Mục lục
Nội dung
Trang
mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề xoá đói, giảm nghèo.
3
7
I. Khái niệm và thước đo nghèo đói.
7
1. Khái niệm nghèo đói.
7
2. Thước đo nghèo đói ở Việt Nam.
9
II. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề xoá đói, giảm nghèo.
11
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xoá đói giảm nghèo
11
2. Quan điểm của Đảng, nhà nước ta về công tác xoá đói giảm ngh
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Công tác xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
èo
15
III. Tình hình công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay
23
1. Tình hình đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
23
2. Công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hải Dương
26
Chương II: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương năm 2005-2007
28
I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ninh Giang có ảnh hưởng đến công tác xoá đói giảm nghèo
28
1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
28
2. Đặc điểm kinh tế
29
3. Đặc điểm dân số và chất lượng nguồn lực lao động
30
4. Đặc điểm văn hoá, y tế, giáo dục
31
II. Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo huyện Ninh Giang (2005 - 2007)
32
1. Tình hình đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Ninh Giang
32
2. Kết quả và hạn chế của công tác xoá đói giảm nghèo tại huyện Ninh Giang
38
3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
42
III. Thách thức công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Ninh Giang trong thời gian tới
44
Chương III. Một số giảm pháp nhằm đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Ninh Giang giai đoạn 2008 - 2010
46
I. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo huyện Ninh Giang giai đoạn 2008 - 2010
46
1. Quan điểm
46
2. Phương hướng
46
3. Mục tiêu
47
II. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Ninh Giang 2008 - 2010
48
1. Giải pháp chung
48
2. Giải pháp cụ thể
50
III. Một số kiến nghị
55
1. Đối với Nhà nước
56
2. Đối với các Bộ, ngành Trung ương
56
3. Đối với Tỉnh
57
4. Đối với Huyện, thị xã
58
5. Đối với Xã, thị trấn
58
Kết luận
60
Tài liệu tham khảo
63
Phụ lục
65
Mở đầu
1. Tính cần thiết của đề tài
Sự phát triển của khoa học - công nghệ đầu thế kỷ XXI đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân loại được nâng lên. Trên thế giới hiện nay vẫn còn trên ba tỷ người nghèo đói (1) , không được hưởng thụ những thành quả của khoa học - công nghệ đem lại như: ăn, mặc, ở, đi lại… không đủ tiền để chữa bệnh khi ốm đau, không có điều kiện để học hành, hạn chế sự giao lưu tiếp xúc với cộng đồng, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn cho xã hội, tạo nên sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế trên toàn cầu. Đói nghèo luôn là lực cản lớn nhất trên con đường phát triển của loài người. Đói nghèo đang là một trong những vấn đề có tính toàn cầu. Ngày nay, cuộc đấu tranh chống nghèo đói luôn là thách thức lớn đối với các nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giảm nghèo đói không chỉ là một chiến lược xã hộ cơ bản, mà còn là mục tiêu phát triển thiên niên kỷ ( MDG). Do vậy, vấn đề xoá đói, giảm nghèo xây dựng một xã hội thịnh vượng đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách, là yếu tố đảm bảo sự phát triển bền vững.
ở nước ta, ngay sau cách mạng tháng Tám thành công vấn đề xoá đói giảm nghèo được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, coi đây là nhiệm vụ chiến lược quan trọng vừa trước mắt, vừa lâu dài để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hơn mười lăm năm qua, công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, cuộc sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên, hơn hai triệu hộ đã thoát nghèo, hầu hết người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế, dân số kế hoạch hoá gia đình, giáo dục; các chương trình nước sạch nông thôn, vay vốn tín dụng, khai hoang, khuyến nông - khuyến lâm, xoá nhà tranh tre nứa lá… do các nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo tăng. Nhận thức của người dân, đặc biệt là người nghèo và các cấp chính quyền có sự thay đổi
----------------------------------------------------------------
(1) Giáo dục và thời đại, số 4+5, H 2007, tr 22
đáng kể qua từng giai đoạn phát triển của đất nước; cơ chế chính sách và quá trình tổ chức thực hiện ngày càng được đổi mới, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Với những thành tựu đó, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế công nhận là một điểm sáng về xoá đói giảm nghèo.
Tuy vậy, hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, thành tựu xoá đói giảm nghèo còn nhiều hạn chế. Số hộ nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân cả nước được tổ chức thực hiện tốt, tạo nên sự mất cân bằng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Huyện Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương được thành lập ngày 01 tháng 04 năm 1996 từ việc chia tách huyện Ninh Thanh thành hai huyện Ninh Giang và Thanh Miện. Huyện Ninh Giang (mới) hiện có 27 xã và 01 thị trấn; toàn huyện có diện tích đất tự nhiên là 13.540 ha, dân số 150.083 người.
Sau khi chia tách, Ninh Giang là một huyện khó khăn nhất so với các huyện, thành phố trong cả tỉnh. Nền kinh tế ở điểm xuất phát quá thấp, sản xuất hàng hoá chậm phát triển và không đồng đều giữa các vùng, cơ sở hạ tầng thấp kém, lạc hậu; mặc dù không còn hộ đói nhưng tỷ lệ nghèo cao : Năm 2001 tỷ lệ hộ nghèo 17,02% so với tỉnh 11,36% cao nhất tỉnh. Năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 12,82% ( Trong khi toàn tỉnh là 8,75%). Đến nay, do làm tốt công tác xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm đáng kể song Ninh Giang vẫn là huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tỉnh, tình trạng nghèo đói của huyện Ninh Giang vẫn còn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo của huyện Ninh Giang là nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi cần được giải quyết trong thời gian tới.
