Công ty TNHH Hải Anh với khả năng cạnh tranh trong nền Kinh tế thị trường

Lời nói đầu Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xuất hiện như là một tất yếu khách quan không thể xoá bỏ, đồng thời nó cũng là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp là chấp nhận đương đầu với thách thức cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài có nền kinh tế phát triển hơn, có kinh nghiệm cạnh tranh hơn, để tạo điều kiện phát triển cho các công ty doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty TNHH Hải Anh với khả năng cạnh tranh trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế tại Việt Nam. Mỗi công ty doanh nghiệp của Việt Nam cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp tốt nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xác lập vị thế để đảm bảo đủ điều kiện cho doanh nghiệp mình phát triển, để góp phần đưa hàng hoá Việt Nam cạnh tranh cùng thế giới trong nền kinh tế toàn cầu hoá . Công nghệ thông tin hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới phát triển rất mạnh. Các công ty kinh doanh về vi tính , tin học không phải là ít và không chỉ có các công ty trong nước mà còn cả những công ty nước ngoài đang đầu tư vào Việt Nam một cách rầm rộ. Vì vậy để tồn tại và phát triển một cách vững chắc trên thị trường công nghệ thông tin, công ty thiết bị kỹ thuật tin học Hải Anh cần tìm cho mình một chính sách phát triển thích hợp. “Công ty Hải Anh với khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường” là đề tài tôi chọn để làm bài. Đề án môn học được chia làm ba phần: Phần I : Tăng khả năng cạnh tranh – một tất yếu khách quan của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Phần II : Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh công ty. Phần III : Một số ý kiến nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Phần I tăng khả năng cạnh tranh - một tất yếu khách quan của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Thị trường và các qui luật của thị trường. Thị trường. Việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất, thực hiện dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ cũng như bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại đều diễn ra trên thị trường. Thị trường có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Chúng được xem xét từ nhiều góc độ và được đưa ra vào các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Theo nghĩa rộng , thị trường là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá được biểu hiện bằng các hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra trong không gian, thời gian nhất định. Ngoài ra thị trường còn được hiểu là tổng hợp các quan hệ trao đổi mua bán giữa những người bán và người mua được thực hiện trong những điều kiện của sản xuất hàng hoá (L.Reudos) hay thị trường là tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi mà ở đó có sự gặp gỡ giữa cung và cầu; giữa người bán và người mua; và là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Quan điểm của Samuelson cho rằng thị trường là một quá trình người mua và người bán gặp gỡ nhau để xác định lên số lượng và giá cả hàng hoá. Qua các khái niệm trên ta có thể rút ra kết luận: bản chất của thị trường là hoạt động trao đổi, thông qua đó người mua, người bán thoả mãn nhu cầu của mình. Như vậy, các yếu tố cấu thành nên thị trường bao gồm: đối tượng của hoạt động trao đổi là sản phẩm vật thể hoặc dịch vụ, chủ thể của hoạt động trao đổi là người bán và người mua, và các điều kiện thực hiện trao đổi. Thị trường bao hàm cả yếu tố không gian và thời gian và trong những quan niệm hiện nay về thị trường thì không gian và thời gian của trao đổi là những quan niệm mở. Vai trò và chức năng của thị trường. Vai trò của thị trường: Doanh nghiệp nhận biết nhu cầu của thị trường để quyết định loại hàng hoá sản xuất, khảo sát đối tượng trong thị trường