Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay

Lời Mở Đầu Công ty cổ phần ra đời từ cách đây đã lâu, khoảng đầu thế kỷ XVII ở các nước phát triển, nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX, khi nền kinh tế đại công nghiệp phát triển mạnh mẽ nó mới phát triển và được ứng dụng rộng rãi. Nước ta, trước năm 1986, đã đi theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Trải qua thời gian ,cơ chế ấy đã bộc lộ những yếu kém của nó,nền kinh tế nước ta khó có thể phát triển với tư duy kinh tế thụ động, kém nhạy bén, không có sự kích thích phát triển do không có cạnh

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tranh cùng với tư tưởng ỷ lại. Năm 1986, Đảng và nhà nước ta đã quyết định rằng đi theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước là một hướng đi đúng đắn trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ quá độ đi lên Cộng Sản Chủ Nghĩa. Năm 1992, nhà nước ta đã tiến hành triển khai thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thực sự thì quá trình cổ phần hoá mới chỉ được thúc đẩy nhanh từ năm 1998. Từ đó đến nay, các công ty cổ phần đã, đang, và sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Cùng với sự phát triển của công ty cổ phần thì thị trường chứng khoán cũng đã bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh còn mới ở nước ta. Do vậy, nói đến công ty cổ phần và thị trường chứng khoán chắc hẳn không ít người còn chưa hiểu ró được sâu sắc về vai trò của nó trong nền kinh tế , và tại sao lại phát triển công ty cổ phần ở nước ta. Ngay chính bản thân em, một sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân, cũng chưa nắm bắt được sâu sắc vấn đề này. Chính vì chưa hiểu được rõ ràng về vai trò và ý nghĩa của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta, và vì ý nghĩa to lớn của nó trong việc phát triển kinh tế nước ta mà em đã lựa chọn đề tài ngiên cứu này. Em muốn được hiểu rõ hơn con đường đi của nước ta, sự lựa chọn con đường phát triển của nước ta. Và vì chúng em là những người thanh niên, là người chủ của đất nước, chúng em mong muốn sẽ góp phần đưa nước ta nhanh chóng đi theo con đường mà Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn, con đường tiến lên XHCN. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Việt Tiến, giảng viên trường đại học KTQD đã tạo cơ hội cho chúng em có điều kiện để tìm hiểu và nghiên cứu về hình thức hoạt động mới của doanh nghiệp nhà nước ta. Em xin cảm ơn thầy đã chỉ bảo, góp ý, và giúp đỡ chúng em hoàn thành bài viết này. Do trình độ và những hiểu biết còn hạn chế nên trong bài viết của em chắc chắn còn nhiều hạn chế, em xin thầy hãy chỉ bảo thêm cho em. Bài viết của em gồm có ba chương và trong phạm vi bài viết này em xin đề cập đến những vấn đề sau : + Chương I: Sự xuất hiện và vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế . + Chương II: Quá trình hình thành công ty cổ phần và các loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay. + Chương III: Các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta, và để nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới. Trong bài viết có tham khảo một số bài viết trên báo và tạp chí: Kinh tế phát triển, Thời báo kinh tế, Nghiên cứu lí luận PHần nội dung Chương I: Sự xuất hiện và vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế. I/ Sự xuất hiện của công ty cổ phần 1- Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần Công ty cổ phần là gì? - Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp. Như vậy công ty cổ phần là loại hình sản xuất kinh doanh đặc biệt có khả năng tích tụ và tập trung vốn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Cơ chế đặc thù của công ty cổ phần là san sẻ rủi ro, mạo hiểm và do đó có khả năng thu hút nhà đầu tư. Công ty cổ phần còn là một hình thức tổ chức gắn các quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý,và quan hệ phân phối trong một chủ thể thống nhất. Do có những ưu điểm như vậy, hình thức công ty cổ phần được áp dụng ở hầu hết các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển. Vậy công ty cổ phần đã ra đời và phát triển như thế nào? Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá cao, đặc biệt là xã hội hoá về vốn, quan hệ tín dụng và quan hệ thị trường hình thành đầy đủ.Trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa (TBCN), những nhà Tư bản chủ yếu xuất thân từ thợ cả, người chủ phường hội thương nhân, người cho vay nặng lãi…Lúc đầu họ lập ra các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, hoạt động kinh doanh độc lập, thuê mướn nhân công và bóc lột lao động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng họ đã liên kết với nhau,dựa trên quan hệ nhân thân và chữ tín, họ đã góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Năm 1553, công ty cổ phần đầu tiên ra đời ở Anh. Đến những năm 70 của thế kỷ XVII, sắc lệnh đầu tiên về công ty cổ phần ra đời. Năm 1773, tại London nước Anh hình thù đầu tiên của sở giao dịch chứng khoán ra đời và năm 1801 thì chính thức được thành lập. Công ty cổ phần trong giai đoạn đầu này được thành lập bằng vốn cổ phần của thương nhân, do thương nhân đứng ra tổ chức. Mục đích hoạt động của công ty là lợi dụng những phát kiến lớn về địa lí thế kỷ XV, XVII để đi ra tìm kiếm thị trường mới có tỉ suất lợi nhuận cao và thu về những nguồn lợi lớn cho thương nhân. Thời kỳ này Chủ Nghĩa Trọng Thương đã trở thành học thuyết kinh tế dẫn đường cho giai cấp Tư sản. Thương nghiệp đã trở thành hình thức đầu tiên nảy sinh công ty cổ phần. Nửa đầu thế kỷ XIX, các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và phân phối riêng của chúng. Công ty cổ phần xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau: giao thông vận tải, ngành chế tạo, ngành đường sắt…Một số doanh nghiệp lớn của Tư bản tư nhân cũng bắt đầu phát hành cổ phiếu, dùng tiền của người khác để làm giàu, đồng thời dần dần tách người đại biểu quyền sở hữu (hội đồng quản trị) và người kinh doanh (giám đốc) ra làm hai. Đồng thời với sự phát triển các công ty cổ phần, các sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên một cách phổ biến tại các nước phương Tây. Sau những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần phát triển rất nhanh, mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành, quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy, các tổ chức độc quyền ra đời như: Cac ten, Xanh đi ca, Tờ rớt. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hình thức cổ phần đã được dùng trong việc thành lập ra các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia, hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế. Các công ty này thu hút công nhân viên chức mua cổ phần, thực hiện cái gọi là “Chủ Nghĩa Tư Bản nhân dân”,vừa để làm dịu bớt đi những mâu thuẫn lao động và vừa để thu hút vốn một cách thuận lợi. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ như vậy. Còn ở nước ta, lẽ tất nhiên là chúng ta chưa thể có được một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như thế. Chúng ta vừa mới đi qua cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta chưa có đủ thời gian để có thể vươn lên “sánh vai với các cường quốc”. Nhất là khi ở giai đoạn đầu, chúng ta đã phát triển theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nhưng từ năm 1986, nhà nước ta đã đi theo con đườngkinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Năm 1992, nhà nước đã tiến hành triển khai thí điểm cổ phần hoá chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. “Đến cuối năm 1998 cả nước ta có 116 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Năm 1999 có 370 công ty cổ phần. Dự định năm 2000 sẽ có 811 công ty cổ phần”(*). Như vậy việc cổ phần hoá đang được thúc đẩy nhanh ở nước ta.Vậy tại sao lại hình thành nên những công ty cổ phần? Thật ra thì sự ra đời của các công ty cổ phần là một tất yếu khách quan. 2-Sự ra đời của công ty cổ phần là một tất yếu khách quan Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển, đến nay nó đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào, mà nó là một quá trình kinh tế khách quan. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy sự ra đời của công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường, qui luật giá trị tác động mạnh dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty tư bản, buộc họ phải tìm cách cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hàng hoá xã hội, thì mới có thể tồn tại và phát triển. Chỉ có những nhà tư bản lớn có quy mô sản xuất ở một mức độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kĩ thuật hiện đại, làm tăng năng suất lao động, có như thế mới giành thắng lợi trong cạnh tranh. Các nhà tư bản nào có giá trị cá biệt cao hơn giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và phá sản. Để tránh cái kết cục bi thảm có thể xảy ra với mình, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Song đây là biện pháp hết sức khó khăn, và hơn nữa việc tích tụ vón phải mất một thời gian dài mới có thể thực hiện được. Một lối thoát nhanh hơn,có hiệu quả hơn là các nhà tư bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản mới để đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Từ hình thức tập trung vốn như vậy các công ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ . Nguyên nhân thứ hai thúc đẩy sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là do sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp-cơ khí, của sự tiến bộ kĩ thuật. Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kĩ thuật ngày càng phát triển cao, đòi hỏi tư bản cố định phải tăng lên, và vì thế qui mô tối thiểu mà một nhà tư bản cần phải có để có thể hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng ngày càng tăng lên. Để đáp ứng được yêu cầu đó, các nhà tư bản cá biệt đã liên minh góp vốn để cùng kinh doanh. Sự tập trung vốn như vậy đã hình thành các công ty cổ phần. Mặt khác, do kĩ thuật ngày càng phát triển, làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn, đã thu hút các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực mới này, bằng cách di chuyển tư bản từ những ngành nghề kém hiệu quả hơn sang những ngành nghề hiệu quả hơn. Nhưng việc dịch chuyển vốn cũng không phải là dễ dàng, họ chỉ có thể chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quá trình đó có thể kéo dài, và để giải quyết mâu thuẫn này, các nhà tư bản cá biệt đã liên minh với nhau,cùng góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn, thành lập công ty cổ phần. Sản xuất ngày càng phát triển, trình độ kĩ thuật ngày càng cao, cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh, sự đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản ngày càng lớn. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho công ty cổ phần ra đời. Để tránh gặp phá sản, các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình, tham gia đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Sự phân tán này làm cho số vốn trong một ngành nghề nào đó ít đi, do đó họ phải liên kết với những nhà tư bản khác để cùng góp vốn kinh doanh. Với cách này, một mặt nhà tư bản tìm cách chia sẻ sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Nhưng mặt khác, họ cũng hạn chế được bớt sự rủi ro do có một số đông người cùng tham gia công việc quản lí, tập trung được trí tuệ của nhiều người. Cho đến nay, công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản lí được các nhà tư bản ưa chuộng nhất nên nó được hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng cũng tạo điều kiện cho công ty cổ phần ra đời và phát triển. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá tất yếu ra đời và làm phát triển các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn. Nguyên nhân làm ra đời và phát triển thị trường vốn là do trong cùng một thời điểm có sự cung và cầu về vốn. Có những khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi,đó là những khoản tiền để thay đổi tài sản cố định nhưng chưa đến lúc phải thay, những khoản tiền để dùng cho sản xuất kinh doanh nhưng chưa đến lúc dùng đến… Cùng khoảng thời gian đó lại có những nhà tư bản đang cần có tiền để chi tiêu. Đối với doanh nghiệp và dân cư có tiền nhàn rỗi, họ cũng muốn tiền của mình sẽ sinh lời, ngược lại đối với những nhà tư bản và dân cư cần sử dụng số tiền trong một thời gian nhất định, họ cũng muốn trả một món tiền lời nhất định. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua hình thức tín dụng. Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định để thu một món lời gọi là lợi tức.Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh, làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng còn có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển công ty cổ phần. Bởi vì việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn trên thị trường.Thông qua thị trường tiền tệ này, các công ty có thể có được một số vốn để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những người mua cổ phiếu của công ty sẽ trử thành người chủ chung của công ty đó và được phân chia một phần lợi nhuận của công ty. Công ty cổ phần đã phát triển trên quan hệ tín dụng đó. Công ty cổ phần là một quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường, nó là một kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới CNTB. Vậy công ty cổ phần ra đời và phát triển ở nước ta như thế nào? Trước đây, do vội vã xoá bỏ hình thức sản xuất TBCN, chúng ta đã vô tình kìm hãm sự phát triển của đất nước. Đến năm 1986, nhà nước ta đã phát triển theo cơ chế hàng hoá nhiều thành phần. Mặc dù vậy nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết. Đó là trình độ công nghệ, kĩ thuật còn thấp kém do không có vốn để đổi mới công nghệ và thiếu các cán bộ quản lí, cán bộ kĩ thuật. Các doanh nghiệp thì kém sức cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm thì kém chất lượng…Lúc này câu hỏi đặt ra cần phải giải quyết ngay đó là làm thế nào để có được nguồn vốn cho các doanh nghiệp hoạt động? Câu trả lời hay nhất là tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp. Nhà nước ta đã thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp được tiến triển nhanh, và chắc chắn trong tương lai công ty cổ phần sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta. Công ty cổ phần đã phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới và cả ở nước ta. Vậy nó có gì khác so với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trước đây? Hay nói cách khác là nó có những đặc điểm gì? 3- Đặc điểm của công ty cổ phần 3.1- Những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần - Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp. - Cổ phần: Là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hay nhiều cổ phiếu. - Cổ đông: Là những cá nhân, pháp nhân sở hữu cổ phần của công ty cổ phần. - Cổ phiếu: Là một loại chứng chỉ có giá do công ty cổ phần phát hành để xác nhận quyền sở hữu cổ phần của cổ đông. Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên có quyền tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ được quyền chuyển nhượng khi có sự đồng ý của hội đồng quản trị. - Vốn điều lệ của công ty cổ phần: Là tổng số vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty. - Cổ tức: Là một phần lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần để chia cho các cổ đông. - Cổ phần chi phối của nhà nước: Là các loại cổ phần đáp ứng một trong hai điều kiện sau: + Cổ phần của nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của công ty. + Cổ phần của nhà nước ít nhất gấp hai lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong công ty. - Cổ phần đặc biệt của nhà nước: Là cổ phần của nhà nước trong công ty mà nhà nước không có cổ phần chi phối nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của công ty được ghi trong điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. 3.2- Đặc điểm của công ty cổ phần Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nó có những đặc điểm sau: - Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lí hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lí đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Vốn cổ phần được cơ cấu bởi 2 bộ phận: + Vốn cổ phần được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu thường là cổ phiếu không thể thiếu được trong công ty cổ phần. Nếu không có nó thì không một công ty cổ phần nào có thể tồn tại. Đặc trưng của cổ phiếu thường là chủ nhân cả nó(các cổ đông thường) phải chịu sự mạo hiểm rất cao khi công ty thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Nếu công ty thành đạt tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì các cổ đông thường có lợi hơn so với cổ đông ưu đãi, cũng như các chủ nợ phần lớn lợi nhuận công ty đang phát đạt được chia cho các cổ đông thường dươí dạng lợi tức cổ phần. +Vốn cổ phần được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi:theo điều lệ của công ty, cổ phiếu ưu đãi phải bảo đảm giải quyết các điều kiện : mức lãi lợi tức cổ phần cố định, khả năng của công ty chuộc lại các cổ phiếu đó, mức trả cho các cổ phiếu ưu đãi trong trường hợp công ty bị phá sản, điều kiện để đổi cổ phiếu lấy cổ phiếu thường. Như vậy cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu được hưởng các quyền ưu tiên được hưởng mức lãi cổ phần riêng biệt có tính cố định hàng năm bất kể công ty có lãi hay không, được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi công ty bị phá sản. Cổ phiếu ưu đãi gồm có cổ phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp hay dồn lãi, cổ phiếu ưu đãi không dồn lãi. Cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi thuận để lấy cổ phiếu thương, đổi nghịch để lấy cổ phiếu khác ưu đãi hơn, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn được. Vốn cổ phiếu của công ty được pháp luật công nhận để bảo đảm các cam kết của công ty khi công ty đi vay. Ngoài vốn góp của cổ đông, các công ty cổ phần còn có quyền đi vay nợ rồi trả lãi tức theo tỉ lệ thoả thuận, có quyền phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác. Vốn đi vay có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty, nhất là công ty đang ở trong tình trạng khó khăn về tài chính hay công ty muốn cải tạo hoặc đổi mới quy trình công nghệ cũng như khi mở rộng quy mô sản xuất. Nguồn thanh toán và trả nợ của công ty chủ yếu là lợi nhuận thu được trong quá trình kinh doanh. Như vậy vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân, tập thể, nhà nước và cá nhân dù chỉ mua một cổ phiếu cũng trở thành người chủ sở hữu chung tài sản hợp nhất của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp cá nhiều chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi chủ sở hữu phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Khi muốn thu hồi cổ phiếu nhanh, các cổ đông chỉ có cách là bán các cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán. - Cơ cấu tổ chức và điều hành của công ty cổ phần: Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần, nên các cổ đông không thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình, mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty, bao gồm: đại hôi cổ đông , hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty là đại hội của những người đồng sở hưũ đối với công ty cổ phần. Đại hội cổ đông có 3 hình thức: + Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông qua điều lệ công ty. Đại hội đồng thành lập phải có nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty và biểu quyết đa số. + Đại hội cổ đông bất thường