Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Lời mở đầu Hiện nay, nước ta đang phát triển đi theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra con đường đúng đắn cùng các biện pháp tránh sai lệch, chệch bước. Trong diễn văn khai mạc đại hội IX Chủ tịch nước Trần Đức Lương có nói: "Bước vào thời kỳ mới, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn không thể xem thường. Nắm bắt cơ hội vận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức với tinh thầ

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1813 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cách mạng tiến công đưa cách mạng Việt Nam tiến lên mạnh mẽ. Đó là vấn đề sống còn đối với chúng ta trong thời kỳ mới". Quả đúng như vậy, kết quả đạt được hôm nay là không nhỏ, phải biết coi trọng giữ gìn. Nhất là xung quanh ta vẫn còn nhiều kẻ rình mò luôn tìm cách phá hoại, gây rối. Xác định đúng đường lối luôn là công việc thường xuyên, liên tục và có tầm quan trọng cao. Hiện nay nước ta đang trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Việc đưa ra các định hướng, đường lối để phát triển KTTT theo XHCN như thế nào? trước tiên ta đi nghiên cứu sự ra đời của nó, sự phát triển của nó. Hiện trạng thế nào để đưa ra các giải pháp giải quyết một cách phù hợp. Vì vậy tôi làm tiểu luận này một mặt phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề hiện nay, cho dù vậy tôi không cho rằng các giải pháp tôi đưa ra là hoàn chỉnh nhưng mong rằng nó cũng có chút ý nghĩa. Nội dung I- Một số vấn đề về kinh tế thị trường. 1. Sự hình thành và phát triển của KTTT. Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua 2 kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: Thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoà khép kín giữa con người và tự nhiên, kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá bắt đầu từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh không phải là thiên đường mà vẫn có những khuyết tật nhất định, kinh tế thị trường hiện đại phát triển vào khoảng những năm 50 của thế kỷ 20 với đặc trưng: Nhà nước can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài trong khi ở các giai đoạn trước đây (khoảng cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20) kinh tế thị trường tự do phát triển theo tinh thần tự do Nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng kinh tế mà chỉ làm các tổ chức truyền thống của Nhà nước pháp quyền: - Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh (người canh gác trong kinh tế thị trường). - Nhà nước bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. - Xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật. Trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước can thiệp vào kinh tế, chủ yếu thông qua các chính sách tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại (thuế, lãi suất chiết khấu của ngân hàng, điều tiết xuất nhập khẩu....). Trên thế giới ngày nay không có Nhà nước nào không can thiệp vào kinh tế chỉ khác nhau ở biện pháp, mục tiêu và kết quả đạt được. Kinh tế thị trường hiện đại ở các nước đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường (bàn tay vô hình) và bàn tay hữu hình của Nhà nước. Khi lực lượng sản xuất còn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu và phân tán, lực lượng sản xuất từng bước phát triển sẽ là tỉ lệ thuận với tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đinhr cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia hoặc các đại nông trại ở nông thôn được coi là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một mức độ nhất định do kết quả tác động biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Với cách nhìn đó thì chế độ công hữu XHCN được xác lập như một tất yếu khách quan bởi sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cao của lực lượng sản xuất. Nhìn trên góc độ khác, trong mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN cũng có thể nhận thấy rằng, KTTT biểu thị nổi bật như phương thức vận động của lực lượng sản xuất, còn định hướng XHCN thể hiện quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý) cần đạt tới của phương thức vận động đó CNXH ở đây cũng có thể hiểu đó là một nền tảng kinh tế - xã hội được dựa trên chế độ sở hữu công cộng và chỉ có dựa trên chế độ đó mới thực hiện được ý tưởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh với ý nghĩa đích thực của nó. Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, ở đây chỉ nói đến phát triển KTTT theo định hướng XHCN chưa phải là KTTT XHCN. Điều đó cũng có thể hiểu KTTT chỉ là một phương tiện để đạt tới mục tiêu XHCN. Như vậy CNXH sẽ đạt tới trong tương lai như một sự kiện lịch sử tất yếu. 2. Quan điểm của Lênin về KTTT trong CNXH (chính sách kinh tế mới). V.I Lênin, trước cách mạng tháng 10, cho rằng. Trong CNXH, nền kinh tế hàng hoá sẽ bị xoá bỏ "để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh doanh". Thế nhưng đến mua xuân 1921. Khi nội chiến kết thúc, trước những nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh tế, khắc phục hậu quả của chính sách cộng sản thời chiến Lênin và Đảng Bôn sê vích Nga đã quyết định thực hiện chính sách mới. Nội dung chủ yếu của nó. Thay thế chính sách trưng thu lượng thực bằng chính sách thuế lương thực. Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất đai canh tác. Nói cách khác thuế nông nghiệp chính là địa tô mà người nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân phải trả cho Nhà nước. Số lượng thực còn lại, người nông dân được tự do, trao đổi , mua bán trên thị trường. Tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa Nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp. Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng CNTB Nhà nước chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời VI. Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển. Như vậy khác với thời kì nội chiến, trong điều kiện hoà bình ở nước Nga Xô Viết đã chủ trương khôi phục phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Như vậy nội dung chủ yếu chính sách kinh tế mới là thừa nhận kinh tế hàng hoá, thừa nhận tự do buôn bán, cho phép tồn tại đến một giới hạn nhất định thành phần kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, xem CNTB Nhà nước và hợp tác xã như là những chiếc cầu nhỏ lên CNXH. Chính Lênin khi căn cứ vào điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn thất ở nước Nga lúc bắt đầu quá độ lên CNXH. Đã đề xuất mô hình CNXH có vai trò của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Thực ra, lí luận về kinh tế hàng hoá, về CNTB. Nhà nước trong thời kì quá độ lên CNXH theo quan điểm của Lênin có nội dung rất phong phú. Song lí luận đó chưa phải đã hoàn chỉnh, nhiều vấn đề chưa được Lênin lí giải một cách cặn kẽ. Hơn nữa, vì thời gian thử nghiệm NEP ở nước Nga trước đây quá ngắn và thành tựu của nó cũng chưa nhiều, lại chưa được tổng kết từ thực tiễn, để hoàn chỉnh về mặt lí luận, đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho kinh tế thị trường, trong nhiều năm bị nhìn nhận bằng thái độ kì thị tại các nước thuộc hệ thống XHCN. Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyến tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy đồng tiền chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. KTTT có nhiều mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm... Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực. Trên đây là những vấn đề khái quát nhất về KTTT. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề KTTT và áp dụng ở Việt Nam như thế nào, chúng ta tiếp tục nghiên cứu. II- Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. 1. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta. Như đã nói ở trên lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song nghiên cứu một cách nghiêm tục các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Trước đây mô hình kinh tế hiện vật được coi là lý tưởng thì đã bộc lộ những hạn chế và kết quả là, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của CNXH. Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liệu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Phải chăng việc lựa chọn mô hình bắt nguồn từ luận đề cơ bản: nền kinh tế XHCN mang tính xã hội trực tiếp, do đó nó gắn liền với tính kế hoạch hoá tập trung cao độ; và từ những nguyên nhân sâu xa; một là, những dự báo của những nhà kinh điển là dự báo cho tương lai rất xa với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng chúng ta nóng vội, thiết kế thành những mô hình cụ thể, tức thời, không thể vận hành có kết quả; hai là, CNTB thời kỳ đầu rất dã man, vì thế những người cộng sản khi làm cách mạng thành công, mong muốn thiết kế một mô hình mới để giảm gánh nặng đau khổ cho quần chúng lao động; ba là, các nước XHCN cũng như nước ta phần lớn trải qua chiến tranh lâu dài, mà trong chiến tranh, tập trung cao độ là cơ chế thích hợp "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng". Cùng cần nói thêm một nguyên nhân thứ tư nữa là: Bản thân KTTT có mặt tích cực và tiêu cực như đã nói trên. Đáng lẽ phải tìm thấy cả hai mặt đó, nhưng các nước XHCN chỉ thấy mặt tiêu cực, mặc nhiên phủ định KTTT một cách tuyệt đối. Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về KTXHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật; nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không được thực hiện. KTTT có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" để khắc phục khuyết tật của nó. Nhờ sử dụng những yếu tố kích thích của nền KTTT mà CNTB đã đạt được những thành tựu cả về năng suất, chất lượng hiệu quả và một số mặt về xã hội. Mặc dù còn nhiều khuyết tật, song CNTB đã đạt được trình độ cao về kinh tế kế hoạch và công nghệ cũng từ đó có thể rút ra một luận đề "Không phải chế độ XHCN thua chế độ TBCN, không phải KT XHCN thua KT TBCN mà kinh tế hiện vật thua KTTT". Bi kịch Liên Xô và Đông Âu làm cho những người cộng sản chân chính đau đớn nhưng cũng từ đó mà cách nhìn thực tế hơn về kinh tế XHCN, quyết tâm đổi mới. Chính vì vậy, đổi mới, cải cách chính là trở về những cái đã từng có trong đời sống đương đại mà chúng ta bỏ quan. Cần nhận thức rõ rằng, KTTT là một trong những yếu tố của quá trình phát triển xã hội, chứ không phải là cái gì đó riêng có của CNTB. CNXH với những mục tiêu tốt đẹp, nhưng không sử dụng KTTT thì không thể thành công không thể biến những ý tưởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống. Trong lịch sử kinh tế thế giới, KTTT như một tất yếu gắn liền với sự tồn tại của mọi quốc gia, là con đường dẫn đến giàu có, văn minh. Tất nhiên không phải nước nào chuyển sang KTTT cũng giàu có cả. Điều đó còn tuỳ thuộc vào nỗ lực chủ quan, bản lĩnh vai trò và trí tuệ của nhà nước ấy. ở nước ta sự lựa chọn mô hình KTTT là một tất yếu. Do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong một thời kỳ dài chúng ta đã duy trì nên kinh tế hiện vật theo mô hình của các nước XHCN. Chế độ kinh tế xã hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến tranh, nhưng những khuyến tật nghiêm trọng của nó lại được chính hoàn cảnh chiến tranh ché lập. Mặt khác, nước ta đi lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp, cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ điểm xuất phát đó, trong chính sách kinh tế Đảng đã có những tìm tòi với mong muốn thoát khỏi sản xuất nhỏ, nhưng những giải pháp đó được đặt trong môi trường kinh tế hiện vật, nên không mang lại kết quả. Sau chiến tranh do nguồn việc trợ lớn từ bên ngoài bị cắt giảm đột ngột nên khủng hoảng kinh tế xã hội ở nước ta vốn đã gay gắt, nay càng gay gắt thêm. Đồng thời hàng loạt thử thách làm bộc lộ đầy đủ những khuyết tật của mô hình cũ và hệ quả của những bước đi nóng vội, chủ quan. Trong thực tiễn kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, đã bộ lộ nhiều tiêu cực: sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân sa sút, trong quản lý đã tỏ ra bất lực. Trong nông nghiệp, khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phương. Trong công thương nghiệp các nhà máy xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế "Cấp phát - giao nộp" đã tự động "xé rào" do thiếu vật tư nguyên liệu, vốn liếng, do bất lực của công cụ kế hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ chức. Sự lẳng lặng vi phạm các "qui tắc", "chuẩn mực" lúc bấy giờ, là những phản ứng KTXH phản ánh sự bất cập và bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Những tìm tòi, thử nghiệm trong cuộc sống của đông đảo quần chúng là những hiện tượng kinh tế mới lại có sức thuyết phục giống như những giải pháp thực tế đích thực, cả tích cực lẫn tiêu cực để tồn tại. Tình hình đó đòi hỏi sự cần thiết thay đổi. Từ thực tế và phong trào quần chúng đã đựt ra một cách nghiêm túc về những vấn đề lý luận buộc chúng ta phải xem xét lý giải tìm động lực cho sự phát triển. Nhìn thẳng vào sự thật Đảng ta đã có những chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạc trong phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết trung ương lần thứ VI (khóa VI) được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: cho sản xuất bung sai thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ; cho tự do lưu thông Chỉ thị 100 của Ban bí thư cho phép khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25 CP của Chính phủ cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong các xí nghiệp công nghiệp. Vấn đề giá cả cốt lõi của cơ chế cũ là đột phá khẩu đầu tiên triển khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều chỉnh giá lương nên 1985, bỏ phân phối theo định lượng, bù giá vào lương ở các tính phía Nam.... là những khám phá từ thực tế. Tuy những ý tưởng đổi mới được hình thành nhưng mới có tính chất tìm kiếm thích nghi, điều chỉnh cục bộ, chưa trở thành những quan điểm có hệ thống của Đảng. Chỉ đến năm 1986 khi những tiền đề và điều kiện cho công cuộc đổi mới đã xuất hiện đầy đủ thì những quan điểm trên mới được công khai thừa nhận. Đại hội lần thứ VI của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng từ đó tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang KTT. Tổng kế 2 năm thực hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản đó là những căn cứ để đẩy tới một bước cao hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang KTTT với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống nhất trong suốt, hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lý của Nhà nước. Đại hội toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: "Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó đã chỉ rõ mục tiêu và phương thức quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN của nước ta. Đại hội VIII Đảng ta lại khẳng định "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN", "...phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Năm năm qua, bên cạnh một số thuận lợi, nước ta gặp nhiều khó khăn: những yếu tố kém vốn có của nền kinh tế, những thiên tai lớn liên tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở một số nước Châu á, tình hình khu vực và thế giới diễn biến phức tạp. Trong toàn cảnh đó. Toàn Đảng và toàn dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII đạt được những thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Những thành tựu 5 năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII có những yếu kém khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hoá xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa được tạo động lực mạnh để phát triển, tình trạng tham nhũng suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất quan trọng. Nói tóm lại nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Về mặt lịch sử vào cuối những năm 80, về cơ bản trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp vẫn còn chiếm ưu thế. Nước ta là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành mục tiêu và nhiệm vụ số một buộc ta phải chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng XHCN. Về mặt logíc. Như đã nói trên nước ta là một nước có nền văn minh lúa nước, nghèo nàn, lạc hậu vì vậy sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc.. Điều đó hoàn toàn hợp qui luật. Hợp qui luật là Nhà nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 2.1. Cái chung và cái riêng giữa nền KTTT TBCN và KTTT XHCN. Các Mác đã nêu 2 điều kiện để hình thành KTTT là sở hữu khác nhau và sự phân công lao động xã hội. Sau này, để cụ thể hoá và thích nghi trong điều kiện thị trường cạnh tranh quyết liệt, nhiều nhà kinh tế đã đề cập rõ hơn các điều kiện hoạt động của thị trường là quyền chiếm hữu tài sản khác nhau và lợi ích của người sản xuất kinh doanh khác nhau, tạo động lực cạnh tranh trên thị trường. Sự giống nhau giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT định hướng XHCN xuất phát từ tính khác quan của nó. Cả hai kiểu KTTT này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các qui luật: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật lưu thông tiền tệ.... Đồng thời cả nền KTTT ở các nước TBCN và nền KTTT định hướng XHCN đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền KTTT có sự điều tiết (quản lý) của Nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước ở các nền kinh tế khác nhau là khác nhau. Không có nền KTTT thuần tuý (hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị trường. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường TBCN và nền KTTT định hướng XHCN là ở mục tiêu, phương thức, và mức độ can thiệp của Nhà nước và sự can thiệp này do bản chất của Nhà nước quyết định. Nhà nước trong một nền KTTT định hướng XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước trong nền KTTT TBCN là Nhà nước của giai cấp tư sản. Một xu hướng rất đáng chú ý là tuy Nhà nước TBCN đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các tầng lớp xã hội, các giai cấp khác nhau, để giảm bởi mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song do sự chi phối và điều tiết của các qui luật kinh tế của CNTB, của lợi ích giai cấp, nên dù họ có ý thức tự điều chỉnh cũng khó thực hiện. Sự can thiệp của Nhà nước đảm bảo mục tiêu phát triển và công bằng chỉ có thể thực hiện được với một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước XHCN. Rất tiếc là không nhận thức rõ điều này nên vẫn còn một bộ phận không nhỏ trong nhân dân kể cả một bộ phận, trí thức thường nghĩ rằng cơ chế thị trường sẽ dẫn tới CNTB, khó giữ được định hướng XHCN. 2.2. Bản chất và đặc điểm của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung hành chính - quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất của đối với nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của xã hội XHCN và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên từ đó rút ra những kinh nghiệm để nhận thức và hành động áp dụng cho hiện nay vẫn còn là cần thiết. Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (XH XHCN). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác thế giới vẫn còn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta phải theo hướng XHCN là cần thiết, khách quan (như đã phân tích ở trên) và cũng là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước với mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng ta đã xác định, chính sách và kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước đóng góp vào GDP vẫn luôn chiếm tỉ trọng chủ yếu. Kinh tế Nhà nước đã hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế đất nước nói chung và của thành phố nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tế vận hành của cơ chế thị trường, khu vực kinh tế Nhà nước chưa chỉ sức dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước. Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi hoạt động rộng khắp các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước tính chất chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước thể hiện qua bốn nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất, nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế và do đó, tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng, khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp; thứ hai, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển; thứ ba, điều chỉnh các "lỗ hổng" trong quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra các lĩnh vực kinh doanh cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn khu vực tư nhân đầu tư như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường... ; thứ tư, kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của Nhà nước (các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chín yếu của Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô). Xác định nội dung chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước theo các tổ chức nêu trên sẽ giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế Nhà nước hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của ngân hàng Nhà nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung. Nền kinh tế hàng hoá, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên còn có sự tham gia bởi "bàn tay hữu hình" của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ đảm bảo sự định hướng phát triển của nền KTTT. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền KTTT của Nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt có ý nghĩa là "đài chỉ huy" là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời biệt lập. Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của dân, do dân vì dân thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, Nhà nước ta là "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh khả năng và đang tự đổi mới để đảm bảo giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới. Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Được thực hiện thông qua thị trường các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh hợp tác,...) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục tiêu theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô xùng với việc sử dụng các lược lượng kinh tế của mình (kinh tế Nhà nước), Nhà nước tác động quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường diều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn ven lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35279.doc
Tài liệu liên quan