Công ty cổ phần và Vai trò của nó trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay

Lời Mở đầu Bước sang thế kỷ XXI, khoa học công nghệ tiến bộ nền kinh tế trí thức đang dần hình thành và phát triển. Đời sống vất chất và tinh thần của con người ngày cáng được nâng cao. Con người hướng tới nhu cầu sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao hơn, đẹp hơn, vừa túi tiền hơn. Điều đó có thành hiện thực hay không là nhờ vào khoa học công nghệ những phát minh mới, dây chuyền sản xuất lớn hiện đại, tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Đó là cái đích mà mọi quốc gia đều phấn đấu đạt tới. Là

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty cổ phần và Vai trò của nó trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m gì?, Kinh doanh gì? Xản xuất gì? hay những công trình nghiên cứu khoa học… Thì phải có kinh phí để đầu tư. Số vốn đó một người, một doanh nghiệp không thể cung ứng được. Các dự án dây chuyền sản xuất lớn đòi hỏi vốn lớn, nhiều người tham gia sáng tạo và hoạt động. Vì vậy phải có sự góp vốn cùng nhau đầu tư, thực hiện các dự án và dây chuyền sản xuất đạt kết quả cao. Công ty cổ phần đáp ứng được các nhu cầu trên. Do đó nó ra đời là tất yếu và vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với các nước trên thế giới nói chung và với nước ta nói riêng. Công ty cổ phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xí nghiệp phối hợp vệ vốn, sức người để phát triển sản xuất và đưa khoa học công nghệ vào sản xuất. Các doanh nghiệp phát triển góp phần phát triển kinh tế đất nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước, tư nhân đã được cổ phần hoá. Nhưng từ khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp tư nhân, nhà nước vẫn chưa đạt được như mong muốn đâu là nguyên nhân cản trở và cần phải có giải pháp gì để đẩy nhanh tiến hành cổ phần hoá này. Xuất phát từ những vấn đề trên em đã chọn đề tài “Công ty Cổ phần và Vai trò của nó trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay” Để hoàn thành đề án em đã tham khảo tài liệu của nhiều tác giả và là sự hướng dẫn của thầy Tiến. Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy và mong nhận được những lời nhận xét của thầy để em có thể hiểu sâu sắc hơn về để tài và đề án được hoàn thiện hơn. Sinh viên Đỗ Thị Thuý Nội dung Chương i: tính tất yếu khách quan hình thành và phát triển công ty cổ phần. I. Sự ra đời của công ty cổ phần là một tất yếu khách quan. 1. Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cờng tích tụ tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời. Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản, buộc họ tìm cách cải tiến , nâng cao trình độ kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động ,giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. điều này thờng chỉ là những nhà tư bản lớn có quy mô sản xuất ở mức đổ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kĩ thuật hiện đại làm cho năng suất lao đông tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn các nhà tư bản nào có giá tri hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và phá sản. để tránh các kết cục bi thảm có thể sảy ra trong cạng tranh. Các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị, tạo điều kiện nâng năng suất lao động , hạ giá thành sản phẩm. Một lối thoát nhanh có hiệu quả hơn là các nhà tư bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn để đủ sức cạnh tranh và giành u thế với các nhà tư bản khác. 2. Nền đại công nghiệp cơ khí, tiến bộ kĩ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển . Công ty cổ phần ra đời rất sớm(thế kỉXVI) nhng phải đợi đến cuối thế kỉ XIX mới được phát triển một cách rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nớc tư bản. Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển lực lượng sản xuất và do trình độ kĩ thuật ngày càng cao, đòi hỏi tư bản cố định tăng lên , vì thế quy mô tư bản tối thiểu để kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện bình thường ngày càng lớn. Ví dụ muốn xây dựng một nhà máy luyện thép, hệ thốnh đờng sắt... thì đòi hỏi phải có vốn lớn. Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được. Vì vậy các tư bản phải liên minh với nhau để cùng kinh doanh. Mặt khác do khoa học kĩ thuật phát triển suất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh và hàng mới này. Nhng vấn đề di chuyển vốn rất phức tạp họ không thể có đủ vốn ngay hoặc không thể thu hồi vốn ngay từ các xí nghiệp cũ. Mà quá trình thu hồi vốn rất lâu.vì vậy dễ mất thời cơ. Do vậy các nhà tư bản phải liên minh, tập trung góp vốn với nhau để chớp thời cơ kinh doanh để cùng thu lợi nhuận. 3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi do trong cạnh tranh và tạo thế mạnh trong quản lí Sản xuất ngày càng phát triển, trình độ kĩ thuật ngày càng cao cạnh tranh càng khốc liệt thế sự dủi do trong kinh doanh, đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản ngày càng lớn. Để tránh gặp phá sản các nhà tư bản phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào nhiều tư bản khác biệt, nghĩa là tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều nghành, nhiều lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau với cách làm này một mặt các nhà tư bản tìm cách chia sẻ sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi do. Nhng mặt khác do cùng được số đông ngời tham gia quản lí, tập trung trí tuệ của nhiều ngời, công ty cổ phần hạn chế được rủi do trong kinh doanh. Các doanh ngiệp lớn, nếu không muốn bị phá sản, hoặc là đủ mua cổ phiếu của các doanh nghiệp khác hoặc là phân tán rủi do cho nhiều ngời khác bằng cách bán cổ phiếu cho nhiều doanh nghiệp. Thực chất của cách làm này là phân chia sự rủi do cho nhiều doanh nghiệp để hưởng lợi nhuận bình quân ổn định về toàn bộ vốn đầu tư. 4. Sự phát triển rộng dãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá tất yếu ra đời và phát triểncác loại thị trờng trong đó có thị trờng vốn. Nguyên nhân ra đời của thị trờng vốn do đặc điểm của sự vận động vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất và lu thông không ăn khớp về không gian và thời gian làm nảy sinh vấn đề có doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều hành hoá và có lợng tiền để nhàn rỗi. Ngợc lại có những doanh nghiệp lại cha tiêu thụ được hàng hoá mà lại cần vốn sản xuất. Mặt khác có nhiều ngời dân có tiền để không họ cũng muốn dùng tiền để đó để sinh lời mâu thuẫn này được giả quyết thông qua hệ thống tín dụng. Trong nền kinh tế thị trờng tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh, làm giảm chi phí lu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng còn có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi vì: + Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện được néu không có thị trờng tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân c có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường. + Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân các ngân hàng tiến hành. Chẳng hạn ở Đức năm 1896 trong nghành công nghiệp điện lực, có 39 công ty cổ phần. Hầu hết các công ty này đều nảy sinh từ sự giúp đỡ của các nghân hàng. II. Đặc điểm của công ty cổ phần. 1. Công ty cổ phần là một công ty kinh doanh. Có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lí hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có t cách pháp lí đầy đủ để huy động những lợng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Cổ phần là các phần vốn cơ bản thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền giá trị của mỗi cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhận quyền sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tơng ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của những người góp vốn vào công ty cổ phần những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông được mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Cổ phiếu được phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên của thành viên hội đồng quản trị phải là cổ phiếu có ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhợng còn cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhợng nếu được sự đồng ý của hội đồng quản trị. Mỗi một công ty chỉ được phép phát hành một số lợng cổ phiếu nhất định. Lúc đầu các công ty thờng phát hành hết số cổ phiếu được phát hành, nhng sau khi hoạt động và có lợi nhuận, các công ty thờng chuộc lại một số cổ phiếu từ tay các cổ đông để dự trữ nhằm mục đích sử dụng sau này. Nh tăng số vốn cổ phần hoặc dùng để trả lãi lợi tức cổ phiếu cho các cổ đông. Vì vậy trong các cổ phiếu mà công ty phát hành phần lớn nằm trong tay các cổ đông và phần còn lại do các công ty nắm giữ. Vốn cổ phần được cơ cấu bởi hai bộ phận : Vốn cổ phần được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu thờng làcổ phiếu không thể thiếu được trong công ty cổ phần. Vốn cổ phần được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu u đãi. Theo điều lệ của công ty, cổ phiếu u đãi phải đảm bảo giải quyết các điều kiện: mức lãi lợi tức cổ phần cố định ; khả năng của công ty chuộc lại các cổ phiếu đó, mức trả cho các cổ phiếu u đãi trong trờng hợp các công ty bị phá sản; điều kiện để đổi cổ phiếu lấy cổ phiếu thờng nh vậy cổ phiếu u đãi là cổ phiếu được hởng các quyền u tiên được hởng mức lãi cổ phần riêng biệt có tính cố định hàng năm bất kể công ty có lãi hay không, được u tiên phân chia tài sản có lãi của công ty khi công ty bị phá sản. Ngoài vốn góp của cổ đông, các công ty cổ phần còn có quyền đi vay nợ rồi trả lãi tức theo tỉ lệ thoả thuận, có quyền phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác. 2. Cơ cấu tổ chức và điều hành công ty cổ phần : Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần, nên các cổ đông không thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lí công ty, bao gồm: Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, và ban kiểm soát. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, là đại hội của những ngời đồng sở hữu đối với công ty cổ phần. Đại hội cổ đông có ba hình thức: + Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông qua điều lệ công ty. Đại hội đồng thành lập phải có nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty và biểu quyết đa số quá bán. Đại hội cổ đông bất thờng. Trong trường khẩn cấp có nguy cơ đe doạ đến sự hoạt động bình thờng của công ty như: gặp khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lợc kinh doanh; hoạt đông của hội đồng quản trị và ban kiểm soát yếu kém cần chấn chỉnh và kiện toàn... thì đại hội cổ đông có thể triệu tập bất thờng theo yêu cấu của chủ tịch hội đồng quản trị hoặc của trên 1/2số thành viên của hội đồng quản trị;hoặc theo yêu cầu của trởng ban kiểm soát hay đề nghị của số cổ đông đại diện cho trên 56% số vốn điều lệ của công ty + Đại hội cổ đông:được triệu tập vào cuối năm tài chính hoặc bất kì lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc kiểm soát viên thấy cần thiết để giả quyết thuộc hoạt động kinh của công ty trong khuôn khổ điều lệ, trong đó các việc chủ yếu sau đây: quyết định phơng hớng nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh doanh hàng năm; Thảo luận và thông qua bản tổng kết năm tài chính bầu, bãi,. miễn thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên; quyết định số lợi nhuận, trích lập các quỹ của công ty, số lợi nhuận chia cho các cổ đông, phân chi trách nhiệm về các thiệt hại sảy ra đối với công ty trong kinh doanh. + Hội