Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán

Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán ---------------------- Lời nói đầu Vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX, nhiều phát minh mới xuất hiện đã giúp các nước phương Tây chuyển từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng. Thêm vào đó là sự phát triển của quan hệ tín dụng. Kết quả là sự ra đời của một hình thức kinh tế mới, đó là công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là hình thức tổ chức phát triển của sở hữu hỗn hợp, từ sở hữu vốn của mộ

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t chủ sang hình thức sở hữu của nhiều chủ diễn ra trên phạm vi công ty. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về kinh tế xã hội và cũng là sản phẩm tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất. Tháng 7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ( Tại TP Hồ Chí Minh ) đã chính thức đi vào hoạt động . Đây là bước tiến đáng kể trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh , tổ chức tài chính , tiền tệ ở nước ta . Mặc dù còn nhiều thiếu sót và hạn chế trong quá trình hoạt động và còn ở mức sơ khai , nhưng là rất cần thiết khi mà nhu cầu huy động vốn và sử dụng vốn trong dân cư ngày càng lớn và là yếu tố căn bản của nền kinh tế quốc dân . Phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam với các giải pháp phát triển đồng bộ, tác động tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân . Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển ở Việt Nam là một vấn đề có tính thời sự, mặt khác do trình độ còn hạn chế nên trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, tóm lược quá trình cổ phần hoá và định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian qua và một số giải pháp và ý nghĩa của nó. Bài viết này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của thư viện trường và về nhiều tài liệu bổ ích khác. Nội dung I. Công ty cổ phần Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần là một hình thức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Vì vậy công ty cổ phần có đủ tư cách pháp lý để huy động lượng vốn lớn rải rác của các cá nhân trong xã hội. Công ty cổ phần, ngoài việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn, còn có thể đi vay nợ rồi trả lãi hoặc phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác để thu hút vốn. Hình thức công ty cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay thế được. Đó là, thứ nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn mang đến cho họ một khoản thu nhập nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba, cổ đông có quyền được ưu đãi trong vịêc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi chúng được bán rộng rãi cho công chúng. Như vậy, công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. Từ đó, nó tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu giữa một bên là đông đảo quần chúng với một bên là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các kế hoạch kinh doanh qui mô lớn. Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiêp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác cho bộ máy quản lý của công ty. Trong đó, Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị là hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty, quyền sở hữu tối cao thuộc về Đại hội cổ đông. 1. Tính tất yếu khách quan của viêc hình thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần ra đời từ những năm cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển châu Âu và đến nay đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp điển hình trong nền kinh tế thị trường. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa trong nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa. Khi nền kinh tế đạt được trình độ tập trung sản xuất nhất định, cùng với nó là sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí, thì công ty cổ phần ra đời là kết quả tất yếu để đáp ứng đòi hỏi của sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy quá trình tập trung và tích tụ tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ. ã Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời. Quy luật giá trị có vai trò rất lớn trong nền kinh tế hàng hoá, nó đã tác động mạnh mẽ đến các chủ thể kinh tế. Các hàng hoá được sản xuất trong những diều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải trao đổi theo giá trị xã hội. Chỉ có những người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội mới thu được lợi nhuận,mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Do đó, họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ sản xuất và giảm thiểu chi phí sản xuất, tiến tới hơp lý tối đa quá trình sản xuất. Tuy nhiên, thường chỉ có những nhà tư bản