Phần mở đầu
C
ông ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ năm 1991 đén nay, ở nước ta có rất nhiều công ty cổ phần được thành lập. Sự tồn tại và phát triển của chúng trong những năm qua đã chứng tỏ rằng sự hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, một xu hướng phù hợp với thời đại. Là sinh viên việc nghiên cứu về công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam là thật sự cấp thiết. Đề tài “Cô
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công ty Cổ phần hóa & vai trò của nó trong phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế” đã mở ra cho em cơ hội hiểu rõ những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần, vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam
Công ty cổ phần hình thành và phát triển ở Việt Nam là một vấn đề có tính thời sự, mặt khác do trình độ còn hạn chế nên trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần, tóm lược quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam trong thời gian qua và một số biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ở nước ta. Bài viết này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo và sự giúp đỡ của thư viện trường về nhiều tài liệu bổ ích.
Phần nội dung của bài viết được bố cục thành 3 chương chính.
Chương 1: "Một số vấn đề lý luận cơ bản về công ty cổ phần" bàn về một số khái niệm bản công ty cổ phần,điều kiện hình thành công ty cổ phần và vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: "Thực trạng về công ty cổ phần ở Việt Nam. Vai trò của nó đối với nền kinh tế nước ta". Chương này cho thấy việc hình thành công ty cổ phần ở nước ta là tất yếu, vai trò của chúng đối với nền kinh tế, thưc trạng về quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua .
Chương 3: "Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa ở nước ta. ý nghĩa của việc nghiên cứu công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa các doanh nghệp nhà nước ở Việt Nam".
Phần nội dung
Chương 1:
một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần.
1.1Khái niệm về Công ty cổ phần
V
ào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX, nhiều phát minh mới xuất hiện đã giúp các nước phương Tây chuyển từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng. Thêm vào đó là sự phát triển của quan hệ tín dụng. Kết quả là sự ra đời của một hình thức kinh tế mới, đó là công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một xí nghiệp mà vốn của nó do nhiều người tham gia góp dưới hình thức mua cổ phiếu. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức phát triển của sở hữu hỗn hợp, từ sở hữu vốn của một chủ sang hình thức sở hữu của nhiều chủ diễn ra trên phạm vi công ty. Công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về kinh tế xã hội và cũng là sản phẩm tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất.
Cổ phiếu của công ty cổ phần là một loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho cổ dông được quyền lĩnh một phần thu nhập từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thông qua lợi tức cổ phiếu (thu nhập từ cổ phiếu). Thông thường, lợi tức cổ phiếu cao hơn lợi tức ngân hàng, nếu không, người có tiền sẽ gửi tiền vào ngân hàng, ít rủi ro hơn. Cổ phiếu có thể mua bán trên thị trường chứng khoán dựa vào mệnh giá cổ phiếu, dao động giữa mệnh giá tối thiểu và tối đa.
Người chủ sở hữu cổ phiếu là cổ đông. Các cổ đông là chủ của công ty và họ có quyền tham dự các đại hội cổ đông, hưởng lợi tức cổ phiếu, chuyển nhượng cổ phần, đầu phiếu.
Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần là một hình thức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Vì vậy công ty cổ phần có đủ tư cách pháp lý để huy động lượng vốn lớn rải rác của các cá nhân trong xã hội. Công ty cổ phần, ngoài việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn, còn có thể đi vay nợ rồi trả lãi hoặc phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác để thu hút vốn. Hình thức công ty cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay thế được. Đó là, thứ nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn mang đến cho họ một khoản thu nhập nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba, cổ đông có quyền được ưu đãi trong vịêc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi chúng được bán rộng rãi cho công chúng.
Như vậy, công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. Từ đó, nó tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu giữa một bên là đông đảo quần chúng với một bên là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các kế hoạch kinh doanh qui mô lớn. Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiêp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác cho bộ máy quản lý của công ty. Trong đó, Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị là hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty, quyền sở hữu tối cao thuộc về Đại hội cổ đông.