Là một cán bộ được học tập chương trình cao cấp lý luận chính trị tại Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, tôi mong muốn được vận dụng tri thức đã học vào nâng cao hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Ninh Giang. Hơn nữa ở tỉnh Hải Dương các nghiên cứu mới chỉ ở dạng phác thảo, chưa hệ thống. Xuất phát từ các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn “Công tác xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Ninh Giang, tỉnh Hải dương, thực trạng và giải pháp ” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nhằm khảo sát thực trạng công tác xoá đói, giảm nghèo ở huyện Ninh Giang, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo của huyện trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài : Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết 3 nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác xoá đói, giảm nghèo
- Nghiên cứu thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo huyện Ninh Giang hiện nay qua đó chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo của huyện Ninh Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo của Huyện trong thời gian tới, giúp người nghèo, hộ nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo, nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giàu nghèo của nhân dân trong Huyện.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp chung: vận dụng những nguyên lý, quan điểm, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề đói, nghèo.
- Phương pháp cụ thể: Ngoài phương pháp luận trên đề tài sử dụng các phương pháp của Xã hội học như: phương pháp An két, phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia để nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp đánh giá thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của huyện từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo.
4. Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Vấn đề nghèo đói, thước đo nghèo đói, công tác xoá đói giảm nghèo rất rộng, trong điều kiện tài liệu và thời gian có hạn, tôi xin tập trung nghiên cứu công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Ninh Giang từ năm 2001 đến năm 2007.
5. Đóng góp mới của đề tài .
Đề tài hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xoá đói giảm nghèo. Đánh giá thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo của địa phương, đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Ninh Giang. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo phong phú cho những người làm công tác xoá đói giảm nghèo ở địa phương và cán bộ quản lý các cấp.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác xoá đói giảm nghèo
Chương II: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo của huyện Ninh Giang từ năm 2005 đến năm 2007
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo huyện Ninh Giang giai đoạn 2008 - 2010.
Chương I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về Công tác xoá đói giảm nghèo
I. Khái niệm và thước đo nghèo đói
1. Khái niệm nghèo đói
Nghèo là khái niệm được ding rất lâu trên thế giới dùng để chỉ mức sống của một nhóm dân cư, một cộng đồng, một quốc gia không có khả năng đạt được mức sống tối thiểu.
Đói nghèo hiện nay đang là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Tại hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok đã đưa ra định nghĩa nghèo như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận đang thu hút sự phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống như: ăn, mặc, ở, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục.
Nghèo tương đối: Là sự nghèo khổ thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ phân phối của cải xã hội giữa các nhóm xã hội, các tầng lớp dân cư, các vùng địa lý.
Ngoài các định nghĩa trên, hiện nay có hai trường phái nghiên cứu và hiểu về đói nghèo được nhiều học giả trên thế giới chấp nhận như:
Trường phái tiếp cận nghèo theo nghĩa hẹp cho rằng: Nghèo là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng, hay một nhóm dân cư thấp nhất so với mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư khác.
Theo cách hiểu này, khái niệm đói nghèo được hiểu có phần phiến diện, chưa bao quát được tính chất tuyệt đối của vấn đề đói nghèo. Điều đó có nghĩa là nghèo đói mới chỉ được đánh giá theo tiêu chuẩn nghèo đói tương đối, trên thực tế lúc nào nó cũng tồn tại trong xã hội, cho dù đó là nước giàu nhất. Nếu đứng trên phương diện so sánh mức sống, mức thu nhập của các nhóm dân cư thì lúc nào cũng có một nhóm thấp nhất, một nhóm cao nhất và có các nhóm trung bình trong xã hội. Đó chính là đói nghèo tương đối. Hơn nữa, theo cách hiểu này, tăng trưởng kinh tế thường kéo theo tăng thu nhập trung bình của nhóm người nghèo nhất trong xã hội, nhưng có một thực tế, dù thu nhập của nhóm người nghèo có được cải thiện, thì vẫn có một khoảng cách ngày càng xa giữa thu nhập của nhóm giàu và nhóm người nghèo khi nền kinh tế có sự tăng trưởng nhanh. Chính khoảng cách của nhóm người nghèo so với nhóm người giàu nói lên mức độ bất bình đẳng trong xã hội.
Với trường phái tiếp cận theo nghĩa rộng cho rằng: Căn nguyên sâu xa của nghèo đói là do trong xã hội có sự phân hoá, mà sự phân hoá đó chính là hệ quả của chế độ kinh tế và chế độ xã hội.