đồng quản trị là bộ máy của công ty cổ phần, hội đồng quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lí giỏi, để có khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do đại hội cổ đông giao phó, quyết định và ghi vào điều lệ công ty. Thông thờng ở những công ty nhỏ, số thành viên của hội đồng quản trị có thể từ 3 đến 7 ngời, nhữnh công ty trung bình có số thành viên hội đồng quản trị từ 9 đến13 ngời, những công ty lớn số thành viên hội đồng quản trị có thể từ 15 đến17 ngời. Luật công ty của nớc ta quy định “hội đồng quản trị là cơ quan quản lí của công ty gồm 3-12 thành viên). Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng. Hội đồng quản trị bầu một thành viên làm chủ tịch hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm tổng giám đốc công ty nếu điều lệnh công ty không quy định khác. Chủ tịch hội đồng quản trị là ngtời đứng đầu hội đồng quản trị nói chung và phải có kiến thức kinh tế và phải có trình độ kinh doanh am hiểu pháp luật nhà nớc và thông thạo các hoạt động thơng mại. + Giám đốc điều hành là ngời điều hành hàng ngàycủa công ty và chịu trách nhiệm trớc hội đồng quản trịvề việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Việc lựa chọn giám đốc có thể thông qua nhiều hình thức thi tuyển khác nhau nhằm bảo đảm khách quan và lựa chọn được nhân tài để điều hành công ty.Và thực chất giám đốc điều hành công ty là ngời làm thuê cho chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc không làm việc theo nhiệm kì mà làm việc theo thời hạn hợp đồng kí kết với chủ tịch hôị đồng quản trị. 3. Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần. Trong công ty cổ phần quan hệ phân phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào lợi nhuận của công ty lợi nhuận của công ty sau khi dùng cho các khoản chung cần thiết, phần còn lại được chia đều cho các cổ phần. Phần lợi nhuận mà các cổ đông thu được tỷ lệ thuận với lợng vốn góp của họ và được gọi là lợi tức cổ phần. Mức lợi tức cổ phần phụ thuộc trực tiếp vào trình độ và kết quả kinh doanh của công ty. Mức lợi tức cổ phần cao không những có lợi cho các cổ đông mà còn ảnh hởng trực tiếp làm tăng giá cổ phiếu của công ty trên thị trờng trứng khoán. Thông thờng các chủ sở hữu góp vốn cổ phần với mục đích thu lợi tức cổ phần cao hơn lãi suất trên thị trờng vốn. Những đặc điểm của các quan hệ trên cho thấy, nếu trong các công ty khác người sở hữu tài sản đồng thời là ngời tổ chức và quản lí hoạt động của công ty, quan hệ với bạn hàng thì công ty cổ phần ngời sở hữu tài sản của công ty là “ngời sở hữu thuần tuý”. Việc điều khiển và quản lý công ty được thực hiện thông qua chế độ thuê giám đốc. Chủ sở hữu chỉ thực hiện quyền sở hữu của mình trên phơng tiện thu lợi tức cổ phần trên cơ sở hoạt động của công ty, tham gia đại hội cổ đông quyết định các vấn đề có tính chất chiến lợc của công ty nh thông qua điều lệ, phơng án xây dựng công ty, quyết đoán tài chính, giải thể,bầu và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của công ty. Ngời giám đốc của công ty “chỉ đơn giản là ngời quản lý và điều khiển tư bản ngời khác” anh ta chỉ làm thuê với loại lao đông đặc biệt mà “ giá cả được quy định trên trị trờng lao động cũng nh bất cứ lao động nào khác” nh vậy đặc điểm nổi bật của công ty cổ phần là quyền sở hữu được tách ra khỏi chức năng của nó. Khác với các loại công ty khác, công ty cổ phần là công ty phát hành cổ phiếu. III. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần. 1.Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn. Công ty cổ phần thực chất là công ty hợp doanh do nhiều thành viên (tức là các cổ đông) tham gia góp vốn cùng kinh doanh. Các cổ đông của công ty cổ phần có thể là nhân hay pháp nhân có thể do các cá nhân hay tổ chức kinh tế xã hội có t cách pháp nhân tham gia. Nhng các cá nhân các tổ chức đó phải độc lập có quyền tự quyết định đối với phần vốn của mình. để có quyền quyết định hợp pháp là ngời chủ sở hữu và phần vốn đó, hay nói cách khác họ là ngững ngời sở hữu độc lập. Nh vậy công ty cổ phần là công ty có nhiều ngời đồng sở hữu.nếu công ty chỉ thuộc một chủ sở hữu dù chủ sở hữu đó một cá nhân hay một tổ chức thì đó không phải là một công ty cổ phần mà thuộc một loại hình công ty khác, có thể là công ty t nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn một hội viên hay công ty quốc doanh nếu chủ sở hữu là nhà nước: Những ngời muốn tham gia đầu t để kinh doanh thu lợi nhuận. Trong xã hội có thể có nhiều ngời có vốn nhàn rỗi và ai cũng muốn dùng nó để thu lợi nhuận. Nhng trong kinh doanh có nhiều may rủi nên không phải bất cứ ai có tiền là cũng giám bỏ vốn đầu t vào kinh doanh. Thông thờng để được yên tâm và thu lợi nhuận chắc chắn, những ngời thích an toàn thường đem tiền của mình để gửi vào ngân hàng để lấy lãi dù lãi được ít nhng không sợ mất được bảo vệ an toàn. Còn lại chỉ có một số ngời có vốn dám “mạo hiểm” mới góp vốn hình thành công ty cổ phần và họ trở thành các cổ đông. đây là hình thức đầu t mạo hiểm nhất so với các hình thức đầu t nh là mua công trái, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm... do kinh doanh có khả năng bị phá sản, nhng lại là dạng đầu t có nhiều hứa hẹn cao nhất và không bị lạm phát sói mòn vốn. Lợi nhuận thu được phải đủ sức hấp dẫn ngời có vốn tham gia kinh doanh. Những ngời có vốn luôn tìm nơi nào đầu t có lợi nhất, lên khi có ý định góp vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh thu lợi nhuận bao gì họ cũng so sánh lợi nhuận có thể thu được khi góp vốn vào công ty cổ phần với một khoản lợi tức họ thu được, nếu đem số tiền đó gửi vào ngân hàng, hoặc đầu t lĩnh vực khác. Nếu doanh thu do kinh doanh lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức đầu t vào trong lĩnh vực khác. Và lớn hơn đủ mức cần thiết thì ngời có vốn sẵn sàng góp vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh. Nếu ngợc lại họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu t vào lĩnh vực khác mà không góp vốn vào công ty cổ phần, do vậy công ty cổ phần không thể hình thành được. Nh vậy trong kinh doanh yếu tố rửi ro thờng hay xảy ra ,làm cho những ngời góp vốn vào công ty không thu được doanh lợi mà có khi còn mất cả vốn (trờng hợp công ty bị phá sản), còn nếu gửi tiền vào ngân hàng thì phải chịu ảnh hởng của yếu tố lạm phát, nhưng ổn định và an toàn cả vốn lẫn lãi. 2. Phải có sự nhất trí thành lập công ty. Những người có vốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận với nhau để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của pháp luật. Trong trờng hợp những ngời có vốn tham gia đầu t để kinh doanh thu lợi nhuận song họ không thống nhất được với nhau về phơng thức vốn, phơng thức kinh doanh của công ty, phơng hớng chiến lợc phát triển công ty, quyền đại diện trong bộ máy quản lý, điều hành công ty, phơng thức phân phối lợi nhuận. Thì công ty không được thành lập. 3. Thành lập công ty cổ phần: qui trình thành lập công ty cổ phần bao gồm: Việc sáng lập công ty cổ phần: đây là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của công ty cổ phần, việc vận động để sáng lập được thực hiện qua một số ngời được gọi là sáng lập viên. Sáng lập viên công ty là những ngời có sáng kiến muốn thành lập công ty. Đứng ra kết hợp hội viên và làm thủ tục cần thiết cho việc thành lập công ty. Việc kêu gọi góp vốn cần làm các việc nh thông báo việc thành lập tên, địa chỉ, mục đích hoạt động của công ty, xác định vốn pháp định mệnh giá của mỗi cổ phiếu, số lợng cổ phiếu. Đăng kí mua cổ phần là việc thể hiện sự chấp thuận tham gia vào công ty, một sự thoả thuận giữa sáng lập viên và ngời đăng kí. Tất nhiên, sự đăng kí này cha phải đã có vốn