Lời nói đầu
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải trang bị cho mình một hệ thống cơ sở vật chất tương ứng với ngành nghề kinh doanh mà mình đã lựa chọn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một số tiền ứng trước để mua sắm. Lượng tiền ứng trước gọi là vốn kinh doanh
Trong sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị ttường hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì bằng mọi cách phải sử dụng đồng vốn có hiệu quả? Do vậy, đòi hỏi các nhà quản lý doanh
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công ty công trình giao thông 208, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp phải tìm ra các phương sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn cố định nói riêng.
Công ty công trình giao thông 208là một đơn vị có quy mô vốn rất lớn và lượng vốn cố định chiếm tỷ trọng chưa phải là nhiều, nhưng hiện nay tài sản của Công ty đã và đang được đầu tư đổi mới ngày càng lớn, nhằm đáp ứng cho sự phát triển của Công ty trong thời gian tới. Do vậy, việc quả lý sử dụng chặt chẽ và có hiệu quả vốn cố định của Công ty là một trong những yêu cầu lớn nhằm tăng năng suất lao động, thu được lợi nhuận cao đảm bảo trang trải cho mọi chi phí và có lãi.
Xuất phát từ lý do trên và mong muốn trở thành một nhà quản lý tài chính trong tương lai; trong thời gian thực tập tại Công ty công trình giao thông 208, được sự hướng dẫn giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Trần Công Bẩy cùng toàn thể cán bộ công nhan viên, Phòng tài kế toán – Tài chính của Công ty công trình giao thông 208 . Bản luận văn này được chia làm 3 phần:
Phần I: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp
Phần II: Tình hình huy động sử dụng, quản lý vốn có định ở Công ty công trình giao thông 208
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty công trình giao thông 208.
chương i
vốn cố định phải nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cố định trong các doanh nghiệp
I. tài Sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp
1. Khái niệm.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải có ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Để có được doanh nghiệp phải dùng một khoản tiền nhất định để đầu tư mua sắm khoản tiền ứng trước này được gọi là vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh được biểu hiện dưới hai hình thái: Hình thái hiện vật và hình thái giá trị.
Vốn biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các hình thái vật chất cụ thể như : Công cụ, dụng cụ, máy móc, thiết bị, nhà kho, hàng hoá. Tất cả các loại tài sản trong doanh nghiệp giá trị của chúng được đo bằng thước đo tiền tệ và nằm ẩn dưới hai hình thái giá trị.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Việc phân chia này đươc căn cứ vào hình thái vận động và tốc độ chu chuyển của các loại tài sản trong doanh nghiệp. Đối với loại tài sản lưu động giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần trong quá trình sản xuất kinh doanh và do đó cũng thu dần từng phần trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, tài sản cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Nói khác đi, giá trị tài sản cố định quay được một vòng thì giá trị tài sản lưu động quay được nhiều vòng. Để tiến hành sản xuất lại như cũ, tài sản lưu động luôn được đổi mới nhưng vẫn giữ nguyên các yếu tốcủa nó còn tài sản cố định thì vẫn như cũ cho đến khi hư hỏng hoàn toàn mới thay thế.
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực hoạt động không hoàn toàn giồng nhau, song khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh chúng đều có đặc điểm chung là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trong quá trình đó, hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh dưới hình thức tiền trích khấu hao tài sản cố định.
Từ những nội dung trên, có thể rút ra định nghĩa vế tài sản cố định như sau: tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị của nó dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong nhiều chu kỳ sản xuất nối tiếp nhau.