Cách hiểu này cho phép tiếp cận người nghèo một cách toàn diện, đặt sự nghèo đói so sánh với sự giàu có vào trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Theo Adamsmit, ông tổ của lý thuyết kinh tế thị trường cho rằng: “Chính không phải vì lòng nhân từ, rộng lượng của người hàng thịt, người làm rượu bia hay người làm bánh mỳ mà chúng ta có một bữa ăn mà vì sự quan tâm của họ tới lợi ích riêng của họ” Theo ông từng cá nhân chỉ nghĩ tới lợi ích riêng của mình nhưng có một bàn tay vô hình lại dẫn dắt họ thúc đẩy lợi ích chung, sự phân công lao động và hoạt động của thị trường trở thành nguyên nhân chính tạo nên của cải dân tộc. Nhưng cuộc sống lại nảy sinh những nghịch lý: Dân tộc có thể giàu, nhưng người dân đâu phải lúc nào cũng sung sướng, bộ phận dân cư này giàu lên trong khi bộ phận dân cư khác lại nghèo đi. Đó chính là khoảng cách phân hoá giàu nghèo trong mỗi xã hội.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu về nghèo đói trên thế giới các nhà khoa học Việt Nam đưa ra khái niệm về đói nghèo như sau:
* Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng quy định này còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ, tức là tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả quốc gia.
Tuy nhiên, nghèo còn được phân chia thành các mức khác nhau:
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như: thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
- Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng và địa phương nơi họ sinh sống xét trên mọi phương diện.
- Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hằng năm cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc thậm chí không có nhà ở, không đủ hàm lượng calo cung cấp hàng ngày , đứt bữa, thường vay mượn của cộng đồng, thiếu khả năng chi trả.
* Đói gay gắt : là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu của nhu cầu, không đủ ăn, không đủ mặc, chịu đứt bữa và hàm lượng calo cung cấp cho một người một ngày là rất thấp (dưới 2.100 kalo/ người/ ngày).
Tuỳ thuộc vào khả năng đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm để duy trì cuộc sống trong năm mà phân loại thành hộ thiếu đói hoặc hộ đói thường xuyên.
2. Thước đo đói nghèo ở Việt Nam
Đói nghèo của mỗi quốc gia khác nhau sẽ khác nhau về mức độ, số lượng và thay đổi theo thời gian và không gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống trung bình so với quốc gia khác. Do vậy, đói nghèo mang ý nghĩa tương đối, phản ánh một hiện tượng kinh tế - xã hội, văn hoá gắn liền từng thời điểm lịch sử cụ thể, với điều kiện chủ quan, khách quan từng quốc gia, dân tộc. Việc đánh giá đói nghèo cần dựa vào 2 nội dung sau:
- Chỉ tiêu chính là: Thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng hoặc năm được đo bằng chỉ tiêu giá trị hiện vật quy đổi. Thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý. Đối với hộ nông dân thu nhập được xác định bằng hiệu số thu nhập trừ đi mọi chi phí sản xuất.
- Chỉ tiêu phụ là: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học hành, chữa bệnh, đi lại. . .
ở Việt Nam việc vận dụng cách tính của thế giới vào việc xác định chuẩn mực nghèo đói đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là: Phản ánh đúng thực trạng đói nghèo ở nước ta, phù hợp với khả năng giải quyết theo mục tiêu của chương trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo, từng bước hoà nhập và có thể so sánh với chuẩn mực quốc tế.
Theo cách xác định như trên chuẩn mực đói nghèo ở Việt Nam được công bố qua các thời kỳ cụ thể như sau:
* Năm 1993: Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng quy đổi ra gạo dưới 13 kg đối với thành thị, dưới 8 kg đối với nông thôn;
* Năm 1997: Chuẩn mực đói nghèo được quy định tại Thông báo số 1751/TB - LĐTBXH ngày 20/5/1997 của Bộ Lao động TBXH như sau:
- Hộ đói là những hộ có mức thu bình quân một người trong hộ một tháng quy ra gạo dưới 13 kg tương đương 45.000 đồng.
- Hộ nghèo được phân theo ba vùng có mức thu bình quân quy ra gạo:
+ Vùng nông thôn miền núi hải đảo dưới 15kg/người/tháng (tương đương 55.000 đồng).
+ Vùng nông thôn, đồng bằng, trung du dưới 20kg/người/tháng (tương đương 70.000 đồng).
+ Vùng thành thị dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
* Năm 2001: Chuẩn mực hộ nghèo đói được điều chỉnh theo Quyết định 1143/2000/QĐ - LĐTBXH, ngày 01/11/2000 của Bộ LĐTBXH về việc điều chỉnh chuẩn mực hộ đói nghèo giai đoạn 2001 - 2005 như sau:
Những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu sau đây được xác định là hộ nghèo:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo 80.000đ/tháng, 960.000đ/năm;
- Vùng nông thôn đồng bằng 100.000đ/tháng, 1.200.000đ/năm;
- Vùng thành thị 150.000đ/tháng, 1.800.000đ/năm.
* Năm 2005: Chuẩn mực hộ nghèo đói được điều chỉnh theo Quyết định 170/QĐ - TTg, ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chuẩn mực hộ đói nghèo giai đoạn 2006 - 2010 như sau:
- Vùng nông thôn đồng bằng dưới 200.000 đồng/người/tháng, 2.400.000 đồng/người/năm;
- Vùng thành thị dưới 260.000 đồng/người/tháng, 3.120.000 đồng/người/năm.
Tóm lại: Đói nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá biểu hiện của nó là về kinh tế, do sản xuất kém, thu nhập thấp không đủ để thoả mãn nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại. Đi liền với đói nghèo là nạn suy dinh dưỡng, nạn thất nghiệp, thất học, bệnh tật lây lan, nạn suy giảm thị lực, tuổi thọ. Đói nghèo đã kéo theo sự gia tăng các tệ nạn xã hội, làm mất ổn định xã hội. Do vậy, xoá đói giảm nghèo là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia, dân tộc. Để giải quyết nó trước hết là biện pháp kinh tế, tuy nhiên, không xem nhẹ mặt xã hội, chính sách xã hội.