thực, mà vốn thực xuất hiện khi ngời đăng kí đã đóng tiền cổ phiếu đã mua. Nếu đóng bằng hiện vật phải thông qua đại hội cổ đông hoặc một công ty “ đệ tam” định giá. 4. Đại hội cổ đông sáng lập. Đại hội cổ đông sáng lập được triệu tập khi vốn đã nộp đủ và các cổ phần đã đóng tiền theo qui định. Mục đích của đại hội là thông qua sự hợp lệ của việc thành lập công ty, định giá góp vốn bằng hiện vật, phần sáng lập, ưu tiên, điều lệ công ty, bầu hội đồng quản trị và ban kiểm toán, công bố sự thành lập công ty. IV. Vai trò của công ty cổ phần Công ty cổ phần là một tổ chức doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường . 1.Làm qui mô sản xuất có khả năng được mở rộng to lớn và nhanh chóng. Do quan hệ sở hữu trong công ty cổ phần, là thuộc về cổ đông nên qui mô được mở rộng to lớn và nhanh chóng, mà không cá nhân riêng lẻ nào có thể thực hiện được. Kiểu tích tụ dựa vào cá nhân riêng lẻ diễn ra vô cùng chậm chạp, còn tập trung tích tụ theo kiểu công ty cổ phần bằng cách thu hút được các nguồn vốn của đông đảo các nhà đầu tư và tiết kiệm của quảng đại quần chúng, lại cho phép tăng qui mô nhanh. Mác đánh giá vai trò này của công ty cổ phần: “ Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích lũy làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn đến mức có thể đảm bảo được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt. Vốn huy động dưới hình thức công ty cổ phần khác với vốn vay trên cơ sở tín dụng bởi vì nó không cho vay hưởng lãi mà kiểu đầu tư mạo hiểm rủi ro. Cho nên các công ty cổ phần có thể tòn tại được ngay cả trong trường hợp chúng chỉ đem lại lợi tức ( lợi nhuận của công ty cổ phần mang hình thái lợi tức ). Công ty cổ phần có thời gian toòn tại là vô hạn ( nếu không có sự quy định thời gian hoạt động và loại trừ trường hợp bị phá sản ) vì vốn góp cổ phần có sự độc lập nhất định đối các cổ đông. Người bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty cổ phần không có quyền rút vốn và chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu . Các cổ phiếu có thể được tự do mua bán trên thị trường và được quyền thừa kế. Vì vậy khác với các loại công ty khai vốn cổ phiếu đã được góp tồn tại với quá trình sống của công ty, còn chủ sở hữu có thể thay đổi. Sự tồn tại của công ty cổ phần không bị ảnh hưởng bởi các cổ đông chết hay tù tội. Trong công ty cổ phần, chớc năng của vốn tách rời quyền lợi sở hữu nó cho phép sử dụng các nhà quản lí chuyên nghiệp . Giám đốc kinh doanh trở thành một nghề không cần mang chức vụ hành chính . Công ty cổ phần có thể thuê giám đốc trên cơ sở hợp đồng quản trị ( đại diện chủ sở hữu ) với giám đốc chủ kinh doanh. Quy định quá chặt chẽ quyền và trách nhiệm của giám đốc sẽ giảm bớt tính năng động và sáng tạo; linh hoạt trong quản lí sẽ giảm bớt hiệu quả kinh doanh. Ngược lại có thể lạm dụng và lợi dụng làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ sở hữu. 2. Công ty cổ phần tạo ra tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù: Chế độ trách nhiệm hữu hạn với các khoản nợ trong mức vốn của công ty sẽ san sẻ rủi ro cho các chủ nợ khi công ty bị phá sản. Vốn tự có của công ty huy động thông qua phát hành cổ phiếu là vốn của nhiều cổ đông khác nhau, do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Chính vì cách thức huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty ở nhiều ngành khác nhau để giảm bớt tổn thất khi bị phá sản so với việc đầu tư tài chính vào một hay một số công ty của cùng một ngành. 3. Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán ra đời. Việc ra đời các công ty cổ phần với việc phát hành các loai chứng khoán và cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định, sẽ tạo điều kiện cho ra đời thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán ra đời lại là nơi để cho các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm từ những người tích lũy đến các nhà đầu tư theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường và là cơ sở quan trọng để nhà nước thông qua đó để sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu lựa chọn. Thiếu thị trường chứng khoán không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời cua thị trường chứng khoán không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà là kết quả của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, sự ra đời và phát triển, hoạt động một cách hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định. Công ty cổ phần tạo điều kiện tạo lập được nhiều lực lượng khác nhau vào hoạt động chung nhưng vẫn còn tôn trọng sở hữu riêng cả về quyền, trách nhiệm và lợi ích của các cổ đông theo mức góp vốn. Mở rộng tham gia của các cổ đông vào công ty cổ phần, đặc biệt là người lao động và cách họ tham gia vào hoạt động của công ty với tư cách là người sở hữu đích thực chứ khong phải với tư cách là người làm thuê. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lí. 4 Công ty cổ phần cũng có hạn chế Công ty cổ phần có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhưng không nghĩa là nó không có những hạn chế chẳng hạn: Công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những thuận lợi cho công ty nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho cho các chủ nợ. Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia nhưng trong đó đa số các chủ nhân không biết nhau và nhiều người trong họ không hiểu kinh doanh, mức độ tham gia đóng góp vốn vào công ty có sự khấc nhau, do đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với công ty không giống nhau, điều đó có thể dẫn đến việc lợi dụng, lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hóa lợi ích giữa các nhóm cổ đông khác nhau. Công ty cổ phần tuy có tổ chức chặt chẽ nhưng việc phân công về quyền lực và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty có hiệu quả lại rất phức tạp. Công ty cổ phần là một tổ chức có tính dân chủ cao trong trong kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn, do đó quyền kiểm soát công ty trên thực tế vẫn ở trong tay các cổ đông lớn... Việc khắc phục những hạn chế trên phụ thuộc vào trình độ phát triển chung của nền kinh tế, trình độ dân trí, trình độ điều hành quản lí của nhà nước và sự hoàn hảo của hệ thống pháp luật. Tóm lại, công ty cổ phần là hình thức tổ chức mang tính chất xã hội hóa cao, không những được thể hiện ở phương diện ở hữu mà còn thể hiện tập trung ở việc sử dụng vốn. chương II: sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta I- Công ty cổ phần và cổ phần hóa 1. Lịch sử và con đường hình thành công ty cổ phần: Lịch sử hình thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hóa cao đặc biệt là xã hội hóa về vốn. Do đó việc nghiên cứu lịch sử hình thành công ty cổ phần trong lịch sử là hết sức cần thiết cho việc hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam. Phát triển công ty cổ phần trên thế giới chia ra 4 giai đoạn: Giai đoạn I: Giai đoạn mầm mống. Trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản chủ yếu xuất thân từ thợ cả, người chủ phường hội thương nhân, người cho vay nặng lãI và người Féc nuê TBCN. Lúc đầu họ lập ra các xí nghiệp TBCN riêng lẻ, kinh doanh độc lập, thuê mướn công nhân và bóc lột lao động làm thuê. Dần dần cùng với sự phát triển của sự sản xuất và chế độ tín dụng của họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân và chữ tín, họ đã góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phất triển thành doanh nghiệp vốn. Năm 1553, công ty cổ phần đầu tiên ở Anh với số vốn 6000 bảng Anh được thành lập thông qua việc phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm sang ấn độ theo hướng Đông Bắc. Do sức hấp dẫn