lớn có qui mô sản xuất ở một mức độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh. Để tránh kết cục bi thảm trong cạnh tranh có thể xảy ra, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để từ đó đầu tư nâng cao kỹ thuật công nghệ, hiện đại hóa các trang thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhằm hạ giá thành sản phẩm. Song việc này lại rất khó khăn, mặt khác, quá trình tích tụ vốn để thực hiện được phải mất rất nhiều thời gian. Để khắc phục, các nhà tư bản vừa và nhỏ đã thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt thành một tư bản lớn đủ sức mạnh để để cạnh tranh và giành chiến thắng với các nhà tư bản lớn khác. Và như vậy, hình thức tập trung vốn đã là manh nha cho sự hình thành và phát triển mạnh mẽ công ty cổ phần. ã Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo đông lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Những công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện vào đầu thế kỷ XVII, thời kỳ tích luỹ ban đầu tư bản như công ty Đông ấn Độ của Anh (1600) và Hà Lan (1602). Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ thứ XIX, những công ty cổ phần mới trở thành hiện tượng phổ biến. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật đòi hỏi tư bản cố định tăng lên, do đó số tư bản tối thiểu để kinh doanh cũng tăng lên. Khi không có đủ vốn, nhà tư bản phải liên minh với các nhà tư bản khác để tập trung nhiều tư bản cá biệt phân tán thành một tư bản lớn bằng cách góp vốn kinh doanh. Sự tập trung vốn này đã hình thành nên công ty cổ phần. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới. Khi thấy ngành mới có lợi nhuận cao hơn, các nhà tư bản sẽdi chuyển tư bản của mình sang lĩnh vực kinh doanh mới. Tuy nhiên, việc di chuyển tư bản gặp nhiều khó khăn bởi vì các nhà tư bản không thể một lúc huỷ bỏ ngay các xí nghiệp cũ rồi chuyển sang xây dựng xí nghiệp mới. Họ chỉ có thể di chuyển dần từng phần tư bản của họ mà thôi, hơn nữa, việc di chuyển sẽ tiêu tốn nhiều thời gian và họ sẽ mất lợi thế trong cạnh tranh và thu lợi nhuận siêu ngạch từ lĩnh vực kinh doanh mới. Để giải quyết khó khăn này, các nhà tư bản đã nhanh chóng thỏa thuận cùng nhau góp vốn thành lập công ty cổ phần. ã Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh trong quản lý Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã mở rông giới hạn của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên điều này gắn liền với sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong nền kinh tế thị trường và như vậy các nhà doanh nghiệp phải đứng trước những rủi ro ngày càng lớn. Nếu tập trung đầu tư vào chỉ một ngành nào đó thì rủi ro của họ càng lớn và họ có thể bị phá sản. Do đó các nhà tư bản phân tán tư bản của mình bằng cách tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Cách giải quyết này đã giúp các nhà tư bản tránh được nhiều rủi ro. Một là, các nhà doanh nghiệp chia sẻ thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Hai là, việc điều hành công ty cổ phần do một tập thể hội đủ điều kiện về vốn, trí tuệ và trình độ tổ chức quản lý đảm nhiệm nên công ty cổ phần hoạt động hiệu quả và hạn chế được nhiều rủi ro. Như vậy, lịch sử ra đời và phát triển của công ty cổ phần đã chứng tỏ rằng đây là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế. Công ty cổ phần đã có được những điều kiện cần thiết và đã phát triển mạnh mẽ và trở thành thịnh hành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quền Nhà nước, trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. 2. Thưc trạng về công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 2.1.Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước ta trước cổ phần hóa. Sau khi đất nước hòa bình, các doanh nghiệp nhà nước đã được thành lập ở Việt Nam. Do hậu quả của chiến tranh và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm khác nhau nên các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nước. Các doanh nghiệp nhà nước phần lớn có qui mô nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Đến năm 1992, cả nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động dưới 200 người. Số lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ trong khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội, khoảng 5 –6%. Do đã được thành lập từ khá lâu, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu nhưng chậm đổi mới, cho nên phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sử dụng công nghệ lạc hậu so với các nước từ 3 – 4 thế hệ. Có doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ được trang bị từ năm 1939 và trước đó. Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên thiếu đồng bộ nghiêm trọng. Mãi đến sau năm 1986 thì một số doanh nghiệp nhà nước(khoảng 18%) được đầu tư mới. Chính vì sự lạc hậu trong công nghệ mà khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước khó có thể cạnh tranh nổi ngay cả trong nưngười. Sự phân bố các doanh nghiệp nhà nước giữa các ngành, giữa các vùng chưa được hợp lý. Các doanh nghiệp nhà nước hầu như chỉ hoạt động trong các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp khai thác, và nông nghiệp, còn các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ thì quá yếu ớt, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hầu như bị bỏ ngỏ. Mặt khác, các doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn phía Bắc và phía Nam của đất nước. Trong các doanh nghiệp nhà nước trước đây, việc hạch toán kinh tế chỉ mang tính hình thức, các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất cho nhà nước, chứ không phải là một cơ cở sản xuất kinh doanh, không có quyền tự chủ trong kinh doanh, và như vậy nó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mặt khác, trong doanh nghiệp nhà nước, các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định rõ ràng nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước xa lạ đối với sở hữu toàn dân, thể hiện ở những hành động và quan niệm của họ: sở hữu chung thì không phải là của ai. Đây là nguyên nhân tham nhũng của những kẻ có chức có quyền và sự thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ luật của người lao động. Kết quả là năng suất thấp, chất lượng kém, thu nhập phân phối không đúng... Đi liền với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả là phương pháp quản lý lạc hậu và trình độ tổ chức thấp. Giám đốc trong doanh nghiệp nhà nước trước đây vừa giữ chức năng chủ sở hữu, vừa là người điều hành và họ giống quan chức hành chính hơn là một nhà kinh doanh thực thụ. Tình trạng các giám đốc, các nhà tổ chức và quản lý trong công ty nhà nước là những người không có kiến thức hoặc không được đào tạo một cách hệ thống khá phổ biến. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh và đổi mới công nghệ. Ngân sách nhà nước thì hạn hẹp. Các ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm bảo như là tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở trong vòng luẩn quẩn, vốn không có nhưng cũng chẳng có cách nào để huy động. 2.2.Quá trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 11/1991) được cụ thể hóa dần trong các Nghị quyết và thông báo tiếp theo của Hội nghị. Đây là một giải đúng đắn để huy động vốn lâu dài cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiều sâu. Quá trình thực hiện cổ phần hóa có thể chia thành 2 giai đoạn chính: ã Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995). Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 8/6/1992 về thực hiện thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau 4 năm thực hiện, nước ta đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần, bao gồm: ã Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải(1993). ã Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh(1993). ã Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp(1994). ã Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An(1994). ã Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(1995). Trong những năm thí điểm cổ phần hóa thì các doanh nghiệp nhà nước đều tập trung về phía Nam, trong đó có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc đĩa bàn tỉnh Long An. ã Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay. Ngày7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP xác định rõ giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu tiên cho người lao động trong doanh nghiệp, giúp Thủ tướng chỉ đạo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Đến tháng 9/1998, nước ta đã có 33 doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Tính từ năm 1992 đến năm 1998 thì cả nước mới có 38 doanh nghiệp đã hoàn thành quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, trong năm 1998 còn hơn 178 doanh nghiệp nhà nước đang chuẩn bị triển khai cổ phần hóa ở các bước khác nhau. Trong hai năm 1996 – 1997, nhờ thực hiện tốt những văn bản pháp qui về triển khai cổ phần hóa do Chính phủ ban hành nên công tác cổ phần hóa đạt được những kết quả khá cao. Số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trong hai năm này tăng gấp nhiều lần 3 năm trước và đã đưa tổng số doanh nghiệp nhà chuyển thành công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty lên 18 doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp này sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều phát triển tốt với chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm cao. Tuy vậy, tiến trình cổ phần hóa diễn ra chậm (chỉ có 18 doanh nghiệp trong 5 năm). Do đó, ngày 29/6/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1998 có tới 12 