1.2.tính tất yếu khách quan của viêc hình thành công ty cổ
phần.
Công ty cổ phần ra đời từ những năm cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển châu Âu và đến nay đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp điển hình trong nền kinh tế thị trường. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa trong nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa. Khi nền kinh tế đạt được trình độ tập trung sản xuất nhất định, cùng với nó là sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí, thì công ty cổ phần ra đời là kết quả tất yếu để đáp ứng đòi hỏi của sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy quá trình tập trung và tích tụ tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
ã Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời. Quy luật giá trị có vai trò rất lớn trong nền kinh tế hàng hoá, nó đã tác động mạnh mẽ đến các chủ thể kinh tế. Các hàng hoá được sản xuất trong những diều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải trao đổi theo giá trị xã hội. Chỉ có những người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội mới thu được lợi nhuận,mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Do đó, họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ sản xuất và giảm thiểu chi phí sản xuất, tiến tới hơp lý tối đa quá trình sản xuất. Tuy nhiên, thường chỉ có những nhà tư bản lớn có qui mô sản xuất ở một mức độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Để tránh kết cục bi thảm trong cạnh tranh có thể xảy ra, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để từ đó đầu tư nâng cao kỹ thuật công nghệ, hiện đại hóa các trang thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhằm hạ giá thành sản phẩm. Song việc này lại rất khó khăn, mặt khác, quá trình tích tụ vốn để thực hiện được phải mất rất nhiều thời gian. Để khắc phục, các nhà tư bản vừa và nhỏ đã thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt thành một tư bản lớn đủ sức mạnh để để cạnh tranh và giành chiến thắng với các nhà tư bản lớn khác. Và như vậy, hình thức tập trung vốn đã là manh nha cho sự hình thành và phát triển mạnh mẽ công ty cổ phần.
ã Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo đông lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Những công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện vào đầu thế kỷ XVII, thời kỳ tích luỹ ban đầu tư bản như công ty Đông ấn Độ của Anh (1600) và Hà Lan (1602). Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ thứ XIX, những công ty cổ phần mới trở thành hiện tượng phổ biến. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật đòi hỏi tư bản cố định tăng lên, do đó số tư bản tối thiểu để kinh doanh cũng tăng lên. Khi không có đủ vốn, nhà tư bản phải liên minh với các nhà tư bản khác để tập trung nhiều tư bản cá biệt phân tán thành một tư bản lớn bằng cách góp vốn kinh doanh. Sự tập trung vốn này đã hình thành nên công ty cổ phần.
Sự phát triển của khoa học công nghệ làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới. Khi thấy ngành mới có lợi nhuận cao hơn, các nhà tư bản sẽdi chuyển tư bản của mình sang lĩnh vực kinh doanh mới. Tuy nhiên, việc di chuyển tư bản gặp nhiều khó khăn bởi vì các nhà tư bản không thể một lúc huỷ bỏ ngay các xí nghiệp cũ rồi chuyển sang xây dựng xí nghiệp mới. Họ chỉ có thể di chuyển dần từng phần tư bản của họ mà thôi, hơn nữa, việc di chuyển sẽ tiêu tốn nhiều thời gian và họ sẽ mất lợi thế trong cạnh tranh và thu lợi nhuận siêu ngạch từ lĩnh vực kinh doanh mới. Để giải quyết khó khăn này, các nhà tư bản đã nhanh chóng thỏa thuận cùng nhau góp vốn thành lập công ty cổ phần.
