Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Hải Chi Chuyên ngành : Lí luận Văn Học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đến: - TS. Nguyễn Hoài Thanh – người đã gợi ý cho tôi về đề tài luận văn này, đồng thời cũng là người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn. - Tr

pdf102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4369 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Bình Dương, Sở Nội vụ tỉnh Bình Dương, Trường THPT chuyên Hùng Vương – Bình Dương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học và thực hiện luận văn. - Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Thư viện Quân Đoàn 4, Thư viện trường THPT chuyên Hùng Vương – Bình Dương đã giúp đỡ tôi về mặt tài liệu để làm luận văn. - Gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, các em học sinh đã động viên, khích lệ tôi hoàn thành luận văn. Tác giả Võ Thị Hải Chi DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Trong lịch sử văn học Việt Nam, kí có một dấu ấn khá rõ nét, tuy nhiên tùy theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà dấu ấn đó được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Sự phát triển của thể kí đã góp phần làm phong phú diện mạo văn học 1930 – 1945. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, thể kí phát triển mạnh mẽ và đến giai đoạn 1954 – 1975 kí thực sự là một thể loại chủ lực, bám sát và phản ánh hiện thực một cách chân thực, rõ nét. Cùng với thơ ca và tiểu thuyết, sự phát triển của thể kí đã làm nên không khí sôi nổi, sinh động cho đời sống văn học lúc bấy giờ. Trong thành tựu kí văn học giai đoạn này, tùy bút và bút kí là hai thể loại tiêu biểu. Đây là hai thể loại đã gặt hái được những thành công đáng kể, có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam 1954 – 1975, đặc biệt làm nên tên tuổi của nhiều nhà văn. Nghiên cứu về hai thể loại này, đã có những công trình có giá trị như công trình nghiên cứu về tùy bút giai đoạn 1930 – 1945 hay giai đoạn 1975 – 2000. Nhưng tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 thì vẫn chưa được chú ý nhiều, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện. Chính vì thế nghiên cứu tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 thật sự là một điều cần thiết để có cái nhìn tổng thể về hai thể loại này trong lịch sử văn học Việt Nam. Mặt khác, hiện nay có khá nhiều tác phẩm kí được trích giảng trong chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 là rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Vì thế tôi chọn đề tài Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 cho bản luận văn này. 2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 - 1975 nhằm xác định những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm thuộc hai thể loại này, qua đó thấy được những đóng góp của tùy bút, bút kí đối với văn học cách mạng Việt Nam. Từ đó sẽ có được những tư liệu quan trọng phục vụ công tác giảng dạy. Văn học 1954 – 1975 là giai đoạn văn học gặt hái được nhiều thành tựu ở nhiều thể loại như tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, kí…. Đặc biệt là vào thập niên sáu mươi, thể kí với sự nở rộ của nhiều thể loại đã tạo được sự chú ý của đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu. Riêng tùy bút, bút kí, đã có rất nhiều tác phẩm ra đời có giá trị cao cả về nội dung lẫn nghệ thuật định hình được phong cách của nhiều nhà văn. Tuy nhiên trong khuôn khổ của luận văn, người viết không thể bao quát được tất cả những tác phẩm của hai thể loại ra đời trong hơn hai mươi năm mà chỉ tiếp cận những tác phẩm nổi bật, có sức ảnh hưởng lớn đối với đời sống văn học và cũng phần nào làm nên tên tuổi của nhà văn. Đó là những tác phẩm tiêu biểu của những nhà văn như: Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Bùi Hiển, Thép Mới, Trần Hiếu Minh, Khánh Vân,… và một số tác phẩm của các tác giả khác đã in chung ở một số sách. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3.1. Nghiên cứu chung về tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 Cho đến nay (thời điểm người viết hoàn thành luận văn), chưa có một công trình hay một bài viết nào bàn riêng về tùy bút, bút kí trong văn học giai đoạn 1954 – 1975 mà chỉ xuất hiện những ý kiến trong những bài viết chung về thể kí. Hà Minh Đức trong cuốn Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong mục nói về Bút kí có đề cập đến bút kí của Chế Lan Viên, Thép Mới,… và khẳng định có nhiều đóng góp. Còn trong mục Tùy bút, nhắc đến tùy bút Nguyễn Tuân sau cách mạng. Phạm Văn Sĩ trong cuốn Văn học giải phóng miền Nam có những bài viết riêng về các tác giả như Nguyễn Thi, Anh Đức, Trần Hiếu Minh, Nguyễn Trung Thành… trong đó khẳng định sự đóng góp của các tùy bút, bút kí trong sự phát triển của kí miền Nam. Trong cuốn Văn học Việt Nam tập hai (1945 – 1975) do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên viết về một số tác giả tiêu biểu như Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thi và có những nhận xét, đánh giá về tùy bút, bút kí của họ trong giai đoạn này. Ngoài ra, từ năm 1966 đến 1968, khi Tạp chí Văn học mở đợt trao đổi ý kiến về Thể kí và vấn đề viết về người thật, việc thật đã có rất nhiều bài viết gửi đến. Trong các bài viết, các tác giả đề cập nhiều đến tùy bút và bút kí giai đoạn này. Như bài viết của Phan Nhân – Suy nghĩ về khả năng của thể kí (Qua một số bút kí ghi chép, hồi kí của miền Nam) quan tâm đến bút kí Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh “đã đạt được yêu cầu trước mắt: ghi nhanh những biến cố, những mẩu chuyện những con người trong một lúc và trình bày có hệ thống cả quá trình chuyển biến của từng sự kiện quan trọng dưới một chủ đề nhất định”[62]. Ông cũng nói đến tùy bút của Nguyễn Trung Thành, “Đọc Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành tôi càng tin vào tiền đồ phát triển của thể tùy bút trong văn học cách mạng miền Nam”[62], hay bút kí của Anh Đức, Nguyễn Thi… Trong bài viết Phân loại tùy bút đăng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 04/2009, tác giả Trần Văn Minh đã phân chia các loại tùy bút, trong đó các tùy bút thuộc giai đoạn văn học 1954 – 1975 được tác giả xếp vào tiểu loại tùy bút chiến tranh và ông nhận xét “Nhưng hình như cứu cánh của những trang tùy bút chiến tranh không ở chỗ phục dựng lại không khí lịch sử. Nó tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến việc giãi bày tâm tư tình cảm của con người Việt Nam đằng sau những biến cố lịch sử ấy. Đó là tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt, là nỗi đau xé lòng trước cảnh loạn li tang tóc, là lòng căm thù giặc sâu sắc, là quyết tâm chiến đấu để giành lại độc lập tự do”[48]. Trong năm 2007, luận văn thạc sĩ của Võ Thị Bích Hiền – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh với đề tài Tùy bút Việt Nam giai đoạn 1975 – 2000, có phác thảo một vài nét về tùy bút giai đoạn 1954 – 1975 trong quá trình phát triển của tùy bút Việt Nam… 3.2. Nghiên cứu về từng tác giả 3.2.1. Bút kí Anh Đức Chu Nga trong bài viết bàn về Phong cách trữ tình trong sáng tác của Anh Đức, đã lấy bút kí của Anh Đức làm đối tượng trung tâm để nghiên cứu “Đọc các bút kí của anh, chúng ta luôn luôn có cảm giác như anh đang trực tiếp nói chuyện với ta. Anh kể cho ta nghe về vùng quê anh – Cà Mau – nơi “cuối đất” của Tổ quốc, về những gian nan vất vả mà đồng bào ta trong ấy đã trải qua trên hai mươi năm trời chiến đấu. Nhưng điều chính nhất mà anh kể trong thư có lẽ vẫn là những thắng lợi ngày càng lớn mà đồng bào miền Nam đã giành được kể từ sau ngày đồng khởi”[56]. Diệp Minh Tuyền đánh giá cao bút kí của Anh Đức ở nhiều khía cạnh như nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ. Tác giả kết luận “Các bài bút kí của anh có cái chiều dài rộng lớn của không gian bao la và cái chiều dài của thời gian đằng đẵng”[89]. Trong bài viết về tác giả Anh Đức, tác giả Phạm Văn Sĩ nhận xét “bút kí của Anh Đức giàu tính chất hiện thực và viết khá duyên dáng”[68/253], tiếp đó tác giả phân tích những biểu hiện nội dung, nghệ thuật của các bài bút kí để minh chứng cho nhận định trên. Bàn về thiên nhiên trong tác phẩm của Anh Đức, đặc biệt trong bút kí, tác giả Hoài Anh nhận xét “Anh không những đã có vốn sống viết về những cái thực sự mình nếm trải mà còn có năng lực cảm thụ thiên nhiên, nhạy bén nắm bắt những thay đổi tinh tế trong cảnh sắc thiên nhiên ở vùng đất Rạch Giá, Cà Mau và nói chung là miền Tây Nam Bộ”[2], …. 3.2.2. Tùy bút, bút kí Nguyễn Trung Thành Phạm Văn Sĩ đã có những nhận xét rất xác đáng về tùy bút cũng như bút kí của Nguyễn Trung Thành, đặc biệt là về giá trị và sức ảnh hưởng của những tác phẩm này, ông cho rằng “Tùy bút của Nguyễn Trung Thành mang những suy nghĩ của tác giả về cuộc kháng chiến hôm nay, về lịch sử dân tộc hôm qua và nói lên thái độ sắt son khảng khái của nhà văn được bạn đọc chúng ta xem như một tuyên ngôn chống Mĩ, cứu nước của nhà văn miền Nam.”[68/305]. Và “tùy bút của Nguyễn Trung Thành gợi cho người đọc nhận thức đúng về lịch sử của dân tộc mình và tìm cách vận dụng những bài học hay của lịch sử để tăng thêm sức mạnh chiến đấu hôm nay của chúng ta và để làm cho cuộc sống của chúng ta thêm ý nghĩa”[68/305]. Bàn về cách viết của Nguyễn Trung Thành, Phan Nhân viết: “Nguyễn Trung Thành suy nghĩ, lí luận và kể chuyện toàn bằng hình ảnh rút ra từ cuộc sống nên vừa trong sáng vừa chân thật đầy sức thuyết phục. Anh chứng minh bằng những mẩu chuyện, đúng hơn là bằng những tính cách, những nét tiêu biểu có tính chất điển hình trong cuộc sống, nên nội dung càng phong phú, tư tưởng càng cao đẹp.”[62]. 3.2.3. Tùy bút, bút kí Nguyễn Thi Phan Nhân trong Suy nghĩ về khả năng của thể kí đã nhận xét về Nguyễn Thi và tùy bút Dòng kinh quê hương của ông “Nguyễn Thi một cây bút vốn giàu chất thơ, trước cảnh quê hương bị tàn phá, đã truyền cho ta tất cả những rung cảm đậm đà tình thương và lòng tự hào bằng những hình ảnh quen thuộc của đất nước rất nên thơ”[62]. Trong bài viết của mình về Nguyễn Thi, tác giả Phạm Văn Sĩ đánh giá chung về khả năng viết tùy bút của Nguyễn Thi, “Trong thể kí thì tùy bút được viết với bút pháp thiên về trữ tình, với những liên hệ về truyền thống, về lịch sử anh hùng của dân tộc”[68/219], sau đó ông tập trung phân tích các tùy bút, bút kí tiêu biểu như Dòng kinh quê hương, Đại hội anh hùng, Những câu nói ghi trong đại hội, Ước mơ của đất… Theo Hà Minh Đức, trong bài viết chung về Kí trong thời kì chống Mĩ cứu nước, khi nhắc đến kí Nguyễn Thi, đặc biệt là tùy bút ông viết “Nguyễn Thi có nhiều cảm xúc đẹp trên những trang tùy bút Dòng kinh quê hương, nhưng dường như anh muốn tập trung và ưu tiên dành những trang viết để ghi chép về những người anh hùng đẹp của đất nước quê hương”[16/158]. 3.2.4. Bút kí Trần Hiếu Minh Chủ yếu ca ngợi tập bút kí Cửu Long cuộn sóng, các tác giả Phạm Văn Sĩ, Phan Nhân, Hà Minh Đức, Bích Thu đều có những nhận xét xác đáng và đáng ghi nhận về việc ghi chép của Trần Hiếu Minh và giá trị của các tác phẩm: “Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh đã ghi lại được một khí thế cách mạng chưa từng thấy trong mỗi con người và từng thôn xóm ở mảnh đất Bến Tre”[80]. “Tập bút kí của Trần Hiếu Minh có tác dụng giáo dục tích cực, kịp thời, trước hết là vì những chất liệu mà tác giả khai thác là những chất liệu rất quý giá, rút ra từ trong thực tế máu lửa của chiến tranh và của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, rút ra từ trong ngọn lửa đồng khởi, ngay trên mảnh đất quê hương của đồng khởi. Tập bút kí viết kịp thời nóng hổi không khí cách mạng và khí thế anh hùng của người Bến Tre, đóng góp vào việc thúc đẩy sự nghiệp chống Mĩ của nhân dân miền Nam.”[68/289]. 3.2.5. Bút kí Bùi Hiển Trong quá trình đi lâu dài trên trên vùng tuyến lửa khu 4, Bùi Hiển viết khá nhiều bút kí. Phần lớn những bài viết đó đã được tập hợp trong Đường lớn và tập Trong gió cát (Trong gió cát in chung với một số truyện ngắn). Nguyễn Cương trong bài Đọc Đường lớn, bút kí của Bùi Hiển viết “Ấn tượng sâu nhất còn để lại sau khi đọc tập bút kí này là những bài viết về tội ác đẫm máu của giặc Mĩ. Những bài viết đó tuy chiếm số ít nhưng gây được nhiều xúc động ở người đọc. Đó là Nợ máu và đặc biệt: Chúng nó là một lũ đê hèn”[8]. Tuy nhiên người viết bài này cũng có nhắc đến một vài khuyết điểm của tập bút kí “Nếu như chỗ mạnh của anh là quan sát tỉ mỉ, công phu, sử dụng đến mức cao nhất tiếng nói của bản thân chất liệu cuộc sống thì chỗ yếu của anh lại chính là sự việc có lúc bị đưa vào quá nhiều, chưa thành những điểm tựa để khi đứng cạnh nhau làm bật lên những vấn đề của cuộc sống. Nhược điểm đó làm cho vài bài viết của anh trở nên bằng phẳng và tản mạn”[8]. Tác giả Nguyễn Phan Ngọc lại ấn tượng với năm bài bút kí của Bùi Hiển, đó là Bám biển, Về Đại Phong, Nhật kí Vĩnh Linh, Trong gió cát, Chúng ta chiến đấu và chiến thắng, ông viết “Năm bài bút kí đã giúp tôi hiểu thêm những con người Việt Nam mới, dũng cảm, đầy khí phách anh hùng, đầy tinh thần chiến đấu và chiến thắng; biết rõ thêm cuộc sống mới, cuộc sống mỗi ngày mỗi phát triển vô cùng nhanh chóng và diệu kì.”[60]. 3.2.6. Tùy bút, bút kí Chế Lan Viên. Các bài viết của Phan Hồng Giang, Hoàng Như Mai đều ca ngợi giá trị của tập bút kí Những ngày nổi giận. Đọc xong cuốn sách, Hoàng Như Mai có cảm giác “Tôi thấy lòng mình bình tĩnh, và tôi chắc rằng đó cũng là cảm tưởng của nhiều người” và khẳng định “tập bút kí của Chế Lan viên những điều anh nói, cái cách anh nói đều toát lên điều đó – đánh giặc Mĩ, đánh thắng”[39]. Phan Hồng Giang thì lại suy nghĩ “Đọc xong Những ngày nổi giận, ấn tượng sâu sắc để lại trong lòng người đọc là những trang sách của Chế Lan Viên đã bám sát được thời sự và cuộc sống của chúng ta”[20/47]. Bên cạnh đó, trong bài viết của mình, hai tác giả này cũng đã chỉ ra những tồn tại mà tập bút kí này mắc phải, chủ yếu là ở mặt ngôn ngữ, cách tạo dựng hình ảnh. “Nhưng sao rải rác trong một số trang viết của anh, người đọc vẫn thường bắt gặp một số ý nghĩ chung chung, một số hình ảnh, một số từ đã bị lắp lại hơi nhiều làm cho từng đoạn văn chìm đi, ít khêu gợi”[39] và “Anh vận dụng những kĩ xảo về mặt ngôn ngữ hơi nhiều và nghĩ rằng giá được đọc anh giản dị hơn, tự nhiên hơn còn có cảm tưởng sâu sắc hơn về sức sống anh dồn lên ngòi bút…”[39]. Tương tự như thế, Phan Hồng Giang cho rằng một số bài trong tập bút kí có cái ấn tượng “khách quan lạnh lùng” và “cầu kì kiểu cách”. Tác giả bài viết cho rằng Chế Lan Viên “đã nhìn hiện thực có phần nào lạnh lùng”; hay “có khi Chế Lan Viên lạm dụng những biểu tượng ngôn ngữ, kết quả là những biện pháp tu từ đã che lấp mất cảm xúc thực”[20/65]. Về tập bút kí Thăm Trung Quốc, Nguyễn Xuân Nam trong bài viết Chất thơ và chất suy nghĩ của tập bút kí Thăm Trung Quốc nhận xét “Nhìn chung đây là tập bút kí viết khá đều tay, mang nhiều chất thơ và chất suy nghĩ”[53]. Tác giả bài viết đã phân tích những biểu hiện của chất thơ và chất suy nghĩ đó ở các mặt như hình ảnh, bố cục, lời văn …. 3.2.7. Bút kí Thép Mới Thép Mới là nhà văn chuyên viết tùy bút, bút kí, ông viết bút kí từ những năm kháng chiến chống Pháp, trong thời kì chống Mĩ, bút lực của Thép Mới vẫn dồi dào và để lại được ấn tượng đẹp. Vũ Đức Phúc trong bài viết Bàn về các thể kí trong văn học từ cách mạng tháng Tám đến nay có bàn về bút kí của Thép Mới “Thép Mới xuất phát từ những chi tiết nhỏ, đi sâu vào bản chất của các sự kiện; anh cũng nghiên cứu toàn diện vấn đề trình bày những khía cạnh chủ yếu của nó, với một lối văn đanh thép hùng hồn, giàu tính chất trữ tình khỏe mạnh”[66] nhưng bên cạnh đó bút kí cũng có những nhược điểm cơ bản, theo tác giả này là “chỉ mới phác họa được qua loa những nhân vật làm anh chú ý”[66]. Riêng Lê Thị Đức Hạnh thì có một bài riêng nghiên cứu về bút kí Thép Mới, đó là bài Bút kí Thép Mới. Tác giả nhận xét “Sở dĩ những bút kí của Thép Mới có sức truyển cảm khá mạnh là do tác giả có tình cảm cách mạng phong phú, sôi nổi và những tình cảm đó được thể hiện trong mỗi suy nghĩ, mỗi hình tượng mà anh xây dựng”[24]. Cũng như tác giả Vũ Đức Phúc, Lê Thị Đức Hạnh cũng nói đến nhược điểm trong bút kí Thép Mới “Thép Mới viết chưa đều tay, hãy còn những đoạn văn hơi khô, thiếu những hình tượng thật cụ thể, sinh động và có lúc lại quá thiên về triết lí. Đó đây còn nhắc đi nhắc lại một số hình ảnh quá quen. Một ít bài còn ở mức tường thuật.”[24]. 3.2.8. Tùy bút Nguyễn Tuân Có thể nói đây là tác giả mà tác phẩm của ông được giới nghiên cứu quan tâm nhiều nhất. Tuy nhiên tùy bút Nguyễn Tuân trong giai đoạn chống Mĩ thì nổi bật ở một số ý kiến của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Hà Văn Đức… Nguyễn Đăng Mạnh trong bài “Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút kí chống Mĩ” đã lí giải, phân tích những đổi thay trong quan niệm nghệ thuật cũng như trong tác phẩm tùy bút trước và sau cách mạng. “Đến bút kí chống Mĩ, quả thực cuộc sống xã hội đi vào Nguyễn Tuân có tấp nập hơn, sôi nổi hơn và điều đáng chú ý là những con người trong đó phần nhiều được anh mô tả một cách khách quan hơn.”[43]. Quan tâm đến đặc điểm thể loại, Hà Văn Đức có bài viết “Tùy bút Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám”, ông nhận thấy tùy bút giai đoạn chống Mĩ của Nguyễn Tuân “Chất trữ tình đậm đà được kết hợp với chất trí tuệ sắc sảo, với những liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ đã làm nên nét độc đáo riêng biệt của Nguyễn Tuân” hay “đặc sắc trong tùy bút của Nguyễn Tuân còn ở cái tài kể chuyện rất vui, rất hóm và có duyên của ông.”[18]. Gần đây, năm 2004, Nguyễn Thị Hồng Hà trong luận án tiến sĩ Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, với đề tài Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, đã nêu lên toàn bộ đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân cả về nội dung và nghệ thuật, trong đó những tác phẩm tùy bút giai đoạn 1954 – 1975 của Nguyễn Tuân cũng được quan tâm rất nhiều. Đặc biệt về hai tập tùy bút nổi tiếng Sông Đà và Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, tác giả luận án đã cho rằng: “Nếu Sông Đà là một bộ tranh liên hoàn hoành tráng diễn tả vẻ đẹp độc đáo cùng khí thế mở mang lao động đất nước, với chất men lãng mạn đầy chất thơ; thì Hà nội ta đánh Mĩ giỏi là thiên anh hùng ca của tọa độ lửa kiên cường, do chính một nhà văn gốc Hà Nội viết. Nó thể hiện được bản lĩnh văn hóa cao đẹp của thủ đô nghìn năm văn hiến”[22/33]… 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài Đặc điểm tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, chúng tôi đã sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp khảo sát các tác phẩm tùy bút, bút kí của các tác giả đã nêu trong mục 2, trên cơ sở đó chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu để phục vụ những yêu cầu cụ thể của từng chương. 4.2. Phương pháp so sánh, chúng tôi sử dụng so sánh lịch đại – so sánh những tác phẩm thời kì trước, so sánh đồng đại – so sánh những tác phẩm của các tác giả cùng thời với nhau từ đó rút ra những đặc trưng chung nhất của tùy bút, bút kí giai đoạn này cũng như nhận ra được nét khác biệt của mỗi tác giả. 4.3. Phương pháp phân tích, người viết sử dụng phương pháp này nhằm đi sâu vào các tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật. 4.4. Phương pháp nghiên cứu lịch sử nhằm tái hiện những giai đoạn lịch sử dân tộc và những chặng đường phát triển của hai thể loại. 5. Đóng góp của luận văn Với đề tài Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, luận văn kì vọng sẽ có những đóng góp khoa học nhất định. Luận văn khảo sát và xác định những đặc điểm về nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Trên cơ sở đó, Luận văn ghi nhận những thành công, những đóng góp cũng như những hạn chế của tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 đối với văn học cách mạng Việt Nam. Từ việc nghiên cứu những thành tựu chung, Luận văn bước đầu tìm hiểu những nét độc đáo riêng trong phong cách tùy bút, bút kí của một số tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học này. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 139 trang, ngoài phần Dẫn nhập 11 trang, phần Kết luận 4 trang, phần Tài liệu tham khảo 8 trang, Luận văn trình bày thành 3 chương Chương 1. Diện mạo và vị trí của tùy bút, bút kí văn học trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Chương 2. Bức tranh hiện thực sinh động, phong phú.(đặc trưng về nội dung) Chương 3. Bút pháp đa dạng, linh hoạt.(đặc trưng về nghệ thuật) Chương 1 DIỆN MẠO VÀ VỊ TRÍ CỦA TÙY BÚT, BÚT KÍ VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1954 – 1975 Kí là một thể loại văn học “áp sát” đời sống. Thể loại tùy bút, bút kí giai đoạn này đã bám sát, phản ánh kịp thời hiện thực đời sống. Để tìm hiểu thành tựu của hai thể loại này, Luận văn xin trình bày khái quát về bối cảnh lịch sử giai đoạn 1954 – 1975. Trên cơ sở đó phác họa diện mạo của hai thể loại và tìm hiểu vị trí của nó trong bức tranh chung của văn học cách mạng giai đoạn này. 1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 Giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng, nhiều sự kiện liên tiếp nổ ra đã tác động lớn đối với vận mệnh dân tộc. Có thể thấy những biến động đó trong những chặng đường lịch sử sau: 1.1.1. Từ năm 1954 đến năm 1964 Chiến thắng Đông – xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày 7-5-1954) đã buộc thực dân Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ, rút quân về nước lập lại hoà bình trên cơ sở thừa nhận chủ quyền dân tộc của ba nước Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên do tình hình chính trị thế giới phức tạp, Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mĩ và các lực lượng tay sai thống trị. Vì thế sự nghiệp cách mạng vẫn chưa hoàn thành. Hai yêu cầu đặt ra là xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đối với miền Bắc, từ năm 1954 đến 1960, cách mạng đặt ra nhiệm vụ hết sức cấp bách là khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Công cuộc khôi phục kinh tế diễn ra trong trong điều kiện hết sức khó khăn vì đất nước vốn là một nước thuộc địa, lại vừa trải qua chiến tranh, cơ sở vật chất cũng như các yếu tố tinh thần bị tàn phá nặng nề. Trước tình hình đó, tháng 9 – 1954, Bộ chính trị đã ra nghị quyết và vạch rõ nhiệm vụ trước mắt là ổn định trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường. Trọng tâm ở cả thành phố và nông thôn là phục hồi và nâng cao sản xuất, phục hồi kinh tế quốc dân mà then chốt là phát triển sản xuất nông nghiệp. Với quyết tâm cao, cuối năm 1957 kế hoạch khôi phục kinh tế đã căn bản hoàn thành và nhiều chỉ tiêu đã hoàn thành vượt mức. Nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải đã có bộ mặt mới, đặc biệt các ngành văn hóa, giáo dục, y tế đã phát triển nhanh chóng. Sau ba năm khôi phục kinh tế với nhiều thành quả quan trọng, miền Bắc sôi nổi bước vào thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế. Không khí này diễn ra ở tất cả các vùng từ đồng bằng tới miền núi, ở tất cả các ngành từ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giáo dục, y tế. Với những chương trình như hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh…. “Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đã có tác động tích cực trong việc xoá bỏ cơ bản về chế độ người bóc lột người, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là trong điều kiện có chiến tranh”[23/148]. Thắng lợi của kế hoạch ba năm (1958 -1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến to lớn trên miền Bắc nước ta. Ở miền Nam, trước khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mĩ đã đưa Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng bù nhìn ở miền Nam Việt Nam. Sau khi lên nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm đã xây dựng miền Nam thành “quốc gia mạnh”, do đó chúng triệt để thi hành những chính sách độc ác, dã man, nguy hiểm nhất là chúng đưa “lối sống Mĩ” tràn vào miền Nam để đầu độc nhân dân ta, nhất là tầng lớp thanh – thiếu niên. Chúng vừa mua chuộc, vừa mị vừa đàn áp trắng trợn, cưỡng bức nhân dân trong các chiến dịch tố cộng, vu khống tố cáo cộng sản, đề cao Ngô Đình Diệm. Tình hình đó khiến cho cách mạng bị tổn thất nặng nề. Nhiều phong trào đấu tranh đã nổ ra, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị kéo dài cho đến năm 1960. Tiêu biểu trong các phong trào đó là phong trào “đồng khởi”. Xuất phát từ yêu cầu của nghị quyết 15 của hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng vào tháng 1 – 1959, ngọn lửa đồng khởi đã cháy lên trên nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam, từ Ninh Thuận, Bình Thuận, Quãng Ngãi cho đến các vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long – đặc biệt là ở tỉnh Bến Tre. Thắng lợi của phong trào đồng khởi đã đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam và sự suy yếu của chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ năm 1961 đến năm 1964, bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn này có một sự biến chuyển tích cực rõ nét, miền Bắc đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội – đây được coi nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Còn miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – cuộc cách mạng này có ý nghĩa quyết định trực tiếp để đánh đổ đế quốc và tay sai, thực hiện hoà bình và thống nhất đất nước. Miền Bắc, từ năm 1961 Đảng đã xác định lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Một phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội được dấy lên sôi nổi khắp nơi. Nếu giai đoạn trước, Đảng chú ý phát triển nông nghiệp thì sang giai đoạn này đã bước đầu chú ý công nghiệp hoá nước nhà – điều này được thể hiện rất rõ trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất(1961 – 1965). Trong công nghiệp, các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng, đã được hình thành và phát triển rất nhanh, nhất là ngành điện và cơ khí. Đây được coi là điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp nói chung phát triển với tốc độ nhanh hơn nữa. Nông nghiệp cũng được ưu tiên đầu tư đúng mức, đặc biệt đã chú ý phát triển hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh để làm cơ sở cho sự phát triển nông nghiệp. Văn hoá, giáo dục ngày càng ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Trong năm năm này, đời sống của nhân dân miền Bắc ổn định, với tinh thần tất cả cho chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã thực hiện thắng lợi kế hoạch năm năm lần thứ nhất, tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ và khơi gợi nhiều phong trào thi đua giữa các tỉnh với nhau. “Thắng lợi đó đã tạo cho miền Bắc cơ sở chính trị tinh thần và vật chất để tự bảo vệ, liên tiếp đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ sau này, đồng thời làm trọn nhiệm vụ cơ sở của cách mạng giải phóng miền Nam, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam và là hậu phương lớn của cả cách mạng ba nước Đông Dương”[23/179]. Trong khi đó, ở miền Nam, tình hình xã hội đã có nhiều biến động. Sau khi Kennơđi lên làm tổng thống, Mĩ đã điên cuồng chống phá cách mạng Việt nam dưới nhiều hình thức – tiêu biểu là thực hiện kiểu chiến tranh đặc biệt. Chúng đã dồn nhân dân vào ấp chiến lược để dễ dàng cho chúng trong việc thực hiện âm mưu của mình. Chúng dùng sức mạnh của bộ máy quân sự và chính trị để cưỡng bức, càn quét, chúng còn tiến hành những cuộc hành quân càn quét dài ngày vào những vùng Bến Cát, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên…, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, đau thương, qua những trận càn đó, cách mạng đã có rất nhiều mất mát, hi sinh. Tháng 1 – 1961, Bộ chính trị họp, quyết định về những nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, theo đó phong trào cách mạng đã có nhiều sự thay đổi. Đấu tranh vũ trang được phát huy với quy mô ngày càng lớn, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Phong trào này bước đầu đã phá vỡ từng mảng chính quyền địch ở nông thôn, tiêu diệt và làm tan rã hàng vạn tề ngụy, phá huỷ gần hết các “khu dinh điền”, “khu trù mật” của địch… đưa khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Đã có những sự kiện điển hình, tiêu biểu cho phong trào chống Mĩ trong giai đoạn này như chiến thắng ấp Bắc – Mĩ Tho vào tháng 1 – 1963, hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối Mĩ (11-6-1963)… đã làm thất bại kế hoạch Xtalây – Taylo mà Mĩ đưa ra đồng thời những sự kiện đó đã gây được xúc động mạnh trong nhân dân, từ đó làm cho khí thế cách mạng ngày càng trào dâng mãnh liệt. Sự phá sản của chiến tranh đặc biệt đã đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, minh chứng cho sự đúng đắn, kịp thời trong đường lối lãnh đạo của Đảng. 1.1.2. Từ năm 1965 đến năm 1975 Trong ba năm (1965 – 1968), miền Nam chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ của Mĩ. Ỷ vào ưu thế quân đội đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, chúng đã tiếp tục, thường xuyên mở những cuộc càn quét lớn như cuộc hành quân Áttơnborơ đánh vào khu Dương Minh Châu vào tháng 11 – 1966, cuộc hành quân Xêđaphôn vào Trảng Bàng – Bến Súc – Củ Chi vào tháng 1 – 1967, cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào Bắc Tây Ninh từ tháng 2 đến tháng 4 – 1967. Tuy nhiên, Mĩ tăng cường và mở rộng chiến tranh trong thế thua, bị động và một tinh thần chiến đấu bệ rạc nên không bao lâu trước sự tấn công ồ ạt và sự kiên cường đánh trả, thế chủ động “tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt” đang dâng cao của nhân dân ta thì chiến tranh cục bộ của Mĩ cũng bị phá sản một cách nhanh chóng. Đỉnh cao cho phong trào cách mạng những năm 1965 – 1968 là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm cho địch choáng váng. Với cuộc tập kích này, tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã tạo ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mĩ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Không từ bỏ âm mưu xâm lược của mình, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” và chính thức mở rộng cuộc chiến tranh không quân và hải quân lần thứ nhất phá hoại miền Bắc vào ngày 7 – 2 – 1965. Trước tình hình đó, miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phối hợp với miền Nam chống chiến tranh cục bộ, lại vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh và làm nghĩa vụ hậu phương lớn. Từ năm 1969 đến năm 1973, sau khi trúng cử tổng thống, chính thức bước vào Nhà Trắng, đầu năm 1969 Nich xơn tiếp tục đ._.ẩy mạnh chiến tranh Việt Nam với chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, “dùng người Việt đánh người Việt”. Ních xơn đưa ra cùng lúc ba loại chiến tranh là Chiến tranh giành dân, Chiến tranh hủy diệt và Chiến tranh bóp nghẹt, trên cơ sở huy động sức mạnh tối đa về quân sự của nước Mĩ kết hợp với thủ đoạn chính trị và ngoại giao xảo quyệt. Tất cả những chính sách đó đã khiến cho nhân dân miền Nam rơi vào đời sống vật chất và tinh thần vô cùng cực khổ, mất mát hi sinh ngày càng nhiều. Đáp lại lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhiều phong trào quần chúng đã nổ ra ở hầu khắp các vùng nông thôn Trung Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long với quyết tâm chống ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Ở thành thị, công nhân, học sinh sinh viên, trí thức, phật tử và các tầng lớp khác đã đấu tranh mạnh mẽ dưới nhiều hình thức phong phú như bãi công, bãi khoá, mít tinh…và đã thu được nhiều thắng lợi. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 là sự kiện tiêu biểu cho phong trào chống Mĩ giai đoạn này, tuy bị tổn hại nhiều nhưng đã giáng đòn mạnh vào quân ngụy và quốc sách “bình định” của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mĩ. Giữa lúc cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đang trên đà thắng lợi thì ngày 2 – 9 – 1969 chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đó là một tổn thất lớn đối với dân tộc ta, Đảng ta và cách mạng nước ta. Trước nguy cơ phá sản của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, để cứu vãn tình thế, Níchxơn tiến hành “Mĩ hoá” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, bằng cách huy động trở lại lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Do đó miền Bắc tiếp tục khôi phục và phát triển kinh tế chi viện cho miền Nam, lại vừa phải chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ. Bằng quyết tâm của mình, nhân dân miền Bắc đã làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai này với sự kiện “Điện Biên Phủ trên không” vào cuối năm 1972 đưa miền Bắc trở lại không khí hòa bình. Từ năm 1973 đến năm 1975, nhiệm vụ đặt ra cho miền Bắc lúc này vừa tranh thủ hoà bình để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế đẩy mạnh sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực mọi mặt của hậu phương vừa phải luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu và hành động của địch. Bên cạnh đó, miền Bắc còn phải thực hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn là chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Miền Nam, quân đội Mĩ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn ra sức chống phá cách mạng Việt Nam bằng mọi cách, mọi mặt. Nhưng cách mạng và chiến tranh giải phóng miền Nam đã có căn cứ địa và hậu phương vững chắc nên không ngừng lớn mạnh. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình ngày càng có lợi cho cách mạng nên Bộ chính trị đã bàn kế hoạch giải phóng miền Nam. Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà tiêu biểu là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc sự nghiệp chống Mĩ cứu nước một cách thắng lợi hoàn toàn. “Đó là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta. Cuộc chiến tranh đã kéo dài hơn hai thập niên (từ tháng 7 – 1954 đến tháng 5 – 1975), dài hơn trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mĩ”[23/270]. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc hai mươi mốt năm chiến đấu chống Mĩ và ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ cách mạng tháng Tám 1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, rửa sạch nỗi đau mất nước trên một thế kỉ. Trên cơ sở đó hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xóa bỏ mọi chướng ngại trên con đường thực hiện thống nhất đất nước. Miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất và bước vào những trang lịch sử mới. Hiện thực lịch sử đó của đất nước đã được văn học cách mạng phản ánh một cách trọn vẹn, sinh động qua các tác phẩm văn học, hay nói cách khác “Văn học thực sự là một chứng nhân của một quá trình lịch sử hết sức hào hùng.”[37] trong đó có tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975. 1.2. Diện mạo của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975 Diện mạo của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 có thể phân chia ở hai phạm vi rõ rệt, đó là tùy bút, bút kí trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước. 1.2.1. Tùy bút, bút kí trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Ngày 7 tháng 5 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, những tên lính cuối cùng của thực dân Pháp đã rút khỏi Việt Nam, hòa bình được lập lại, miền Bắc bước vào thời kì hàn gắn vết thương chiến tranh và đi vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với một tinh thần quyết tâm cao, nhân dân đã bước vào cuộc sống mới một cách tích cực, khẩn trương, một không khí nhộn nhịp, rộn rã chưa từng thấy. Tất cả đó đã chi phối đến hoạt động văn học nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ đã hoà nhập với cuộc sống, về với nhân dân, về với những vùng đất mới. Các nhà viết kí cũng đã đồng hành trên con đường hoà nhập ấy, những tùy bút, bút kí mới ra đời, giai đoạn đầu còn sơ sài, nghèo nàn về nội dung, đơn giản về nghệ thuật nhưng càng về sau những tùy bút, bút kí càng có chất lượng nghệ thuật cao. Đặc biệt khi báo Văn học tổ chức cuộc thi bút kí, phóng sự đã lôi cuốn, thu hút được rất nhiều người tham gia và đã có được những tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm hầu như đều hướng về đất nước trong cao trào xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang hơi thở trực tiếp của đời sống mới. Tiêu biểu nhất phải kể đến tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Tập tùy bút xuất bản lần thứ nhất vào năm 1960, ngay sau khi xuất bản đã được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt, trở thành một cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người lúc bấy giờ. Sông Đà gồm mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo: Đường lên Tây Bắc; Giăng liềm (bài thơ phác thảo); Tây Trang; Đi mở đường; Dọn nhà lên Điện Biên; Một tí về lịch sử và một bản lí lịch; Phố núi; Xoè; Đào cộng sản; Đất cũ Sơn La; Tình cao su; Bài ca trên mặt phần đường; Gió than Uyên; Than Quỳnh Nhai; Người lái đò sông Đà. Đề tài của Sông Đà là cuộc sống, con người Tây Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, với tập tùy bút này, Nguyễn Tuân đã cho mọi người thấy cái không khí phấn chấn trong cuộc sống mới ấy không chỉ diễn ra ở những thành phố lớn mà còn lan tỏa đến những bản Mèo xa xôi, heo hút. Tuy nhiên, với Tây Bắc, nhà văn còn khám phá sâu hơn thế, nhiều hơn thế, ông về với Tây Bắc của thời quá khứ với “một tí về lịch sử” của tên vua Đèo Văn Long – tay sai của Pháp, độc ác, dâm ô và những đứa con cùng bản chất với hắn. Cùng với cuộc sống của tên vua ấy là thân phận của những cô xoè phải “giẫm lên máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy khô dần một đống trên một cuộc đời đã biến thành một cái đệm, lớp máu đêm sau đóng vẩy lên lớp máu đêm đầu, và cứ thế, cứ thế.”[86/193]. Trở về với hiện tại, ông tìm đến vẻ đẹp của con người Tây Bắc mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Ông đồng tình, ủng hộ với những người “dọn nhà lên Điện Biên” – dù với họ không khỏi bịn rịn, nhớ thương làng cũ nhưng trên hết là sự chờ đợi, háo hức những đổi thay của cuộc đời họ trên mảnh đất mới, ông cũng ca ngợi những người đang ngày đêm mở đường xây dựng Điện Biên và ông hát ca cùng họ trên mặt phần đường. Ông ăn ở cùng những chiến sĩ đồn Tây Trang đang ngày đêm bảo vệ biên giới Tổ quốc, gặp những người lái đò trên dòng sông Đà hiểm trở… bởi tất cả những con người ấy rồi đây sẽ làm cho Tây Bắc đổi thay. Nhà văn hi vọng cho một ngày mai tươi sáng sẽ đến với Tây Bắc. Sông Đà còn dành rất nhiều những trang viết về thiên nhiên rất đẹp, rất đặc trưng của núi rừng Tây Bắc – hoa mận, hoa ban trắng xóa, những nương ngô xanh mướt sườn đồi.... Những cảnh thiên nhiên thơ mộng cũng như sự hùng vĩ hay khắc nghiệt của nó đều được Nguyễn Tuân miêu tả rõ nét đến tận cùng bản chất. Có thể nói, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh và người Tây Bắc hiện lên sống động chân thực hơn bao giờ hết, với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, vận dụng linh hoạt các thao tác miêu tả, liên tưởng, tưởng tượng, Sông Đà trở thành một tập tùy bút hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân và cũng là đặc sắc nhất trong tùy bút Việt Nam. Tùy bút, bút kí viết trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải kể đến các tác phẩm của Thép Mới. “Nói đến Thép Mới, người ta thường nghĩ anh là một nhà báo, một nhà báo lớn được công chúng mến mộ, được bạn bè trong và ngoài nước đánh giá cao”[81/126], vì thế “Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam mấy chục năm qua có thể xem anh là một trong vài ba người vinh dự đứng ở hàng đầu”[81/127]. Không những thế “Thép Mới còn là một nhà văn, hay nói đúng hơn là một nhà báo đậm chất văn chương trong tư duy sáng tạo, trong cách diễn đạt và sử dụng ngôn từ”[81/127]. Sau Trách nhiệm viết từ thời kháng chiến chống Pháp và Cây tre (1955), Như anh em một nhà (1957) viết đầu những năm chống Mĩ, Thép Mới viết tiếp Hiên ngang Cu-ba (1962) và Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam (1965) những tác phẩm này mới thực sự gây được nhiều ấn tượng với bạn đọc và tên tuổi của Thép Mới với tư cách là nhà văn được biết đến nhiều. Hiên ngang Cu – ba gồm bảy bài bút kí (Hiên ngang Cu-ba; Ngày đầu năm ở bán cầu bên kia; Gặp Phi - đen Ca-xtơ-rô; Cây đời rất xanh tươi của châu Mĩ; Vang bóng một thời … Mĩ; Từ La Ha-van đến Gi-rông; Một cuộc đời của mía.) viết về con người và phong cảnh đất nước Cu-ba xinh đẹp – đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Tây bán cầu trong một lần nhà văn theo đoàn sang công tác nơi đây. Trong bảy bài bút kí đó, Thép Mới đã cho bạn đọc khắp nơi thấy được sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong con người và cảnh vật của đất nước Cu-ba. Những con người anh hùng đang tràn đầy quyết tâm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những hàng cọ pa-ma-rê-an cao vút, những cánh đồng mía bạt ngàn, xanh tốt, tít tắp tận chân trời. Tất cả như đang thách thức với kẻ thù ở ngay bên cạnh mình. Với chất liệu hiện thực ngồn ngộn, cách miêu tả tỉ mỉ Hiên ngang Cu-ba đã thật sự thu hút, đã chinh phục được biết bao trái tim bạn đọc lúc bấy giờ. Khác với phong cách của Hiên ngang Cu – ba, khi viết Điện Biên Phủ - một danh từ Việt Nam với chín bài bút kí, tùy bút xâu chuỗi lẫn nhau, năm bài nói về Điện Biên Phủ: Đâu có giặc là ta cứ đi; Nhân nghe nói về bọn “cọp đen” và bọn “ó đỏ”; Hakin nên ra mà xem bảo tàng Điện Biên Phủ; Chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm; Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam, hai bài lấy khung cảnh rộng lớn là cuộc sống sản xuất và đấu tranh trên những dải đất nóng bỏng của tiền tuyến: Chiến công tháng Tám; Mùa thu cây lúa và cây súng; một bài ca ngợi sự biến đổi thần kì, khả năng và tiềm lực vô hạn của Thủ đô: Hà Nội mà chúng ta yêu; một bài ca ngợi người thợ điện anh hùng của Sài Gòn: Tấm gương của anh Trỗi, cảm xúc của ông dường như lắng lại bởi ông đang viết về mảnh đất nơi ông đã từng gắn bó cả tuổi thanh xuân. Cả tập bút kí là sự xen lẫn của nhiều cung bậc cảm xúc của nhà văn trước những sự kiện, con nguời mà ông nói đến. Với giọng văn hào sảng, chất tư liệu phong phú, với sự đối chiếu không gian, thời gian, thể hiện vốn hiểu biết lịch sử sâu sắc của tác giả, hai tập bút kí thật sự đã tạo nên được những ấn tượng sâu đậm và cũng là đánh dấu cho sự phát triển của bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam. 1.2.2. Tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước Giai đoạn chống Mĩ cứu nước là giai đoạn mà thể kí nói chung và tùy bút, bút kí nói riêng có sự phát triển rực rỡ. Hiện thực đất nước chiến tranh chính là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn khai thác một cách trọn vẹn cho các tác phẩm của mình. Nhiều tùy bút, bút kí ra đời đã thành công cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật, tạo nên được dấu ấn và trở thành tác phẩm tiêu biểu cho thể loại kí, cũng như cho văn học chống Mĩ. Trước hết phải kể đến những sáng tác của Nguyễn Trung Thành. Ông viết kí không nhiều (chỉ với những bài bút kí như Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông; Chị Thuận; Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc và những tùy bút như Đường chúng ta đi và Trận đánh bắt đầu từ hôm nay) nhưng những tác phẩm ấy đã gây xúc động sâu sắc, với những hấp dẫn riêng đã khiến bạn đọc say mê từ những câu văn mở đầu cho đến kết thúc. Hai thiên tùy bút Đường chúng ta đi và Trận đánh bắt đầu từ hôm nay ghi lại chân thành những cảm xúc của người chiến sĩ trước giờ xuất kích, nhưng rộng ra là những xúc cảm, nghĩ suy của tác giả về dân tộc, là lòng tự hào về truyền thống cha ông, là quyết tâm đánh giặc để đem lại hoà bình cho đất nước. “Những ý nghĩ như toả lan tự nhiên trong đêm khuya nhưng vẫn lay động xoáy sâu vào mạch tình cảm yêu nước. Những ý nghĩ trong đêm nay, ngày mai sẽ trở thành hành động, thành sức mạnh và chiến công cụ thể”[16/164]. Đặc biệt là tùy bút Đường chúng ta đi được viết trong những ngày chuẩn bị cho trận đánh (trận Núi Thành), công tác chính trị đang cần một lời kêu gọi, một lời động viên, ban ngày bận công tác, trong hai đêm ông viết xong bài tùy bút này – lúc đó được coi là một bài báo động viên chiến sĩ. Đây cũng là tác phẩm lần đầu tiên nhà văn giới thiệu với bạn đọc bút danh Nguyễn Trung Thành. Với tùy bút Đường chúng ta đi, “Không chỉ các chiến sĩ dự trận Núi Thành năm ấy mà nhiều lớp thanh niên trên hai miền đất nước đọc bài thơ tùy bút ấy hay học nó trong chương trình văn học ở nhà trường đã mang nguyên vẹn tâm tư và tình cảm nồng cháy thiết tha ấy ra mặt trận”[75/361]. Với những con người anh hùng trong chiến đấu, Nguyễn Trung Thành giành những trang bút kí để viết về họ, đó là chị Thuận trong Chị Thuận, là Kơ Lơng trong Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông hay anh hùng Lê Văn Nghiêu trong Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Họ là những con người đẹp nhất nhưng cũng rất bình dị, Nguyễn Trung Thành đã dành cho họ tất cả những gì mến yêu nhất, trân trọng nhất, kính phục nhất, điều này thể hiện rất rõ qua cách ông kể chuyện, ghi chép đặc biệt là những dòng cảm xúc đan xen với các sự kiện một cách hài hoà, nhuần nhuyễn. Đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của bút kí trong dòng chảy văn học cách mạng là những bút kí của Anh Đức. “Anh Đức thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành cùng thời đại cách mạng, sự nghiệp văn học nằm trọn giữa hai cuộc kháng chiến ba mươi năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.”[76/15]. Tuy đuợc bạn đọc biết đến nhiều qua tiểu thuyết Hòn đất và những truyện ngắn đặc sắc như Giấc mơ của ông lão vườn chim; Xôn xao đồng nước; Trọng; Mùa gió; Khói…, nhưng “có lẽ nên coi những thành công của Anh Đức về bút kí như những thành công đầu tiên.”[69] Những bài bút kí hầu hết được viết vào những năm sáu mươi, khi mà giặc Mĩ đang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ và điên cuồng mở những trận càn quét lớn như Bức thư Cà Mau (tháng 11 – 1963); Bức thư cuối năm (tháng 12 – 1964); Thư tháng bảy (tháng 7 – 1965); Dưới một vầng ánh sáng đục (tháng 11 – 1965); Vào mùa nắng (tháng 12 – 1966); Những chuyện xung quanh một trận càn hình móng ngựa (tháng 4 – 1967) và ghi chép Chuyện của một nguời cùng quê…. Anh Đức đã tạo ra được một cách viết kí rất riêng, đặc biệt là những bài bút kí viết dưới dạng những bức thư gửi cho Nguyễn Tuân hay các đồng nghiệp ở miền Bắc. Bằng một giọng tâm tình thủ thỉ, Anh Đức đã phản ánh một cách rõ nét cuộc chiến đấu và cảnh sinh hoạt của nhân dân miền Nam cũng như những tội ác mà giặc Mĩ đã gây nên cho bà con ở đây. Qua những lời tâm sự của ông chúng ta cũng cảm nhận được sự gắn bó ruột thịt giữa hai miền Nam – Bắc. Dù rất nhiều sự kiện được đề cập đến nhưng với dòng cảm xúc lắng sâu và qua cách thể hiện rất riêng, đọc những bài bút kí này người đọc không hề gặp cảm giác khô khan, trái lại nó tạo ra sức lôi cuốn, và một phần thêm nữa cũng nhờ cái phong vị ngọt ngào của miền Nam trong đó. Cũng thể hiện khí thế chiến đấu và chiến thắng giặc Mĩ của nhân dân Miền Nam, Trần Hiếu Minh đã có những bài bút kí khá đặc sắc in thành hai tập Cửu Long cuộn sóng và Sài Gòn ta đó. Tập bút kí Cửu Long cuộn sóng viết về quê hương đồng khởi Bến Tre gồm mười bài bút kí: Ngọn lửa Mỏ Cày; Mùa xuân trên nền cũ một khu trù mật; Thăm quê Đồ Chiểu; Măng tầm vông; Khi giặc Mĩ đến nhà; Đơn vị Girông; Ấp Bắc thành đồng của thành đồng; Chuyện Thạnh Phú; Chiến thắng; Sóng Cửu Long. Nội dung tiêu biểu của tập Cửu Long cuộn sóng là phản ánh những nét điển hình của phong trào đồng khởi Bến Tre qua đó vừa biểu dương nhiều nhân vật anh hùng, từ cụ già cho đến trẻ em vừa tố cáo tội ác của kẻ thù. Với những tên người, tên đất cụ thể, có thật, và những con số chính xác Trần Hiếu Minh đã tạo được niềm tin và khơi gợi được nhiều xúc động trong lòng bạn đọc. Dù đôi lúc cách ghi chép của ông vẫn còn dàn trải, sự kiện chưa thật sự điển hình, khi đọc vẫn còn cảm giác khô khan nhưng trên hết, tập bút kí này đã cho bạn đọc hình dung được cuộc chiến đấu rất dũng cảm đang diễn ra nơi đây – điều này đã đáp ứng được yêu cầu của Đảng về văn học nghệ thuật. Tập bút kí có giá trị cũng là từ đó. Trong những tháng ngày sôi nổi của phong trào tổng tấn công và nổi dậy năm 1968, tác giả vào Sài Gòn công tác và viết một số bút kí và truyện in chung trong tập Sài Gòn ta đó, trong đó có ba bài bút kí Sài Gòn ta đó; Những tiếng nổ đầu xuân; Cờ sao trên nền trời chợ lớn. Sài Gòn ta đó là một trong số “Tác phẩm hiếm hoi của văn học cách mạng miền Nam viết về cuộc sống và con người đô thị”[68/275], ba bài bút kí đã phản ánh một số nét về lòng yêu nước và ý chí quyết đánh giặc Mĩ của nhân dân Sài Gòn. Tác giả đã miêu tả khá nhiều và sâu sắc những trận đánh lớn cũng như miêu tả sâu sắc một số nhân vật. Nhìn chung cả tập sách này (bao gồm truyện ngắn và bút kí) “có thể xem như bức tranh phác thảo về cuộc sống của nhiều lớp người khác nhau ở đô thị miền Nam với những màu sắc đậm nhạt khác nhau, có chỗ tối sáng còn tranh chấp nhau, song nhìn chung toàn tranh thì ánh sáng đã toả trên những khoản không gian rộng lớn và cũng đã chiếu vào những vũng tối tăm bùn lầy. Ánh sáng đó chính là cuộc tổng tấn công và nổi dậy năm 1968”[68/284]. Nguyễn Thi – nhà văn quân đội từ miền Bắc đến với chiến trường miền Nam trong những ngày chiến đấu nóng bỏng nhất cũng đã có những đóng góp quan trọng cho thành tựu của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Ngoài truyện kí Nguời mẹ cầm súng đã được nhiều người biết đến, Nguyễn Thi còn viết tùy bút Dòng kinh quê hương; Đại hội anh hùng; Những câu nói ghi trong đại hội và hai bút kí ghi chép dài Ước mơ của đất và Những sự tích ở đất thép. Trong những tác phẩm này chỉ có tùy bút Dòng kinh quê hương thiên về bày tỏ những cảm xúc của tác giả về truyền thống dân tộc, truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bằng một giọng văn trữ tình tha thiết. Những tác phẩm còn lại chủ yếu viết về những chiến công và phẩm chất anh hùng của nhân dân miền Nam. Nếu tùy bút Đại hội anh hùng và Những câu nói ghi trong đại hội tác giả còn dừng lại ở việc khai thác con người ở cấp độ khái quát thì sang hai bút kí - ghi chép dài Ước mơ của đất và Những sự tích ở đất thép nhà văn đã dừng lại ở những tấm gương cụ thể. Đó là chị Hạnh (Ước mơ của đất), là anh Cần, cô Gần… (Những sự tích ở đất thép). Với số lượng không nhiều nhưng những tùy bút, bút kí của mình Nguyễn Thi đã thể hiện được cái chất riêng, đặc biệt đã “kết hợp được tinh thần phục vụ kịp thời tính thời sự với tính nghệ thuật lâu dài”[16/158]. Văn phong của tác phẩm Nguyễn Thi nói chung và tùy bút, bút kí của ông nói riêng cũng giản dị, chân chất như con người của ông vậy nhưng “từ những trang viết của anh luôn toả ra ánh sáng và hơi ấm của niềm tin vô biên vào cách mạng và quần chúng, vào sự tất thắng của những điều nhân nghĩa và nồng hậu ấm áp tình người.”[75/321]. Trong tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước, còn phải kể đến Chế Lan Viên, Bùi Hiển…. Nhắc đến Chế Lan Viên, nhiều người vẫn thường nghĩ đến tầm vóc một nhà thơ lớn của văn học dân tộc nhưng không chỉ dừng lại đó “Chế Lan Viên vừa làm thơ, viết văn, viết tiểu luận, phê bình. Ở lĩnh vực nào anh cũng là một cây bút tài năng, không lẫn với ai được, có nhiều đóng góp xuất sắc.”[25], đặc biệt trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước ông đã có những bài bút kí, tùy bút rất ấn tượng. Về bút kí ông có hai tập sách được xuất bản ngay sau khi mới hoàn thành và đã gây được tiếng vang lớn trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Đó là tập Thăm Trung Quốc (1963) và Những ngày nổi giận (1966), ngoài ra còn một số bài tùy bút in riêng lẻ. Thăm Trung Quốc gồm sáu bài, trong đó có bốn bài đã từng đăng báo Nhân Dân và Văn Nghệ được tác giả tập hợp lại và được Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1963. Đó là những bài Cảnh xưa trong đời mới; Sức mạnh và tình yêu; Về thăm những nơi chiến đấu cũ; Thầy giáo Lưu Thiếu Kì ở mỏ An Nguyên; Về Thiều Sơn quê Mao chủ tịch; Gặp một đồng chí Hồng quân ở tỉnh Cương Sơn đã thể hiện đậm nét con người và cảnh vật của đất nước Trung Hoa – một người bạn lâu năm của Việt Nam, thể hiện tình hữu nghị giữa hai đất nước qua đó bộc lộ những cảm xúc ngợi ca, trân trọng của tác giả đối với đất nước này. Sau đó ba năm, vào năm 1966, tác giả tiếp tục ra mắt cuốn Những ngày nổi giận, là một cuốn sách bao gồm mười một bài bút kí viết từ năm 1963 đến 1966 (Tội ác im lìm, tội ác sắc trắng; Hoa lửa miền Nam; Một năm như bất cứ năm nào; Những bàn chân, những bức thư; 1965 mở đầu một năm vĩ đại; Ý nghĩ dọc đường; Từ cái giếng của ta đến chiếc phi cơ của giặc; Viên kim cương đầu giới tuyến; Những ngày nổi giận; Chuyện Quảng Bình; Mùa xuân ủng hộ chúng ta). Đây được coi là một cuốn bút kí xuất sắc trong việc thể hiện tội ác của giặc cũng như sự chiến đấu quật cường của nhân dân ta nhưng tác giả tập trung khai thác phẩm chất anh hùng của nhân dân Quảng Bình – mảnh đất đã phải gánh chịu rất nhiều bom đạn trong chiến tranh chống Mĩ. Qua tập bút kí này chúng ta cũng thấy nghệ thuật viết bút kí được nâng lên một tầm cao mới, cảm xúc và sự kiện kết hợp nhuần nhuyễn với nhau hơn tạo ra một độ nhấn sâu sắc hơn cho tác phẩm, đồng thời cũng thấy được trí tuệ nhà văn được thể hiện rất rõ trong cách khai thác sự kiện, trong cách lập luận... Bùi Hiển cũng đóng góp cho bút kí giai đoạn chống Mĩ khá nhiều tác phẩm, được tập hợp qua hai tập Đường lớn và Trong gió cát. Tiếc là tập Đường lớn đã có sự mất mát do thời gian và đã không được tái bản. Còn tập Trong gió cát, thể hiện sự chuyển biến kịp thời từ đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội sang đề tài chống Mĩ cứu nước với những tác phẩm tiêu biểu như Sức mạnh Đại Phong; Trong gió cát; Trên một nông trường miền bể; Bám biển; Những người chiến thắng; Hai bờ tuyến lửa…. Trong tác phẩm của mình, Bùi Hiển ít viết trực tiếp về đời sống chiến trường nhưng chúng ta lại nhận thấy hình bóng của hậu phương chiến đấu và sản xuất. Đây là những bài bút kí có giá trị về mặt nội dung tư tưởng, còn về mặt nghệ thuật vẫn còn non yếu so với các tác phẩm cùng thể loại, cùng giai đoạn vì chưa có được độ thấm của cảm xúc khi miêu tả sự kiện, mà yêu cầu chính của bút kí, tùy bút là thông qua sự kiện mà bộc lộ cảm xúc, quan điểm, suy nghĩ… của nhà văn. Tới những năm bọn Mĩ trực tiếp ném bom miền Bắc, đặc biệt là trong mười hai ngày đêm B.52 ném bom xuống thủ đô, Nguyễn Tuân không đi sơ tán, ông ở lại phố phường Hà Nội và “Sau một ngày bom B52 ác liệt trên báo Nhân Dân đã có bài viết của ông về một đám cưới bên trận địa cao xạ”[77]. Vẫn chung thủy với thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân cũng góp phần vào đề tài chiến tranh chống Mĩ cứu nước bằng tập tùy bút đặc sắc Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi với những bài như: Ở mặt trận Hà Nội; Hà Nội giải tù Mĩ qua phố Hà Nội; Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta; Nô-en Mĩ; Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào; Có ba phi công Mĩ đi bộ trong chợ hoa sơ tán; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi; Nhớ Huế; Sài Gòn tống Mĩ; Bên ụ súng Hà Nội một đám cưới phòng không; Nó Bê-năm-hai phố Khâm Thiên; Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng; Đất cùng trời toàn cõi ta từ đây sạch hẳn bóng nó; Vậy mà đã một năm chiến thắng B52; Đêm xuân năm hổ này, nằm nghĩ thêm về bầy hổ Mĩ. “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đầy đủ chi tiết, sống động không chỉ về lịch sử, truyền thống, cảnh người Hà Nội mà còn cho người đọc hiểu thêm về tính cách Mĩ.”[44/376]. Nhưng quan trọng hơn với tập tùy bút này, Nguyễn Tuân đã thực sự biến tác phẩm của mình “thành những mũi tên bắn tỉa vào kẻ địch là bọn giặc lái Mĩ.”[77]. Trong văn học cách mạng Việt nam giai đoạn chống Mĩ cứu nuớc, ở thể loại tùy bút còn có sự góp mặt của tập tùy bút Hôm nay chúng ta ra trận của Khánh Vân - một nhà báo quân đội. Tập sách gồm mười hai bài tùy bút được tác giả viết từ năm 1967 đến 1971 đó là những bài: Phía trước; Những đôi mắt Nguyễn Viết Xuân; Kí ức tiến công; Tầm cao; Miền Nam còn giặc Mĩ, cả nước vẫn hành quân; Chiến sĩ Việt nam; Lớn theo cách mạng, đẹp tuổi trẻ anh hùng; Cuộc đời không bao giờ vắng Bác; Hai mươi nhăm năm hành quân bảo vệ mùa xuân chế độ; Tâm hồn Nguyễn Chơn, tâm hồn chiến sĩ Việt Nam; Ánh sáng trong đôi mắt ta nhìn; Hôm nay chúng ta ra trận. Dù viết ở những thời điểm khác nhau, tâm trạng khác nhau nhưng người đọc vẫn nhận ra dòng cảm xúc chung của tác giả chính là ý chí, quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ, là lòng tự hào về con người, về đất nước Việt Nam. Ngoài những tác giả, tác phẩm kể trên chúng ta còn thấy có sự đóng góp cho tùy bút, bút kí chiến tranh nhiều tác phẩm của nhiều tác giả là nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá…. Những tác phẩm này được in chung trong nhiều cuốn sách, chúng tôi muốn nói đến một trong số những cuốn sách ấy – đó là tập tùy bút Không có gì quý hơn độc lập tự do do Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 1972 gồm mười sáu tác phẩm của nhiều tác giả: Con đường Bác và Đảng chỉ cho ta – Chế Lan Viên, Người nghệ sĩ tài ba độc đáo – Lưu Quý Kì, Sức mạnh của tinh thần không có gì quý hơn độc lập tự do – Hoài Nam, Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau – Vũ Khiêu, Không có gì quý hơn độc lập tự do – Nguyễn Khải, Lời Bác: mệnh lệnh, niềm tin – Giang Nam, Trận đánh bắt đầu từ hôm nay – Nguyễn Trung Thành, Những con người và những vùng đất anh hùng – Đặng Văn Nhưng, Những người chiến thắng trong thời kì mới – Trần Hướng Dương, Tình cảm tha thiết, nghĩa vụ thiêng liêng – Lê Tấn, Cả một rừng hoa thế hệ Bác vun trồng – Vũ Giang, Sông Hồng sắc đỏ - Đỗ Chu, Tình yêu, hạnh phúc và kẻ thù – Hoàng Tuấn Nhã, Nhánh chè của má – Phan Tứ, Đường ra tiền tuyến – Lê Quang Hòa, Trái tim chúng tôi ở Việt Nam – Tô Hoài. Với những bài tùy bút này, cuốn sách đã để lại dấu ấn rõ nét trong văn học cách mạng lúc bấy giờ, góp phần làm phong phú thêm diện mạo tùy bút, bút kí chống Mĩ. Nhìn chung diện mạo của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975 khá phong phú, đa dạng với nhiều tác phẩm ở đỉnh cao của thể loại. Trong bức tranh toàn cảnh đó chúng ta nhận thấy tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước chiếm ưu thế với số lượng bài viết vượt trội hơn so với tùy bút, bút kí viết trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Bởi vì :“Tuy ở miền Bắc đã có nhiều thuận lợi hơn trong việc tổ chức lại đời sống văn học có kế hoạch, theo dự kiến chủ động và có quy mô toàn cục, nhưng mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội vẫn chưa phải là vấn đề xây dựng, phát triển, mà vẫn là nỗ lực tập trung nhằm vào nhiệm vụ chính trị to lớn nhất: giải phóng miền Nam, giành độc lập dân tộc trọn vẹn.”[96]. Đó cũng là một hệ quả tất yếu của tinh thần văn học phản ánh hiện thực, đặc biệt theo sát hiện thực là đặc trưng của kí nói chung, của tùy bút, bút kí nói riêng. 1.3. Vị trí của tùy bút, bút kí văn học giai đoạn 1954 – 1975 1.3.1. Khái niệm tùy bút, bút kí 1.3.1.1. Tùy bút Từ điển văn học định nghĩa: “Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể loại kí, gần với bút kí nhưng cách viết tự do và tùy hứng nhiều hơn. Nhà văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng có thể nói từ sự việc này sang sự việc khác từ liên tưởng này sang liên tưởng kia để bộc lộ những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận xét về con người và cuộc đời. Bản ngã của nhà văn được thể hiện trong tùy bút gần như trong thơ trữ tình.”[29/1888]. Cùng quan niệm đó, Hà Văn Đức lấy tùy bút của Nguyễn Tuân làm ví dụ cũng đã đưa ra suy nghĩ của mình về tùy bút “Tùy bút là một thể loại có lối viết tương đối tự do, phóng khoáng. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đẩy, có thể đi từ việc này sang việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng nọ để bộc lộ những nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc của mình về đối tượng được phản ánh. Ở thể loại tùy bút, cái tôi bản ngã của nhà văn được thể hiện gần như trong thơ trữ tình.”[18]. Có thêm rất nhiều định nghĩa nữa được đưa ra, tuy nhiên thật khó để tìm được được một định nghĩa hết sức hoàn chỉnh, bao quát hết toàn bộ đặc trưng của thể loại tùy bút. Từ hai định nghĩa tiêu biểu trên chúng ta có thể thấy tùy bút là một loại kí trữ tình tiêu biểu, trữ tình nhất trong các loại văn xuôi. Giống tên gọi thể loại - mạch văn trong tùy bút hết sức tự do, nhà văn không phải tuân theo một quy tắc viết nào về mặt thi pháp, giọng điệu, ngôn ngữ. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý – khi viết tùy bút là người viết không nên, không được lẫn lộn lối viết phóng khoáng với lối viết tản mạn, tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện hay theo một tư duy l._.ta một số nét lớn của cuộc kháng chiến lần thứ hai ở Nam Bộ thông qua câu chuyện những cuộc đấu tranh ở một vài địa phương tiêu biểu nhất […]. Anh muốn kể thật nhiều các biến cố có tính chất là sự kiện lịch sử quan trọng bậc nhất”[62]. Tuơng đồng với kết cấu đồng hiện là kết cấu xâu chuỗi, trong những thủ pháp kết cấu của thi pháp văn xuôi, kết cấu xâu chuỗi được hiểu là dạng kết cấu mà nhà văn móc xích các sự kiện, các yếu tố kế tiếp nhau, theo một đường thẳng không chồng chéo lên nhau và thường gặp trong truyện cổ tích hoặc trong tiểu thuyết chương hồi. Trong tùy bút, bút kí với đặc trưng thể hiện cảm xúc của nhà văn trước các sự kiện vốn không phù hợp với dạng kết cấu này nhưng không phải vì thế mà không có, với số lượng ít ỏi nhưng các nhà văn đã tạo nên một hiệu quả nghệ thuật không nhỏ từ các tác phẩm ấy. Cũng vẫn là các mẩu chuyện, các sự kiện được phản ánh nhưng không phải xuất hiện cùng lúc mà là có sự liên hệ móc xích với nhau. Chính vì thế nên nảy sinh ra việc các nhà văn sử dụng luận đề, luận điểm, đề mục cho từng mẩu chuyện, từng sự kiện để người đọc dễ theo dõi. Tên đề mục đó có thể xuất phát từ bản chất của của sự kiện cũng có thể xuất phát từ cảm xúc của nhà văn. Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam của Thép Mới tiêu biểu cho việc sử dụng kết cấu này. Toàn bộ những bài bút kí trong tập bút kí này đều được phân chia theo đề mục rõ ràng, mạch lạc (trừ Mùa thu cây lúa và cây súng; Hà Nội mà chúng ta yêu; Tấm gương của anh Trỗi) chẳng hạn như: Bút kí Đâu có giặc là ta cứ đi, gồm: - Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình - Đâu có giặc là ta cứ đi - Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu Bút kí Nhân nghe nói về bọn “cọp đen” và “ó đỏ”, gồm - Hãy nói chút ít về chúng nó - Định nghĩa của Nava về chiến thắng - Lính Tây, lính lê dương và Nguyễn Khánh - Đến khi chúng ta quạt vào mặt chúng nó - Cơn mê sảng của quan năm pháo binh Pirôt - Bút kí Hakin nên ra mà xem Bảo tàng Điện Biên Phủ, gồm - “Hakin nên ra mà xem…” - Đô la Mĩ và Điện Biên Phủ - Trí khôn Mĩ và Điện Biên Phủ - Aixenhao: ưu tiên số một cho Điện Biên Phủ - Đalét cuồng lên vì Điện Biên Phủ - Chiến thắng Điện Biên Phủ đá phốc hạm đội thứ bảy Mĩ - Kennơđi 1954 chửi Kennơđi 1961 Bút kí Chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm, gồm - Tại sao các cô đầm ấy ôm cầm thuyền khác - Quy luật giá tụi trong hầm lính Đờ cát - Củ cà rốt trước mũi Đờ cát - “Mẹ kiếp! cái ca rỗng tuyếch” - Sóng ngầm, sóng ngầm ở miền Nam, sóng ngầm trong nước Mĩ Bút kí Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam, gồm - Định nghĩa của từ điển Laruxơ về Điện Biên Phủ - Một chút hơi thở tàn thu để bán vào đĩa hát - Hôm đó là một buổi chiều thứ sáu như hôm nay - Điện Biên Phủ trở thành một động từ chỉ hành động Bút kí Chiến công tháng Tám, gồm - Từ Kim Sơn – Phát Diệm - Đến sát khu giới tuyến Vĩnh Linh - Ở quê hương mẹ Tơm - Chiến quả lớn: niềm tin - Một tình cảm rất Việt Nam Bùi Hiển cũng có kiểu kết cấu này trong bút kí Trên một nông trường miền bể, gồm hai đề mục: Anh hùng nuôi vịt và Khi đã ủ thành sức sống. Hình thức của những đề mục này được tác giả viết theo văn phong khoa học khi trình bày vấn đề, đó là viết in hoa nhằm đánh dấu đề mục, kiểu kết cấu này chúng ta hay gặp trong tiểu thuyết chương hồi. Trong bút kí Thép Mới, sự hấp dẫn nằm ngay ở hệ thống đề mục rất hóm hỉnh, lại ẩn chứa những cảm xúc sâu sắc của tác giả đối với đất nước thì thiết tha, đối với kẻ thù thì khinh bỉ. Hệ thống sự kiện trình bày theo kiểu kết cấu này cũng trở nên rõ ràng hơn, người đọc có thể tự xâu chuỗi hay tự tìm ra được mối liên hệ giữa các sự kiện lại với nhau được một cách dễ dàng. Các sự kiện ấy khi được xâu chuỗi với nhau trở thành một hệ thống trọn vẹn, thống nhất với nhau cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Tuy nhiên trong luận văn này, người viết muốn đề cập nhiều nhất, sâu sắc nhất là kiểu kết cấu liên tưởng, đây là kiểu kết cấu đặc trưng nhất, phù hợp nhất của hai thể loại tùy bút và bút kí. Yếu tố quan trọng nhất ở tùy bút, bút kí là cảm xúc của nhà văn trước sự kiện nào đó, cảm xúc không tuân thủ theo phép tắc, khuôn khổ nào, cảm xúc được tự do nên tính tùy hứng vì thế cũng phát huy rõ rệt, điều này lí giải cho việc các tác giả chủ yếu sử dụng kết cấu liên tưởng trong tác phẩm của mình. Các sự kiện được gợi ra theo cảm xúc của nhà văn, sự kiện này xen lẫn sự kiện kia, cảm xúc này xen lẫn cảm xúc kia, thì hiện tại có thể được trộn lẫn với thì quá khứ hoặc tương lai, hoặc có lúc cả ba thì được dồn nén lại trong một số ít câu văn…. Sự không trật tự, không lôgic này lại đạt hiệu quả nghệ thuật cao hơn bất cứ một kiểu kết cấu nào. Nó đòi hỏi trình độ nghệ thuật của nhà văn phải cao tay, có kinh nghiệm đặc biệt có khả năng miêu tả và biểu cảm một cách hấp dẫn, tuy nhiên để đạt được điều đó, các nhà văn cần sử dụng nhiều thao tác như quan sát, liên tưởng và tưởng tượng - tưởng tượng ở hình ảnh nghệ thuật chứ không phải tưởng tượng sự kiện… nó cũng đòi hỏi ở người đọc sự tinh ý mới nắm bắt được mạch cảm xúc của tác giả. Trong tùy bút của văn học Việt Nam nói chung và tùy bút giai đoạn 1954 – 1975 nói riêng, người viết không bao giờ đơn thuần kể về một câu chuyện hay thể hiện đơn thuần một dòng cảm xúc mà thường chuyện lồng trong chuyện, cảm xúc gợi cảm xúc, cái này liên tưởng cái kia một cách phong phú, sinh động. Tiêu biểu cho việc sử dụng kết cấu này phải kể đến nhà văn tài hoa – nổi tiếng với thể tùy bút là Nguyễn Tuân. Kết cấu này được sử dụng hầu như trong hai tập tùy bút Sông Đà và Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi và trở thành đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của ông. Phân tích hai tác phẩm tiêu biểu trong hai tập tuỳ bút đó chúng ta thấy rõ – với Nguyễn Tuân, chuyện này gợi chuyện kia, cảm xúc bao giờ cũng có sự chuyển hướng nhờ vào thao tác liên tưởng hết sức thú vị. Trong Có ba phi công Mĩ đi bộ trong chợ hoa sơ tán ( trong tập Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi) Trong tùy bút này, nguời đọc không chỉ biết trong một buổi chợ hoa sơ tán Hà Nội có ba phi công Mĩ đi bộ, người đọc còn biết nhiều hơn nữa. Bắt nguồn từ sự việc có ba người Mĩ bị ta bắt sống “nhưng mà ở chợ hoa sơ tán Đường Thành sắp sửa đón cái tết tưng bừng Mậu Thân, tôi đã thấy ba người khách lạ của chợ hoa.”[84/110], Nguyễn Tuân đã dẫn dắt người đọc qua biết bao sự kiện, biết bao cảm xúc. Ông giúp ta nhớ đến tội ác của giặc Mĩ đã rải xuống trên khắp đất nước Việt Nam, lại nhớ đến những đêm xuân ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, đến những ngày “Xuân lửa Mậu Thân Sài Gòn cháy to vào đêm 31 tháng giêng 1968”[84/115], và mùa xuân cách đó 179 năm, mùa xuân mà quân Tôn Sĩ Nghị “chết vô thiên lủng”. Lịch sử của những mùa xuân đó khiến cho nhà văn “cũng ít muốn ngủ” và “trong lòng thấy thật sự có một nỗi niềm hồi xuân”. Không dừng lại đó, Nguyễn Tuân đưa người đọc đến cái khí thế sục sôi của những người dân Mĩ chống Mĩ – những sự kiện trên đất nước Mĩ xa xôi ấy lại làm dấy lên những dòng cảm xúc mới. Quá khứ trôi qua, ông lại đưa người đọc trở về với hiện tại – về với ba tên giặc vẫn đang đi bộ trong chợ hoa sơ tán Hà Nội, nhà văn dành rất nhiều câu hỏi để hỏi về hiện tại – tương lai của ba con người ấy “Đang làm gì? Đang hô gì? Đang nghĩ gì?”[84/120], nhưng dòng cảm xúc của tác giả không phải là băn khoăn, trăn trở mà đó là sự giễu cợt, mỉa mai về tình cảnh bi hài của ba kẻ cướp nước. Cảm xúc nhà văn lại chuyển hướng về đất nước, về cái Tết cổ truyền, về những hi vọng của tương lai tươi sáng…. Sự việc này cứ gợi liên tưởng đến sự việc kia, làm cho mạch cảm xúc tuởng như không bao giờ dứt, tuy nhiên đó không phải là sự tản mạn, lan man mà các sự kiện được nói đến có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá khứ - hiện tại – tương lai cứ thế đan xen, cài lẫn vào nhau vô cùng chặt chẽ mà cũng rất sinh động. Chúng ta nhận ra cảm xúc của nhà văn cũng được định hướng rất rõ ràng, cảm xúc đó không phải chỉ bắt nguồn từ trái tim mà chính các sự việc khách quan đang được nói đến đã làm lay động tình cảm của tác giả. Trong Người lái đò sông Đà (trong tập Sông Đà), kết cấu liên tưởng được sử dụng ở chỗ nhà văn miêu tả con sông Đà bằng nhiều liên tưởng thú vị giữa thiên nhiên với thiên nhiên, thiên nhiên với con người. Miêu tả cảnh sông Đà hung dữ nhưng nhân văn hơn, nhà văn muốn gợi lên ở người đọc suy nghĩ về sức mạnh của con người “Con sông Đà thật dữ, thật lớn và lớn hơn nữa là những người lao động chở đò, kéo đò thắng cái thiên nhiên không bình thường của một con sông Tây Bắc hiểm trở.”[86/69]. Nhìn theo đoàn thuyền khảo sát trên sông Đà, nhà văn lại càng “vấn vương với sông Đà, với tất cả những triển vọng sông Đà, với tất cả những người lái đò năm xưa và năm sau đây của sông Đà”[86/82], cũng từ đó gợi cho nhà văn suy nghĩ rất ý nghĩa, rất sâu sắc “Ở đâu có sông có nước lớn thường trội lên những dấu hiệu của cuộc sống văn hóa, trội lên những hình ảnh của văn minh”[86/83]… Qua hai ví dụ trên ta thấy, đối với Nguyễn Tuân việc sử dụng kết cấu liên tưởng như là một đòi hỏi tất yếu về mặt nghệ thuật để phù hợp với mạch nguồn cảm hứng của ông. Ông sử dụng kết cấu liên tưởng bằng cách kết hợp, đan cài thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai, khi lồng ghép, khi dồn nén, khi dàn trải để cho sự việc này kết nối sự việc kia, cảm xúc vì thế cũng trở nên tự nhiên, không gượng ép, không lộ liễu, người đọc cũng không bị hụt hẫng khi tác giả thay đổi cảm xúc. Nguyễn Tuân cũng hay sử dụng thao tác liên tưởng để câu văn nói riêng, mạch văn nói chung trở nên hấp dẫn hơn, lôi cuốn hơn. Kiểu kết cấu liên tưởng cũng trở thành kết cấu chủ đạo trong tuỳ bút Nguyễn Trung Thành trong Đường chúng ta đi, từ một điệu dân ca nghe được trong đêm trước ngày ra trận, tác giả liên tưởng đến sức mạnh của dân tộc, bản lĩnh dân tộc, về nỗi đau dân tộc, lòng căm thù và cả về ý chí vươn lên của con người Việt Nam. Hay từ một mái tóc thề của một người con gái, Nguyễn Trung Thành đã đưa người đọc trở về với những tháng ngày đau thương của mẹ con Hoa, của những người dân vô tội, nhưng tha thiết hơn, sâu sắc hơn đó là những suy nghĩ, những lí giải của tác giả về cuộc chiến đấu này – cuộc chiến đấu cho lẽ phải, cho sự sống còn của một dân tộc và gần gũi hơn là cho cả những mái tóc thề. Bởi một lẽ “Chúng ta ra đi từ giữa bùn đen và đau thương. Chúng ta ra đi từ chỗ chưa phải là con người”, thế nên “Muốn làm người thì phải đổ máu. Bởi vì muốn làm người thì nhất thiết phải chiến thắng.” Để rồi tác giả phải thốt lên “Kì diệu thay là cuộc chiến đấu của chúng ta.”[73/145]. Những tùy bút trong tập Hôm nay chúng ta ra trận của Khánh Vân cũng sử dụng kiểu kết cấu liên tưởng. Kết cấu này cũng giúp cho các tùy bút của Khánh Vân có một bề sâu trong cách nhìn sự việc, con người. Với dòng cảm xúc đa dạng được bộc lộ của tác giả đã tác động một cách mạnh mẽ lên người đọc, giúp người đọc hiểu được hơn những tâm tư, tình cảm của nhà báo tài năng này. Một điều người viết muốn nói thêm, trong các tùy bút, bút kí 1954 – 1975, rất ít khi các tác giả sử dụng độc nhất một kiểu kết cấu mà thường có sự kết hợp các kiểu kết cấu khác nhau. Lấy một kiểu kết cấu làm kết cấu chính, các tác phẩm có thể triển khai thêm hai hay ba kiểu kết cấu nữa để triển khai sự việc hay bộc lộ cảm xúc. Điều này được thể hiện rất rõ trong các bút kí của Chế Lan viên, Anh Đức, Nguyễn Thi, trong tùy bút Nguyễn Tuân… qua đó tạo được hiệu quả nghệ thuật rõ nét, đồng thời thấy được tài năng của nhà văn. Nói tóm lại, kết cấu thuộc mặt hình thức của tác phẩm, đó là sự tổng hợp các hình thức nghệ thuật để tạo thành một hệ thống. Nhờ kết cấu mà các yếu tố nghệ thuật được làm nổi bật, cũng từ đó người đọc tiếp cận được với nội dung tác phẩm một cách dễ dàng. Lựa chọn kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại, tùy thuộc vào nguồn cảm hứng, cảm xúc của tác giả, đối tượng khách quan,… Vượt qua được cái khó của thể loại, các nhà văn đã lựa chọn được những kết cấu phù hợp tạo cho các tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 có một sức hấp dẫn riêng và có dấu ấn trong văn học cách mạng Việt Nam. *** Những đặc sắc nghệ thuật này đã giúp nhà văn chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn những nội dung, những thông điệp muốn gửi tới bạn đọc. Có thể nói, đây là những yếu tố đã làm nên sự khác biệt của tùy bút, bút kí 1954 – 1975 so với các tác phẩm cùng thể loại giai đoạn trước và sau nó. Với quan điểm Đảng đề ra - văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, nhưng các tác phẩm không hề khô khan, sống sượng, trái lại rất hấp dẫn, sinh động nhờ vào những yếu tố nghệ thuật trên, qua đó cũng phủ nhận một số ý kiến cho rằng văn học 1954 – 1975 đã phải hi sinh tính nghệ thuật, hi sinh cá tính nghệ sĩ để phục vụ cách mạng. Thời gian trôi đi, những tùy bút, bút kí nói riêng, văn học cách mạng 1954 – 1975 nói chung vẫn khẳng định được giá trị của mình trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. KẾT LUẬN Với tất cả những gì đã nghiên cứu, sau đó trình bày, phân tích, nhận xét, đánh giá về tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, chúng tôi đưa ra những kết luận sau: Hiện thực lịch sử đất nuớc Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 với nhiều biến động đã khơi nguồn cho các sáng tác văn học nói chung, thể loại tùy bút, bút kí nói riêng. Hiện thực lịch sử đã tạo nên diện mạo tùy bút, bút kí văn học giai đoạn này, có thể phân chia ở hai phạm vi: tùy bút, bút kí những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và tùy bút, bút kí viết về chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Thừa nhận vai trò, vị trí của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam. Là hai thể loại chủ lực của kí, với tính chất nhanh nhạy, kịp thời, và giàu cảm xúc, tùy bút, bút kí đã làm nổi bật hiện thực đất nước trong suốt hơn hai mươi năm với tinh thần phản ánh hiện thực một cách trung thực nhất, đồng thời các tác phẩm mang đậm dấu ấn nghệ thuật của văn học cách mạng giai đoạn này. Trong tùy bút, bút kí 1954 -1975 bức tranh hiện thực hiện lên vô cùng phong phú và sinh động, trở thành đặc điểm nội dung lớn nhất, được biểu hiện qua các phương diện: Hiện thực đất nước, Hiện thực con người và Sự hiện diện của cái tôi trần thuật. Trong bức tranh hiện thực đất nước, các tác giả đã miêu tả nổi bật một đất nước hoà bình với niềm vui dựng xây. Không dừng lại ở đó, đất nước còn hiện lên với nỗi đau trước sự xâm lược của Mĩ – thể hiện một cách nhìn mới, chân thật về đất nước, khác với những thể loại khác. Nhưng đồng thời cũng thấy được bản lĩnh, sức mạnh anh hùng, sự hồi sinh của đất nước. Trong bức tranh hiện thực con người, các nhà văn đã tập trung hướng ngòi bút của mình vào con người anh hùng trong lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa, con người anh hùng trong đấu tranh. Một hình ảnh đặc biệt cũng rất được các nhà văn quan tâm và thể hiện, trở thành hình ảnh đặc trưng trong tùy bút, bút kí viết về chiến tranh đó là bộ mặt của kẻ thù hiện lên rất sinh động, đối lập hoàn toàn với con người anh hùng của đất nước Việt Nam. Thể hiện cái tôi trần thuật gắn với đặc trưng của tùy bút, bút kí, các nhà văn đã thể hiện được cái tôi của mình, đó là một cái tôi trải nghiệm trên mọi chặng đường và cái tôi tràn đầy những cung bậc cảm xúc trước cuộc đời, trước con người. Tất cả những nội dung ấy được chuyển tải với những hình thức nghệ thuật đa dạng và phong phú. Trước hết các tác giả đã sử dụng một nguồn tư liệu phong phú, khai thác bằng nhiều cách nhưng điểm chung của những tư liệu ấy chính là tính chính xác, đa dạng về không gian và thời gian, đáng tin cậy và đặc biệt là phù hợp với nội dung mà các nhà văn muốn chuyển tải. Việc sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động được biểu hiện qua việc các tác giả sử dụng lớp từ ngữ chính trị xã hội dày đặc, lớp từ ngữ xưng hô đậm tính biểu cảm và sử dụng đa dạng các kiểu câu, các biện pháp tu từ làm cho lời văn cũng như những hình tượng nghệ thuật của tùy bút, bút kí trở nên có duyên và hấp dẫn nguời đọc. Một trong những nét làm nên sự khác biệt giữa tùy bút, bút kí của văn học giai đoạn 1954 – 1975 và giai đoạn truớc và sau đó chính là ở yếu tố giọng điệu, ở đây có sự kết hợp giữa giọng bình luận chính luận và giọng trữ tình. Cả hai giọng điệu này khi kết hợp với nhau rất phù hợp để diễn tả những vấn đề hiện tại của đất nước cũng như sự thể hiện cảm xúc của nhà văn. Về mặt kết cấu, các tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt các kiểu kết cấu như kết cấu tuyến tính, kết cầu đồng hiện, kết cấu xâu chuỗi nhưng quan trọng nhất và phù hợp nhất, phổ biến là kết cấu liên tưởng. Kiểu kết cấu liên tưởng là kết cấu đặc trưng của tùy bút, bút kí, với kết cấu này, các tác giả đã tạo nên sự phong phú đa dạng trong cách miêu tả sự kiện cũng như trong việc bộc lộ mạch cảm xúc, từ đó người đọc vừa nhìn thấy tài năng của nhà văn, đồng thời lại thấy những tư tưởng tình cảm rất chân thật của họ. Cũng qua sự phân tích, nhìn nhận các tác phẩm của các tác giả, chúng tôi nhận thấy ở mỗi nhà văn có một phong cách viết tùy bút, bút kí khác nhau. Nguyễn Tuân là sự tài hoa uyên bác trong cách sử dụng ngôn ngữ, tạo hình ảnh và liên tưởng độc đáo. Ở Chế Lan Viên – đó là chất trí tuệ kết hợp với chất thơ tạo cho bút kí có được không khí của thời sự, lại vừa có chất tươi mát của một tác phẩm nghệ thuật. Giọng văn Anh Đức là cái giọng thủ thỉ, tâm tình rất gần gũi qua những bài bút kí dưới hình thức những bức thư mà nhà văn gửi cho Nguyễn Tuân các anh chị văn nghệ sĩ ở miền Bắc, tạo nên một cách viết bút kí rất riêng mà ấn tượng. Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành viết tùy bút bằng một lối viết giản dị, nhẹ nhàng mà da diết, sâu lắng, còn bút kí thì thấm đầy chất truyện vừa giúp người đọc dễ theo dõi lại vừa có hiệu quả nghệ thuật cao khi viết về những nhân vật anh hùng. Bút kí Trần Hiếu Minh và Bùi Hiển ngồn ngộn sự kiện với giọng văn mộc mạc hơn, có những đoạn văn, những bài tưởng chừng như là những đoạn, những bài báo tường thuật, cung cấp tin tức nhưng sự khô khan đó lại được lấp đầy bằng những tình cảm hồn nhiên, trong sáng và sự tỉ mỉ, chân thật của nhà văn. Thép Mới với những tác phẩm thấm đầy chất chính luận tạo ra một lối viết sắc sảo, lập luận chặt chẽ khi bình luận các sự kiện nên có sự hấp dẫn, lôi cuốn riêng. Nhưng bên cạnh đó ông cũng có những liên hệ trữ tình, có những tác phẩm rất trữ tình như Cây tre nên dễ nhận ra sự phong phú đa dạng trong ngòi bút. … Trên hai mươi năm đồng hành với sự đấu tranh, xây dựng của đất nước, đồng hành với văn học cách mạng, tùy bút, bút kí đã có những đóng góp nhất định trong việc đáp ứng yêu cầu của Đảng về văn học nghệ thuật và có một dấu ấn riêng về mặt nghệ thuật trên chặng đường phát triển của tùy bút, bút kí nói riêng, thể loại kí nói chung. Quan trọng hơn, tùy bút, bút kí 1954 - 1975 sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển của hai thể loại này ở những giai đoạn sau. Những gì mà Luận văn trình bày cũng mới chỉ là bước đầu, hi vọng sẽ có thêm những công trình mới tìm hiểu, nghiên cứu về tùy bút, bút kí 1954 – 1975 để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài Anh (2003), “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”, (In trong Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục. 2. Hoài Anh (2006), “Anh Đức với con người và cảnh sắc thiên nhiên trong tác phẩm”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 3. Phương Anh (1967), “Một vài nhận xét về sự phát triển của các thể loại văn xuôi từ sau 1945”, Tạp chí Văn học, (số 4– 1967). 4. Vũ Tuấn Anh (2001) tuyển chọn và giới thiệu, Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 5. Lại Nguyên Ân (2001), “Giọng văn xuôi tiểu luận Chế Lan Viên” (In trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 6. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. Nhị Ca (1962), Từ cuộc đời vào tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nguyễn Cương (1967), “Đọc Đường lớn, bút kí của Bùi Hiển”, Tạp chí Văn học, (số 12 – 1967). 9. Xuân Diệu (1966), “Cần làm cho một dòng bút kí chảy xiết”, (Trích lại trong Tạp chí Văn học, (số 8 – 1966)). 10. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân đội (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 11. Phan Cự Đệ (2006), “Về phong cách lãng mạn của Anh Đức”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 12. Anh Đức (1969), Giấc mơ ông lão vườn chim, Nxb Giải phóng. 13. Anh Đức, (2006), “Bức thư Cà Mau”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục.). 14. Anh Đức (2006), Hòn đất, Nxb Văn học. 15. Hà Minh Đức (1962), Những nguyên lý về Lý luận văn học Loại thể văn học, Nxb Giáo dục. 16. Hà Minh Đức (1980), Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Quân đội nhân dân. 17. Hà Minh Đức chủ biên (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 18. Hà Văn Đức (1996),“Tùy bút Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám”, Nam (In trong 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.) 19. Bảo Định Giang (1966), “Từ tuyên ngôn của Hội văn nghệ giải phóng đến giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học, (số 7 – 1966). 20. Phan Hồng Giang (1996), Ghi chép về tác giả và tác phẩm, Nxb Văn học. 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con nguời trong văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX – 07, Hà Nội. 22. Nguyễn Thị Hồng Hà (2004), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 23. Lê Mậu Hãn chủ biên (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 3), Nxb Giáo dục. 24. Lê Thị Đức Hạnh (1964), “Bút kí Thép Mới”, Tạp chí Văn học, (số 9 – 1964). 25. Nguyễn Văn Hạnh (2001), “Nhà thơ của thế kỉ” (In trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu, , Nxb Giáo dục. 26. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện Văn chuyện đời, Nxb Giáo dục. 27. Võ Thị Bích Hiền (2007), Tùy bút Việt Nam giai đoạn 1975 – 2000, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 28. Bùi Hiển (1965), Trong gió cát, Nxb Văn học. 29. Đỗ Đức Hiểu chủ biên (2005), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới. 30. Nguyễn Kim Hoa (1966), “ “Hư” và “thực” với giá trị của thể kí”, Tạp chí Văn học, (số 10 – 1966). 31. Tô Hoài (1966), “Bước phát triển mới của các thể kí”, Tạp chí Văn học, (số 8 – 1966). 32. Tô Hoài (1966), “Truyện và bút kí”, (Trích lại trong Tạp chí Văn học, (số 8 – 1966)). 33. Đỗ Kim Hồi (1998), “Người lái đò sông Đà”, (In trong Giảng văn văn học Việt Nam, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục). 34. Trần Ngọc Hưởng (1999), Luận đề về Nguyễn Tuân, Nxb Thanh niên. 35. Lê Đình Kị (1967), “Một số vấn đề đáng quan tâm trong việc thể hiện nhân vật anh hùng”, Tạp chí Văn học, (số 9 – 1967). 36. Mai Quốc Liên ((2003), “Nguyễn Tuân – bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam” (In trong Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm,Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục.) 37. Nguyễn Văn Long (1996), “Về cách tiếp cận để đánh giá văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám”, Nam (In trong 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.) 38. Phương Lựu chủ biên (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 39. Hoàng Như Mai (2001), “Những ngày nổi giận – tập bút kí của Chế Lan Viên” (In trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu, , Nxb Giáo dục. 40. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (1990), Văn học Việt Nam (1945 – 1975 ) (tập 2), Nxb Giáo dục. 41. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), “Đặc điểm cơ bản của nền văn học mới Việt Nam (In trong 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.) 42. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Nxb Trẻ, TP. HCM. 43. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), “Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút kí chống Mĩ” (In trong Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm,Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 44. Tôn Thảo Miên tuyển chọn (2002), Nguyễn Tuân tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học. 45. Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu (2003), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 46. Trần Hiếu Minh (1965), Cửu Long cuộn sóng, Nxb Văn học. 47. Trần Hiếu Minh (1970), Sài Gòn ta đó, Nxb Giải phóng. 48. Trần Văn Minh (2009), “Phân loại tùy bút”, Tạp chí Khoa học xã hội,(số 04 – 2009). 49. Nam Mộc (1965), “Đọc lại Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh”, Tạp chí Văn học, (số 7 – 1965). 50. Nam Mộc (1967), “Thể kí và vấn đề viết về người thật việc thật”, Tạp chí Văn học, (số 6 – 1967). 51. Thép Mới (1962), Hiên ngang Cu – ba, Nxb Văn học. 52. Thép Mới (1965), Điện Biên Phủ - một danh từ Việt Nam, Nxb Văn học. 53. Nguyễn Xuân Nam (1964), “Chất thơ và chất suy nghĩ của tập bút kí “Thăm Trung Quốc”, Tạp chí Văn học, (số 11 – 1964). 54. Nguyễn Xuân Nam (1965), Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam, Những trang bút kí chính luận đầy niềm tự hào”, Tạp chí Văn học, (số 12 – 1965). 55. Nguyễn Xuân Nam (2001), “Vẻ đẹp của văn Chế Lan Viên” (In trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 56. Chu Nga (2006), “Phong cách trữ tình trong sáng tác của Anh Đức”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 57. Nhiều tác giả (1972), Không có gì quý hơn độc lập tự do, Nxb Thanh niên. 58. Nhiều tác giả (1998), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 59. Lê Thành Nghị (2001), “Văn học viết về chiến tranh cách mạng, đòi hỏi và thách thức của thời gian”, Nhà văn, (số 12 – 2001). 60. Nguyễn Phan Ngọc, “Năm bài bút kí giàu sức sống của Bùi Hiển”, Tạp chí Văn học, (số 12 – 1967). 61. Vương Trí Nhàn (2004), “Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Nhà văn, (số 5 – 2004). 62. Phan Nhân (1966), “Suy nghĩ về khả năng của thể kí”(Qua một số bút kí ghi chép, hồi kí của miền Nam), Tạp chí Văn học, (số 7 – 1966). 63. Phan Nhân (1968), “Con người đẹp nhất”, Tạp chí Văn học, (số 8 – 1968). 64. Hoàng Phê chủ biên (2002), Từ điển văn học, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học. 65. Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên (2002), Ngữ Văn 6 (tập 2), Nxb Giáo dục. 66. Vũ Đức Phúc (1966), “Bàn về các thể kí trong văn học từ cách mạng tháng Tám đến nay”, Tạp chí Văn học, (số 8 – 1966). 67. Vũ Dương Quỹ tuyển chọn và biên soạn (1999), Nguyễn Tuân, nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục. 68. Phạm Văn Sĩ (1976), Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 69. Phạm Văn Sĩ (2006), “Anh Đức”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 70. Phạm Văn Sĩ (1967), “Mấy suy nghĩ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua các tác phẩm văn học cách mạng miền Nam”, Tạp chí Văn học, (số 7 – 1967). 71. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học. 72. Trần Đình Sử tổng chủ biên (2008), Ngữ Văn 12 nâng cao (tập 1), Nxb Giáo dục. 73. Nguyễn Trung Thành (1969), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Nxb Giải phóng. 74. Nguyễn Trung Thành (1969), Dũng sĩ núi Chư-pông, Nxb thanh niên. 75. Ngô Thảo (2001), Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 76. Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu (2006), Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 77. Nguyễn Đình Thi (2002) “Nguời đi tìm cái đẹp cái thật”, (In trong Nguyễn Tuân tác phẩm và dư luận, Tôn Thảo Miên tuyển chọn, Nxb Văn học). 78. Nguyễn Thi (1969), Truyện và kí, Nxb Giải phóng. 79. Nguyễn Thi (1977), Ước mơ của đất, Nxb Quân đội nhân dân. 80. Bích Thu (2005), “Sức mạnh của thể kí trong văn học chống Mĩ cứu nước ở miền Nam”, Nhà văn, (số 4 – 2005). 81. Lê Quang Trang (1996), Dọc đường văn học, Nxb Văn học. 82. Cù Đình Tú (2002), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 83. Nguyễn Tuân, (1998), Tùy bút viết trước 1945, (Vương Trí Nhàn tuyển chọn), Nxb Hải Phòng. 84. Nguyễn Tuân (1976), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Nxb Văn học giải phóng. 85. Nguyễn Tuân (1998), Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 1, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn), Nxb Văn học, Hà Nội. 86. Nguyễn Tuân (1998), Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn), Nxb Văn học, Hà Nội. 87. Nguyễn Tuân (1998), Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 3, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn), Nxb Văn học, Hà Nội. 88. Sơn Tùng (1961), “Các thể kí”, Tạp chí Văn học, (số 8 – 1961). 89. Diệp Minh Tuyền (2006), “Anh Đức và những truyện ngắn bút kí xuất sắc của Anh”, (In trong Anh Đức, Về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục). 90. Khánh Vân (1972), Hôm nay chúng ta ra trận, Nxb Thanh niên. 91. Chế Lan Viên (1963), Thăm Trung Quốc, Nxb Văn học. 92. Chế Lan Viên (1966), Những ngày nổi giận, Nxb Văn học. 93. Chế Lan Viên (1966), “Hãy xây dựng một nền văn học cân đối và toàn diện”, Tạp chí Văn học, (số 8 – 1966). 94. Viện văn học (1979), Văn học Việt Nam chống Mĩ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội. 95. Hoàng Việt (1967), “Xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng là vấn đề trung tâm của nghệ thuật ta”, Tạp chí Văn học, (số 6 – 1967). 96. Trần Ngọc Vượng (1996), “Văn học 50 năm, nhìn từ 1000 năm văn học”, (In trong 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5406.pdf