để doanh nghiệp tập trung phục vụ và từ phản hồi của khách hàng trên thị trường đối với sản phẩm của mình để ra những quyết định kinh doanh. Như vậy thị trường có vai trò là môi trường kinh tế xã hội, là tấm gương để các doanh nghiệp nhận biết nhu cầu và đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Thị trường phản ánh một cách chân thực tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường là một khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Có thị trường thì quá trình lưu thông hàng hoá mới có thể diễn ra. Lưu thông hàng hoá thuận lợi thì quá trình luân chuyển vốn mới diễn ra nhanh chóng. Và có như thế tái sản xuất hàng hoá mới được mở rộng và phát triển, nền kinh tế mới vận động một cách nhịp nhàng, ổn định. Thị trường còn là cầu nối giữa doanh nghiệp với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là nơi hoàn thành các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp tham gia vào thị trường là tham gia vào các mối quan hệ kinh tế trên thị trường. Các mối quan hệ này bao gồm từ các mối quan hệ tổng thể là toàn bộ nền kinh tế quốc dân cho đến những mối quan hệ cá thể là giữa các doanh nghiệp với nhau như quan hệ mua bán, quan hệ cộng tác, quan hệ cạnh tranh… Khi các mối quan hệ được kết hợp một cách hài hoà tức là doanh nghiệp đề ra được những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, đó sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. còn trường hợp ngược lại doanh nghiệp sẽ không còn cơ hội đứng vững trên thị trường. Vì vậy có thể nói thị trường là nơi kiểm nghiệm đúng đắn nhất các đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước, của các nhà kinh doanh. Chức năng của thị trường: Trong nền kinh tế hàng hoá, sản phẩm sản xuất ra với mục đích để bán nghĩa là sản xuất cho nhu cầu của xã hội. Sản phẩm bắt buộc phải bán được trên thị trường thì mới được xã hội thừa nhận. Vì vậy mà thị trường có chức năng thừa nhận. Thị trường chỉ thừa nhận hàng hoá và dịch vụ nếu nó phù hợp với những đòi hỏi của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng mua sản phẩm nghĩa là thị trường đã “bỏ phiếu bằng tiền” cho sự tồn tại của sản phẩm. Ngược lại, nếu không được thị trường thừa nhận thì doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Muốn được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp phải “cung cái thị trường cần chứ không phải cái mình thích hoặc có khả năng cung ứng”. Chức năng thực hiện của thị trường được biểu hiện: thị trường là nơi thực hiện giá trị của hàng hoá thông qua các hoạt động mua bán giữa người mua và người bán. Giá trị của hàng hoá và dịch vụ được thực hiện thông qua giá cả thị trường trên cơ sở giá trị của chúng được thị trường thừa nhận. Giá trị của hàng hoá được thực hiện, người bán thu được tiền về từ người mua thì quyền sở hữu hàng hoá được chuyển từ người bán sang người mua, hàng hoá đi sang lĩnh vực tiêu dùng cá nhân ở đó giá trị sử dụng của nó sẽ được thực hiện, đó là mục đích cuối cùng của sản xuất. Sự vận động của quan hệ cung cầu và giá cả thị trường thực hiện sự cân đối về tổng số cũng như cơ câu cung và cầu thông qua đó mà thực hiện sự cân đối sản xuất và tiêu dùng xã hội trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường là một lĩnh vực phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ kinh tế thông qua mua, bán vì vậy nó chứa đựng thông tin đa dạng và nhiều mặt. Thị trường cung cấp các thông tin về cung, cầu (tổng số và cơ cấu); về hàng hoá (chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã…); về khách hàng (khả năng thanh toán, thu nhập, sở thích, thị hiếu, thói quen tiêu dùng…). Thị trường cũng chứa đựmg các thông tin về đối thủ cạnh tranh về chi phí, giá cả. Thông tin của thị trường là thông tin hai chiều diễn ra giữa người bán ú người bán, người bán ú người mua, người mua ú người mua. Những thông tin này không chỉ cần thiết cho người