Ngày nay, trong điều kiện phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ, sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, cũng như nét đặc thủ trong hoạt động đầu tư của một nghành nên tài sản cố định của doanh nghiệp không chỉ bao gồm tải cố định hữu hình mà ngay cả một số khoản chi phí doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, chi phí thành lập doanh nghiệp ... được gọi là tài sản cố định vô hình. Những khoản liên doanh, liên kết, đầu tư tài chính dài hạn được gọi là tài sản cố định tài chính của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tài sản cố định của doanh nghiệp giống như mọi loại hàng hoá thông thường khác. Thông qua mua bán, trao đổi, tài sản cố định có thể được chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Đó là tiền đề cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng, lắp đặt tài sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên tài sản cố định của doanh nghiệp được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Nói khác đi, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị tài sản cố định.Nó được ứng ra để hình thành tài sản cố định. Do vậy, quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, những đặc điểm của tài sản cố định trong quá trình sử dụng cũng có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Điều đó có nghĩa là vốn cố định không thể được thu hồi ngay một lúc mà chỉ có thể thu hồi dần từng phần. Muốn thu hồi vốn cố định nhanh, doanh nghiệp phải thực hiện khấu hao nhanh để cho lượng vốn thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất lớn, giúp rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Vấn đề ở đây là doanh nghiệp phải biết xử lý một cách linh hoạt mỗi quan hệ giữa yêu cầu tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao ở đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra để lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp, vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa hạn chế được sự đột biến trong giá cả, đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh doanh và quan hệ cung cầu trên thị trường.
Như vậy, việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định.
Trong thực tiễn, để thuận tiện hơn cho công tác quản lý và tính toán tài sản cố định, người ta quy ước hai tiêu chuẩn nhận biết, một tư liệu lao động là tài sản cố định ( để phân biệt công cụ dụng cụ như sau):
*Phải có thời gian sử dụng tối thiểu quy định
*P hải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định .
Quyết định 1062 TC/QĐ/BTC có hiệu lực từ ngày 1/1/1997 nêu rõ: “ Mọi tư liệu lao động là từng tài sản cố định hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được, nếu đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau:
*Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
*Có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên.
Vì đây là ý chí chủ quan của con người nên mỗi quốc gia đều có một quy định khác nhau về tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định và tiêu chuẩn này được thay đổi, điều chỉnh trong từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế cho phù hợp với mức giá cả.
2. Vai trò của tài sản cố định.
- Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng. Đó là một yếu tố không thể thiếu đối với sự tồn tại của bất kỳ một quốc gia, một doanh nghiệp nào. Đó là những tư liệu lao động được ví như “ hệ thống xương cốt, bắp thịt của quá trình sản xuất kinh doanh”. Tài sản cố định là khí quản để con người thông qua nó tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó, bắt nó phục vụ con người. Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, một trong những doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp phải có trụ sở, có tài sản riêng. Như vậy, có thể nói rằng, tài sản cố định là tiền đề cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét trên bất cứ góc độ nào thì tài sản cố định vẫn là yếu tố hàng đầu để đánh giá sự phát triển của một đất nước, một doanh nghiệp.
- Trình độ trang bị tài sản cố định quyết định năng lực sản xuất,chi phí, giá thành,chất lượng sản phẩm cũng như khả năng của một doanh nghiệp trên thương trường. Bởi vì, nếu doanh nghiệp nào trang bị máy móc thiết bị, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, sẽ giảm được mức tiêu hao nhiên, nguyên vật liệu,hạn chế tỷ lệ sản phẩm hỏng, rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm tức là làm cho chi phí sản xuất cá biệt của mình thấp hơn mức trung bình của xã hội. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ cao hơn, doanh nghiệp có lợi thế và chắc chắn sẽ thành công hơn, phát triển bền vững hơn.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất ở mức độ nào nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mức tương ứng và là căn cứ phân biệt một thời đại này với một thời đại khác. Phương thức sản xuất cổ truyền khác phương thức sản xuất hiện đại ở chỗ sản xuất như thế nào, sản xuất bằng cái gì. Chính lực lượng sản xuất phát triển đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển, làm thay đổi phương thức sản xuất và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Chẳng hạn: đầu máy hơi nước, máy dệt ... đã chuyển xã hội từ chế độ phong kiến với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính sang chế độ tư bản chủ nghĩa với hoạt động công nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Như vậy, tài sản cố định là yếu tố quyết định cách thức tiến hành sản xuất chế tạo sản phẩm. Đúng như quan điểm của C .Mác “ Các thời đại kinh tế được phân biệt với nhau không phải bởi vì nó sản xuất ra cái gì mà bởi vì nó sản xuất như thế nào”.
Từ những phân tích trên, ta càng thấy được vai trò quan trọng của tài sản cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cơ cấu tài sản cố định hợp lý, bảo quản và sử dụng tài sản cố định không chỉ có ý nghĩa quyết định đến việc tăng năng suất lao động , chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn cho phép huy động yối đa năng lực sản xuất của tài sản cố định, góp phần bảo toàn, phát triển vốn cố định nói riêng, vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp . Tức là doanh nghiệp góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển mà ở nước ta ngày nay càng chống tụt hậu về công nghệ vừa đảy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.
