Mục lục
Phần I : Công ty cổ phần và sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I. Khái quát về công ty cổ phần
Khái niệm và đặc điểm
Sự ra đời và phát triển
Ưu thế và hạn chế của công ty cổ phần
II. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và sự cần thiết cổ phần hoá
Phần II : Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Mục tiêu và các bước
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Những đánh giá chung
Phần III : Một số giải pháp góp p
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công ty Cổ phần & vấn đề Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Lời nói đầu
Công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước là một thách thức lớn đối với Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, những năm cuối thế kỷ 20. Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực, hy vọng có thể thành lập thị trường trường chứng khoán vào đầu một thiên niên kỷ tới, mà trước hết công việc có tầm quan trọng chiến lược là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, những Công ty cổ phần chính là những tế bào của cơ thể thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hoá còn rất nhiều bỡ ngỡ và gặp không ít khó khăn , trở ngại trong việc thực hiện cổ phần hoá. Hầu hết hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đã hình thành từ thời quản lí tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ nên phát triển tràn lan. Một trong những bộ phận quan trọng doanh nghiệp nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu, trang bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu, chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành, lĩnh vực then chốt .
Để duy trì tốc độ phát triển cao , Việt Nam đã bắt đầu phải đối mặt với những thách thức về nguồn lực đầu tư cho phát triển . Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của các nước trên thế giới và khu vực đã làm giảm nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam từ khoảng gần 10 tỷ USD hàng năm xuống 2 tỷ USD trong năm 1998, trong khi đó theo tính toán của các nhà phân tích kinh tế: Để Việt Nam duy trì được tốc độ phát triển 6 - 7 % hàng năm thì vốn đầu tư lên đến 400 - 500 tỷ USD. Để có thể huy động được nguồn vốn khổng lồ chắc chắn không thể chỉ dựa vào nguồn nội lực để phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà cổ phần hoá đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta , nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước và thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Vì điều kiện và năng lực có hạn nên người viết xin trình bầy một số cơ sở lí luận của Công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Bài viết này gồm 3 phần :
Phần I : Công ty cổ phần và sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Phần II : Thực trạng cổ phần hoá dnnn ở Việt Nam
Phần III: Một số giải pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Minh Hằng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn bài tiểu luận này.
Phần I
Công ty cổ phần và sự cần thiết cổ phần hoá
I. Khái niệm và đặc điểm :
1. Khái niệm :
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh do nhiều người góp vốn , nhưng đóng góp với hình thức cổ phần thông qua việc phát hành cổ phiếu .
Vậy công ty cổ phần có hai đặc điểm :
1. Nhiều người góp vốn (tương tự công ty trách nhiệm hữu hạn ).
2. Góp vốn thông qua phát hành cổ phiếu (Đặc điểm này khác với công ty trách nhiệm hữu hạn , vì công ty trách nhiệm hữu hạn không được phát hành cổ phiếu ).
Cổ phần : là phần vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau và được phát hành dưới nhiều hình thức cổ phiếu gọi là cổ phần .
Cổ phiếu là phiếu chứng nhận phần góp vốn của cổ đông và quyền được hưởng lãi suất cổ phần của cổ đông .
Cổ phiếu có hai loại :
1. Loại ưu đãi (có ghi danh): loại này giành được cho các sáng lập viên và các thành viên của Hội đồng quản trị . Đặc điểm của loại này là không được chuyển nhượng , mua bán , đó là một sự ràng buộc phải gắn bó với công ty suốt đời .
Trong trường hợp công ty bị phá sản thì cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được thanh toán trước.
2.Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu không ghi danh được tự do mua bán, chuyển nhượng , nghĩa là được phát hành rộng rãi trên thị trường . Loại này khác cổ phiếu ưu đãi ở chỗ : lãi suất không ổn định , điều kiện rủi ro cao hơn cổ phiếu ưu đãi và biến động theo sự kinh doanh của công ty . Khi công ty bị phá sản thì cổ phiếu thường phải thanh toán sau cổ phiếu ưu đãi .
Trái phiếu : (phát hành để huy động vốn bổ sung) là phiếu ghi nợ mà người mua trái phiếu thành chủ nợ , người phát hành là con nợ ( công ty cổ phần là con nợ ). Đặc điểm trái phiếu là được tự do chuyển nhượng , mua bán , khả năng thanh toán cao , lãi suất trái phiếu ổn định. Khi công ty bị phá sản thì trái phiếu được thanh toán trước cổ phiếu.