sản xuât, người tiêu dùng mà cả đối với Nhà nước và các tổ chức kinh tế. Chức năng điều tiết của thị trường với sản xuất, lưu thông và tiêu dùng của xã hội được thực hiện qua sự vận động của các quy luật kinh tế của thị trường thông qua quan hệ cung cầu và tín hiệu giá cả thị trường. Với sản xuất, thị trường thực hiện việc phân bổ các nguồn lực (vốn, lao động, đất đai) vào các ngành, các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Với lưu thông, thị trường điều tiết sự lưu thông hàng hoá từ nơi thừa đến nơi khan hiếm, từ nơi giá cả thấp đến nơi có giá cả cao để đáp ứng nhu cầu của xã hội thông qua đó mà đạt được lợi nhuận. Và đối với tiêu dùng, chức năng điều tiết biểu hiện ở chỗ kích thích hoặc làm hạn chế tiêu dùng với từng loại hàng hoá hoặc dịch vụ, xây dựng cơ cấu tiêu dùng hợp lý. Chức năng cuối cùng là chức năng kích thích của thị trường. Thị trường kích thích các doanh nghiệp muốn tồn tại và kinh doanh có lãi phải tạo cho mình ưu thế cạnh tranh bằng cách đổi mới công nghệ, kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hoá, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm… và phải quan tâm nhiều hơn đến các dịch vụ phục vụ khách hàng. Các qui luật của thị trường. Qui luật giá trị : Đây là qui luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Căn cứ vào qui luật này hàng hoá được trao đổi trên thị trường phải căn cứ vào thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra sản phẩm đó tức là chi phí bình quân trong xã hội. Qui luật giá trị kích thích người sản xuất hàng hoá chú ý tới hao phí lao động xã hội cần thiết và ra sức giảm hao phí cá biệt xuống để giảm giá bán. Từ đó, thúc đẩy các nhà sản xuất phải quan tâm cải tiến kĩ thuật để hạ giá thành sản phẩm,tạo lợi thế cạnh tranh. Qui luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sự phân phối lao động xã hội và tư liệu lao động giữa các ngành thông qua cơ cấu giá cả thị trường. Sự tăng hay giảm của giá cả xung quanh giá cả sản xuất chỉ cho người sản xuất biết nhu cầu về thứ hàng hoá đó tăng lên hay giảm đi. Sự vận động giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá biểu hiện của quy luật giá trị cùng với tác động đồng thời của những quy luật khác trong đó phải đặc biệt nhấn mạnh quy luật cung cầu. Qui luật cung – cầu : Quan hệ cung cầu là mối quan hệ kinh tế lớn nhất, cơ bản nhất của thị trường. Nó phản ánh mối quan hệ giữa nhu cầu có khả năng thanh toán và khả năng cung ứng hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Quy luật cung cầu luôn có xu hướng vận động xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường và gắn liền với nó là sự vận động của giá cả thị trường. Qui luật cạnh tranh : là cơ chế vận động trên thị trường. Cạnh tranh kích thích nền kinh tế phát triển và sự quản lý của nhà nước là để hạn chế tính không lành mạnh trong cạnh tranh. Cạnh tranh diễn ra giữa người bán với người mua trong quá trình mặc cả sản phẩm, giữa người mua với người mua khi hàng hoá khan hiếm và diễn ra thường xuyên là cuộc cạnh tranh giữa những người bán để giành giật những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của mình. Tăng khả năng cạnh tranh - một tất yếu khách quan của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Khái niệm cạnh tranh : Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Theo Mác “Cạnh tranh trong tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thị hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng có vai trò quan trọng. Nó là điều kiện, là yếu tố kích thích kinh doanh và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung. Nhờ có cạnh tranh mà năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên – yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển . Tóm lại, có thể hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh hoạt động trên thị trường nhằm giành giật những khả năng về mở rộng quá trình sản xuất sản phẩm, mở rộng thị phần cho doanh nghiệp, tạo ra cho xã hội những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, những dịch vụ chu đáo.   