của thị trường và khả năng thu về khoảng 100 thương nhân Anh đã góp vốn cổ phần thành lập công ty Đông ấn ( công ty lớn nhất nước Anh lúc đó ) vào năm 1600. Năm 1601 chuyến tàu đầu tiên của công ty này sang ấn độ đã sử dụng số vốn cổ phần là 68.373 bảng Anh. Đến năm 1617 số vốn cổ phần của công ty đã lên đến 1.620.040 bảng Anh với 954 cổ đông. Hoạt động của công ty theo liên kết kinh doanh lỏng lẻo,người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển, sau mỗi chuyến đi tiến hành thanh toán cho những người tham gia nhận lại cổ phần và tiền lãi. Nếu những năm 70 của thế kỷ XVII vua nước Pháp đã ban hành sắc lệnh về công ty. Năm 1773 tại Luân Đôn nước Anh hình thù đầu tiên của sở giao dịch chứng khoán ra đời và năm 1801 thì chính thức thành lập. Thị trường giao dịch chứng khoán Mỹ ra đời năm 1790. Hình thù ban đầu của công ty cổ phần có 2 loại :Một là doanh nghiệp góp vốn hoặc doanh nghiệp nhóm bạn. Hai là doanh nghiệp do Nhà nước lập bằng hình thức phát hành trái khoán ( ở Mỹ gọi là cổ phiếu công cộng ) hoặc doanh nghiệp tư nhân góp vốn. Và trên cơ sở phát triển chế độ tín dụng thị trường chứng khoán loại nhỏ cũng đồng thời ra đời. Giai đoạn II: Giai đoạn hình thành trước và sau cuộc cách mạng công nghiệp, chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XIX, các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Ví dụ năm 1806 phát triển thương mại của Pháp đã có những quy định cơ bản về công ty cổ phần. Giữa thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX công ty cổ phần xuất hiện trong lĩnh vực giao thông vận tải: đường sắt đường sông đến năm 1837 công ty cổ phần đường sắt là 46. Thời kỳ đầu số cổ phiếu ở công ty này chủ yếu bán thông qua cơ quan nhận mua có tính chất địa phương như công ty chứng khoán địa phương và ngân hàng đầu tư bán cho người buôn. Cùng thời gian này công ty cổ phần cũng được thành lập tương đối rộng khắp trong ngành chế tạo nhiều nước.Tuy nhiên trước những năm 70 của thế kỷ XIX công ty cổ phần còn ít với hình thức cũng chưa đa dạng như sau này, quy mô cũng nhỏ. Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, công ty cổ phần phát triển rất nhanh, mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành qui mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy. Các tổ chức độc quyền ra đời như XanhĐiCa ; Các ten, Tờ rớt. Hầu như tất cả các doanh nghiệp lớn đều áp dụng hình thức cổ phần ; hơn nữa các doanh nghiệp lại xâm nhập vào nhau, hình thành “ chế độ tham dự “ với “ chế độ tập trung “ . Các công ty nắm giữ cổ phần khống chế ra đời tạo thành kết cấu chuỗi: Công ty mẹ - công ty con - công ty cháu , hình thành một tập đoàn doanh nghiệp vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Lúc này tư bản tài chính đã trở thành hình thái chủ yếu tài sản xã hội, ngân hàng kiểm soát công nghiệp thương nghiệp đầu sỏ tài chính ra đời.Giai đoạn IV: Giai đoạn trưởng thành Sau chiến tranh thế giới thứ 2 doanh nghiệp cổ phần có những đặc điểm mới:-Dùng hình thức cổ phần để lập ra các công ty xuyên quốc gia và công ty đa quốc gia để liên hợp kinh tế và quốc tế hóa cổ phần, hình thành các tập đoàn doanh nghiệp quốc tế.-Thu hút công nhân viên chức mua cổ phần, thực hiện cái gọi là “chủ nghĩa tư bản nhân dân” vừa để làm dịu mâu thuẫn lao động và tư bản vừa để thu hút vốn một cách thuận lợi. Ví dụ trong 300 công ty Mỹ có 500.000 công nhân viên chức mua cổ phiếu, ở cộng hòa liên bang Đức 1/3 trong số 1000 gia đình có cổ phiếu.-Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần tại các nước ngày càng hoàn thiện, pháp luật ngày càng kiện to và mỗi nước đều có đặc điểm riêng.Tóm lại, công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hóa đặc biệt là xã hội hóa về vốn, quan hệ tín dụng phát triển, quan hệ t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35237.doc