II. quan điểm của chủ nghĩa mác - lênin, tư tưởng hồ chí minh và quan điểm của đảng, nhà nước ta về xoá đói giảm nghèo
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xoá đói giảm nghèo
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Đói nghèo và phân hoá giàu nghèo là hiện tượng có tính lịch sử xã hội, tồn tại từ xa xưa. Do trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, có những biểu hiện khác nhau ở mỗi thời kỳ. Bên cạnh những người giàu có, khá giả và những người bình dân, còn một số bộ phận sống nghèo khổ, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tri thức và văn hoá, không có điều kiện chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, không có điều kiện thoả mãn nhu cầu cơ bản và cuộc sống tối thiểu của con người. Đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất, mà trong thời đại ngày nay, khi mà những thành tựu khoa học kỹ thuật vô cùng to lớn đã làm tăng đáng kể lượng của cải vật chất và sự giàu có cho con người, thì một bộ phận không nhỏ nhân loại vẫn còn lâm vào cảnh đói nghèo. Do đó, giải quyết vấn đề đói nghèo luôn được đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng, một mục tiêu của sự phát triển đối với mọi quốc gia, dân tộc. Có nhiều cách lý giải và giải quyết khác nhau đối với hiện tượng đói nghèo, phụ thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan của mỗi con người, mỗi trường phái, mỗi giai cấp, mỗi chế độ chính trị. Đối với nước ta, việc xem xét hiện tượng đói nghèo đòi hỏi phải luôn đứng trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nguồn gốc sâu xa của tình trạng đói nghèo là ở chế độ tư hữu, tư nhân, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, chế độ người áp bức bóc lột người. Đói nghèo là sản phẩm của sự phân bố không đều về quyền lực trong xã hội. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C. Mác và Ph.Ăngghen viết “trong những thời đại lịch sử trước hầu như khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy xã hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, một cái thang chia thnàh những nấc thang địa vị xã hội ” C-Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập IV. Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 582.
. Khi xã hội chuyển sang Chủ nghĩa tư bản, cái hố phân biệt giàu nghèo chẳng những không mất đi mà khoảng cách ngày càng sâu rộng “ người lao động trở thành một người nghèo khổ và nạn nghèo khổ còn tăng lên nhanh hơn là dân số và của cải” C-Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập IV. Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 582.
“ giai cấp tư sản hiện đại sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá được những đối kháng giai cấp. . . tuy nhiên, đặc điểm thời đại của giai cấp tư sản là đơn vị hoá những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” C-Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập IV. Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 582.
. Do đó, chỉ có xoá bỏ chế độ tư hữu, chế độ bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động, làm cho họ thoát khỏi đói nghèo, lầm than, làm cho họ trở thành những người tự do và làm chủ, tiến tới một xã hội công bằng, văn minh,“ xã hội không thể sống dưới sự thống trị của giai cấp tư sản nữa, như thế có nghĩa là giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại của xã hội nữa ” C-Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập IV. Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 582.
.
V.I. Lênin khi phân tích con đường hình thành và phát triển Chủ nghĩa tư bản ở Nga, Người đã chỉ rõ “sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản lẫn sự bần cùng hoá của nhân dân, không còn là hiện tượng ngẫu nhiên nữa. Hai hiện tượng đó tất nhiên phải đi kèm sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự phân công xã hội” V.I.Lênin, Toàn tập, tập I. Nxb Sự thật, H.1978, tr. 125.
. Trong bước chuyển từ “chính sách cộng sản thời chiến” sang “chính sách kinh tế mới ” V.I.Lênin còn chỉ rõ cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, theo cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh thì sự phân hoá giàu nghèo cũng trở thành tất yếu đối với đời sống cộng đồng dân cư; đặc biệt là đối với dân cư chúng ta, một khi nông thôn đã trở thành người sản xuất hàng hoá thì “ đạo đức của họ tất nhiên sẽ phải xây dựng trên đồng Rúp bằng mọi mánh khoé buôn bán, tình hình đã như vậy thì dù không có một gian lận nào, nông dân vẫn có thể phân hoá thành kẻ giàu người nghèo sự bình đẳng xưa kia, bây giờ không đứng vững nổi trước những biến động của thị trường. Đó không phải là một sự suy luận, đó là sự thật” V.I.Lênin, Toàn tập, tập I. Nxb Sự thật, H.1978, tr. 490,491.
. V.I.Lênin chủ trương thúc đẩy kinh tế hàng hoá, dùng lợi ích vật chất, coi đó như một nhân tố kích thích, một đòn bẩy kinh tế, để khuyến khích mọi người lao động, giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế. Đó là một trong những biện pháp để Xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở nông thôn, trong cuộc sống xây dựng xã hội mới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xoá đói giảm nghèo
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, chống thực dân, giành độc lập tự do cho Tổ quốc... Ham muốn đến tột bậc của Người là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và tiến bộ. Người chỉ ra rằng “chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã giành được rồi... chúng ta đấu tranh giành được tự do, độc lập rồi mà dân cư chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG 1995, tr. 152.
. Vì vậy, Người luôn căn dặn cán bộ phải hết sức chăm lo cho đời sống nhân dân.
