520.pdf