ã Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh trong quản lý Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã mở rông giới hạn của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên điều này gắn liền với sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong nền kinh tế thị trường và như vậy các nhà doanh nghiệp phải đứng trước những rủi ro ngày càng lớn. Nếu tập trung đầu tư vào chỉ một ngành nào đó thì rủi ro của họ càng lớn và họ có thể bị phá sản. Do đó các nhà tư bản phân tán tư bản của mình bằng cách tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Cách giải quyết này đã giúp các nhà tư bản tránh được nhiều rủi ro. Một là, các nhà doanh nghiệp chia sẻ thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Hai là, việc điều hành công ty cổ phần do một tập thể hội đủ điều kiện về vốn, trí tuệ và trình độ tổ chức quản lý đảm nhiệm nên công ty cổ phần hoạt động hiệu quả và hạn chế được nhiều rủi ro.
ã Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, tạo điều kiện cho công ty cổ phần ra đời và phát triển. Thị trường vốn là loại thị trường quan trọng của nền kinh tế thị trường, vì thế sự phát triển của kinh tế hàng hoá thì tất yếu sẽ làm cho thị trường vốn phát triển. Trong nền kinh tế, thường xuyên có những doanh nghiệp mà trong từng thời điểm nào đó có một bộ phận vốn nhàn rỗi. Chẳng hạn, vốn dùng để trả lương nhưng chưa đến kỳ trả, vốn mua nguyên liệu nhưng chưa đến kỳ mua...Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác muốn có vốn để thanh toán, để mở mang doanh nghiệp nhưng lại chưa tích luỹ kịp. Tương tự như vậy, trong dân cư và các tổ chức xã hội cũng có số tiền nhàn rỗi; một bộ phận dân cư khác lại cần tiền cho nhu cầu chi tiêu...Với những nhà doanh nghiệp và dân cư có tiền nhàn rỗi họ muốn đồng tiền của mình sinh lời; mặt khác, những doanh nghiệp và dân cư cần tiền trong một thời gian nhất định, họ sẵn sàng chấp nhận trả một khoản lời nhất định để có được số vốn cần thiết. Sự ra đồi của tín dụng đã giải quyết được mâu thuẫn này. Tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lợi tức. Tín dụng ra đời đã làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và là động lực thúc đẩy quá trình tập trung tư bản trong các công ty cổ phần.
Một công ty cổ phần không thể phát hành cổ phiếu của mình nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, công ty không thể bán cổ phiêu nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu về vốn trên thị trường. Thực tế trong lịch sử ra đời và phát triển của công ty cổ phần trên thế giới chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện qua các ngân hàng. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp mới phát triển trên cơ sở tín dụng. Khi mua cổ phiếu, người mua không phải là người đi vay của công ty cổ phần mà là người chủ chung của công ty đó. Ta không thể coi người chủ cổ phần với người chủ cho vay là một bởi vì người chủ cho vay đòi hỏi phải có người vay. Trong công ty cổ phần chỉ có các cổ đông, những người quản lý, những người giám đốc làm thuê...Lợi tức cổ phần không chỉ là thu nhập do quền sở hữu mang lại mà là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành hình thái lợi tức.
Như vậy, lịch sử ra đời và phát triển của công ty cổ phần đã chứng tỏ rằng đây là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế. Công ty cổ phần đã có được những điều kiện cần thiết và đã phát triển mạnh mẽ và trở thành thịnh hành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quền Nhà nước, trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
1.3.các điều kiện để hình thành công ty cổ phần.
Cũng như các hình thức tổ chức kinh doanh khác, một công ty cổ phần được thành lập thì nó phải có một số điều kiện nhất định. Trong đó có những điều kiện quan trọng mà nếu thiếu một điều kiện nào đó thì công ty cổ phần không thể được thành lập.
1.3.1.Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn.
Công ty cổ phần là công ty được thành lập do các thành viên hợp tác góp vốn cùng tổ chức sản xuất kinh doanh. Các cổ đông của công ty có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân. Nhưng điều quan trọng là các cá nhân hay các tổ chức tham gia góp vốn phải độc lập về vốn, nghĩa là họ phải có quyền tự quyết định đối với phần vốn của mình, họ phải là người chủ sở hữu phần vốn đó. Nói cách khác họ phải là những người sở hữu vốn độc lập.