Giá cổ phiếu: Vốn cổ phần
Mệnh giá ( giá danh nghĩa ) =
Tổng số cổ phiếu phát hành
Giá thị trường : là giá thực giao dịch trên thị trường. Nếu mệnh giá không đổi thì giá trên thị trường ổn định. Trên thị trường giá luôn biến động theo các yếu tố sau :
+ Lãi suất cổ phần (công ty nào có lãi suất cổ phần cao thì cổ phiếu của công ty đó được mua nhiều hơn và làm cho giá thị trường tăng lên, lãi suất chịu tác động thực trạng và tương lai của công ty ).
+ Lãi suất ngân hàng ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ phiếu
+ Những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thị trường thế giới ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ phiếu
Bên cạnh đó các hiện tượng xã hội như bãi công, thay đổi nguyên thủ quốc gia sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường.
Cổ đông là người góp vốn, người nắm giữ cổ phiếu, có quyền quyết định đối với hoạt động của công ty. Quyền hạn của cổ đông phụ thuộc vào vốn, nếu vốn cao thì quyền hạn cao và ngược lại. Cổ phần nhỏ hơn hoặc bằng 50% gọi là cổ phiếu chi phối, nếu nhỏ hơn hoặc bằng 20% vốn của công ty gọi là cổ phần kiểm soát.
Họp đại hội đồng có thể họp đại biểu cổ đông căn cứ vào vốn cổ phiếu. Lá phiếu của cổ đông phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông đó sở hữu : vai trò phụ thuộc vào số cổ phần sở hữu.
2. Sự ra đời của công ty cổ phần và phát triển :
Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỉ thứ 16 ở các nước phát triển , đến nay đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm . Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường , nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất kì lực lượng nào mà là một quá trình phát triển kinh tế khách quan , do những nguyên nhân sau:
Quá trình xã hội hoá tư bản , tăng cường tích luỹ và tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời .
Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí của tiến bộ kĩ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển . Công ty cổ phần ra đời rất sớm (thế kỉ 16) nhưng phải đến cuối thế kỉ 19 mới được phát triển một cách rông rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản . Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ , phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Sự phát triển rông rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển vì :
Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển , không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường .
Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành . Chẳng hạn ở Đức năm 1896 , trong ngành điện lực có 39 công ty cổ phần . Hầu hết các công ty cổ phần này đều nảy sinh từ sự giúp đỡ của các ngân hàng . Như vậy về lịch sử cũng như về logic tín dụng là một cơ sở trực tiếp , là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển .
Tuy nhiên công ty cổ phần không đồng nhất với hình thức tín dụng. Khi mua cổ phiếu người mua không phải là người cho vay của công ty cổ phần , mà là người chủ chung của công ty đó . Như trên thực tế , việc bỏ vốn tiền ra mua cổ phiếu chẳng qua là việc chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi tức . Đứng về mặt kinh tế thuần tuý không thể coi người chủ cổ phần với người chủ cho vay là một , người chủ cho vay đòi hỏi phải có người vay. Trái lại xuất hiện sự xuất hiện của công ty cổ phần là thủ tiêu người cho vay mà thay vào đó là người quản lí và người giám đốc làm thuê, lợi tức của vốn cho vay cũng phải là lợi nhuận doanh nghiệp và đối lập với lợi nhuận doanh nghiệp với tư cách là thu nhập do quyền sở hữu mang lại : lợi tức cổ phiếu mà người chủ cổ phiếu nhận được có nghĩa là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành hình thái lợi tức . Như vậy công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mới , một loại hình trên cơ sở tín dụng.
Trong lịch sử công ty cổ phần là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế ,vì thế các nhà nước tư bản độc quyền đã coi trọng loại hình này . Nhiều nhà nước tư bản độc quyền đã sử dụng các tổ chức tài chính đa dạng để tạo khả năng huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu ,trái phiếu ;đồng thời sử dụng quyền lực trong việc tạo ra môi trường kinh tế , yếu tố tâm lí cũng như cơ sở pháp luật thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá tạo điều kiện ra đời các công ty cổ phần . Với các động tác này , các công ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh hành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và trở thành phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ. Ví dụ ở Mĩ vào năm 1939 số lượng các công ty cổ phần chiếm 51,7% tổng số các tổ chức kinh doanh công nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp .
Tóm lại công ty cổ phần là quá trình phát triển kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản , nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản .
3.Ưu thế và hạn chế của công ty cổ phần
Những ưu thế cơ bản của công ty cổ phần là khả năng huy động vốn cao nhanh chóng, đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh . Kinh tế càng phát triển, càng thay đổi thì sự rủi ro càng cao và hình thức công ty cổ phần là hình thức giúp nhà kinh doanh hạn chế được rủi ro , tức là tránh được rủi ro bằng cách cùng lúc đầu tư vào nhiều công ty khác nhau , chia rủi ro cho nhiều người vì công ty cổ phần là công ty của nhiều người và chế độ trách nhiệm hữu hạn ; tận dụng trí tuệ của nhiều người ( cổ đông , hội đồng quản trị ). Tổ chức công ty cổ phần có tinh thần dân chủ cao nên phát huy được trí tuệ của nhiều người , kinh tế càng phát triển thì lợi thế này càng trở nên quan trọng .
Tuy nhiên công ty cổ phần còn có nhiều hạn chế : công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đem lại nhiều thuận lợi cho công ty nhưng lại chuyển rủi ro sang cho các chủ nợ , các cổ đông tham gia . Các chủ cổ phần không quen biết nhau và nhiều người trong họ không hiểu kinh doanh , mức độ tham gia góp vốn vào công ty có sự khác nhau, do đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với công ty không giống nhau , điều đó có thể dẫn đến việc lợi dụng và lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông khác nhau. Công ty cổ phần tuy có sự tổ chức chặt chẽ nhưng việc phân công về quyền lực và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty hiệu quả lại rất phức tạp . Trong hoạt động kinh tế , phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn, do đó quyền kiểm soát công ty vẫn trong tay các cổ đông lớn. Việc khắc phục những hạn chế trên phụ thuộc vào trình độ phát triển chung của nền kinh tế, trình độ dân trí, trình độ điều hành quản lí của nhà nước và sự hoàn hảo của hệ thống pháp luật
Dù vậy công ty cổ phần là hình thức mang tính chất xã hội hoá cao , không những được thể hiện ở phương diện sở hữu mà còn thể hiện tập trung ở việc sử dụng vốn.
II. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và sự cần thiết cổ phần hoá
1. Quá trình hình thành phát triển của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ( ở miền Bắc) và từ năm 1975 ( ở miền Nam ). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có nhiều đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, biểu hiện ở chỗ :
Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé , cơ cấu phân tán. Năm 1992 cả nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động dưới 100 người, chỉ có 4% doanh nghiệp có số lượng lao động trên 100 người. Số lượng lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội khoảng 5 – 6 %.
Trình độ kĩ thuật, công nghệ lạc hậu , trừ một số rất ít (18%) số doanh nghiệp nhà nước được đầu tư mới đây, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đã được sử dụng khá lâu, có trình độ kĩ thuật , công nghệ thấp kém so với các nước từ 3 đến 4 thế hệ. Có doanh nghiệp còn trang bị các thiết bị kĩ thuật từ năm 1939 và trước đó được xây dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , các doanh nghiệp khó có khả năng cạnh tranh cả trong nước và trên thế giới .
Việc phân bố còn bất hợp lí về ngành, vùng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh trạnh quyết liệt , nên nhiều doanh nghiệp không thể trụ nổi buộc phải phá sản , giải thể . Đặc biệt trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách doanh nghiệp nhà nước . Do đó mặc dù số lượng các doanh nghiệp đã giảm từ 12.084 tính đến ngày 1/4/1994 xuống còn 6.264 doanh nghiệp nhà nước , nhờ sự đổi mới về tổ chức quản lí , về kĩ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp còn lại , tổng sản phẩm giá trị tuyệt đối của kinh tế nhà nước , cũng như tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) không những không giảm mà còn tăng lên đáng kể
Bảng sau đây cho chúng ta thấy rõ điều đó :
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm (%)
1971 – 1980
0,4
1971 – 1985
6,4
1986 – 1990
3
1991 – 1997
7,8 – 8,5
Tỷ trọng kinh tế quốc doanh GDP(%)
1990
34,1
1991
36,0
1992
39,6
1993
42,9
1997
43,6
(Theo số liệu của Tổng cục thống kê )
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã tăng nhanh, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kĩ thuật cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và các dịch vụ công cộng. Đồng thời doanh nghiệp nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà nước . Có thể nhận thấy rằng : hầu hết các doanh nghiệp nhà nước của ta hình thành từ thời quản lí tập trung quan liêu bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan (nhất là cấp tỉnh thành phố, quận huyện, cơ quan, trường học). Một bộ phận quan trọng doanh nghiệp nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn tối thiểu , trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu về mọi mặt chỉ mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ , tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những ngành , lĩnh vực then chốt .
Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng , bước đi , và biện pháp trong quá trình đổi mới ở nước ta . Sau mười năm đổi mới , các doanh nghiệp nhà nước đã và đang chuyển biến khá căn bản , đã sắp xếp lại một bước quan trọng , giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu và doanh nghiệp địa phương nhỏ bé , hoạt động không hiệu quả . Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức và từng bước phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh làm ăn năng động và hiệu quả. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước vẫn rất còn khó khăn , hướng kinh doanh còn thấp , nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên , hoạt động cầm chừng . Sự đóng góp của doanh nghiệp nhà nước cho ngân sách nhà nước chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước cho nó, cũng như với tiềm lực của doanh nghiệp nhà nước tình trạng mất , thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng , việc quản lí đối với doanh nghiệp còn quá yếu kém , đặc biệt là tình trạng buông lỏng quản lí tài chính làm nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá , chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng ( Có nhiều doanh nghiệp thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/1 người/1 tháng, trong khi có doanh nghiệp lương công nhân không đảm bảo nhu cầu tối thiểu ).
Nguyên nhân của thực trạng doanh nghiệp nhà nước hiện nay :
Sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện cạnh tranh kéo dài sự tư duy không đúng trong một mô hình xã hội trước đây . Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng nền Kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ có hai thành phần ( quốc doanh và tập thể ). Tư tưởng muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế cá thể , đồng nhất với mục tiêu phương hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội . Trước đây người ta thường xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan của thị trường , coi thị trường là vốn có của chủ nghĩa tư bản . Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp mang tính hình thức , các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất , gia công cho nhà nước chứ không phải một cơ sở kinh doanh . Như vậy rõ ràng doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện đó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế trên thị trường có sự quản lí của nhà nước .
Sự yếu kém của nền kinh tế chủ yếu là lực lượng sản xuất , nói chung các nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng . Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả , cần phải có lực lượng vốn lớn , kĩ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại , đội ngũ công nhân , cán bộ kĩ thuật , cán bộ quản lí có năng lực , đồng thời phải có trình độ tổ chức và quản lí thích hợp của nhà nước cũng như của doanh nghiệp.
Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém lạc hậu của kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế , cũng như mỗi doanh nghiệp . Trình độ kết cấu hạ tầng và dịch vụ của nước ta chỉ ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát triển . Ví dụ hệ thống giao thông liên lạc – cầu nối gắn liền nền kinh tế nước ta với thị trường thế giới đến nay vẫn vô cùng thấp kém và lạc hậu , cả nước mới có 3.2595 km đường sắt nhưng chủ yếu đường khổ rộng 1 mét : quốc lộ có 11 vạn km thì 7% đường tốt , 47% km đường xấu và rất xấu , cảng biển và sân bay thiếu cả về số lượng và chất lượng. Những cơ sở hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế .
Nền kinh tế của ta còn bộc lộ những yếu kém chưa có tích luỹ nội bộ , chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn . Khả năng vay vốn nước ngoài cũng không phải là thuận lợi . Bởi lẽ ta còn nợ nhiều không có khả năng chi trả trong thời gian nhất định . Mặt khác hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn quá thấp , lãi suất tiền vay còn cao .Trong khi khả năng cạnh tranh của sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới còn quá yếu kém .
Trình độ quản lí vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung , đối với doanh nghiệp nói riiêng nhìn chung còn nhiều thiếu sót , hệ thống pháp luật , chính sách quản lí chưa hoàn chỉnh , phần lớn các văn bản pháp quy, dưới luật có nhiều quy định mâu thuẫn với nhau , hệ thống toà án kinh tế chưa tổ chức kịp thời nhằm đản bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế . Trong hoạt động quản lí nhà nước, tệ cửa quyền quan liêu , thủ tục hành chính quá phiền hà đối với doanh nghiệp và công dân còn khá phổ biến .