trong những trường hợp khẩn cấp có nguy cơ đe doạ đến sự hoạt động bình thường của công ty như: gặp khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lược phát triển, hoạt động của hội đồng quản trị và ban kiểm soát yếu kém cần chấn chỉnh và kiện toàn…thì đại hội cổ đông có thể triệu tập bất thường theo yêu cầu của chủ tịch hội đồng quản trị , hoặc của trên 1/2 số thành viên của hôi đồng quản trị, hoặc theo yêu cầu của Trưởng ban kiểm soát hay đề nghị của số cổ đông đại diện cho trên 50% số vốn điều lệ của công ty. + Đại hội đồng cổ đông: được triệu tập vào cuối năm tài chính hoặc bất kỳ lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc kiểm soát viên thấy cần thiết để giải quyết thuộc hoạt động kinh doanh của công ty trong khuôn khổ điều lệ. Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty cổ phần, bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi , để có khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do đại hội đồng cổ đông giao phó. Số thành viên của hội đồng quản trị do đại hội cổ đông quyết định và ghi trong điều lệ công ty. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng. - Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần: Trong công ty cổ phần, quan hệ phân phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào lợi nhuận của công ty. Lợi nhuận của công ty, sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ phần. Phần lợi nhuận mà các cổ đông thu được tỷ lệ thuận với lượng vốn góp của họ và được gọi là lợi tức cổ phần. Mức lợi tức cổ phần phụ thuộc trực tiếp vào trình độ và kết quả kinh doanh của công ty. Mức lợi tức cổ phần cao không những có lợi cho các cổ đông mà còn ảnh hưởng trực tiếp làm tăng gía cổ phiếu của công ty trên thị trường chứng khoán. Thông thường các chủ sở hữu góp vốn cổ phần với mục đích thu được lợi tức cổ phần cao hơn lãi suất trên thị trường vốn. Như vậy, ở công ty cổ phần người sở hữu tài sản của công ty là người sở hữu thuần tuý, việc điều khiển và quản lý công ty thực hiện thông qua chế độ thuê giám đốc. Người giám đốc của công ty chỉ đơn giản là người điều khiển và quản lý tư bản cho người khác. Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị trường.Vậy tại sao nó lại phát triển mạnh mẽ như vậy, nó có vai trò gì trong sự phát triển kinh tế? II/ Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn một cách nhanh chóng và mạnh mẽ từ mọi thành phần kinh tế: Do quan hệ sở hữu trong công ty cổ phần là thuộc về các cổ đông nên quy mô sản xuất có khả năng được mở rộng to lớn và nhanh chóng, mà không một cá nhân riêng lẻ nào có thể thực hiện được. Việc tích tụ dựa vào một cá nhân riêng lẻ diễn ra vô cùng chậm chạp. Còn theo kiểu công ty cổ phần thì tăng quy mô lên rất nhanh bằng cách thu hút các nguồn vốn của đông đảo các nhà đầu tư và tiết kiệm của nhân dân. Công ty cổ phần có thời gian tồn tại là vô hạn (nếu không có quy định thời gian hoạt động và loại trừ trường hợp bị phá sản) vì nó có sự độc lập nhất định đối với các cổ đông. Người bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty cổ phần không có quyền rút vốn mà chỉ có quyền sở hữu số phiếu. Các cổ phiếu có thể được tự do mua bán trên thị trường và có quyền được thừa kế. Vì vậy, khác với loại hình công ty khác, vốn cổ phiếu đã được góp tồn tại với quá trình “sống” của công ty, còn chủ sở hữu có thể thay đổi. Như vậy, sự tồn tại của công ty cổ phần không bị ảnh hưởng bởi các cổ đông. Trong công ty cổ phần, chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu của nó cho phép sử dụng các nhà quản lí chuyên nghiệp. Công ty có thể thuê giám đốc kinh doanh, người giám đốc kinh doanh được hưởng quyền lợi hoặc là tự chịu trách nhiệm với những quyết định của mình. Như vậy, hình thức tổ chức này giúp cho người giám đốc phát huy tinh năng động và sáng tạo của mình. Trong các hình thức kinh doanh trước đây, những quy định quá chặt chẽ về quyền và trách nhiệm của người giám đốc sẽ làm giảm tính năng động và sáng tạo, linh hoạt trong quản lý, làm giảm bớt hiệu quả kinh doanh. Hình thức công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro, nó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông, do đó những người nắm quyền điều hành công ty cũng bớt tổn thất hơn. Điều này cũng góp phần làm giảm bớt khủng hoảng kinh tế khi những công ty lớn bị phá sản. Việc ra đời của công ty cổ phần, việc phát hành các loại chứng khoán và việc mua bán chuyển nhượng chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán ra đời lại là nơi để cho các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các nguồn tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các quỹ đầu tư, là cơ chế phân bổ các nguồn đầu tư theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, và là cơ sở quan trọng để nhà nước thông qua nó để sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu lựa