Tính tất yếu khách quan của cạnh tranh ở mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mỗi doanh nghiệp bắt đầu khởi sự kinh doanh phải có những nguồn lực nhấtđịnh. Để đánh giá một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu người ta căn cứ vào nhiều yếu tố : tiềm lực về vốn, về công nghệ, lao động. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt để mọi tiềm lực này, mọi thế mạnh mà mình có. Tức là với nguồn lực đó phải làm sao tạo được lợi thế hơn so với cá doanh nghiệp khác trong thoả mãn đến mức cao nhất đòi hỏi của thị trường. Hay chính là việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực chất tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt : Giá cả, giá trị sử dụng sản phẩm, uy tín. Cụ thể là doanh nghiệp phải áp dụng tổng hợp các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, nâng cao trình độ đội ngũ lao động… hay nói cách khác tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh là một tất yếu khách quan, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường để tồn tại và phát triển phải thực hiện xây dựng và áp dụng chiến lược cạnh tranh, song cũng phải tuân theo quy luật cạnh ttanh. Với các doanh nghiệp cạnh tranh có thể đào thải không thương tiếc các doanh nghiệp có chi phí cao chất lượng sản phẩm tồi, tổ chức tiêu thị kém. Mặt khác, nó buộc các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá bán sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức thực hiện cá dịch vụ tiêu thụ, quảng cáo, bảo hành một cách chu đáo. Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá của con người là rất đa dạng và phong phú, song đều có cùng xu thế tích tiêu dùng những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có hcất lượng tốt mà giá thành hợp lý. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng đòi hỏi mỗi doanh nghiệp không được bằng lòng với chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình mà cần phải không ngừng tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường, đánh giá đúng mình, đúng người, xây dựng những chiến lược đầy tham vọng bởi vì xản phẩm hôm nay được ưa dùng có thể ngày mai trở nên lỗi thời. Ngoài ra khoa học công nghệ cũng luôn phát triển, đào thải công nghệ cũ kỹ lạc hậu, thay thế là những công nghệ tiên tiến hiện đại. nó là một tác nhân không nhỏ ảnh hưởng tới việc tăng cường khả năng cạnh tranh ở mỗi doanh nghiệp. Như vậy nâng cao khả năng cạnh tranh là tất yếu khách quan bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển ở mỗi doanh nghiệp. Các hình thức cạnh tranh. Trong nền kinh tế thj trường nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành sản xuất kinh doanhh thì cạnh tranh bắt buộc họ, thúc đẩy họ phải điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Khi xem xét cạnh tranh ở nhiều khía cạnh khác nhau ta có thể thấy mỗi khía cạnh, cạnh tranh lại có nhiều mức độ. * Dưới góc độ thực chứng, cạnh tranh được chia làm 3 mức độ: cạnh tranh hoàn hảo hoặc thuần tuý, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền. Cạnh tranh hoàn hảo hay được gọi là cạnh tranh thuần tuý là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá không đổi trong toàn bộ các đĩa danh của thị trường, bởi vì người mua và người bán có sự hiểu biết tường tận về các điều kiện, về thị trường. Trong thị trường đó có sự tự do luân chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này sang ngành khác, ở đó chi phí vận tải không đề cập đến và coi như bằng không. Cạnh tranh thuần tuý muốn tồn tại cần phải có các điều kiện sau: Tất cả các hãng kinh doanh trong ngành đó phải tương đối nhỏ; số lượng kinh doanh trong đó phải rất nhiều. Các công ty đưa ra thị trường sản phẩm hoàn toàn giống nhau đến mức cả