II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp.
Để sử dụng có hiệu quảvốn cố định, trong các hoạt động đầu tư dài hạn đòi hỏi doanh gnhiệp phải lựa chọn sản phẩm, quy mô sản xuất và đưa ra các dự án đầu tư để chọn dự án tối ưu nhằm tránh được các hoạt động đầu tư kém hiệu quả sẽ phải chịu hậu quả lâu dài.
Trong sản xuát kinh doanh, doanh nghiệp thường xuyên thực hiện các biện pháp để không chỉ bảo toàn mà còn phát triển được vốn cố định sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Thực chất là luôn đảm bảo duy trì được một lượng vốn tiền tệ để khi kết thúc một vòng tuần hoàn, bằng số vốn này doanh nghiệp có thể tái tạo hoặc mở rộng được số vốn đã bỏ ra ban đầu để đầu tư, mua sắm tài sản cố định tính theo thời giá hiện tại.
Do đặc điểm của tài sản cố định và vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính và sử dụng ban đầu còn giá trị lại chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm, cho nên nội dung bảo toàn vốn cố định luôn bao gồm hai mặt vật chất và giá trị.
Bảo toàn vốn cố định về mặt vật chất không phải chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định mà quan trọng hơn là bảo toàn được năng lực sản xuất của tài sản cố định không còn sử dụng được nữa, doanh nghiệp có thể duy trì được một năng lực sản xuất như trước đây.
Bảo toàn về mặt giá trị là bảo đảm sức mua của vốn cố định khi đã hoàn thành một vòng tuần hoàn, vốn tiền tệ được thu hồi phải đủ để mua lại một tài sản cố định có năng lực sản xuất như cũ.
Trong điều kiện giá cả không biến động( không có lạm phát, thiểu phát) thì số vốn cố định thu hồi được tương đương với vốn đầu ứng ra thì đã có thể mua lại tài sản cố định có năng lực sản xuất như cũ. Nhưng trong điều kiện giá cả biến động (kể cả tỷ giá) thì việc chỉ thu hồi đủ lượng vốn cố định ứng ra ban đầu cũng chưa thể coi là không mất vốn vì với chừng ấy vốn sẽ không đảm bảo được sức mua của vốn. ở đây, giữa vốn thu hồi được và vốn đầu tư ban đầu có thể là những đại lượng khác nhau nhưng điều quan trọng là cả hai đại lượng này là ít nhất cũng phải có “ sức mua ” như nhau để tạo ra một giá trị sử dụng tương đương. Có như vậy, vốn mới được bảo toàn, quá trình sản xuất kinh doanh mới được tiến hành trôi chảy.
Việc xem xét như trên chỉ là xem xét về mặt kinh tế, chưa nói tới mặt kỹ thuật, tức chưa tính đến sự tiến bộ của khoa học công nghệ mà ngày nay đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, to lớn. Sự phát triển nhanh như vũ bảo của khoa học công nghệ đã làm cho chu kỳ sống của tài sản cố định là thiết bị máy móc ngắn lại. Do đó, việc bảo toàn về mặt giá trị(tài chính) không phải để mua sắm lại tài sản cố định như cũ mà là một tài sản cố định hiện đại hơn với năng lực sản xuất lớn hơn. Trên phương diện đó, việc bảo toàn vốn cố định mang ý nghĩa tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Nhưng dù sao thì bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là một phạm trù thuộc tái sản xuất giản đơn tài sản cố định .
Bảo toan vốn cố định là để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định nhằm duy trì quy mô và năng lực sản xuất như cũ. Do đó bảo toàn vốn cố định là cần thiết để doanh nghiệp tồn tại được, không bị mất vốn do những biến động khách quan gây ra những rủi ro mang lại tổn thất cho doanh nghiệp.