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành cổ phần hóa. Trong tháng 7/1998 có ít nhất 5 doanh nghiệp xong cổ phần hóa, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật công ty lên bằng tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong 5 năm công lại. Đến 1/9/1998, cả nước có 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Ngoài ra còn có hơn 90 doanh nghiệp khác đang tiến hành cổ phần hóa ở những giai đoạn khác nhau, trong đó có nhiều công ty sắp hoàn thành; một số doanh nghiệp đang đăng ký tiến hành cổ phần hóa. 2.3. Một số kết quả ban đầu sau khi thực hiên cổ phần hoá các doánh nghiệp nhà nước. Tính từ năm 1991 đến năm 1998, trong số 38 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Nói chung, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả và lợi nhuận cao hơn trước: vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước) tăng bình quân 19,06%/năm, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm; tỷ suât lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và tích luỹ) là 44%[6,126]. Quyền lợi của người lao động trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn liền với quyền lợi của công ty. Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm; ngoài ra, người lao động trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế từ 22 – 24%/năm [6,131]. Phương pháp quản lý, điều hành công ty thay đã được đổi, do đó trách nhiêm của Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn nhiều, hoạt động của công ty trở nên có tính hiệu quả cụ thể, rõ ràng hơn. Công ty cổ phần đã tạo điều kiện vho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, khai thác và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội vào hoạt động kinh doanh, bổ sung cho nguồn thu của Nhà nước. Tính từ năm 1992 đến năm 1997 có 18 doanh nghiệp được cổ phần hóa đem lại cho Nhà nước 37.724 triệu đồng, bao gồm: tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng, phần lợi tức của Nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng, lãi tiền vay mua chịu cổ phần của cán bộ công nhân viên 522 triệu đồng[5,33]. Tóm lại, các doanh nghiệp dã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng rõ rệt. Nhờ hiệu qua được cải thiện nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông(trong đó có Nhà nước và người lao động) vừa hưởng mức cổ tức cao, vừa tăng giá trị vốn góp tại công ty. Nhà nước không những tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức mà còn tăng cường được những khoản nộp ngân sách. 3. Một số vấn đề còn tồn tại khi triển khai cổ phần hoá các doanhnghịêp nhà nước ở Việt Nam. 3.1.Một số vấn đề còn tồn tại Tuy tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa nói riêng và các doanh nghiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh, nhưng so với mục tiêu chuyển 150 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần năm 1998 và so với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn thì quá chậm, hơn nữa lại không đồng đều giữa các ngành, các địa phương. Cho đến năm 1998, cả nước còn 5 bộ, 35 tỉnh, thành phố và 11 Tổng công ty do Tủ tướng Chính phủ thành lập chưa triển khai cổ phần hóa một doanh nghiệp nào. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang dừng lại ở mức độ thử nghiệm mặc dù Nhà nước có khuyến khích động viên các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thông qua một số ưu đãi về thuế và các điều kiện tài chính khác nhằm làm cho việc cổ phần hóa mang tính chất tự nguyện. Trong khi đó các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ các quan điểm về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hóa làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò kinh tế của quốc doanh, từ đó do dự, chần chừ chưa muốn cổ phần hóa. Nhà nước chưa có những văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý, các văn bản của Nhà nước vẫn chỉ là những Nghị định, Nghị quyết, Thông báo chứ chưa có những văn bản tầm cỡ luật, pháp lệnh về cổ phần hóa. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát. Cho đến năm 1998, nước ta chưa có cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Bộ phận chỉ đạo cổ phần hóa ở cả trung ương lẫn địa phương đều kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào các công tác chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến công ciệc cổ phần hóa trở nên chậm trễ, kéo dài. Ban chỉ đạo cổ phần hóa trung ương không đủ thẩm quyền quyết định trực tiệp các đề án, kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và giám sát các bộ, ngành, địa phương thực hiện cổ phần hóa. Một số chính sách, chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ sức hấp dẫn, chưa lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hóa. Huy động vốn của toàn xã hội là mực tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài xã hội còn quá thấp, các công ty cổ phần hiện nay đại đa số là các công ty cổ phần nội bộ, vì thế thị trường tài chính hiện nay chưa có sự quan tâm của quảng đại quần chúng trong xã hội. Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân, người lao động trong doanh nghiệp. Chính vì những lẽ trên mà tiến trình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn rất chậm, do đó các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa không nhiều, công ty cổ phần vẫn chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. 2.2.Phân tích một số nguyên nhân chủ yếu. Để dẫn đến tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu mà chúng ta cần chỉ ra. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể tìm ra những biện pháp và phương hướng thích hợp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, trình độ xã hội hóa sản xuất ở Việt Nam còn thấp. Thật vậy, ở nước ta nền sản xuất vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, tản mạn, phân công lao đông kém phát triển (70% lao động làm nông nghiệp), kỹ thuật sản xuất chủ yếu ở trình độ thủ công, rất lạc hậu. Trong khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì có trên 50% doanh nghiệp vẫn sản xuất thủ công, khu vực ngoài quốc doanh còn lạc hậu hơn nữa. Trình độ người lao động còn rất hạn chế, đội ngũ công nhân có tay nghề cao không nhiều, hơn nữa lại không đồng đều trong cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó dẫn tới năng suất lao động rất thấp, tích luỹ ít, các doanh nghiệp đều rơi vào tình trạng thiếu vốn để đầu tư và khó có điều kiện đổi mới dây chuyền kỹ thuật công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề có khả năng làm chủ công nghệ mới, năng suất lao động không được cải thiện. Khi doanh nghiệp muốn trở thành công ty cổ phần thì phải phát hành cổ phiếu cảu mình, lúc đó cổ phiếu của công ty sẽ kém hấp dẫn các cổ đông. Người có vốn không thể quá mạo hiểm đầu tư vào một công ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém ngay cả trên thị trường nội địa. Mặt khác, trình độ sản xuất thấp và năng suất lao động thấp cũng là nguyên nhân của thu nhập người lao động thấp. Vì thế khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng rất hạn hẹp, số người có tiền đầu tư mua cổ phiếu không nhiều. Hơn nữa, nước ta, do ảnh hưởng của lối sống trong cơ chế bao cấp, những người có thu nhập cao thường tích luỹ dưới dạng mua sắm cácđồ vật có giá trị như: đất đai, nhà cửa, xe cộ, vàng bạc... ít có thói quen tích luỹ theo cách mua cổ phiếu, trái phiếu... Cuối cùng là phía doanh nghiệp khó phát hành cổ phiếu do hoạt động sản xuất kinh doah kém hiệu quả, còn đông đảo các tầng lớp dân cư lại không có nhiều tiền để đầu tư vào cổ phiếu do thu nhập thấp. Thứ hai, trong những năm qua, sự thiếu vắng của thị trường chứng khoán là một nguyên nhân quan trọng cản trở quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường kéo theo nhiều thị trường mới hình thành và phat triển: thị trường công nghệ, thị trường dịch vụ thông tin, tư vấn pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, thị trường sức lao động... Công ty cổ phần ra đời tạo tiền đề và đòi hỏi phải có sự ra đời tương ứng của thị trường chứng khoán để trao đổi mau bán cổ phiếu, trái phiếu... nhằm khai thông dòng chảycủa vốn dưới dạng cổ phiếu, trái phiếu của công ty. Nếu không có thị trường chứng khoán thì vốn không được lưu chuyển, bị tắc nghẽn, làm cho các công ty thiếu vốn khó có thể huy động được, từ đó cản trở qua trình hình thành các công ty cổ phần. Thời gian qua(), nước ta đã có một trung tâm giao dịch chứng khoán ở quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu có 5 công ty được niêm yết cổ phiếu tại trung tâm này. Đây là những bước đi đầu tiên để hình thành và phát tiển hệ thống thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần được thành lập và phát triển. Thứ ba, Việt Nam thiếu môi trường pháp luật, kiểm toán để hình thành công ty cổ phần. Luật Công ty ra đời tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của công ty cổ phần, tuy nhiên nhiều thể chế pháp lý, các chính sách khác nhau liên quan đến công ty cổ phần như: các qui chế về chế độ công khai tài chính, về viêc huy động vốn đối với nước ngoài, về tiêu chuẩn tối thiêu bắt buộc mỗi cá nhân phải có để được bầu vào Hội đồng quản trị, về quyền hạn và trách nhiệm của các quản trị viên, về số lượng cổ phiếu mà mỗi thành viến sáng lập bắt buộc phải mua, các qui chế và giải pháp bảo đảm việc quản lý và giám sát việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty cổ phần đều còn bỏ ngỏ hoặc thiếu đồng bộ. Mặt khác, Luật thương mại, Luật kiểm toán, Luật chứng khoán vẫn chưa được ban hành hoặc mới ban hành gần đây. Chế đọ kiểm toán bắt buộc chưa được pháp luậtqui định cụ thể, cho nên các bảng tổng kết tài sản cảu công ty thiếu sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư. Những chậm trễ và thiếu hụt trên đã gây những trở ngại không nhỏ cho tiến trình cổ phần hóa ở nước ta. Thứ tư, tư tưởng và tâm lý của đại bộ phận người Việt Nam chưa quen với hình thứcđầu tư bằng cổ phiếu, trái phiếu, có tâm lý e ngại sợ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa. Tâm lý này bắt nguồn từ việc đồng nhất hình thức kinh tế công ty cổ phần với chủ nghĩa tư bản của đông đảo công chúng nước ta do công ty cổ phần ra đời và phát triển trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, do tồn tại lâu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp nên người dân không quen với tâm lý làm giàu và không giám chấp nhận mạo hiểm để đầu tư cho cổ phiếu, trái phiếu. Các thông tin về chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiêp nhà nước, về việc sử dụng các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, kết quả của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa được phổ biên sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong các doanh nghiệp. Thứ năm, môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh và phát triển. Nước ta chưa có văn bản pháp lý có tầm luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hóa cũng như chưa có bộ máy tổ chức được giao đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương xứng để thay mặt Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa, do đó phần lớn các doanh nghiêp không muốn cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp có nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất dẫn đến tình trạng có tới hai hội đồng định giá nên cồng kềnh, tốn kém nhưng lại không có một cơ quan chịu trách nhiệm chính. II. giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa -ý nghĩa của việc nghiên cứu công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 1. Mục tiêu, phương hướng cổ phần hóa ở nước ta. Muốn cổ phần hóa thì chúng ta cần phải chỉ ra những mục tiêu của việc cổ phần hóa. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 19/6/1998 nêu rõ: ã Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ tạo viêc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức mạnh cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. ã Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Để huy động được vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Hiện nay, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử diụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hóa là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng vớing đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Nếu không có sự quản lý tốt, vốn huy động được cũng không mang lại hiệu quả mong muốn. Như vậy, mục tiêu hàng đầu của cổ phần hóa là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản. 2. Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Trước những thực tế về cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua, để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và nâng cao vai trò của công ty cổ phần ở nước ta, bài viết nay xin được đưa ra một số biện pháp: ã Đánh giá cụ thể năng lực hoạt động và hiệu quả kinh tế thực tế của từng doanh nghiệp để có biện pháp chấn chỉnh, tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần làm lành mạnh tài chính của các doanh nghiệp như: vấn đề vốn, xử lý công nợ dây dưa, đưa vào nề nếp chế độ kế toán, kiểm toán và công khai tài chính doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại thì Nhà nước phải đầu tư vốn và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp. Có thể cho phép các doanh nghiệp này phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đặc biệt để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh, đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư chiều sâu. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, không thể cổ phần hóa được thì Nhà nước cần phải kiên quyết giải thể hoặc sát nhập. Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và có khả năng phát triển thì Nhà nước cần xúc tiến cổ phần hóa. Tuỳ theo tính chất và khả năng thu hút vốn của từng doanh nghiệp mà quy định tỷ lệ cổ phiếu Nhà nước cần nắm giữ. Vốn cổ phần của Nhà nước chỉ nên mang tính hỗ trợ chứ không nên vì mục đích khống chế hay quản lý doanh nghiệp. ã Nước ta cần thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương để quản lý và theo dõi các doanh nghiệp được đưa ra cổ phần hóa. Các doanh nghiệp sau khi được các cơ quan chủ quan đưa vào thuộc diện phải cổ phần hóa được chuyển sang cho cơ quan chuyên trách về công tác cổ phần hóa quản lý. Cơ quan này có trách nhiệm thúc đẩy các doanh ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0915.doc
Tài liệu liên quan