người sản xuất và người tiêu dùng đều khó phân biệt. Tất cả các hãng kinh doanh đều nhỏ do đó việc gia nhập ngành và bỏ ngành rất dễ dàng.trong loại hình cạnh tranh này, giá cả được định đoạt một cách duy nhất trên thị trường thông qua quan hệ giữa sức cung và sức cầu. Cả người bán và người mua đều phải chấp nhận giá cả đang phổ biến trên thị trường. Độc quyền tồn tại khi trong ngành công nghiệp hoặc trên thị trường chỉ có một người san xuất hoặc một người bán. Do việc chỉ có một người bán duy nhất đã cho phép công ty đó có thể kiểm soát trọn vẹn được giá cả các sản phẩm của mình, cho phép họ có thể nâng giá hoặc hạ giá tuỳ theo chiến lược của công ty để thu lợi nhuận độc quyền. Hỗu hết các thị trường ngày nay ở vào khoảng giữa của cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền, được gọi là cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi phối được giá cả của các sản phẩm của mình. Trong cạnh tranh không hoàn hảo có cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm. Cạnh tranh mang tính chất độc quyền là một hình thức của cạnh tranh mà ở đó những người bán có thể ảnh hưởng đến những người mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm của mình về hình dáng, kích thước, chất lượng vào mác nhãn. Trong rất nhiều trường hợp những người bán có thể buộc những người mua chấp nhận giá. Độc quyền nhóm tồn tại trong những ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những kẻ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó. Những người bán hoặc những người sản xuất ở đây thường có tiềm lực kinh tế lớn. Sự thâm nhập của các đối thủ cạnh tranh thường rất khó khăn bởi vì đòi hỏi một số vốn đầu tư rất lớn. Trên thế giới, các nước phát triển thường độc quyền nhóm trong các ngành như sản xuất ô tô, điện tử, * Xét theo góc độ chuẩn tắc của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh có cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không đẹp. Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh đẹp, trong sáng và giải thoát được khỏi các thói hư tật xấu trong cuộc sống đời thường. Trong cạnh tranh này, mọi đối thủ đều bình đẳng và tham gia “cuộc chơi” một cách công bằng, tuân thủ quy luật cạnh tranh mà không dùng thủ đoạn để chiến thắng trong cạnh tranh. Cạnh tranh không đẹp là cạnh tranh không trung thực hoặc không phù hợp với các cách cư xử có thể chấp nhận được của kinh doanh. Có thể nói cạnh tranh không đẹp là biểu hiện mặt xấu của cạnh tranh. Nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, với nền kinh tế thị trường cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi nhưng có sự quản lý của nhà nước sẽ hạn chế sự cạnh tranh không đẹp và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý ở cấp vĩ mô đảm bảo cho nền kinh tế không đi chệch định hướng XHCN. Một số chính sách cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh. Chính sách giá cả. Chính sách giá cả là việc xác định 1 mức giá hoặc nhiều mức giá bán cho các trung gian phân phối hoặc cho người tiêu dùng cuối cùng. Một trong những quyết định quan trọng và phức tạp nhất của một công ty liên quan đến giá hàng hoá và dịch vụ của nó. Nừu những người mua tiêu dùng hoặc những người mua tổ chức nhận ra rằng giá hơi cao, họ có thể chuyển sang mua những nhãn hiệu cạnh tranh hay những hàng hoá thay thế, dẫn đến những thua thiệt về khối lượng bán và lợi nhuận của công ty. Nếu giá quá thấp, khối lượng bán có thể sẽ tăng lên nhưng khả năng lợi nhuận sẽ xấu đi, hoặc có thể tâm lý người mua sẽ cho rằng hàng hoá đó kém chất lượng mà không mua hàng hoá của công ty. Bởi vậy, các quyết định về giá phải được đưa ra xem xét một cách cẩn thận để vừa đảm bảo bù đắp chi phí, vừa đảm bảo cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Thực tế cho thấy, trong việc xác lập hoặc thay đổi giá các hãng cần thiết phải xem xét sự cạnh tranh sẽ tác động tới giá của sản