Hơn ai hết, Bác nhận thấy đói nghèo, lạc hậu, dốt nát là kẻ thù nội xâm, làm suy yếu đất nước và chế độ. Ngay từ khi cách mạng mới thành công, tại phiên họp ngày 3/5/1945 của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ hàng đầu là “giết giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” từ nhận thức đó Bác Hồ chủ trương đẩy mạnh gia tăng sản xuất, phát triển kinh tế, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Tư tưởng của Bác là xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, và từng bước phấn đấu cho đất nước phú cường, nhà nhà phồn thịnh.
Sau khi miền Bắc được giải phóng ngày 13/6/1955 khi bàn về “đạo đức cách mạng” Bác Hồ chỉ ra rằng “không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng”.
Tục ngữ có câu “dân dĩ vi thiên” nghĩa là dân lấy ăn là trời, nếu không có ăn là không có trời, lại có câu: “có thực mới vực được đạo” nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì.
Khi miền Bắc bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội, một lần nữa Bác lại căn dặn cán bộ Đảng và chính quyền phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Người nói “chính sách của Đảng và Chính phủ là hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và Chính phủ từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân, phải lãnh đạo, tổ chức giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt thì chính sách của ta dù hay mấy cũng không được thực hiện”.
Như vậy, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về xoá đói giảm nghèo trở thành cơ sở lý luận chung cho việc nhìn nhận, đánh giá về hiện tượng đói nghèo trong lịch sử phát triển xã hội nói chung và Việt Nam về công tác xoá đói giảm nghèo một cách khách quan khoa học.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác xoá đói giảm nghèo
Đảng cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định con đường “dân giàu, nước mạnh”. Ngay từ khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, Đảng ta đã quan tâm thích đáng đến việc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng một xã hội có đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng phong phú tiến bộ. Ra sức phát triển sản xuất, làm kinh tế vươn lên thoát khỏi đói nghèo, tiến tới đủ ăn, khá giả và giàu có. Ai có rồi thì vươn lên giàu có hơn nữa. Chỉ vượt qua đói nghèo, lạc hậu mới tiến tới phát triển và phát triển bền vững, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, đó là mặt tích cực cơ bản nhất của Chủ nghĩa xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng của Đảng về giặc nội xâm “đói nghèo, lạc hậu, dốt nát” khắp mọi vùng của đất nước ta đã dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Do vậy, từ ngày cách mạng thành công đời sống của nhân dân lao động nghèo khổ đã không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đặc biệt là từ sau 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội luôn là vấn đề cốt yếu của chế độ xã hội chủ nghĩa, với tư tưởng xuyên suốt là tăng trưởng và phát triển kinh tế phải đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế cho phép trong đó vấn đề xoá đói giảm nghèo được xem là mang tính chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vấn đề này đã được các Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng khoá IV, V, VI đề cập, đến Đại hội Đại biểu lần thứ VII của Đảng, trong phần “Chiến lược ổn định và phát triển đến năm 2000” chỉ rõ “nhân dân làm chủ nhân ái có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc” ĐCSVN: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế năm 2000. Nxb Sự thật 1994, tr. 8.
. Xoá đói, giảm nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc cần giải quyết để tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo quan điểm của Đảng ta, xoá đói, giảm nghèo là điều kiện, là tiền đề giữ vững ổn định chính trị và xã hội. Đồng thời là điều kiện cơ bản đảm bảo cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi. Xoá đói, giảm nghèo thể hiện: đường lối chính trị, bản chất giai cấp đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng xác định “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, công bằng xã hội thể hiện ở các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn cả khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng” ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb CTQG, H.1994, tr. 74
.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội” ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr. 72,73
, “kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất Chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền và chà đạp lên đạo đức nhân phẩm. Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó” ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr.72,73
. “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận thực tế là có bóc lột và sự phân hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, vừa coi trọng xoá đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả ” ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr. 72,73
. Rõ ràng là đói nghèo đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là lực cản lớn nhất đối với sự phát triển. Xoá đói, giảm nghèo là tiền đề của sự phát triển. Đến lượt nó, sự phát triển kinh tế xã hội vững chắc, gắn liền tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, sẽ là nhân tố bảo đảm thành công công cuộc xoá đói, giảm nghèo.
Thực chất đây là mối quan hệ tác động qua lại có tính nhân quả giữa đói nghèo với lạc hậu, chậm phát triển, giữa xoá đói, giảm nghèo với phát triển. Đói nghèo không chỉ là một thực tế diễn ra ở nước ta mà còn là một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay xoá đói, giảm nghèo xuất phát điểm, là tiền đề của sự phát triển và chỉ có phát triển thực sự vững chắc nền kinh tế, cùng với việc áp dụng các giải pháp công bằng xã hội khác mới giải quyết được tình trạng đói nghèo. Đánh giá thành tựu của đất nước sau 10 năm đổi mới, báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định “đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập bình quân và hộ giàu tăng lên, hộ nghèo giảm” ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu ._.toàn quốc khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr. 51, 62, 64, 65.
( 14), (15 ) sđd, tr.64 - 65
“phong trào xoá đói giảm nghèo và các hoạt động ngày càng mở rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta”
. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ ra một trong những khuyết điểm yếu kém: “sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ địa cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”
.