Nhưng ta lại thấy rằng, vốn cố định khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh bị tách ra thành hai phần: một bộ phận giá trị tương ứng với phần giá trị hao mòn cuả tài sản cố định sẽ tham gia vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ; bộ phận thứ hai là đặc trưng cho phần giá trị còn lại của tài sản cố định. Các chu kỳ sản xuất cứ kế tiếp nhau tiếp diễn. Phần thứ nhất của vốn cố định – quỹ khấu hao cơ bản cứ ngày càng tăng lên, còn phần thứ hai – giá trị còn lại của tài sản cố định cứ giảm dần. Sự biến thiên nghịch chiều ấy kết thúc khi tài sản cố định đã được khấu hao hết, phần giá trị còn lại của tài sản cố định được chuyển hoá toàn bộ sang vốn tiền tệ – quỹ khấu hao; đồng thời cũng là kết thúc một vòng tuần hoàn của vốn cố định. Như vậy, việc sử dụng vốn cố định thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro.
Những đặc điểm trên cho thấy việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp, điều này suất phát từ những lý do:
+ Trong cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và công nghiệp nặng, vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn, quyết định tới tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thời gian quay vòng của vốn cố định dài hơn thời gian quay vòng của vốn lưu động. Sau nhiều năm, vốn cố định mới thu hồi được. Trong cuộc hành trình dài ngày đó, đồng vốn luôn bị đe doạ bởi những lý do như lạm phát, hao mòn vô hình, quản lý kinh doanh kém hiệu quả, sự tàn phá của điều kiện thiên nhiên...
+ Khác với cách vận động của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần và hoàn vốn cũng một lần, vốn cố định lại chuyển dịch từng phần và vì thế cũng hoàn vốn từng phần. Trong khi có một bộ phận của vốn cố định được chuyển hoá thành vốn tiền tệ – quỹ khấu hao cơ bản ( phần động) thì còn có một bộ phận khác lại “ cố định” trong phần giá trị còn lại của tài sản cố định ( phần tĩnh). Nếu loại trừ những tác nhân ( chủ quan và khách quan) thì muốn bảo toàn vốn cố định, “ phần tĩnh” của vốn cố định phải được nhanh chóng chuyển sang “phần động” của nó. Đây là một quá trình khó khăn phức tạp và là khâu dễ làm thất thoát vốn. Nhưng không thể không làm như thế, vì nếu không làm sẽ không có vốn tái đầu tư đổi mới tài sản cố định để tiến kịp với trình đọ cao hơn.
Vì lẽ đó, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp.
III. các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và các biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụNG vốn cố định.
1.Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định cuqả doanh nghiệp
Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua kiểm tra tài chính, doanh nghiệp có được những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu vốn đầu tư, nên đầu tư mới hay hiện đại hoá tài sản cố định, về các biện pháp khai thác năng lực sản xuất của tài sản cố định hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định .
Để tiến hành kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định, cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và tài sản cố định của doanh nghiệp. Thông thường, người ta sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây:
Chỉ tiêu tổng hợp:
Hiệu suất sử dụng Doanh thu thuần trong kỳ
vốn cố định = ---------------------------------------------------
Vốn cố định bình quân sử dụng trongkỳ
Chỉ tiêu này phản ánh đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Nhìn vào công thức ta thấy, muốn tăng hiệu suất sử dụng vốn cố định thì có hai cách: một là tăng doanh thu thuần, hai là giảm số vốn cố định bình quân sử dụng. Cách thứ nhất làm tăng quy mô sản xuất còn cách thứ hai làm cho quy mô sản xuất bị thu hẹp.
Hàm lượng vốn Vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ
cố định = ----------------------------------------------------
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ và doanh thu thuần trong kỳ . Khi vốn cố dịnh bình quân sử dụng trong kỳ tăng hoặc doanh thu thuần trong kỳ giảm thì hàm lượng vốn cố định sẽ tăng.
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
(hoặc lợi nhuận sau thuế)
= -------------------------------------------------
Vốn cố địnhbình quân sửdụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay( lợi nhuận sau thuế). Tỷ số này càng lớn chứng tỏ sức sinh lời của vốn cố định càng cao, trình độ quản lý, sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp càng tốt.
Chỉ tiêu phân tích:
Hệ số hao mòn Số tiền khấu hao luỹ kế.
tài sản cố định. = --------------------------------------------
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố dịnh trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Nếu hệ số này càng tiến gần về một chứng tỏ tài sản cố định đang sử dụng càng cũ. Cho thấy doanh gnhiệp ít đầu tư đổi mới tài sản cố định. Chỉ tiêu này một mặt phản ánh số vốn cố định đã thu hồi được, mặt khác phản ánh tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định tại thời điểm đánh giá.