phẩm. Đầu tiên cần phải xem xét các nhân tố sau: Số lượng đối thủ cạnh tranh. Quy mô của các đối thủ cạnh tranh. Khu vực có đối thủ cạnh tranh. Các điều kiện để ra nhập ngành công nghệ. Mức độ phụ thuộc dọc của các đối thủ cạnh tranh. Số lượng sản phẩm được các đối thủ cạnh tranh bán. Cơ cấu giá của đối thủ. Các phản ứng trong lịch sử của các đối thủ với những thay đổi về giá. Những nhân tố này giúp cho việc xác định giá bán của hãng nên ở mức độ nào. Định giá một sản phẩm từ mức giá của đối thủ cạnh tranh được gọi là “định giá theo tỉ lệ” và nó rất thông dụng đối với các sản phẩm có tính đồng nhất, vì lẽ phương pháp này thể hiện một sự hiểu biết chung của ngành kinh doanh và không phá vỡ sự hài hoà của ngành đó. Bên cạnh những nhân tố vi mô đó của các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp cũng cần xem xét đến cả những yếu tố tác động ở cấp vĩ mô như: luật lệ của chính phủ, lạm phát, suy thoái, lãi suất, tỉ giá… để đưa ra mức giá phù hợp và hấp dẫn người tiêu dùng Chính sách sản phẩm. Trong việc nâng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chính sách sản phẩm đóng vài trò chủ yếu vì tầm quan trọng của các đặc tính kỹ thuật và hiệu năng của sản phẩm công nghệ đối với người mua, chính vì vậy muốn sản phẩm của mình có sức cạnh tranh thì điều đặc biệt quan trọng đối với các đơn vị bán sản phẩm cho khách hàng công nghiệp là đảm bảo khả năng tốt nhất những đặc trưng của sản phẩm (có thể bằng cách nắm giữ bằng sáng chế phát triển), tiến hành thường xuyên hoạt động đổi mới kỹ thuật. Việc kết hợp đồng bộ giữa nghiên cứu công nghệ với Marketing và nghiên cứu thị trường có tác dụng không nhỏ tới sự thành công của cá doanh nghiệp công nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay khi mà cạnh tranh về chất lượng đứng vị trí hàng đầu thì vấn đề dịch vụ bổ sung gắn liền với sản phẩm càng làm tăng khả năng thu hút khách hàng, bởi vì nhờ vậy sản phẩm ngày càng phù hợp với khách hàng hơn mà mức giá bán không đổi – một lợi thế quan trọng trong cạnh tranh. Chính sách phân phối hàng hoá. Làm tốt công tác phân phối và bán hàng là thúc đẩy cho việc tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi , nhanh chóng và cũng làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chính sách phân phối bao gồm toàn bộ các hoạt động, giải pháp liên quan tới việc phân phối sản phẩm nhằm đảm bảo quá trình đưa hàng hoá đến người tiêu dùng có hiệu quả cao nhất. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, việc bán hàng còn bao gồm cả việc cài đặt các chương trình phần mềm tạo điều kiện cho người mua hàng sử dụng một cách thuận tiện nhất. Vì vậy, người bán hàng cần có một trình độ hiểu biết nhất định về tin học. Doanh nghiệp cần chú ý tới những người có năng lực và trình độ để tham gia tiêu thụ sản phẩm, giúp cho việc làm cho sản phẩm ngày càng thoả mãn ngay cả những yêu cầu cao nhất của khách hàng. Chính sách giao tiếp khuyếch trương. Đây là một trong những chiến lược nhằm nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tạo lòng tin cho khách hàng và xây dựng một hình ảnh chung thuận lợi cho doanh nghiệp. Giao tiếp, khuyếch trương đóng vai trò chuẩn bị và vai trò động lực trong bán hàng. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì giao tiếp, khuyếch trương là một trong những chính sách hết sức cần thiết. Trong hệ thống các phương tiện giao tiếp khuyếch trương, quảng cáo được sử dụng một cách thường xuyên và triệt để. Tuy nhiên cần có cách quảng cáo hợp lý để vừa giảm chi phí quảng cáo lại vừa phát huy được hiệu quả của quảng cáo, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Và cách quảng cáo phát huy được tác dụng nhất trong lĩnh vực kinh doanh vi tính là quảng cáo trên mạng thông tin với ưu thế nổi trội của việc hoà mạng toàn cầu với tính cập nhật thông tin của mạng. Bên cạnh đó là kết hợp với các cách quảng cáo truyền thống vẫn phát huy được tác dụng từ xưa. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đưa sản phẩm của mình đến với mọi đối tượng khách hàng và mọi khúc thị trường. Phần II : Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh và công tác điều hành kinh doanh của công ty thiết bị kĩ thuật tin học Hải Anh Khái quát về sự phát triển của công ty. Giới thiệu về công ty. Công ty thiết bị kĩ thuật tin học Hải Anh là công ty tư nhân được thành lập ngày 19/5/2000. Địa chỉ : 49 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm - Hà Nội. Tel : (84 - 4) 7337538 – 7471134 Fax: (84 - 4) 7471134 Email: haianhco@fpt.vn Web : www.haianh.com.vn Công ty tuy mới thành lập được 4 năm nhưng cũng đủ để cho thấy sự phát triển ổn định của công ty. Năm 2000, ông Đinh Cự Thành thành lập công ty chủ yếu kinh doanh máy vi tính và thiết bị văn phòng. Trong đó công ty đặc biệt có thế mạnh về lĩnh vực kinh doanh máy vi tính và các linh kiện máy vi tính. Lúc đầu với lực lượng chỉ có hơn 10 thành viên đến nay công ty đã có một đội ngũ nhân viên hùng hậu và có trình độ chuyên môn cao, đủ khả năng để có thể đáp ứng mọi yêu cầu dù là khắt khe nhất của khách hàng. Năm 2003, công ty mở thêm một chi nhánh ở địa chỉ 83 Nguyễn Phong Sắc. Sơ đồ cơ cấu của công ty : Cơ cấu tổ chức của công ty theo cơ chế quản lý trực tuyến. Giám đốc là người ra mọi quyết định trong công ty. Với quyền hạn và trách nhiệm của giám đốc công ty, ông Đinh Cự Thành phải ra những quyết định tuyển dụng nhân viên, xây dựng và ký duyệt những phương án kinh doanh, quyết định giá bán sản phẩm, dịch vụ của công ty phù hợp với cơ chế thị trường và pháp luật, và xây dựng phương án hợp tác, đề ra các chính sách chất lượng của công ty. Các trưởng phòng đảm nhiệm phần trách nhiệm của mình ở các phòng chức năng trong công ty và chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc. Trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Tuấn Giang đảm nhận trách nhiệm quản lý các nhân viên phụ trách kỹ thuật của công ty. Đây là bộ phận quan trọng nhất trong công ty vì vậy các nhân viên trong bộ phận này được tuyển lựa một cách kỹ càng và họ phải là những kỹ sư tin học điện tử có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Không chỉ chịu trách nhiệm về phần lắp đặt, kiểm tra thiết bị khi nhập hàng về, phòng kỹ thuật còn phải kiêm nhiệm cả dịch vụ bảo hành của công ty. Chất lượng làm việc của phòng ban này quyết định kết quả kinh doanh của công ty. Mai Văn Thành là trưởng phòng kinh doanh của công ty. Đây là người có trách nhiệm xây dựng những chiến lược kinh doanh thích hợp cho công ty và đề xuất những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Phòng kế toán với kế toán trưởng là Phạm Bích Thảo chịu trách nhiệm về phần tài chính kế toán. Các trưởng phòng của các phòng ban trong công ty hàng tháng phải tổng hợp thành báo cáo hoạt động cho giám đốc kiểm tra để từ đó giám đốc có những kế hoạch chiến lược phát triển công ty. Sản phẩm của công ty rất đa dạng về chủng loại và chất lượng cao. Công ty luôn luôn cập nhật thông tin mới nhất để có thể cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tin học đạt tiêu chuẩn họ cần. Các loại linh kiện mà công ty kinh doanh: màn hình, máy in – máy quét, case – vỏ máy vi tính, Bo mạch chủ, CPU’s, quạt CPU, bộ nhớ trong, ổ cứng, ổ mềm, card màn hình, bàn phím, chuột, card mạng, modems, card âm thanh, CD-DVD, loa, card TV, webcam – camera, USB FlashDisk, bộ lưu điện, …Những linh kiện này mang các nhãn hiệu của các đối tác của công ty như: BENQ, DAEWOO, INTEL, LG, SAMSUNG, BIOSTAR, và SPARKLE. Với những đối tác tên tuổi và chất lượng hàng hóa đảm bảo yêu cầu của khách hàng đã tạo cho công ty một uy tín và chiếm được lòng tin của khách hàng tăng lợi thế cạnh tranh cho công ty. Kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm hoạt động. Trước hết ta hãy xét trong năm 2003, năm mà doanh