Quan điểm của Đảng coi xoá đói, giảm nghèo không phải chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội thuần tuý. Đây là vấn đề kết hợp giữa kinh tế và xã hội. Do đó, phải đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Quan điểm này phải được quán triệt trong nhận thức và trong thực tiễn giải quyết từng vấn đề cụ thể, trên cả lĩnh vực kinh tế với các vấn đề xã hội của quản lý Nhà nước. Đói nghèo có cả nguyên nhân kinh tế lẫn nguyên nhân xã hội. Hậu quả đói nghèo tác động trực tiếp đến hiện tượng phát triển kinh tế và thông qua kinh tế, tác động tới tình hình xã hội, thậm chí tác động đến cả chính trị. Phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường không chỉ là phân hoá thu nhập, tài sản mà còn cả trong lối sống, vị thế kinh tế, quan hệ xã hội, tệ nạn xã hội, chất lượng dân cư. Cần quán triệt quan điểm kết hợp kinh tế với xã hội trong xoá đói, giảm nghèo làm cơ sở cho tính đồng bộ về giải pháp và mô hình phát triển, cũng như xác lập phương thức lồng ghép các chương trình, dự án với nhau, phục vụ cho mục đích xoá đói, giảm nghèo.
Xuất phát từ thực tế nước ta hiện nay xoá đói, giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói, giảm nghèo về văn hoá - xã hội, trong các mục tiêu do Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VIII đề ra trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000 Đảng ta chỉ rõ “xoá đói, tiếp tục giảm nghèo, cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho nhân dân đặc biệt các vùng nông thôn miền núi” ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr.69.
. Đảng ta không phủ nhận tính khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, tất yếu sẽ phải: “ thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động khác”. Song, mặt khác Đảng xác định không thể để nó “biến thành hệ thống trị, dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập phân phối lại hợp lý thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng các tầng lớp dân cư” ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khoá VIII. Nxb CTQG, H.1996, tr. 66.
.
Để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả thiết thực, tích cực và vữmg chắc cần phải quán triệt phương châm chủ động, tự lực vươn lên để giải quyết tại chỗ, cộng đồng trách nhiệm hỗ trợ phát triển. Yêu cầu xoá đói, giảm nghèo ở nước ta phải phát huy tính tự sáng tạo của quần chúng nhân dân, của bản thân người nghèo, cũng như trách nhiệm to lớn của Nhà nước và chính quyền địa phương và toàn thể cộng đồng xã hội. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam ta về xoá đói, giảm nghèo hết sức công khai và rõ ràng, đầy đủ và toàn diện. Chính tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3/1995 thay mặt Chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu “chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo trên toàn thế giới, thông qua hoạt động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị, kinh tế nhân loại” Báo Hà Nội mới 30/12/1996.
. Đại hội VIII đã đề ra chương trình xoá đói, giảm nghèo với phương châm thực hiện “xây dựng và phát triển quỹ xoá đói, giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong nước và ngoài nước, quản lý chặt chẽ đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả” ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá VIII. Nxb CTQG, H. 1996, tr.125.
.
Mục tiêu của chương trình này là: “giảm tỷ lệ hộ đói nghèo của cả nước từ 20 - 25% hiện nay, xuống còn 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ trong một năm” sđd, tr.125
.
Trước thực trạng trên cũng như nhận thức rõ nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định chủ trương cơ bản của xoá đói, giảm nghèo “thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, so với tình hình từng địa phương sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn xoá đói, giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng trợ giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ nông dân. Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro, bất hạnh”. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khoá IX. Nxb CTQG, H. 2001, tr.106.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã cụ thể hoá chủ trương hoàn thành mục tiêu chiến lược về xoá đói, giảm nghèo như sau: “bằng nguồn lực của Nhà nước và toàn thể xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm... đối với những vùng nghèo, xã nghèo và xóm dân cư nghèo. Chủ động di rời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất để lập nghiệp ở những vùng có tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo” Sđd tr.211-212
.
Trong định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng giai đoạn 2006 - 2010, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “tiếp tục đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức thực hiện xoá đói, giảm ngheo theo hướng phát huy cao nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững… Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất ở, nước sạch, đào tạo nghề, đào tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo... cả nước phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn 10 - 11% (theo tiêu chí mới)” Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khoá X. Nxb CTQG Hà Nội 2006, trang 189, 217.
.
Nhà nước ta đã phát động phong trào xoá đói, giảm nghèo bắt đầu từ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII thể hiện chủ trương với phương châm: “cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá giàu nghèo quá mức cho phép”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đưa chương trình xoá đói, giảm nghèo là một trong mười một chương trình kinh tế - xã hội với mục tiêu và giải pháp đến năm 2000. Tiếp đó, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 23/CT - TƯ, ngày 29/11/1997 về lãnh đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đến nay chủ trương của Đảng, Nhà nước đã đi vào cuộc sống. Xoá đói, giảm nghèo đã trở thành phong trào sâu rộng ở cả 64 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
Để thực hiện mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã có nhiều Chỉ thị, Quyết định lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, ví dụ: Chỉ thị số 23/CTTW ngày 29/11/1997 về việc lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo, Chính phủ đã có Quyết định 133/1998/QĐ - TTg ngày 23/7/1998 về việc phê duyệt chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000. Tuy nhiên đến năm 2000 cả nước vẫn còn khoảng 11% số hộ nghèo.