Hiệu suất sử dụng Doanh thu thuần.
tài sản cố định. = ------------------------------------------------
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định trong việc tạo ra doanh thu thuần trong kỳ.
Hệ số trang bị TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân.
cho 1 CN trực tiếp SX = ------------------------------------------------
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ trang bị kỹ thuật cho một công nhân. Mức độ trang bị cao hay thấp là nhân tố quyết định năng suất lao động của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, mỗi chỉ tiêu trên chỉ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định ở góc độ này hay góc độ khác một cách riêng lẻ. Vì vậy, muốn đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn cố định thì phải đứng trên các góc độ khác nhau, sử dụng các chỉ tiêu khác nhau. Điêù đó có nghĩa là phải có cái nhìn toàn diện về hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hơn nữa, các chỉ tiêu trên cũng phải được xem xét trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong sự vận động biến đổi không ngừng.
Cần nói thêm, là các chỉ tiêu trên ở một mức độ nào đó gắn với một trình độ, một năng lực quản lý nhất định; Nhưng rõ ràng là chưa thể nói được trình độ tay nghề thành thạo của công nhân sử dụng, trình độ của nhà quản lý. Bởi vì, suy cho cùng năng suất lao động cao hay thấp là do các yếu tố sau quyết định: Kỹ thật công nghệ, thiết bị máy móc được sử dụng; trình độ thành thạo của người lao động; trình độ của nhà quản lý. Như vậy, hiệu suất sử dụng tài sản cố định không phải chỉ do bản thân tài sản cố định tạo nên.
2. Yêu cầu quản lý và các biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp.
*Yêu cầu quản lý.
- Nắm được số lượng chủng loại, tình trạng và sự biến động của tài sản cố định cả về mặt hiện vật và giá trị.
- Nắm được tình hình tài sản cố định đang dùng, chưa dùng, không cần dùng để có biện pháp huy động sử dụng , thanh lý, nhượng bán, không để tài sản cố định để rỗi, tận dụng tối đa năng lực tài sản cố định .
- Kịp thời sửa chữa tài sản cố định hư hỏng, thanh lý tài sản cố định cũ kỹ đã khấu hao hết.
- Theo dõi tình hình khấu hao từng loại tài sản cố định ở doanh nghiệp quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ khấu hao.
* Các biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp.
Vốn cố định là một bộ phận quan trọng trong vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng vốn cố định có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với sự tồn tại và phát triẻn của một doanh nghiêp. Do đó, mỗi doanh nghiệp tìm cách huy động sử dụng vốn hiện có để tăng được khối lượng sản phẩm sản xuất, nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận.
Tuỳ theo điều kiện và tính cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn những biện pháp thích hợp. Tuy nhiên, để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doang nghiệp, người ta thường sử dụng các biện pháp sau:
Phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp. Trong công tác quản lý vốn cố định, có nhiều phương pháp khấu hao tài sẩn cố định như : phương pháp tuyến tính, phương pháp khấu hao nhanh ... Nhà quản lý phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh, bảo toàn được vốn, vừa đỡ gây ra những biến động lớn trong giá thành và giá bán sản phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh luôn là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cườmg đổi mới kỹ thuật. Vì thế, các phương pháp khấu hao nhanh nhằm rút ngắn thời gian thu hồi vốn cố định là một xu hướng phổ biến để chống đỡ với hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình.
Phải áp dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Đây là một giải pháp kinh tế và kỹ thuật tổng hợp có liên quan trực tiếp tới kết quả bảo toàn vốn kinh doanh nói chung, vốn cố định nói riêng của doanh nghiệp. Chẳng hạn : tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị; giảm thời gian thiết bị để rỗi; hợp lý hoá dây chuyền công nghệ tổ chức sản xuất, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm kịp thời; thực hiện nghiêm ngặt chế độ bảo dưỡng, duy tu máy móc; áp dụng chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm vật chất đối với người quản lý và sử dụng tài sản cố định...