Trong quá trình chuyển cơ chế quản lí , nhiều văn bản quản lí cũ đã lỗi thời, song chưa được huỷ bỏ , những văn bản mới có nhiều sơ hở , nhưng không kịp thời sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích thước mắt , cục bộ của cơ sở , ngành , gây nhiều tiêu cực , vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của nhà nước .
Một số công tác đặc biệt quan trọng về quản lí đối với doanh nghiệp như quản lí tài chính , kế toán , kiểm toán , thanh tra , giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp thời trong môi trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng, nếu nhà nước không nắm được thực trạng tài chính , hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Ngược lại có lúc có nơi lại quá nhiều thanh tra kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp một cách tuỳ tiện .
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường,Đảng và nhà nước chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước . Về mặt pháp lí , tài sản , tiền vốn trong các doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân , nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của sở hữu bị bào mòn một cách nghiêm trọng . Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước thờ ơ và xa cách với sở hữu toàn dân. Đó là nguyên nhân của sự tham nhũng, thiếu trách nhiệm, thiếu kỉ cương và kỉ luật của người lao động, của sự giảm sút về năng suất, chất lượng, hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước .Đã có thời gian dài , Việt Nam có sai lầm là trao cho người lao động và Đại hội công nhân viên chức những thẩm quyền của người chủ sở hữu .
Tóm lại , các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân , nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp nhà nước .Đây là mâu thuẫn lớn , song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới , phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở .
Tính tất yếu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước :
Vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đặt ra từ năm 1992 , nhưng cho đến nay tốc độ cổ phần hoá diễn ra rất chậm có nhiều nguyên nhân phát sinh trong quá trình cổ phần hoá chậm . Từ chủ trương , chính sách , quan điểm cho đến những vấn đề thực tiễn triển khai ở các doanh nghiệp . Chúng ta khẳng định rằng : việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh hiệu quả hơn phù hợp với quá trình đổi mới . Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá , hiện đại hoá nền kinh tế đất nước và cải cách thủ tục hành chính .
Hiện nay với gần 6000 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế , nhưng hiệu quả kinh doanh quá thấp , chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp kinh doanh có lãi , trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chiếm khoảng 30%, thực tế doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 – 85% tổng số thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng trên 30% ngân sách nhà nước .
Đặc biệu nếu tính chi phí và tài sản cố định , đất đai giá theo thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ . Một trong những nhuyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định , đặc biệt là máy móc thiết bị đã cũ , lạc hậu về kĩ thuật (so với thế giới lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ , có ngành từ 4 đến 5 thế hệ) . Hiện nay có đến 54,3% doanh nghiệp nhà nước TƯ và 74% doanh nghiệp nhà nước địa phương sản suất ở trình độ thủ công , quy mô doanh nghiệp nhỏ vốn ít . Vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách , riêng vốn huy động chỉ còn 50% được huy động và sản xuất kinh doanh còn lại là công nợ khó đòi , tài sản vật tư mất , kém phẩm chất và lỗ chưa được xử lí . Với thực trạng trên doanh nghiệp hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm , ngân sách nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp doanh nghiệp như trước đây . Ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm vảo như tài sản thế chấp , khả năng kinh doanh để tính đến khả năng thu hồi vốn . Các doanh nghiệp ở trong tình trạng luẩn quẩn , vốn không có nhiều nhưng cũng không có cách nào để huy động .
Để khắc phục tình trạng khó khăn trên, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được coi là giải pháp lớn nhằm tạo ra môi trường hoạt động vốn dài hạn và lâu dài cho người dân để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tạo đà sức bật mới .
Phần II
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam
Mục tiêu và tiến trình
Nghị định 44/19998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu :
1. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ , tạo thêm việc làm phát triển doanh nghiệp , nâng cao sức cạnh tranh và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp .
2.Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức quản lí tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả , tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập người lao động góp phần tăng cường nền kinh tế đất nước .