Để giải quyết vấn đề đói nghèo trên phạm vi toàn quốc thì không thể chỉ có phát động phong trào mà cần thiết phải có sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Nhà nước. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 05/1998/QĐ - TTg, ngày 14/1/1998 về quản lý chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định số 133/QĐ - TTg, ngày 23/7/1998 phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000; Quyết định số 135/1998/QĐ - TTg, ngày 31/7/1998 về phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn; Quyết định số 143/2001/QĐ - TTg, ngày 27/9/2001 về phê duyệt chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005; Quyết định số 134/2004/QĐ - TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn…
Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược xoá đói giảm nghèo không chỉ có ý nghĩa toàn diện về chính trị - xã hội, kinh tế - an ninh - quốc phòng mà còn là mục tiêu nhân đạo tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có trên cơ sở lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phong trào xoá đói, giảm nghèo mới thực hiện thắng lợi.
Để bảo đảm không bị chệch hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi mới theo đúng mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” cần nhất quán những vấn đề có ý nghĩa quan điểm và phương pháp nhận thức chỉ đạo, đó là:
- Đảm bảo hệ thống chính sách, pháp luật quản lý và giáo dục xã hội sao cho Nhà nước trong chức năng quản lý kinh tế của mình, có thể kiểm soát và kiềm chế được sự gia tăng đói nghèo, để sự phân hoá giàu nghèo không vượt quá giới hạn cho phép, không để mất đi những bảo đảm xã hội, làm tổn hại đến lợi ích của các tầng lớp cơ bản (công nhân, nông dân, trí thức, các gia đình chính sách xã hội).
- Con đường cơ bản là vững chắc để xoá đói giảm nghèo hợp với mục tiêu phát triển phải là phát triển sản xuất, chứ không chỉ thuần tuý cứu trợ xã hội do đó phải tạo nguồn lực để xoá đói, giảm nghèo. Biện pháp phải đồng bộ, toàn diện phối hợp Nhà nước và nhân dân, cả trong nước lẫn quốc tế.
- ở nước ta, trọng điểm xoá đói, giảm nghèo là nông dân, nông nghiệp, nhất là vùng sâu, vùng xa, cơ sở cách mạng và kháng chiến cũ.
Qua các Văn kiện, Nghị quyết đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam, có thể khái quát 5 quan điểm lớn đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Một là: xoá đói, giảm nghèo cần phải gắn với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hai là: xoá đói, giảm nghèo là công việc của toàn xã hội, là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá của toàn Đảng, toàn dân, của mọi cấp, mọi ngành. Do đó, cần huy động cho được sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực trong nước và quốc tế, Nhà nước và nhân dân, của các tổ chức doanh nghiệp và của bản thân người nghèo.
Ba là: xoá đói, giảm nghèo là chủ trương quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chương trình xoá đói, giảm nghèo có ý nghĩa toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, mang tính nhân đạo, công bằng xã hội, thuộc về chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Bốn là: chương trình xoá đói, giảm nghèo là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, cần tiến hành đồng bộ, ăn khớp với chương trình quốc gia, với kinh tế - xã hội khác.
Năm là: cần hỗ trợ trực tiếp, có ưu đãi cho người nghèo về tư liệu sản xuất, kiến thức kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ kinh tế - xã hội… Trên quan điểm tiếp sức chứ không phải là cấp phát cho không, cứu trợ và hỗ trợ để người nghèo phát huy nội lực, vươn lên tự cứu lấy mình.
iii. Tình hình công tác xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay
1. Tình trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
Đói nghèo là một vấn đề mang tính xã hội toàn cầu. Trong những năm gần đây, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, một bộ phận dân cư có điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật đã vươn lên để phát triển sản xuất trở thành những hộ khá, giàu, có những hộ trở lên cực giàu. Trái lại, một bộ phận dân cư không có điều kiện để phát triển sản xuất thì vẫn phải chịu cảnh đói nghèo. Đến năm 1992 cả nước vẫn còn trên 30% số hộ sống trong tình trạng nghèo đói; đặc biệt là ở các vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa với khoảng 1300 xã đặc biệt khó khăn, ở những vùng này cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, đời sống của nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Theo bảng xếp hạng chung Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.
Đói nghèo là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam những nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân ra ba nhóm sau:
- Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên - xã hội; khí hậu khắc nghiệt, thiên tai (lũ lụt, hạn hán), đất đai cằn cỗi, đồi núi cao, độ dốc lớn; hậu quả của chiến tranh để lại, dân số tăng nhanh…
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo như: thiếu kiến thức làm ăn, lười lao động, mắc các tệ nạn xã hội, bảo thủ không chịu đổi mới;
- Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: việc ban hành các chính sách không kịp thời, không đồng bộ, chưa linh hoạt, đôi khi chính sách ban hành phù hợp với khu vực này nhưng lại không phù hợp với khu vực khác.