Thực hiện các biện pháp kinh tế khác như : Kịp thời sử lý những máy móc, thiết bị lạc hậu, mất giá; giải phong những thiết bị không cần dùng; linh hoạt sử dụng; quỹ khấu hao vào việc đầu tư kinh doanh sinh lời; mua bảo hiểm tài sản để đề phòng rủi ro ; cân nhắc thận trọng các dự án đầu tư tài sản cố định; sau mỗi kỳ kế hoạch, cần tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định, vốn cố định. Trên cơ sở đó có thể rút ra những bài học về quản lý , bảo toàn vốn cố định.
chương ii
tình hình huy ĐộNG vốn sử dụng, quản lý
vốn cố định ở công ty công trình giao thông 208
I. đặc điểm tình hình chung của công ty công trình giao thông 208.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty công trình giao thông 208 là doanh nghiệp Nhà nước hoạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty công trình giao thông 4 – Bộ GTVT, hoạt động theo luật doanh nghiệp và có đầy đủ tư cách pháp nhân. Trụ sở chính của công ty đặt tại : 26B – Vân Hồ II, Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Công ty công trình giao thông 208 có quyết định thành lập số : 1103/QĐ - TCCB ngày 06/03/1993 của Bộ trưởng bộ Giao thông Vận tải. Đăng ký kinh doanh số 109942 ngày 19/08/1993 của Trọng tài Kinh tế Hà Nội. Giấy phép hành nghề số : 173/ BXD/ CSXD ngày 11/08/1998 do Bộ trưởng Bộ xây dựng cấp.
* Lĩnh vực kinh doanh của công ty:
Xây lắp các công trình giao thông : Đường, cầu,cảng, các bến phà, cầu phao.
Bảo dưỡng các thiết bị phao phà, đại tu sữa chữa các cầu, đường bộ, rải thảm bê tông atphan, sữa chữa và làm mới một số cầu, đường . Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp .
Sản xuất vật liệu xây dựng :Đá, cát, sỏi...
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất.
*Đặc điểm tổ chức sản xuất.
Địa bàn hoạt động của Công ty rộng, quy mô sản xuất lớn.Công ty đã tổ chức sản xuất theo các xí nghiệp trực thuộc nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý và phân công lao động trên nhiều địa điểm thi công khác nhau với nhiều công trình khác nhau. Tổ chức sản xuất như vậy sẽ phát huy được điểm mạnh, riêng của từng xí nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm riêng trong công việc.
Các xí nghiệp nhận khoán với Công ty thông qua hợp đồng giao khoán. Sau đó, xí nghiệp, đội sẽ tổ chức thi công, chủ động cung ứng vật tư, nhân công, đẩm bảo chất lượng, kỹ thuật, tiến độ, an toàn lao động và các chi phí cần thiết để bảo hành công trình. Dưới các xí nghiệp lại tổ chức sản xuất theo các đội công trình, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của đội trưởng. Cơ chế khoán đã góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý, hiệu quả sản xuất của công ty nói chung và các xí nghịêp nói chung.
Bảng 1: một số chỉ tiêu của
công ty công trình giao thông 208
đạt được trong NHữNG năm gần đây.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
so sánh %
01/00
02/01
02/00
1.Giá trị sản xuất
(tỷ đồng)
152,6
166,19
170,29
+ 10,9
+ 10,2
+ 11,2
2.Doanh thu thuần
(tỷ đồng)
42,68
60,18
75,24
+ 14,1
+ 12,5
+ 17,6
3.lợi nhuận
(triệu đồng)
2.255,7
2.478,6
2.851,2
+ 11,0
+ 11,5
+ 12,64
4.Nộp ngân sách
(triệu đồng)
1.200,5
951,1
1.560,5
- 7,9
+ 16,4
+ 13,0
5.Lương bình quân
(Nghìn đồng)
950,0
920,0
1.120
- 0,97
+ 12,2
+ 11,8
6.Vốn kinh doanh
(tỷ đồng)
34,49
33,80
49,25
- 0,98
+ 14,6
+ 14,3
*Quy trình sản xuất
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nên quy trình sản xuất của Công ty mang tính đặc thù riêng.
Quy trình sản xuất của Công ty công trình giao thông 208 ( phụ lục 1)
Một số chỉ tiêu của Công ty công trình giao thông 208 đạt được trong những năm gần đây (bảng 1).
Nhìn vào bảng 1 ta thấy, giá tị sản xuất năm 2002 đã tăng 11,2%so với năm 2000 và tăng 10,2% so với năm 2001. Năm 2002 doanh thu tăng 12,5% so với năm 2001 và nếu so với năm 2000 tăng 17,6%.