chọn. Cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán. Bất kể cổ phiếu được chu chuyển bao nhiêu lần, hoạt động của doanh nghiệp cũng không bị ảnh hưởng mà vẫn tiếp tục một cách bình thường. Đồng thời cơ chế này tạo nên sự tự di chuyển linh hoạt các nguồn vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các doanh nghiệp và dân chúng. Công ty cổ phần tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào hoạt động của công ty với tư cách là người chủ sở hữu chứ không phải là người làm thuê. Quyền lợi của người lao động khi đó gắn với quyền lợi của công ty, điều đó tạo độnglực cho họ tham gia lao động tích cực và gắn bó với công ty hơn. Điều này cũng tạo điều kiện tiền đề cho công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Công ty cổ phần có khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện để đổi mới công nghệ và quản lý, nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh. Công ty cổ phần có vai trò to lớn đối với việc phát triển kinh tế, chính vì nhận thức được tầm quan trọng của nó đối với việc phát triển kinh tế mà Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc cổ phần hoá ở nước ta. Vậy quá trình hình thành công ty cổ phần ở nước ta như thế nào? Nó có vai trò gì trong nền kinh tế nước ta? CHƯƠNG II: Sự xuất hiện và loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay I/ Quá trình hình thành và các loại công ty cổ phần 1-Tại sao công ty cổ phần lại ra đời ở Việt Nam? Nước ta, cũng như các nước XHCN trước đây, thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng XHCN. Vì vậy, khu vực kinh tế nhà nước đã phát triển một cách nhanh chóng và rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỉ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế, bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại. Theo số liệu thống kê, cuối năm 1989, cả nước ta có 12.084 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 1.695 doanh nghiệp do trung ương quản lí, 10.389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lí . Các doanh nghiệp hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước, và do đó, tất cả các doanh nghiệp đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Song cũng giống như nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế nhà nước hoạt động rất kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm rất kém và không ổn định, hiệu quả khai thác vốn đầu tư rất thấp. Các cơ quan chức năng của bộ chủ quản can thiệp sâu vào hoạt động quản lí kinh doanh, làm hạn chế quyền chủ động của các doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh, mặt khác lại tạo ra sự ỷ lại, thiếu trách nhiệm, không coi trọng vấn đề lỗ lãi đối với sự tồn tại của doanh nghiệp, tạo ra những kẽ hở cho hoạt động hối lộ tham nhũng. Nền kinh tế nước ta luôn trong tình trạng thâm hụt ngân sách thường xuyên và những khoản vay nợ nước ngoài ngày càng chồng chất. Theo số liệu thống kê của bộ khoa học công nghệ và môi trường, tháng 5/1993 có 4.584 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chiếm hơn 30% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp thua lỗ trên đây có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước và với 787.300 lao động trong tổng số 2.590.000 lao động, bằng 32,9% số lao động của toàn khu vực kinh tế nhà nước. Với gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ khoảng 88% số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh tế rất thấp. Chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp nhà nước có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách khoảng 80-85% doanh thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách nhà nước. Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng này là tài sản cố định, đặc biệt là máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu về kĩ thuật. Nói tóm lại, có thể thấy rằng tình trạng kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước về cơ bản là do cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong mấy chục năm qua. Trước đây do điều kiện lịch sử kháng chiến chống Mĩ, nền kinh tế được quản lí như vậy sẽ bảo đảm huy động ở mức cao nhất mọi tiềm lực kinh tế cho kháng chiến thắng lợi mà không cần tính đến hiệu quả. Tuy nhiên, khi đất nước đã chuyển sang thời kì hoà bình, tập trung vào việc xây dựng kinh tế, thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lí này sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, và đẩy nền kinh tế rơi vào sự khủng hoảng. Vậy có cách giải quyết nào đối với vấn đề này? Câu trả lời hay nhất là cổ phần hoá các doanh nghiệp. Sự đổi mới tư duy về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự điều tiết, định hướng của nhà nước đã cho phép từng bước thực hiện việc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lí mới thích ứng với điều kiện phát triển hiện nay.Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35098.doc
Tài liệu liên quan