nghiệp kinh doanh khá thuận lợi với việc có thêm một chi nhánh nữa của công ty, kết quả kinh doanh của công ty được thể hiện ở bảng sau: Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 % 1 Doanh thu bán hàng 4598 5270 115 2 Các khoản phải nộp 398 465 116.83 3 Tổng giá trị hợp đồng đã kí trong năm 1850 2375 128.38 4 Tổng giá trị hợp đồng gối đầu sang năm 120 132 110 5 Thu nhập bình quân (người/tháng) 1.5 2 133.33 Phòng kế toán Theo bảng trên cho thấy: Năm 2003, hoạt động kinh doanh của công ty hiệu quả hơn năm trước đó là năm 2002 làm doanh thu bán hàng của công ty tăng thêm 15% hay tăng 672 triệu đồng. Lý do là sang năm 2003 công ty đã kí được những hợp đồng với giá trị lớn đạt 2375 triệu đồng hơn năm 2002 là 525 triệu dù rằng giá trị hợp đồng gối đầu năm 2003 là 132 triệu lớn hơn năm trước 12 triệu. Số hợp đồng gối đầu này chủ yếu là do ký kết vào dịp cuối năm giáp tết nên doanh nghiệp phải để thực hiện trong những ngày đầu của năm sau. Trong năm 2003, lĩnh vực công nghệ thông tin ngày càng phát triển mạnh, là công ty đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình trên thị trường trong nước Hải Anh đã thu hút được các khách hàng ở cả những tỉnh khác tìm đến với công ty kí kết những hợp đồng lắp đặt thiết bị tin học và văn phòng. Nhà nước ta lại khá khuyến khích sự phát triển của việc vi tính hoá các công việc văn phòng nên tạo điều kiện rất thuận lợi cho các công ty tin học như Hải Anh. Với những điều kiện thuận lợi như vậy, công ty đã không bỏ lỡ thời cơ để tăng hiệu quả kinh doanh của mình và kết quả là doanh nghiệp đã có thêm một chi nhánh nữa và thu nhập của nhân viên trong công ty cũng tăng bình quân từ 1.5 triệu lên 2 triệu đồng 1 tháng. Không chỉ tăng thu nhập cho nhân viên, công ty còn tổ chức được những dịp đi tham quan cho nhân viên như đi tham quan Vịnh Hạ Long, khu du lịch đảo Tuần Châu … Công ty sẽ còn phát huy hết khả năng và nguồn lực của mình để không chỉ có được thị phần trong nước mà tương lai còn hướng ra thị trường nước ngoài. Ta có thể hy vọng được điều này nếu xem xét qua kết quả cả quá trình kinh doanh của công ty từ 2000 đến 2003: Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Thực hiện Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Doanh thu bán hàng 3902 4073 4598 5270 Các khoản phải nộp 279 314 398 465 Thu nhập bình quân(người/tháng) 1.5 1.5 1.5 2 Lãi 89 95 106 125 Phòng kế toán Căn cứ vào bảng số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của công ty và minh hoạ bằng đồ thị sau: Doanh thu bán hàng của công ty lãi của công ty Tốc độ tăng trưởng của công ty: Tốc độ tăng trưởng 2001/2000 2002/2000 2003/2000 Theo doanh thu tiêu thụ 1.05 1.18 1.35 Từ bảng trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng của công ty ổn định và tăng khá đều qua các năm. Với số doanh thu thu được hàng năm công ty đóng góp vào ngân sách nhà nước một khoản không phải nhỏ trong khối thành phần kinh tế tư nhân trong nước. Và như vậy có thể thấy, công ty thiết bị kỹ thuật tin học Hải Anh đang có những bước đi vững chắc và đúng đắn. Nhận xét khái quát khả năng cạnh tranh của công ty. Chủ trương, chính sách của công ty để xây dựng chiến lược cạnh tranh, tăng thị phần của công ty. Lựa chọn nhóm khách hàng và thị phần. Với quy mô còn chưa được xếp vào doanh nghiệp vừa và lớn, công ty chủ yếu chỉ nhắm vào các khu vực của thị trường nội địa. Tại thị trường này, việc các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh trong lĩnh vực tin học “mọc lên như nấm sau cơn mưa” vì sự phát triển của xu thế hội nhập toàn cầu đã làm cho công ty Hải Anh phải đối mặt với thách thức rất lớn. Thêm vào đó là sự phát triển tri thức , những người hiểu biết về tin học ngày càng nhiều vì thế nên yêu cầu khắt khe về mẫu mã, chất lượng, dịch vụ của khách hàng đối với hàng h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0088.doc
Tài liệu liên quan