Điều kiện này đảm bảo cho công ty cổ phần thuộc sở hữu của nhiều người. Khi công ty chỉ có một chủ sở hữu ( cá nhân hoặc tổ chức nào đó) thì công ty không phải là công ty cổ phần. Nó sẽ thuộc một loại hình công ty khác: công ty tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn một hội viên và nếu Nhà nước là chủ sở hữu thì nó là công ty quốc doanh.
1.3.2.Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lơi nhuận.
Trong xã hội có nhiều người và nhiều doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi. Không ai không muốn đồng tiền của mình sinh lời. Tuy nhiên trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, việc đầu tư cho kinh doanh thường gắn liền với nhiều rủi ro và họ có thể bị phá sản. Với nhiều người, để yên tâm và thu lợi nhuận chắc chắn, họ đem tiền gửi vào ngân hàng, tuy lãi ít nhưng tiền của họ được bảo vệ an toàn. Một số người có vốn khác, do sức hấp dẫn của lợi nhuận, họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro đem tiền đi góp vốn và họ trở thành cổ đông. Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất, nhiều rủi ro nhất so với các hình thức đầu tư khác nhưng bù lại nó có thể đem lại nhiều lợi nhuận và không bị lạm phát làm sói mòn tiền.
1.3.3.Lợi nhuận thu được phải đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh.
Với mục đích tối đa hoá lợi ích, những người có vốn sẽ tìm nơi nào có lợi nhất trong số những nơi có thể để đầu tư. Như vậy họ sẽ phải so sánh lợi nhuận thu được giữa các nơi. Khi nhà đầu tư có ý định rót vốn của mình vào công ty cổ phần thì họ cũng sẽ có sự so sánh lợi ích giữa việc mua cổ phần và việc gửi tiền vào ngân hàng, hoặc đầu tư cho dự án đầu tư khác. Do vậy công ty cổ phần muốn thu hút vốn thì lợi nhuận do kinh doanh phải lớn hơn khoản lợi tức ngân hàng hay lợi tức khi đầu tư vào lĩnh vực khác. Không những thế lợi nhuận này phải lớn hơn ở mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn sàng đầu tư vào công ty cổ phần.
1.4.cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần.
Do công ty cổ phần có đặc điểm quan trọng là nó thuộc sở hữu của nhiều chủ cho nên các cổ đông của công ty không thể trực tiếp thực hiện vai trò làm chủ của mình. Trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối hoạt động của công ty. Các cổ đông thực hiện quyền chủ sở hữu của mình thông qua các tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý và điều hành công ty: đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và ban kiểm soát. Trong đó đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
1.4.1.Đại hội cổ đông.
Trong công ty cổ phần, đại hội cổ đông là đại hội của những người đồng sở hữu đối với công ty và là cơ quan có quyết định tối cao trong việc quản lý và điều hành công ty cổ phần. Có 3 hình thức đại hội cổ đông:
Một là, đại hội cổ đông thành lập, được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập công ty, thảo luận và thông qua điều lệ của công ty. Đại hội cổ đông thành lập phải bao gồm những cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty và biểu quyết đa số quá bán.
Hai là đại hội cổ đông bất thường. Đại hội cổ đông có thể được triệu tập bất thường theo yêu cầu của chủ tịch hội đồng quản trị hoặc trên 1/2 số thành viên của hội đồng quản trị; hoặc theo yêu cầu của trưởng ban kiểm soát hay đề nghị của số cổ đông đại diện cho trên 50% số vốn điều lệ của công ty. Đại hội cổ đông bất thường được triệu tập khi có nguy cơ đe dọa sự hoạt động bình thường của công ty chẳng hạn như khi công ty gặp khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lược kinh doanh, hay chấn chỉnh, kiện toàn Hội đồng quản trị và ban kiểm soát hoạt động kém hiệu quả... Nhiệm vụ và quyền hạn của đại hội cổ đông bất thường cũng tương tự như đại hội cổ đông thường kỳ nhưng nội dung của nó có thể hướng theo một vài mục tiêu đòi hỏi giải quyết cấp bách nhất.
Ba là đại hội cổ đồng cổ đông. Đại hội đồng được triệu tập thường vào cuối năm tài chính hoặc bất kỳ lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc ban kiểm soát thấy cần thiết. Nhiệm vụ chủ yếu của đại hội đồng cổ đông chủ yếu là: quyết định phương hướng hoạt động của các bộ phận trong công ty, nhiệm vụ và kế hoạch kinh doanh của công ty, thảo luận và thông qua bảng tổng kết năm tài chính; bầu bãi miễn thành viên trong hội đồng quản trị và ban kiểm soát; quyết định thành lập, bổ sung, trích các quỹ của công ty; phân chia lợi nhuận; xác định thiệt hại đối với công ty ...
1.4.2.Hội đồng quản trị
Đây là bộ máy quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tổ chức và quản lý giỏi. Các thành viên của Hội đồng quản trị phải có năng lực tốt để đảm bảo cho những công việc do đại hội cổ đông giao phó được hoàn thành ở mức tốt nhất.
Số lượng thành viên của Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông quyết định và được ghi vào Điều lệ của công ty. Thông thường, với những công ty nhỏ, Hội đồng quản trị có từ 3 – 7 người, từ 9 – 13 người với những công ty trung bình và từ 15 – 17 người đối với những công ty lớn. Một Chủ tịch được Hội đồng quản trị bầu ra và có thể thể kiêm Tổng giám đốc công ty nếu không trái với Điều lệ. Vì là người đứng đầu nên Chủ tịch hội đồng quản trị phải là người có kiến thức kinh tế và trình độ kinh doanh, hiểu rõ pháp luật và thông thạo các hoạt động thương mại.
Hội đồng quản trị là cơ quan có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông.
1.4.3.Giám đốc điều hành.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Giám đốc điều hành được lựa chọn thông qua nhiều hình thức thi tuyển khác nhau để công ty lựa chọn được người thực sự có năng lực để điều hành công ty. Thưc chất, Giám đốcđiều hành công ty, là người điều khiển và quản lý tư bản của người khác, là người làm thuê cho Chủ tịch hội đồng quản trị theo hợp đồng được ký kết giữa hai bên. Giá cả lao động của Giám đốc điều hành được quy định trên thị trường lao động như bất cứ lao động nào khác.
Giám đốc trực tiếp điều hành các hoạt động của công ty và phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền được giao.
1.5.vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế.
Công ty cổ phần được hình thành và phát triển do sự đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó chế độ tín dụng và ngân hàng là đòn bẩy cho quá trình xã hội hóa sở hữu, tiền đề của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là hình thức kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Vai trò lớn nhất của công ty cổ phần là nó đã góp phần đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sở hữu cả về tốc độ lẫn qui mô vì bản thân công ty cổ phần đã là sản phẩm của sự xã hội hóa sở hữu, được thể hiên qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Sự lớn lên tự nhiên của tư bản bằng con đường tích tụ và tập trung tư bản đã gặp phải những giới hạn. Chính nhờ sự ra đời của công ty cổ phần mà tư bản được tập trung nhanh chóng và làm xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ mà không một tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. C.Mác đã đánh giá rằng nếu như phải chờ cho đến khi tích lũy tư bản làm cho một số tư bản lớn lên đến mức có thể làm được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến nay thế giới vẫn chưa có đường sắt; ngược lại, với các công ty cổ phần, việc tập trung đã được thực hiện trong “nháy mắt”. Công ty cổ phần còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế, phân tán rủi ro cho những người đầu tư trong môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, nó cho phép mở rộng qui mô sản xuất nhanh, tạo điều kiện cho xã hội hóa sản xuất, và do đó nó làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và Nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt.
Việc hình thành và phát triển của các công ty cổ phần đã mang hình thái tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân; còn các xí nghiệp của nó biểu hiện là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. C.Mác cho rằng đây là “sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”[3,305] và là “điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ” [3,305].
Chương 2:
thực trạng về công ty cổ phần ở việt nam và vai trò của nó đối với nền kinh tế ở nước ta
2.1.tính tất yêu khách quan của việc hình thành công ty cổ
phần ở nước ta
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới đối với nước ta khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được đặt ra từ năm 1991 và cho đến nay đã có rất nhiều công ty cổ phần được thành lập ở mọi thành phần kinh tế. Điều đó cho thấy sự hình thành các công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu, nó không phụ thuôc vào ý chí chủ quan của bất cứ một tổ chức nào.
Thật vậy, công ty cổ phần ra đời là do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hóa phát triển. Nó sẽ hình thành và phát triển ở nước ta nếu hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết.
2.1.1.Nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần.
Hiện nay khu vực doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 70% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong trong nền kinh tế, thu hút phần lớn lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... song chỉ tạo ra trên 40% tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Cho đến cuối năm 1997, nước ta có khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ có 50% doanh nghiệp có lãi, trong đó thực sự kinh doanh có lãi và lâu dài chỉ chiếm 30%. Thực tế doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 – 85% tổng số thu, nhưng nêu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước không tạo ra được tích luỹ. Những điêu trên cho phép khẳng định rằng khu vực kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả.
Dẫn đến tình trạng trên, cơ cấu kinh tế và phương thức quản lý lạc hậu là một nguyên nhân cơ bản. Tình trạng sở hữu chung chung, vô chủ, duy trì cơ chế quản lý hành chính bao cấp là những cản trở lớn của quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, cải cách hệ thống các doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hóa sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là việc làm cấp bách. Các doanh nghiệp nhà nước cần phải nâng cao hiệu quả kinh tế, nếu không sẽ không thể vươn lên giữ vai trò chủ đạo, không thể hướng các thành phần kinh tế khác đi theo quĩ đạo xã hội chủ nghĩa, dẫn đến mất ổn định xã hội. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp cải cách các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vì vậy, việc hình thành các công ty cổ phần từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu.
Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra trên qui mô lớn với nhiều hình thức phong phú ở rất nhiều nước trong cộng đồng thế giới. Chẳng hạn Anh, đầu năm 1988, đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ bảng, ở Pháp chưa đầy năm rưỡi đã thực hiện 1/3 chương trình cổ phần hóa thu 7 tỷ Franc; ở Tây Đức, năm 1984 – 1987 đã bán hoàn toàn hay một phần cổ phiếu khống chế của Nhà nước trong hơn 50 công ty với tổng giá trị hơn 5 tỷ Mác[12,37]. Trong bối cảnh quốc tế đó, sự giao lưu, hòa nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: trao đổi thương mại, đầu tư, hợp tác nghiên cứu, viện trợ, cho vay...và dưới nhiều hình thức khác nhau như: liên doanh liên kết, hợp tác, cho thuê, đại lý, đấu thầu ...Trong đó liên kết kinh tế dưới hình thức góp vốn kinh doanh hình thành công ty cổ phần đóng vai trò quan trọng vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hóa sản xuất cao, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế. Mặt khác việc cổ phần hóa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước giúp khu vực này thực hiện tốt vai trò điều tiết của mình. Như vậy, việc hình thành và phát triển của công ty cổ phần ở nước ta bằng cách đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và điều kiện thực tế của Việt Nam
Nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên công nhiệp hoá - hiện đại hóa đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Tích luỹ vốn nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất và lao động thặng dư của của người lao động thuộc tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Muốn vậy phải ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để hợp lý hóa sản xuất. Ngoài việc nghiên cứu trong nước, chúng ta cần phải nắm bắt được các thành tựu khoa học mới của thế giới. Việc này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về vốn và thời gian. Cổ phần hóa là một giải pháp tốt, vừa là cơ sở để tiếp cận công nghệ mới trong thời gian ngắn vừa thu hút được đầu tư với qui mô lớn từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, để học tập được phương thức quản lý tiên tiến từ những nền kinh tế phát triển trên thế giới thì tổ chức doanh nghiệp theo hình thức công ty cổ phần là phù hợp nhất.