Tương ứng với lợi nhuận năm 2002 tăng 11,5% so với năm 2001 đồng thời vốn kinh doanh tăng 14,6%. Việc lợi nhuận của Công ty tăng đáng kể trong năm 2002 là do tình hình kinh tế nước ta trong những năm gần đâyphát triển mạnh , đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều, vì nước ta đang trên đà phát triển, kinh tế, chính trị ổn định. Đặc biệt cơ sở hạ tầng được nhà nước chú trọng đầu tư nhiều, do đó Công ty đă trúng thầu nhiều dự án lớn.Từ đó Công ty ngày càng phát triển đi lên và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Dù sao việc Công ty làm ăn có lãi, duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp cho ngân sách Nhà Nước là một thành tích đáng tự hào, thể hiện những cố gắng nỗ lực vượt bậc của tập thể cán bộ công nhân viên Công ty công trình giao thông 208.
3. Cơ cấu bộ máy quản lý.
Bộ máy của Công ty công trình giao thông 208 được tổ chức theo đúng quy định của Nhà Nước, đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất xây dựng cơ bản.
4. Đặc điểm tổ chức công tác tài chính kế toán.
Xuất phát từ đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, để đảm bảo yêu cầu quản lý cũng như phù hợp với trình độ của cán bộ kế toán của Công ty công trình giao thông 208 được tổ chức theo hình thức tập trung. Theo đó toàn bộ công việc kế toán được tập trung tại phòng kế toán tài vụ của Công ty. Còn ở các đội sản xuất chỉ bố trí các nhân viên kế toán làm nhiệm vụ thống kê, xử lý sơ bộ rồi chuyển chứng từ về phòng tài vụ.
Phòng kế toán tài vụ gồm có 6 người:
- Kế toán trưởng phụ trách chung toàn phòng, chịu trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo các công tác tổ chức và hạch toán kế toán, tổ chức lập báo cáo theo yêu cầu quản lý, phân công nhiệm vụ cho từng người trong bộ phận có liên quan, đồng thời chịu trách nhiệm trước Giám đốc cấp trên và Nhà Nước.
- Một phó phòng kế toán tổng hợp chuyên lập báo cáo mỗi quý một lần, theo dõi tài khoản 133, công nợ tạm ứng 284.
- Kế toán lương văn phòng kiêm kế toán bảo hiểm theo dõi công nợ các đội 281,283, xí nghiệp công trình 2.
- Thủ quỹ kiêm theo dỏi thanh toán đội 282 , xí nhgiệp 1,2.
- Kế toán ngân hàng kiêm kế toán thanh toán, tạm ứng thuế.
II.tình hình huy động sử dụng, quản lý vốn cố định ở Công ty công trình giao thông 208.
Tình hình vốn và nguồn vốn kinh doanh
* Tình hình vốn kinh doanh.
(Số liệu ở bảng 2 cho ta biết về tình hình vốn kinh doanh của Công ty trong 2 năm( 2001- 2002).
Như vậy, tổng vốn kinh doanh của Công ty năm 2002 đã tăng 45,7% so với năm 2001 với số tuyệt đối là 15,45 tỷ đồng. Trong đó, vốn lưu động tăng 54% ứng với số tiền 15 tỷ đồng, vốn cố định tăng 5,3% với số tiền là 0,35 tỷ đồng.
Điều đáng chú ý ở đây là các khoản phải thu năm 2002 đã tăng đáng kể so với năm 2001 tăng 74% với số tiền là 10,2 tỷ đồng. Chứng tỏ rằng vốn lưu động của Công ty bị khách hàng chiếm dụng khá nhiều do các chủ đầu tư thanh toán chậm .
Hàng tồn kho năm 2002 đã giảm 0,3% so với năm 2001, phản ánh chiến lược dữ trữ nguyên vật liệu của Công ty khá tốt, kế hoạch thi công được lập và phối hợp thực hiện khá chặt chẽ, giảm số lượng công trình thi công dang dở, tổ chức thi công khẩn trương, dứt điểm theo đúng tiến độ. Đây cũng là một biện pháp góp phần giảm các khoản chậm thu xuống của Công ty.
Vốn cố định trong năm 2002 tăng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3283.doc