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán . Song phải chăng coi huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả . Như vậy chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành TƯ khóa VII (tháng 11/1991) được cụ thể hoá trong Nghị quyết của Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII (tháng 1/1991), Nghị quyết 10/TƯ của bộ chính trị ngày 17/3/1995 : Thông báo cố 63/TB – TƯ ngày 4/4/1997 Thông báo ý kiến của Bộ chính trị . Đặc biệt là khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII thì chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được khẳng định rõ hơn . Chính phủ đã triển khai thực hiện từng bước các Nghị quyết nói trên và chú ý điều chỉnh các chính sách trên cho phù hợp với tình hình thực tế.
Quá trình thực hiện có thể chia làm hai giai đoạn chính
+ Giai đoàn thí điểm (1992 - 1995 ):
Trong giai đoạn này Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và Chỉ thị số 84 về việc xúc tiến thực hành thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước . Sau 4 năm thực hiện, triển khai quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84 của Thủ tướng Chính phủ (1992 - 1996) đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là :
Công ty đại lí liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải (năm 1993)
Công ty cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh (1993 )
Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ công nghiệp (1994 )
Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh Long An (1995)
Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn (1995)
Trong số 5 doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn TP Hồ Chí Minh và 1 doanh nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Long An.
+ Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay :
Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước , Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/ CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . Nghị định đã xác định rõ mục tiêu , đối tượng thực hiện cổ phần hoá : quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp , chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp nhà nước và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ , các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện . Kể từ khi Nghị định số 28/CP được ban hành đến tháng 9/1998 đã có 33 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần , như vậy từ năm 1992 đến nay ( 19/5/1999) cả nước đã có 170 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá , gồm 155 doanh nghiệp thuộc địa phương quản lí và 15 doanh nghiệp thuộc TCT 91.
3.Những đánh giá chung :
Đánh giá chung :
Có thể nói hiệu quả cổ phần hoá tiếp tục được khẳng định . Trong số các địa phương có doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá , một số địa phương đã tích cực triển khai công tác cổ phần hoá , trong đó Hà Nội là địa phương tích cực nhất hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá 31 doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch của Chính phủ giao . Ban đổi mới quản lí doanh nghiệp TƯ cho rằng đây là thành phố triển khai công tác cổ phần hoá vững chắc nhất , một hình mẫu cho công tác chỉ đạo thực hiện . Thành phố Hồ Chí Minh mới hoàn thành 4 trên tổng số 20 doanh nghiệp . Chính phủ giao hao Tổng công ty là TCT BCVT và TCT hàng hải mỗi tổng Công ty có một doanh nghiệp cổ phần hoá . Bên cạnh đó có một số Bộ triển khai rất chậm như Bộ Thương mại . Bộ Thương mại là bộ có danh sách số lượng doanh nghiệp nhà nước mà tuyệt đại đa số thuộc đối tượng cổ phần hoá . Chính phủ giao nhiệm vụ chuyển 7 doanh nghiệp trong năm 1998 nhưng chỉ làm được một doanh nghiệp . Các TCT thép, TCT cà phê, Lương thực Miền Bắc ... chưa chuyển được doanh nghiệp nào thành công ty cổ phần .
Cũng theo đánh giá của Ban Đổi Mới Quản Lí Doanh Nghiệp TƯ, các doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần hoạt động đều có hiệu quả . Bình quân 16 công ty cổ phần đầu tiên đã hoạt động được trên một năm về vốn tăng 299 % so với trước khi cổ phần hoá . Về doanh thu tăng 237%. Lợi nhuận sau thuế tăng 305 %/ năm . Các khoản nộp ngân sách Nhà nước tăng 260 % . Trong đó công ty đại lí liên hiệp vận chuyển có vốn tăng nhanh nhất, trước cổ phần hoá là 6,2 tỷ đồng nhưng đến cuối năm 1998 vốn đã tăng lên 84 tỷ đồng . Doanh thu trước khi cổ phần hoá là 16,6 tỷ đồng đến cuối năm 1998 doanh thu tăng lên 180 tỷ đồng. Số lao động thu nhận thêm gần 300 người .
Tính từ giai đoạn đầu tiên đến nay , tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam có thể được chia làm 2 giai đoạn với các cơ chế đặc thù và kết quả khác nhau
Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996. Trong giai đoạn này , 4 năm chỉ cổ phần hoá được 5 doa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0680.doc