Nói tóm lại, công ty cổ phần ra đời là tất yếu và nước ta cần phải nhanh chóng tạo ra những điêu kiện thuận lợi cho nó phát triển. Đây là việc cấp bách vì với công ty cổ phần, chúng ta có điều kiện tập trung vốn, đẩy mạnh khoa học công nghệ và thay đổi phương thức quản lý, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa đất nước.
2.1.2.Nước ta có đủ điều kiện để công ty cổ phần ra đời.
Hiện nay, nền sản xuất nước ta đang dần chuyển đổi từ sản xuất bằng kỹ thuật thủ công sang sản xuất bằng kỹ thuật cơ khí, một bộ phận kỹ thuật tự động hóa, hiện đại, từ sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Từ đó, phân công lao động xã hội từng bước được mở rộng, các loại thị trường đang từng bước hình thành và phát triển như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, và đặc biệt là thị trường vốn... Kỹ thuật sản xuất đang từng bước được cải tiến, có những lĩnh vực ta đã tiếp cận được với kỹ thuật tiên tiến nhất như: công nghệ tin học, bưu chính viễn thông. Những điều trên chứng tỏ rằng trình độ xã hội hóa sản xuất nước ta đã phát triển đến một trình độ nhất định. Xã hội hóa sản xuất sẽ dẫn đến quá trình tập trung vốn không chỉ ở cá nhân mà còn ở những tập thể sản xuất kinh doanh, ở nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đây là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của công ty cổ phần.
Ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sự đổi mới của hệ thống ngân hàng là những điều kiện ban đầu vô cùng quan trọng để công ty cổ phần ra đời. Các ngân hàng thương mại đang chuyển cơ chế hoạt động từ cho vay với lãi suất âm theo kiểu bao cấp trước kia sang hoạt động kinh doanh với lãi suất dương, thực hiện đầy đủ cơ chế hoạch toán kinh doanh và có lãi. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã ra đời, tăng cường khả năng huy động vốn rộng rãi cả trong lẫn ngoài nước. Các ngân hàng sẽ giúp đỡ các công ty cổ phần thành lập và phát hành cổ phiếu, các ngân hàng này cũng sẽ là các nhà đầu tư cổ phiếu lớn trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, sự cải tổ hoạt động ngân hàng sẽ làm cho việc phát hành, mua bán cổ phiếu trở nên thuận lợi hơn và công ty cổ phần sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển.
Trong nhữn năm qua, nước ta đã chú trọng xây dựng một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật. Chỉ có những người được đào tạo cơ bản, có trình độ tổ chức, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ được khoa học kỹ thuật và công nghệ mới thì mới có thể tiếp cận và thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nền tảng rất quan trọng, đóng vai trò nguồn lực tiềm năng vô giá cung cấp các cán bộ tổ chức, quản trị và điều hành cho các công ty cổ phần.
Nhà nước ta đang dần dần xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp (lụât, các văn bản duới luật) nhằm đảm bảo sự công bằng trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước cũng tạo môi trường chính trị ổn định, môi trường kinh tế lành mạnh, khuyến khích nhân dân đầu tư, mua bán cổ phiếu... tạo điều kiện thuận lợi cho công ty cổ phần ra đời và phát triển.
2.2.vai trò của công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh
nhà nước ở nước ta hiên nay.
Các công ty cổ phần, trong đó chủ yếu là các công ty được hình thành từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta. Cổ phần hóa đã đáp ứng phần nào những yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi, giải toả những khó khăn trong ngân sách Chính phủ, khuyến khích người lao động đố._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0770.doc