Xuất phát từ thực trạng đói nghèo, thực tiễn của đất nước và mong muốn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta đã phát động phong trào xoá đói, giảm nghèo bắt đầu từ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII thể hiện chủ trương với phương châm: “cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá giàu nghèo quá mức cho phép”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đưa chương trình xoá đói, giảm nghèo là một trong mười một chương trình kinh tế - xã hội với mục tiêu và giải pháp đến năm 2000. Tiếp đó, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 23/CT - TƯ, ngày 29/11/1997 về lãnh đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đến nay chủ trương của Đảng, Nhà nước đã đi vào cuộc sống. Xoá đói, giảm nghèo đã trở thành phong trào sâu rộng ở cả 64 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
Để giải quyết vấn đề đói nghèo trên phạm vi toàn quốc thì không thể chỉ có phát động phong trào mà cần thiết phải có sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Nhà nước. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 05/1998/QĐ - TTg, ngày 14/1/1998 về quản lý chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định số 133/QĐ - TTg, ngày 23/7/1998 phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000; Quyết định số 135/1998/QĐ - TTg, ngày 31/7/1998 về phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn; Quyết định số 143/2001/QĐ - TTg, ngày 27/9/2001 về phê duyệt chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005; Quyết định số 134/2004/QĐ - TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn…
Thông qua việc thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, do Đảng và Nhà nước khởi xướng hiện nay Việt Nam đã có 4.354 triệu lượt hộ vay vốn tín dụng ưu đãi; 51.136 hộ được hỗ trợ đất sản xuất, trên 2 triệu lượt người được hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến ngư thông qua 50 ngàn lớp tập huấn kỹ thuật và 6 ngàn mô hình trình diễn; hơn 1000 công trình hạ tầng thiết yếu đã được đầu tư ở 997 xã nghèo; trên 11 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 13,5 triệu người nghèo được cấp giấy khám chữa bệnh miễn phí, 17 triệu lượt người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí; 15 triệu lượt học sinh nghèo và dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí; 2,5 triệu lượt học sinh nghèo dân tộc thiểu số được cấp, mượn sách giáo khoa và hỗ trợ vở viết; hỗ trợ làm mới và sửa chữa được 432.700 căn nhà cho hộ nghèo, đã có 21 tỉnh được công nhận hoàn thành chương trình xoá nhà dột nát cho hộ nghèo…
Những nỗ lực trên đã góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo của cả nước từ 17,2% (năm 2001) xuống còn dưới 7% vào năm 2005 (theo tiêu chí cũ); hiện nay còn 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% (theo tiêu chí mới), bình quân mỗi năm giảm được 34 vạn hộ. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu giảm nghèo trước một năm so với kế hoạch đề ra.
Bộ mặt các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được cải thiện đáng kể, nhất là trường học, trạm y tế, thuỷ lợi nhỏ, đường giao thông để phát triển sản xuất hàng hoá. Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo được nâng cao, nhất là nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc miền núi và phụ nữ nghèo, cụ thể: thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000đồng/người/tháng và tăng 1,45 lần vào năm 2005. Chỉ tiêu bình quân của 20% nhóm người nghèo nhất năm 2001 là 121.000 đồng/người/tháng và tăng 8 - 9%/năm trong giai đoạn 2002 - 2005.
Thành tựu xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, trong báo cáo phát triển con người năm 2004 đã ghi nhận: “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong quá trình phát triển kinh tế”. Kết quả xoá đói, giảm nghèo đạt được đã góp phần ổn định xã hội, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kinh tế của đất nước, thực hiện cam kết thiên niên kỷ, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thông qua thực hiện chương trình, nhận thức về trách nhiệm của các cấp, các ngành và người nghèo được nâng cao, xoá đói, giảm nghèo là một nội dung chính trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo. Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó các chỉ tiêu về xoá đói, giảm nghèo sẽ góp phần ổn định xã hội, tạo môi trường cho phát triển kinh tế.
2. Công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hải Dương
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng, diện tích 164.810 ha, tổng dân số là 1.684.200 người. Trong những năm qua Hải dương là một địa phương điển hình về công tác xoá đói giảm nghèo. Đầu năm 2001 tỉnh Hải dương có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn mức bình quân đối đối với các tỉnh khu vực đồng bằng Sông Hồng( 11,36%), đến năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo ở tỉnh Hải Dương tỷ lệ nghèo đạt thấp hơn mức bình quân ( 4,2%), tỷ lệ hộ đói chỉ còn 0,02% do Tỉnh đã có nhiều biện pháp xóa đói giảm nghèo làm tốc độ giảm nghèo nhanh.
Xác định xoá đối giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIV đã đưa ra quan điểm, xác định mục tiêu giải pháp cơ bản đối với công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 cụ thể như sau:
Quan điểm của tỉnh xác định xoá đói giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là động lực phải gắn với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hộ. Xoá đói giảm nghèo là công tác của toàn xã hội, là những chủ trương quyết sách lớn của Đảng bộ, chính quyền các cấp, coi chương trình xoá đói giảm nghèo là chiến lược lâu dài không tách rời các chương trình về kinh tế - xã hội khác, có các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo.
Mục tiêu tại nghị quyết đại hội đã đề ra về GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 16,5 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 2,5%, không còn hộ đói.
Để đạt được mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tỉnh đã đề ra một số giải pháp cơ bản sau:
- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về công tác xoá đói giảm nghèo.
- Có những giải pháp về cơ chế như: huy động các nguồn lực, đảm bảo ngân sách, thực hiện công khai dân chủ… cho công tác xoá đói giảm nghèo.
- Có những chính sách cụ thể đối với công tác xoá đói giảm nghèo như: tín dụng ngân hàng; khuyến nông khuyến ngư; chính sách về y tế, giáo dục; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng…
Với quan điểm, mục tiêu và giải pháp của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006 - 2010, công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh sẽ đạt kết quả cao nhất thực hiện thành công mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra.
Chương II
Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo huyện Ninh Giang từ năm 2005 đến năm 2007
i. đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ninh Giang có ảnh hưởng tới công tác xoá đói, giảm nghèo
1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên
