Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đđ này trong công tác c.bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Có được thành công này một phần là nhờ vào những quyết định sang suốt của Chính phủ trong hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là vấn đề được toàn xã hội, đặc biệt là các nhà nghiên cứu và hoạch định

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đđ này trong công tác c.bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính sách phát triển của đất nước thường xuyên quan tâm và coi trọng. Từ cổ tới kim, đề cập đến phát triển nói chung và phát triển, tăng trưởng kinh tế nói riêng, người ta đều không quên nói đến đầu tư phát triển. Bàn về vấn đề này chính là mong muốn có được sự hiểu biết tốt hơn để có thể hành động đúng đắn với công việc đầu tư đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần “cám dỗ”. Chỉ khi nào chúng ta hiểu biết thấu đáo và quán triệt một cách sâu các đặc điểm của đầu tư phát triển thì mới hi vọng có được những kết quả mong muốn, hướng tới sự phát triển thực sự. Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng ấy, dưới đây nhóm 1 xin trình bày đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm này trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lòng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy nhóm 1 xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy cô cùng các bạn. Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Từ Quang Phương - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Hà Nội, tháng 3/2008 CHƯƠNG I CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC ĐẶC ĐIỂM NÀY ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ I. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển. 1. Khái niệm. Đầu tư là gì? Đầu tư là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó là một thành tố không thể thiếu được trong nền sản xuất. Nó cũng là mối quan tâm của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn gia tăng lợi nhuận; bất kỳ cá nhân, gia đình nào muốn gia tăng thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần. Vậy đầu tư là gì? Có khá nhiều khái niệm về đầu tư được các nhà kinh tế học đưa ra. P.A. Samuelson cho rằng, đầu tư là hoạt động tạo ra tư bản thực sự. Đầu tư có thể dưới dạng vô hình như đầu tư cho giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên cứu phát minh. Theo ông, trong lĩnh vực tài chính, đầu tư có ý nghĩa hoàn toàn khác. Còn theo Pierce Conso, đầu tư có thể xem xét theo cách tiếp cận khác nhau như theo quan điểm kinh tế, tài chính và kế toán. Theo cuốn “từ điển kinh tế”, đầu tư bao gồm đầu tư tài chính và đầu tư tài sản vật chất. Đầu tư tài sản vật chất là hoạt động chi dùng vốn vào việc mua sắm các tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị (tài sản cố định) và các tài sản tồn trữ (hàng tồn kho). Đầu tư tài sản vật chất tạo ra những tài sản mới cho nền kinh tế, trong khi đầu tư tài chính chỉ thuần túy là việc chuyển quyền sở hữu những tài sản hiện có từ chủ này sang chủ khác. Có thể thấy khái niệm đầu tư được hiểu khá rộng. Theo nghĩa rộng, đầu tư có thể hiểu là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được một hay tập hợp mục đích (mục tiêu) của nhà đầu tư trong tương lai. Theo khái niệm này, đầu tư là khoản chi trong hiện tại, bao trùm nhiều lĩnh vực như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và phi vật chất…nhiều cấp độ như cấp độ nền kinh tế, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các cá nhân. Do đó, mục tiêu của đầu tư cũng được hiểu là đa lĩnh vực như mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và cũng có thể là một mục tiêu nhân đạo đơn thuần… của chủ đầu tư. Theo nghĩa hẹp, đầu tư là việc chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm thu về một kết quả lớn hơn nguồn lực đã chi ra để đạt kết quả đó, duy trì và tạo thêm những tài sản mới, năng lực mới cho nền kinh tế và cho chủ đầu tư trong tương lai. Định nghĩa này đã chỉ rõ phạm vi đầu tư là các tài sản (vật chất và vô hình) và giúp phân biệt hoạt động đầu tư với hoạt động mua sắm tiêu dùng, vì những hoạt động loại này không nhằm đem lại kết quả trực tiếp lớn hơn sau chu kỳ đầu tư. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp cũng giúp phân biệt hoạt động đầu tư với việc các tổ chức, doanh nghiệp phải chi một khoản tiền khá lớn cho các hoạt động mang tính thường xuyên nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Như vậy, đầu tư là hoạt động rất cần thiết để tái sản xuất tài sản của nền kinh tế và của chủ đầu tư. Với sự phân tích trên, đầu tư theo nghĩa hẹp còn được hiểu là đầu tư phát triển. 1.2. Phân loại đầu tư. Phần trên, ta đã thấy có rất nhiều cách tiếp cận với hoạt động đầu tư. Vì thế, cũng có rất nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư. Trên quan điểm mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư, ta có: Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để được hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không làm gia tăng thêm tài sản cho nền kinh tế, nó chỉ làm tăng giá trị tài sản cho một cá nhân, tổ chức. Vốn đầu tư bỏ ra được lưu chuyển một cách dễ dàng, có thể rút ra nhanh chóng. Do vậy nó thu hút các nhà đầu tư. Vì thế nó là một kênh thu hút vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Đầu tư thương mại là loại đầu tư người có tiền mua hàng hóa và bán với giá cao hơn để hưởng chênh lệch. Loại đầu tư này không tạo ra thêm tài sản cho nền kinh tế, mà chỉ tạo thêm tài chính cho các tổ chức, cá nhân. Nhưng nó góp phần lưu thông hàng hóa, thúc đẩy sản xuất. Đầu tư phát triển là loại hình đầu tư quan trọng nhất của nền kinh tế. Về cơ bản, nó chính là nguồn đem lại tài sản cho nền kinh tế. Chính vì tầm quan trọng của nó nên chúng ta sẽ xem xét một cách kỹ càng hơn vấn đề đầu tư phát triển trong các mục tiếp theo đây. 1.3. Khái niệm đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, máy móc thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm vì mục tiêu phát triển. Đứng ở góc độ danh từ, thì đầu tư ở đây được hiểu là một khoản vốn bằng tiền, sẵn sàng để các nhà đầu tư đem đầu tư vì mục đích phát triển và thu lợi nhuận. Sau khi hoàn thành, việc đầu tư vốn sẽ chuyển hóa thành tài sản hoặc hàng hóa. Trong một số trường hợp, khi nói đến “đầu tư”, người ta ám chỉ về một yếu tố kinh tế. Dưới góc độ động từ, thì đầu tư là việc đem một khoản tiền vốn để thực hiện một hoặc một số hoạt động vì mục tiêu phát triển. Trong trường hợp này, đầu tư phát triển được hiểu là công việc của con người với tư cách là các cá nhân hoặc tổ chức đem một khoản tiền vốn chi cho một hoạt động nào đó vì mục đích phát triển (mà biểu hiện cụ thể là vì mục đích thu lợi nhuận hay không thu lợi nhuận), thỏa mãn yêu cầu của chính bản thân con người và xã hội, tuân thủ nguyên tắc con người tác động trực tiếp hay gián tiếp vào tự nhiên vì sự mưu sinh của mình. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều nguồn lực lớn. Hiểu theo nghĩa hẹp, nguồn lực của nó là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nó là sự phối hợp các nguồn lực: tiền vốn, lao động tài nguyên, công nghệ... Việc đánh giá một dự án đầu tư nhất thiết phải tính đến các yếu tố trên. Các hoạt động của đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư xây dựng sửa chữa kết cấu hạ tầng cơ sở (cầu đường, nhà cửa...); đầu tư để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực (đầu tư cho giáo dục các cấp, đầu tư cho khoa học công nghệ, mở các trường học dạy nghề) nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân dân, trình độ tay nghề cho công nhân; xây dựng các nhà máy sản xuất tạo thêm công ăn việc làm.... Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...), sự gia tăng về tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...). Về mặt bản chất, nó chính là sự gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Hiệu quả của đầu tư phát triển được thể hiện trong mối quan hệ giữa kết quả kinh tế - xã hội và chi phí bỏ ra của dự án. Hiệu quả này cần xem xét trên phương diện lợi ích của chủ đầu tư và lợi ích mang lại cho xã hội. Một phương án đầu tư thành công, nó phải đảm bảo được tính sáng tạo của chủ đầu tư (tư nhân, Nhà nước...), đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư và về mặt xã hội phải góp phần năng cao chất lượng cuộc sống (môi trường, y tế, giáo dục...). Mục đích của đầu tư phát triển phải vì sự phát triển của một quốc gia, vì lợi ích của cộng đồng và cũng vì chủ đầu tư. Đó là tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận đối với doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả như vậy, trước hết ta phải nắm rõ những đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển. Dưới đây sẽ trình bày các đặc điểm cơ bản đó. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển có 5 đặc điểm chủ yếu sau: Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Đầu tư phát triển là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế. Nó là một bộ phận của tăng trưởng kinh tế. Khi quy mô đầu tư tăng, nó tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Vậy nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển là từ đâu? Đó là vốn. Bản chất đầu tư phát triển được thể hiện ở vốn. Vậy vì sao cần phải có một nguồn vốn lớn dành cho đầu tư phát triển? Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các hoạt động đầu tư khác. Nguồn vốn này dùng để chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi bổ sung cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong đó, chi xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng nhất. Nó là nguồn để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại, hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ như tạo thêm những công trình nhà máy, dây chuyền sản xuất, thiết bị máy móc mới, diện tích khai hoang, trồng rừng; những công trình thuỷ lợi, giao thông vận tải, truyền thông bưu điện; hay như sửa chữa, nâng cấp cầu đường, mua sắm, xây dựng lắp đặt trang thiết bị. Việc chi vốn này đẩy mạnh hoạt động sản xuất của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động này rất lớn. Thực tế, nó chiếm trên 80% tổng vốn đầu tư phát triển của một nước đang phát triển như Việt Nam. Ngoài ra còn có nguồn vốn chi bổ sung. Đó là các khoản đầu tư dùng để mua sắm nguyên vật liệu, thuê mướn lao động. Nguồn vốn này dùng để vận hành các công trình xây dựng cơ bản làm gia tăng tài sản quốc gia. Vốn chi cho đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư nhằm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội: trình độ dân trí, trình độ lao động, chất lượng môi trường. Cụ thể chi cho các công trình vì sức khỏe cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế. Các nguồn vốn này đều vì sự tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Để đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh trước hết nhất thiết phải có nguồn lực lớn mạnh. Do vậy, muốn đưa đất nước đi lên cần phải có những giải pháp cho việc huy động, quản lý và sử dụng vốn hợp lý. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư… Tài nguyên, vật tư là những thành tố không thể thiếu đảm bảo cho quá trình hoạt động bình thường của dự án. Nhưng điều quan trọng là cần phải có hướng sử dụng sao cho vừa duy trì được cân bằng sinh thái, tránh khai thác cạn kiệt vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư. Một đặc điểm quan trọng khác của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên, ta thấy rằng những dự án đầu tư phát triển thường có quy mô rất lớn. Quá trình chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư cần có một khoản thời gian nhất định. Ví dụ thời gian xây dựng mới một con đường quốc lộ cần ít nhất là 2 đến 3 năm, bao gồm các thủ tục về mặt pháp lý, giải phóng mặt bằng, thi công công trình, nghiệm thu công trình... Thực tế có những công trình xây dựng phải mất tới hàng chục năm: xây một tòa nhà cao tầng, xây nhà máy lớn, công trình thủy điện… Thời kỳ đầu tư kéo dài là cần thiết đối với một dự án. Nhưng vấn đề quan trọng là cần bao nhiêu thời gian. Điều này cần phải được nghiên cứu kỹ và có tính toán, tránh chạy theo thành tích mà đề ra những khoảng thời gian phi thực tế, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển thường nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Tiến độ công trình chậm bao nhiêu, thời gian hoàn vốn chậm bấy nhiêu. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư. Do vậy, việc đảm bảo thời gian thực hiện dự án cũng là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi công trình đưa vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Đây là một đặc điểm rất riêng của đầu tư phát triển. Thứ nhất, những sản phẩm của đầu tư phát triển đều là bộ phận của nền sản xuất. Nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế, nên thời gian sử dụng dài. Thứ hai, quy mô của các công trình rất lớn, nên cần có một khoảng thời gian tương đối để thu hồi vốn và có lợi nhuận. Trên thực tế có rất nhiều công trình đã tồn tại vài chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng thế kỷ như thủy điện sông Đà, cầu Long Biên, phố cổ Hội An.... Do tính chất này, nên trong suốt quá trình vận hành, nó chịu ảnh hưởng nhiều của các nhân tố bên ngoài, và đa phần là có ảnh hưởng tiêu cực đến sự thành công của dự án. Các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, nhất là đối với các công trình xây dựng. Các công trình xây dựng nói chung thường có quy mô lớn và phát huy tác dụng ngay tại địa phương xây dựng. Do vậy quá trình đầu tư cũng như thời gian vận hành các công trình này chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng. Xây dựng một công trình ở nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa khác với xây dựng ở vùng hanh khô, hay xây dựng công trình ở nơi có địa chất ổn định khác với xây dựng ở nơi hay xảy ra động đất. Do vậy nhà đầu tư cần có tính toán hợp lý vừa để đảm bảo tính kiên cố của công trình, vừa có thể giảm được chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp đến, sự phát triển kinh tế của vùng có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư và quy mô của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến việc mặt hàng của doanh nghiệp có khả năng phát triển trong điều kiện kinh tế vùng hay không? Lấy ví dụ về việc mở con đường ở nông thôn - kinh tế còn hạn chế - và ở thành phố - kinh tế phát triển. Ở nông thôn liệu nhu cầu đi lại đã đủ lớn để xây dựng con đường đó chưa? Nếu như nó được xây dựng có cần thiết phải xây con đường lớn không? Điều này buộc nhà đầu tư phải cân nhắc. Ngược lại ở thành phố, nhu cầu giao thông rất lớn, cần phải mở thêm đường để giảm bớt lưu lượng xe trên nhũng con đường khác, tránh ùn tắc... Điều kiện xã hội của vùng cũng có ảnh hưởng lớn tới công trình. Việc xây dựng nhà máy liệu có đảm bảo an ninh không, sản phẩm của nhà máy có phù hợp với văn hóa địa phương hay không?.... Do những ảnh hưởng trên đây, nên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ càng môi trường đầu tư để quyết định sản xuất mặt hàng gì, công suất bao nhiêu là hợp lý. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng mang một đặc điểm quan trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc thu hồi vốn liệu có gặp thuận lợi hay không? Cùng một nguồn vốn đó, nhà đầu tư có thể đa dạng hóa đầu tư. Điều này sẽ làm giảm thất bại hơn là việc dồn vốn cho một dự án. Hơn thế nữa, thời gian hoàn thành dự án dài, vốn bị khê đọng trong công trình. Trong khoản thời gian đó, chủ đầu tư rất có thể gặp khó khăn khi một chính sách mới ban hành không có lợi cho công trình, hay những biến động về giá cả... Do đo rủi ro là một vấn để được các nhà đầu tư rất quan tâm. Rủi ro trong đầu tư cũng có rất nhiều nguyên nhân. Tựu chung lại ta có thể xét rủi ro trên hai phương diện sau: Rủi ro chủ quan và rủi ro khách quan. Rủi ro chủ quan: nguyên nhân thuộc về phía các chủ đầu tư. Có thể do chủ đầu tư yếu kém về mặt trình độ, đã lựa chọn các phương án không hợp lý; do trình độ quản lý thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... Rủi ro khách quan: Có thể do thay đổi pháp luật; biến động của thị trường (giá cả nguyên vật liệu, mặt hàng liên quan); máy móc hư hỏng.... Để thực hiện đầu tư tốt, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân loại các rủi ro có thể gặp trong suốt quá trình đầu tư: - Rủi ro chính trị: do sự thay đổi về thuế theo hướng bất lợi khiến cho dòng lợi nhuận của chủ đầu tư giảm trong tương lai. Hay Nhà nước ban hành các chính sách giới hạn thương mại, hạn ngạch thuế quan khiến các doanh nghiệp phải giảm sản lượng, tăng chi phí. Điều này ảnh hưởng đến những tính toán trước khi ra quyết định đầu tư. Từ đó, công trình có nguy cơ giảm lợi nhuận, thua lỗ.... - Rủi ro trong quá trình xây dựng hoàn thành công trình: Rủi ro khi chi phí xây dựng vượt quá dự toán. Như vậy công trình sẽ gặp khó khăn trong việc xin cấp phép nguồn vốn bổ sung. Nó ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thi công công trình, ít thì có thể là một vài tháng, nhiều có thể vài năm, thậm chí công trình bị hủy, gây lãng phí nguồn lực. Rủi ro phát sinh cũng có thể là không hoàn thành công trình đúng thời hạn, không giải tỏa được dân cư... - Rủi ro về kỹ thuật vận hành: Khi các thiết bị trong quá trình thực hiện đầu tư gặp vấn đề. Điều này có thể gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ví dụ nguyên liệu đang trong giai đoạn chế biến quan trọng, nếu máy móc bị hỏng toàn bộ, nguyên liệu đó không thể sử dụng được. Thiệt hại của chủ đầu tư ngoài giá trị sản phẩm đó, còn các yếu tố liên quan khác: chi phí khắc phục máy móc, chậm giao sản phẩm cho khách hàng, kế hoạch làm việc của lao động.... Ngoài ra, ta còn có các loại rủi ro khác như: rủi ro về môt trường xã hội; rủi ro kinh tế vĩ mô (lạm phát, tỷ giá hối đoái), vi mô (cung, cầu)... Với những thiệt hại mà rủi ro đem lại cho các hoạt động đầu tư phát triển, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có những nghiên cứu để nhận diện, đánh giá rủi ro, phòng tránh rủi ro. Từ đó mới đi tới quyết định đúng đắn. II. Sự tác động của các đặc điểm đầu tư phát triển đến hoạt động quản lý đầu tư Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư và các yếu tố đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế, xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác, nhằm đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất. Quản lý hoạt động đầu tư là vô cùng cần thiết. Thứ nhất, quản lý giúp các chương trình đầu tư không đi lệch hướng chiến lược phát triển của quốc gia, ngành, địa phương. Đối với nước ta hiện nay, các dự án đầu tư phải tập trung vào chiến lược đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa: chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Thứ hai, quản lý Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tiếp cận được nguồn lực từ các địa phương và xã hội, bao gồm tài lực và vật lực. Đồng thời nó buộc các chủ đầu tư phải tiết kiệm, sử dụng hợp lý các nguồn lực đã có. Thứ ba, nhờ có sự quản lý, các công trình xây dựng mới đảm bảo chất lượng, thời hạn, đúng quy hoạch. Thứ tư, nó góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển với các đặc điểm phức tạp của mình luôn là một trong những vấn đề gây đau đầu những nhà quản lý. Chỉ có quản lý chặt chẽ, linh hoạt mới đảm bảo các dự án đầu tư phát triển mang lại hiệu quả cao mà ít tốn kém nguồn lực nhất. Chính vì vậy, khi tiến hành các hoạt động quản lý đầu tư cần phải nắm rõ những đặc điểm mang tính khách quan của đầu tư phát triển để có hướng đi đúng đắn. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, chúng ta sẽ tiếp cận sự tác động của đầu tư phát triển đến hoạt động quản lý đầu tư theo 3 hướng: Ở cấp vĩ mô và vi mô; trong hoạt động đầu tư phát triển tài sản vật chất và đầu tư phát triển tài sản vô hình; trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. 1.Trong công tác quản lý vĩ mô và vi mô. 1.1. Cấp quản lý vĩ mô. Dựa vào các đặc điểm đầu tư phát triển, Nhà nước cần phải ban hành một hệ thống luật pháp và văn bản pháp lý liên quan tới đầu tư. Luật Đầu tư quy định phạm vi, đối tượng, thủ tục, loại hình đầu tư...., liên quan tới nó là hàng loạt các văn bản pháp luật khác: luật thuế, luật đất đai, luật đấu thầu... Các văn bản này có tác dụng khuyến khích đầu tư, mặt khác không đi lệch với định hướng chiến lược của Nhà nước. Nó rất quan trọng trong việc khuyến khích các nhà đầu tư tiếp cận với các dự án đầu tư phát triển, giảm thiểu được thời gian nghiên cứu, lập dự án đầu tư. Do quy mô nguồn lực dành cho đầu tư phát triển là rất lớn, với vai trò quản lý, Nhà nước cần phải xác định nhu cầu nguồn lực trong hiện tại và tương lai. Từ đó, lên kế hoạch huy động các nguồn lực và đưa ra các giải pháp sử dụng chúng sao cho có hiệu quả cao nhất. Nhà nước có thể huy động nguồn vốn đầu tư trong nước như vốn từ ngân sách, vốn từ dân cư, vốn viện trợ, vốn FDI, vốn vay thương mại quốc tế. Để huy động hiệu quả các nguồn vốn này, Nhà nước phải xây dựng, củng cố hệ thống tài chính ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu luân chuyển nguồn vốn. Nhà nước cũng cần ban hành quy định chặt chẽ về tổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư theo tiến độ, thực hiện trọng tâm trọng điểm để mang lại hiệu quả nhất. Bên cạnh đó cũng phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực về lâu về dài, đi tắt đón đầu, bắt kịp với nhu cầu về con người của nền kinh tế. Thêm nữa, những chính sách quy hoạch, sử dụng có hiệu quả, tránh lãng phí các nguồn tài nguyên cũng cần phải được ưu tiên hàng đầu. Để việc thực hiện quản lý đầu tư thuận lợi, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống cơ quan chuyên trách để thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư. Đồng thời, đào tạo cán bộ chuyên môn sâu để có thể phân tích, đánh giá, dự báo tình hình đầu tư. Từ đó giảm thiểu mức độ rủi ro của phương án, tránh lãng phí nguồn lực hoặc những ảnh hưởng xấu không đáng có của dự án đến nền kinh tế, môi trường, văn hóa, xã hội…. 1.2. Cấp quản lý vi mô. Nếu như cơ quan Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt đầu tư bằng các văn bản, chính sách đầu tư thì doanh nghiệp là người đưa các dự án đầu tư vào thực hiện. Việc đưa các dự án đến thành công đòi hỏi công tác quản lý ở các cấp vi mô phải thật hiệu quả. Trước tiên, khi bắt đầu một dự án chủ đầu tư phải nghiên cứu môi trường đầu tư. Thứ nhất, sự ổn định về mặt chính trị và hành lang pháp lý của địa phương này có tạo điều kiện cho nhà đầu tư hay không: thủ tục đầu tư, sự ưu đãi khuyến khích đầu tư.. Thứ hai nhà đầu tư cần quan tâm tới cơ hội phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thứ ba, cần phải xem xét kỹ đến trình độ văn hóa, phong tục tập quán ở địa phương. Nó có một tầm quan trọng đang kể, do liên quan tới nguồn lực lao động cho dự án và thị trường tiềm năng của dự án. Và nhà đầu tư cũng rất cần quan tâm đến nguồn tài nguyên sẵn có của địa phương có thể phục vụ cho dự án. Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp phải cố gắng xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư ngay từ đầu. Vạch kế hoạch chuẩn bị vốn đầu tư từ nguồn nào, thực hiện tiến trình đầu tư ra sao, kế hoạch thu chi của công trình, kế hoạch trả nợ như thế nào... doanh nghiệp cũng cần phải làm thật chi tiết, kỹ càng. Dự án được lập ra càng rõ ràng, khoa học bao nhiêu thì càng mang lại nhiều khả năng thành công hơn cho dự án bấy nhiêu. Một loại rủi ro rất lớn mà doanh nghiệp thường gặp phải đó là sự thay đổi của cung cầu thị trường. Việc xác định chính xác rủi ro đó, sẽ mang lại mức lợi nhuận tối đa cho nhà đầu tư, đồng thời đưa ra được các dự báo chính xác trong tương lai. Từ đó doanh nghiệp quyết định có nên đầu tư mở rộng sản xuất hay không? Nói tóm lại, ở tầm vi mô, các nhà quản lý phải là người hiểu những đặc điểm vốn có của đầu tư phát triển một cách sâu sắc, triệt để nhất để có những bước đi, chiến lược nhằm mang lại thành công cao nhất cho dự án. 2. Trong hoạt động đầu tư phát triển tài sản vật chất và đầu tư phát triển tài sản vô hình. 2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất Tài sản vật chất là những tài sản hữu hình mà chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được. Đầu tư phát triển tài sản vật chất bao gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp. Nó bao gồm các hoạt động chính như xây lắp và mua sắm thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần phải xây dựng nhà xưởng, kho tàng, công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc... Tất cả các hoạt động đầu tư này đều đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ. Hàng tồn trữ của doanh nghiêp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành, được tồn trữ trong doanh nghiệp. Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác nhau. Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Tỷ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Trên cơ sở các đặc điểm của đầu tư phát triển, trong quá trình đầu tư phát triển tài sản vật chất cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất, do quy mô nguồn lực lớn, nên cần có sự quản lý thống nhất để tránh hao hụt, lãng phí. Điều này đòi hỏi nhà đầu tư phải có những giải pháp và kế hoạch đầu tư đúng đắn. Kèm theo đó là phải quản lý chặt chẽ tổng lượng vốn, tiến hành phân bổ các nguồn lực hợp lý theo từng giai đoạn, tập trung đầu tư dứt điểm từng hạng mục công trình… Thứ hai, sản phẩm của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có thời gian vận hành kéo dài, không dễ dàng phá dỡ được nên phải có sự lựa chọn, cân nhắc khi quyết định đầu tư. Trong quá trình thực hiện dự án, nhất thiết phải đảm bảo chất lượng công trình. Nếu như không có sự quản lý, giám sát chặt chẽ sẽ gây thất thoát lãng phí, còn công trình kém chất lượng sẽ ảnh hưởng lớn tới các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: máy móc hỏng, mất điện do đường dây bị “rút ruột”... Mặt khác, như trên đã nói, trong đầu tư có yếu tố độ trễ thời gian. Công trình có thể xây dựng trong năm nay, nhưng chưa chắc phát huy tác dụng trong năm đó mà có thể kéo dài trong nhiều năm tiếp theo. Như vậy thời gian hoàn vốn kéo dài, hao mòn tài sản hữu hình sẽ tăng. Cho nên, khi tiến hành đầu tư phát triển tài sản vật chất, công tác lập dự án cần phải được siết chặt và thực hiện thật nghiêm túc, khoa học. Thứ ba, trong các công trình xây dựng cơ bản, sự phù hợp của các thiết bị xây lắp là rất quan trọng. Nếu tính toán không hợp lý, hoặc không có sự đồng nhất, các thiết bị, dây chuyền không đồng bộ sẽ khiến dự án không thể vận hành được, gây thiệt hại cho chủ đầu tư. Thứ tư, doanh nghiệp cần phải có bộ phận nghiên cứu thị trường để có kế hoạch sản xuất và đầu tư vào hàng bổ sung tồn trữ hợp lý. Khi mức đầu tư hàng tồn quá lớn, doanh nghiệp mất thêm một khoản chi phí lớn cho kho bãi, quản lý; chất lượng sản phẩm có thể giảm; vốn ứ đọng, thời gian quay vòng dài gây lãng phí. Ngược lại, mức đầu tư này quá nhỏ, doanh nghiệp sẽ không có nguyên vật liệu để sản xuất, cung sản phẩm không đủ cầu. Hậu quả: sản xuất bị gián đoạn, lợi nhuận không đạt tối đa. Chính vì thế, bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được những vướng mắc trên. Điều này giúp gia tăng thêm lợi nhuận khi nhu cầu thị truờng tăng và giảm thiểu được chi phí khi rủi ro xảy ra với cung cầu trên thị trường. Nó giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được tối đa nguồn lực. Ngoài ra, khi lựa chọn địa điểm, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội để ra quyết định đầu tư chính xác, có hiệu quả nhất. Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Sau đó phải dựa trên những bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án để so sánh lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất. 2.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình Tài sản vô hình là những tài sản không cảm nhận thấy được bằng những giác quan đơn thuần. Đầu tư vào tài sản vô hình là một trong những bộ phận của đầu tư phát triển. Nó bao gồm các nội dung: Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh. Do vậy, đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực là rất cần thiết. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo (chính qui, không chính qui, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…) đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động… Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ. Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Đầu tư cho hoạt động marketing. Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp. Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu… Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển tài sản vô hình là vô cùng cần thiết. Thực vậy, trong quá trình phát triển của một quốc gia, thì không đơn thuần chỉ là đổ tiền vào các công trình xây dựng cơ bản, mà còn phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, môi trường văn hóa, giáo dục, y tế,… để đảm bảo sự phát triển đồng bộ, mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trên cơ sở các đặc điểm của đầu tư phát triển, trong quá trình đầu tư phát triển tài sản vô hình cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất, cũng như các loại hình đầu tư khác, quy mô nguồn lực cần huy động cho hoạt động đầu tư phát triển tài sản vô hình là vô cùng lớn ._.nhưng kết quả rất khó nhận biết ngay được, mà cần phải có thời gian dài để kiểm chứng. Một dự án đầu tư cải thiện môi trường văn hóa, xã hội thường cần rất nhiều tiền của, sức lực, mà kết quả thu được không chỉ ảnh hưởng đến một mà thậm chí là nhiều thế hệ. Kết quả của một dự án cải cách chương trình SGK không chỉ đơn thuần là việc mang lại một mặt bằng tri thức mới trong xã hội mà còn tác động đến tâm lý, tầm nhìn của cả một lớp người. Hoặc cũng dễ nhận thấy sau khi hoàn thành một dự án marketing thương hiệu, cũng chưa thể thấy ngay kết quả được, mà cũng phải cần từ 3, 4 tháng, thậm chí là rất lâu sau mới có thể đánh giá chính xác hiệu quả của dự án ấy. Chính vì vậy, bên cạnh việc đầu tư phát triển có chọn lọc, chúng ta cũng cần phải xây dựng những thang đo, tiêu chí đánh giá kết quả của các dự án đầu tư phát triển tài sản vô hình. Đó có thể là số những sản phẩm bán được sau chiến dịch marketing, tỷ lệ những người được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiên tiến, hiện đại…Việc xây dựng những thang đo này nhằm đánh giá chính xác hiệu quả và mức độ thành công của dự án, để từ đó có thể rút kinh nghiệm, tìm phương án đầu tư có hiệu quả hơn. Thứ hai, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả nhằm tránh thất thoát, lãng phí, nợ đọng kéo dài. Đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển tài sản vô hình nói riêng cần rất nhiều vốn. Vốn có thể được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Đó có thể là từ sự đóng góp của xã hội (đối với các chương trình công cộng như dự án cải thiện môi trường văn hóa, dịch vụ an sinh xã hội…); từ các chương trình xã hội hóa giáo dục y tế, các chương trình tài trợ của các tổ chức phi chính phủ; từ các quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp… Mỗi một đồng vốn chi ra cần được tính toán, cân nhắc sao cho nó mang lại hiệu quả nhất. Điều quan trọng là cần đầu tư đồng bộ, tránh dàn trải, chỗ nào cũng đầu tư, nhưng không chỗ nào đầu tư hoàn thiện cả. Đặc biệt là đối với các dự án giáo dục đào tạo, nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học công nghệ. Đã từng có thời Nhà nước chỉ cấp kinh phí để xây trường lớp mà không tính kinh phí mua bàn ghế. Địa phương lúng túng, học sinh thì vẫn không được hưởng thành quả từ các dự án mà các cấp vĩ mô đã vạch ra. Tránh lãng phí cũng là một điều đáng lưu tâm. Các doanh nghiệp trong quá trình rót vốn để đào tạo đội ngũ nhân công nhiều khi không so sánh hiệu quả của các phương án đào tạo, tiêu tốn khoản vốn lớn mà không tính toán rút kinh nghiệm. Điều này thường thấy ở hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Và tất nhiên, khi huy động và sử dụng vốn có hiệu quả thì dễ dàng hoàn vốn, tránh nợ đọng kéo dài. Thứ ba, đối với các dự án đầu tư phát triển nguồn nhân lực, cần chú ý xác định nhu cầu nguồn nhân lực trong tương lai và xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. Khoa học với tốc độ phát triển vũ bão đang ngày tạo ra những công nghệ, những ngành nghề mới đòi hỏi nguồn nhân lực với các trình độ khác nhau. Doanh nghiệp cần phải dự đoán trước nhu cầu nguồn nhân lực về cả chất lượng và số lượng để có bước đi cho phù hợp. Điều đó thể hiện ở việc xây dựng nhũng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp lý, bắt kịp xu thế phát triển của xã hội… Việc này không chỉ riêng của các doanh nghiệp mà còn là yêu cầu đặt ra đối với chiến lược đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Thứ tư, điều kiện văn hóa – xã hội ảnh hưởng rất lớn đến nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động, nên các dự án đầu tư phát triển tài sản vô hình cần phải rất chú ý đến điều này. Một trong những nhược điểm của lao động Việt Nam đó là cách làm việc “nông nghiệp”, chậm chạp và không linh hoạt. Doanh nghiệp muốn đào tạo nâng cao chất lượng lao động cần phải tuyên truyền, siết chặt kỷ luật nhằm thay đổi nhận thức của người lao động, nhất là đối với lao động phổ thông. Ngoài ra, trả lương đúng và đủ cũng được xem là một trong những biện pháp nhằm khuyến khích và nâng cao ý thức người lao động. Đầu tư phát triển tài sản vô hình là một trong những hoạt động đầu tư phát triển có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của một tập thể, một xã hội. Nhiều khi chỉ vì nhầm lẫn trong việc xác định nhu cầu hoặc do đầu tư chưa có chọn lọc mà gây ra tổn thất rất lớn. Do đó, khi tiến hành đầu tư phát triển tài sản vô hình cần có sự cân nhắc, đưa ra nhiều phương án, cách thực hiện để chọn lấy phương án có hiệu quả cao nhất. 3. Trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư Một dự án đầu tư phát triển cũng giống như các dự án đầu tư khác, bao gồm ba giai đoạn chính: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Trong ba giai đoạn này, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Đối với giai đoạn này, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất. Trong suốt quá trình soạn thảo dự án phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của công tác nghiên cứu. Chất lượng công tác lập dự án, chất lượng của các kết quả nghiên cứu, dự đoán thị trường, lựa chọn phương án đầu tư, nguồn cung cấp đầu vào, lựa chọn công nghệ sản xuất, địa điểm đầu tư…là những yếu tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư sau này. Việc lựa chọn địa điểm đầu tư sai do bố trí không gần vùng nguyên liệu, xa nơi tiêu thụ, việc xác định qui mô dự án không hợp lý, tối ưu, phương án đầu tư xây dựng bỏ sót hoặc không xây dựng giải pháp bảo vệ môi trường, an toàn lao động, hồ sơ thiết kế không theo quy chuẩn về kỹ thuật, thoát ly điều kiện thực tế, công tác lập dự toán không đánh giá đúng khối lượng, sử dụng sai định mức, áp giá sai… là những nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, làm giảm hiệu quả đầu tư trong hiện tại và tương lai. Công tác thẩm định dự án bao gồm việc thẩm định kinh tế, kỹ thuật, tài chính, thị trường… do bỏ sót nội dung, đánh giá không chính xác các chỉ tiêu của dự án…cũng là một trong những nguyên nhân làm hiệu quả đầu tư bị giảm sút. Do vậy, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác…) và vận hành các kết quả đầu tư. Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và phát huy hết năng lực phục vụ dự kiến. Trong giai đoạn thứ hai, vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả. Ở giai đoạn này, vốn đầu tư của dự án được chi ra và nằm khê đọng trong suốt thời gian thực hiện đầu tư. Đây là khoảng thời gian vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư kéo dài do các nguyên nhân dù khách quan hay chủ quan như do thiếu vốn, hoặc do đầu tư phân tán dàn trải nhiều công trình…sẽ, một mặt, làm dự án chậm được đưa vào khai thác, lãi vay sử dụng vốn vì thế cũng tăng lên, mặt khác, làm mất cơ hội kinh doanh, chi phí sản xuất sau này tăng…hậu quả là, hiệu quả đồng vốn thấp. Lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư, thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư. Giai đoạn thứ ba: Vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu, thì hiệu quả hoạt động của các kết quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức, quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Làm tốt công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức, quản lý, phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư. Thời gian phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư còn được gọi là vòng đời của dự án hay tuổi thọ kinh tế của công trình, nó gắn với đời sống của sản phẩm do dự án tạo ra trên thị trường. 3.1. Quá trình chuẩn bị đầu tư Quá trình chuẩn bị đầu tư gồm 4 bước: nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác chuẩn bị đầu tư được thể hiện ở chỗ: Tiến hành nghiên cứu cơ sở pháp lý của địa phương tiến hành đầu tư. Mỗi địa phương tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mình sẽ có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển khác nhau, do vậy việc tìm hiểu các chính sách này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định có nên đầu tư vào địa phương đó hay không? Ngoài ra, các chính sách khuyến khích hay không khuyến khích của chính quyền và sự thay đổi nhanh hay chậm của luật pháp cũng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn nhanh hay chậm, sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ…Nhà đầu tư cũng rất cần quan tâm đến sự kiểm tra, giám sát của chính quyền là chặt chẽ hay buông lỏng. Đứng trên quan điểm của chủ đầu tư, việc này có ý nghĩa là sẽ đối phó như thế nào với chính quyền. Điều này cũng rất quan trọng trong việc lập dự án đầu tư. Nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Tiềm năng, thế mạnh đó có thể là khả năng cung ứng nguyên vật liệu, nguồn nhân lực cho dự án hoặc cơ sở hạ tầng sẵn có của địa phương. Khi đã xác định được lợi thế của mỗi địa phương, chủ đầu tư sẽ phải quyết định quy mô và cách thức đầu tư cho phù hợp, sao cho tận dụng tối đa lợi thế của mỗi địa phương. Thí dụ, công suất xây dựng nhà máy sản xuất nhôm ở khu vực có quặng bôxit phụ thuộc rất nhiều vào trữ lượng bôxit của mỏ bôxit ở địa phương ấy. Nếu trữ lượng bôxit của mỏ ít thì quy mô nhà máy không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Đầu tư phát triển vốn dĩ có rủi ro cao, nếu không nghiên cứu kỹ và lựa chọn địa điểm đầu tư thích hợp thì chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với nhiều biến cố bất ngờ, như thiên tai, dịch họa, khả năng cạn kiệt nguyên liệu (nhất là đối với các dự án mà nguyên liệu là tài nguyên thiên nhiên)… Để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư đúng, phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa… Do đó, cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Nghiên cứu thị trường “sản phẩm” của dự án. Sản phẩm ở đây không chỉ là những đồ vật cảm nhận thấy được mà đó còn có thể là một thương hiệu tốt, một đội ngũ nhân công lành nghề… Nhà đầu tư phải xác định cung – cầu của thị trường đối với sản phẩm mình định sản xuất. Trên cơ sở đó tiến hành dự toán tài chính và quy mô sản xuất, cũng như các biện pháp đối phó với diễn biễn của thị trường, đó có thể là các cú sốc cầu bất lợi (do sự thay đổi thị hiếu, quan điểm tiêu dùng hoặc tiến bộ của khoa học công nghệ…), các cú sốc cung đột ngột do các tác nhân bên ngoài. Nhằm nâng cao khả năng đối phó với những thay đổi của thị trường, cần phải phân tích, dự báo, xây dựng các phương án phòng tránh rủi ro khả thi. Tìm hiểu mối quan hệ giữa địa phương định đầu tư với các khu vực khác. Việc này nhằm xác định khả năng xuất khẩu của địa phương, giá cả của sản phẩm cùng loại so với thị trường thế giới (liên quan đến tỷ giá hối đoái), vị trí thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế, tình hình chính trị, chính sách thương mại thương mại trong nước và khu vực… Nắm bắt được những điều này để xây dựng phương án làm tăng tính cạnh tranh sản phẩm của dự án cũng như tìm ra cách sử dụng các nguồn lực sẵn có sao cho có hiệu quả nhất. Nghiên cứu khả năng mở rộng sản xuất trong tương lai. Để có thể quyết định là nên hay không nên mở rộng quy mô sản xuất, nhà đầu tư phải xác định chính xác nhu cầu của thị trường, sản phẩm đang ở thời điểm nào trong chu kỳ sống của nó và xu hướng biến đổi của sản phẩm trong tương lai… Bên cạnh đó cũng cần tính toán đến thị phần và nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để có hướng đi cho chính xác. 3.2. Quá trình thực hiện đầu tư Quá trình thực hiện đầu tư gồm các bước: hoàn tất thủ tục đầu tư, thiết kế lập tổng dự toán, xây dựng mua sắm thiết bị, tuyển dụng đào tạo lao động, nghiệm thu, thanh quyết toán, bàn giao kết quả. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác thực hiện đầu tư được thể hiện ở chỗ: Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Thực hiện đầu tư là giai đoạn vốn nằm khê đọng không mang lại lợi nhuận nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều chủ đầu tư thường làm việc một cách thiếu kế hoạch và buông lỏng quản lý, tạo khe hở gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn, đội mức tổng đầu tư lên cao hơn so với tính toán ban đầu. Chính điều này là nguyên nhân của việc nhiều năm trở lại đây, hệ số ICOR của Việt Nam liên tục tăng, tình trạng tham nhũng diễn ra tràn lan khiến chúng ta đánh mất niềm tin ở các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, đào tạo nguồn nhân lực, thuê chuyên gia trong nước và nhân công quốc tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ đảm bảo cho sự thành công của giai đoạn thực hiện đầu tư. Lời khuyên và tư vấn giám sát của những chuyên gia có tên tuổi thường mang lại hiệu quả cao trong suốt quá trình thực hiện dự án. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí, nâng cao hiệu suất sử dụng. Thêm nữa, nhà đầu tư cũng phải tiến hành nghiên cứu lắp đặt dây chuyền sao cho hợp lý. Việc mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Nếu đầu tư công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị có chất lượng kỹ thuật cao, giá cả hợp lý, phù hợp với trình độ quản lý và sử dụng, sẽ cho phép chủ đầu tư, trong giai đoạn vận hành, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, tiết kiệm được chi phí nhân công, nguyên liệu, năng lượng, giảm tối thiểu mức độ ảnh hưởng đến môi trường, môi sinh… Kết quả là, hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển có điều kiện được nâng cao. Công tác đấu thầu cũng cần được lưu tâm. Đấu thầu được xem là một giải pháp tiến bộ trong việc chọn thầu xây dựng, chọn ra được nhà thầu có đủ năng lực thực hiện công trình và là một trong những biện pháp hiệu quả để giảm thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, do đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả đầu tư sau này. Tuy nhiên, đấu thầu sẽ không mang lại kết quả như mong muốn nếu không thực hiện đúng trình tự đấu thầu, công tác xét thầu, đánh giá xếp loại nhà thầu thiếu chuẩn mực, có hiện tượng thông đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu, giữa các nhà thầu để khống chế giá và hiện tượng bỏ thầu giá thấp rất nhiều so với giá dự toán nhằm bằng mọi cách trúng được thầu… Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng công trình đầu tư, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của công trình sau này, do đó, làm giảm hiệu quả đầu tư. Rút ngắn thời gian đầu tư một cách thích hợp bằng nhiều phương cách khác nhau. Như trên đã nói, trong suốt thời gian thực hiện đầu tư, vốn luôn ở trạng thái khê đọng. Do vậy, càng giảm bớt thời gian thực hiện đầu tư xuống càng ngắn thì càng mang lại hiệu quả cao. Nhưng không phải vì mục tiêu tiến độ mà không tính đến chất lượng của dự án. Nếu thực hiện một cách cẩu thả, không đảm bảo yêu cầu đặt ra, thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của giai đoạn vận hành, nhiều khi gây hỏng hóc, lãng phí không đáng có. Các DNNN thường lâm vào tình trạng này khi chạy theo thành tích mà không quan tâm đến chất lượng công trình. Chính vì thế, chủ đầu tư cần thuê đội ngũ tư vấn giám sát có trách nhiệm, có chuyên môn nhằm đảm bảo sự thành công của dự án. Giảm thiểu và hạn chế rủi ro, nhận diện rủi ro, đánh giá đúng mức độ rủi ro và xây dựng phương án phòng chống rủi ro thích hợp. Đối mặt với nhiều biến động bất ngờ như sự thay đổi về thời tiết, thiên tai, giá nguyên vật liệu, giá vận chuyển,… chủ đầu tư phải có những phương án đối phó như lập các quỹ dự phòng, thu mua dự trữ,… nhằm giảm thiểu đến mức thấp nhất tác động của những yếu tố bên ngoài đến tiến độ và chất lượng trong suốt quá trình thực hiện. 3.3. Quá trình vận hành kết quả đầu tư Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác vận hành kết quả đầu tư được thể hiện ở chỗ: Có giải pháp tạo vốn và huy động vốn phù hợp, sử dụng công nghệ ứng với lượng vốn sẵn có, xác định mức thu hồi vốn và lãi suất hàng năm. Dự đoán chính xác vòng luân chuyển của vốn sẽ đảm bảo tính liên tục cho hoạt động của dự án, rút ngắn thời gian thu hồi vốn, tạo điều kiện nhanh chóng mở rộng sản xuất. Xây dựng kế hoạch phát triển, có cơ chế và phương pháp dự báo khoa học nhằm hoạch định bước đi cho phù hợp trong từng giai đoạn. Mỗi một giai đoạn phát triển khác nhau cần một chiến lược khác nhau, trong giai đoạn đầu có thể không đủ tiềm lực tấn công mảng thị trưòng này, nhưng sang giai đoạn sau, khi cơ hội đến, chủ đầu tư có thể tiến hành vay vốn, mở rộng sản xuất để đưa sản phẩm vào chiếm lĩnh thị trường đó. Điều quan trọng là phải dự đoán và nắm bắt thời cơ để có thể tạo ra những bước nhảy vọt trong suốt quá trình tồn tại của dự án. Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa kết quả đầu tư vào sử dụng cũng là một trong những yêu cầu để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tránh hao mòn vô hình. Hoạt động tối đa công suất, chú ý yếu tố độ trễ thời gian. Trong thời gian đầu khi đưa vào hoạt động, không thể nôn nóng mong muốn có lãi ngay được, mà chủ đầu tư cần phải tính toán chi tiết từng chu kỳ hoạt động của dự án. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà có thể là từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Chính vì thế chất lượng công tác quản lý hoạt động đầu tư cần phải được nâng cao nhằm đảm bảo sự hoạt động ổn định của cả doanh nghiệp. Nói tóm lại, trong suốt chu kỳ của dự án, chủ đầu tư cần phải nhận thức sâu sắc những đặc điểm vốn có của đầu tư phát triển. Từ đó có những giải pháp, kế hoạch thật phù hợp để giảm thiểu rủi ro, mang lại hiệu quả cao nhất. Nhiều khi chỉ vì sai phạm ở một khâu nào đó có thể dẫn đến đổ bể cả một dự án, gây tổn thất lớn cho chủ đầu tư và các bên liên quan. Nếu quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển thật kỹ lưỡng, trên cơ sở đó có những chính sách, hướng giải quyết vấn đề phù hợp thì chắc chắn sẽ mang lại thành công cho cả dự án. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐTPT VÀ TÌNH HÌNH QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐTPT TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM I. Thực trạng ĐTPT ở Việt Nam Kể từ khi chinh thức mở cửa nền kinh tế đến nay, nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng kể như: khống chế được lạm phát; kinh tế tăng trưởng liên tục, ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực… Những thành tựu đạt được này là do đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước, huy động sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 như nghị quyết đại hội Đảng VIII đã đề ra. 1. Thực trạng huy động vốn đầu tư Trong những năm gần đây nguồn vốn đầu tư chủ yếu của nước ta vẫn là từ nguồn vốn trong nước, chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư. Trong các nguồn vốn đầu tư trong nước thì vốn từ ngân sách Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước vẫn là chủ yếu, chiếm khoảng 53.7%. Trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chiếm khoảng 22.5% trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17.1%, vốn tín dụng của Nhà nước chiếm ti trọng 14.1%. Vốn ngân sách Nhà nước gia tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm ti trọng cao trong các nguồn vốn đầu tư phát triển. Chúng ta có được kết quả này là do quy mô ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên trong những năm gần đây, nhờ mở rộng các nguồn thu khác nhau mà chủ yếu là từ thuế và phí (chiếm 90%), trung bình tăng 17%/năm. Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách Nhà nước bình quân đạt 23.5%. Tỷ lệ đầu tư phát triển trong tổng ngân sách nhà nước đạt khoảng 29.7%. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách thì vốn từ tín dụng đầu tư của Nhà nước cũng có những chuyển biến tiến bộ, tuy nhiên trong những năm gần đây nguồn vốn này giảm dần qua các năm do chúng ta chủ trương thu hẹp đối tượng cho vay, hạn chế cho vay theo dự án và đẩy mạnh thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Trong cả giai đoạn 1995 - 2006 quy mô vốn tín dụng của Nhà nước đạt khoảng 215.2 nghìn tỉ đồng, trong đó vốn tín dụng của Nhà nước chiếm khoảng 9.8% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đặc điểm nổi bật của đầu tư trong nước trong giai đoạn 1995 - 2006 là sự tăng lên mạnh mẽ từ đầu tư của khu vực tư nhân. Vốn đầu tư trong nước giai đoạn này là 382.7 tỉ đồng, tốc độ tăng là 12.1%/năm. Thêm nữa, có thể thấy trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1995 - 2006, vốn tư nhân và dân cư chiếm tỉ trọng cao nhất. Nó cho thấy đây thực sự là nguồn vốn có thể khai thác với khối lượng đáng kể của nền kinh tế. Theo điều tra, tổng giá trị tiết kiệm có trong hộ gia đình khoảng 71.995 tỉ đồng, trong đó 65.617 tỉ đồng có khả năng huy động thực tế và khoảng 10.788 tỉ đồng là tiền gửi ngân hàng, tín phiếu kho bạc, nên được coi là đã huy động, phần còn lại là tiền mặt, kim khí quý và một phần bất động sản chưa huy động. Thực tế thì nguồn tiền tiết kiệm trong dân mới được khai thác tương đối ít, còn phần lớn thì vẫn nằm chết dưới các hình thức cất trữ. Theo điều tra ước tính của Bộ Kế hoạch đầu tư và Tổng cục thống kê năm 2007, nguồn vốn trong dân hiện có khoảng 8 tỉ USD. Nhưng chỉ có khoảng 19% nằm dưới dạng đầu tư (nhưng đa phần là đầu tư ngắn hạn), còn lại vẫn nằm dưới dạng cất trữ. Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế Tổng số Chia ra Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Giá thực tế Tỷ đồng 1995 72447 30447 20000 22000 1996 87394 42894 21800 22700 1997 108370 53570 24500 30300 1998 117134 65034 27800 24300 1999 131171 76958 31542 22671 2000 151183 89417 34594 27172 2001 170496 101973 38512 30011 2002 200145 114738 50612 34795 2003 239246 126558 74388 38300 2004 290927 139831 109754 41342 2005 343135 161635 130398 51102 2006 398900 185100 150500 63300 Gía so sánh 1994 Tỷ đồng 1995 64685 27185 17857 19643 1996 74315 36475 18537 19303 1997 88607 43801 20032 24774 1998 90952 50498 21586 18868 1999 99855 58585 24012 17258 2000 115109 68089 26335 20685 2001 129460 77421 29241 22797 2002 147993 86677 35134 26182 2003 166814 95471 42844 28499 2004 189319 105082 53535 30702 2005 213931 115196 62842 35893 2006 239813 125413 72120 42280 Nguồn: www.gso.gov.vn (trang web của Tổng cục thống kê) Để gia tăng vốn cho đầu tư phát triển, chính phủ thực hiện huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ từ năm 2003. Vốn huy động năm 2003 là 8.1 nghìn tỉ đồng, năm 2004 là 6.5 nghìn tỉ đồng (khoảng 0.5 nghìn tỉ đồng là huy động bằng ngoại tệ nước ngoài) và đạt được khoảng 13.1 nghìn tỉ đồng (khoảng 5 nghìn tỉ đồng là huy động bằng ngoại tệ) vào năm 2006. Tính chung cho cả giai đoạn 1995 - 2006 vốn huy động bằng phát hành trái phiếu chính phủ là khoảng 27.9 nghìn tỉ đồng, huy động trong nước khoảng 22.4 nghìn tỉ đồng, chiếm 1.8% trong tổng vốn đầu tư phát triển. Nói chung vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 1995 - 2006 mới đạt quy mô chưa đáng kể so với các nguồn huy động vốn khác. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật và cơ chế chính sách với mục đích khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài mang vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý hiện đại vào sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Chúng ta cố gắng tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài là tương đối khả quan, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Trong giai đoạn 1995 - 2006, vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng gần 30% tổng vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Ngoài các nguồn vốn chủ yếu là ODA và FDI, vào Việt Nam còn có lượng vốn mà các doanh nghiệp tự đi vay nước ngoài hoặc vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ ra nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng chỉ mới phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài nên các nguồn vốn này còn chưa đáng kể. Thu hút nguồn vốn ODA trong thời gian qua đạt thành tựu quan trọng. Tổng mức ODA các nhà tài trợ cam kết cho nước ta trong giai đoạn 1995 - 2006 ước đạt 31 tỉ USD, trong đó các khoản viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20%. Nguồn vốn ODA đã được giải ngân tính đến năm 2006 đạt khoảng 15.5 tỉ USD, chiếm khoảng 50% giá trị ODA cam kết tài trợ, trong đó 80% nguồn vốn cho đầu tư phát triển còn lại là chi cho sự nghiệp. Tốc độ giải ngân là 11.3%. Hiện nay, có 25 nhà tài trợ song phương, 14 tổ chức tài trợ đa phương và trên 350 NGO hoạt động tại Việt Nam. Ba nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam là Nhật Bản (chiếm 40%), ADB và WB. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1988 – 2006 Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ) Tổng số Trong đó: Vốn pháp định Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp Tổng số 8266 78248.2 34945.4 29613.7 5331.7 37271.7 1988 - 1990 211 1602.2 1279.7 1087.3 192.4 1991 - 1995 1409 17663.0 10759.0 8605.5 2153.5 6517.8 1996 - 2000 1724 26259.0 10921.8 8714.5 2207.3 12944.8 2001 - 2005 3935 20720.2 7310.1 6878.1 432.0 13852.8 2006 987 12003.8 4674.8 4328.3 346.5 3956.3 (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. Nguồn: www.gso.gov.vn (trang web của Tổng cục thống kê) Thu hút FDI trong giai đoạn từ 1995 - 2006 cũng đạt kết quả tích cực. Kết quả huy động vốn FDI khoảng 298.4 nghìn tỉ đồng, tương ứng khoảng 19.5% nguồn vốn đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vốn FDI bị sụt giảm mạnh sau cơn bão tài chính ở châu Á năm 1997. Tuy nhiên, huy động FDI có xu thế phục hồi trong những năm gần đây. Trong số 64 nước đầu tư tại Việt Nam, các nước châu Á chiếm trên 76% số dự án và trên 70% số vốn đăng kí, trong đó Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông chiếm trên 60% số dự án và số vốn đăng kí, còn các nước EU chiếm khoảng 16% về số dự án và 24% số vốn đăng kí, Hoa Kì chiếm khoảng 19.5% số dự án và 2.7% số vốn đăng kí. Bên cạnh ODA và FDI thì một lượng vốn không nhỏ được chuyển vào nước ta là kiều hối của bà con Kiều bào ở nước ngoài chuyển về hàng năm. Lượng kiều hối năm 2006 là 4.5 tỉ USD và năm 2007 ước đạt khoảng 8 tỉ USD. Đây là một lượng bổ sung khá quan trọng cho vốn đầu tư phát triển trong nước và ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình. Ngoài các nguồn vốn trên thì còn một lượng vốn vay của nước ngoài. Tuy nhiên, lượng vốn này không đáng kể, chỉ đạt khoảng 50 nghìn tỉ đồng. Lượng trái phiếu chính phủ phát ra nước ngoài bằng ngoại tệ khoảng 5.5 nghìn tỉ đồng. Nhìn chung, với nhu cầu đầu tư mạnh mẽ hiện nay, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển với 7 nguồn chủ đạo này là khá khiêm tốn. Nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn nhưng chưa có phương thức huy động thích hợp. Điều này đòi hòi chúng ta phai đa dạng các kênh và các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển. 2. Đầu tư phát triển tài sản vật chất và tài sản vô hình. 2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất Nguồn vốn đầu tư phát triển trong những năm qua được phân bổ hợp lí hơn và có nhiều cải thiện đáng ghi nhận. Vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước trong giai đoạn này đã tập trung nhiều cho các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, trong đó đẩu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chiếm khoảng 26.5%, công nghiệp chiếm khoảng 27.7% . Vốn ngân sách Nhà nước được ưu tiên đầu tư cho những điạ bàn trọng điểm nhưng cũng được huy động hợp lý cho các địa phương còn khó khăn, có nguồn thu quá thấp và các tỉnh chậm phát triển. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tập trung hỗ trợ cho các chương trình kinh tế lớn của Nhà nước, các dự án trọng điểm quốc gia: Chương trình kiên cố hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn, chương trình tôn nền vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long, chương trình phát triển đội tàu biển Việt Nam, chương trình đóng mới toa xe đường sắt, các dự án thép, dệt may, các dự án phát triển cơ cấu hạ tầng …Cơ cấu nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong giai đoạn 2001-2005 như sau: Cho vay các dự án thuộc ngành công nghiệp xây dựng chiếm 52.2%, các dự án thuộc ngành nông lâm thuỷ sản 15.7%, các dự án thuộc ngành giao thông vận tải, bưu điện 27.8%, các dự án khác chiếm khoảng 4.3%. Trong thời gian qua, Quỹ hỗ trợ phát triển đã đẩy mạnh thực hiện việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được thực hiện từ năm 2003. Quỹ đã thực hiện giao kế hoạch vốn đầu tư đến từng công trình, dự án, nên thủ tục nhanh hơn, điều hành linh hoạt hơn, bố trí vốn phù hợp với yêu cầu thực tế. Do đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nên vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước tập trung chủ yếu vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của đất nước và được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Hiện nay nước ta có khoảng 3572 doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp này nắm giữ hầu hết các nguồn lực trong xã hội, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn của các chúng lại không cao. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước theo giá so sánh năm 1994 phân theo ngành kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số 86677 95471 105082 115196 125413 Nông nghiệp và lâm nghiệp 6424 7480 7006 7852 7832 Thủy sản 701 787 369 405 580 Công nghiệp khai thác mỏ 5648 7834 9680 9916 10543 Công nghiệp chế biến 14776 14110 9762._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37346.doc
Tài liệu liên quan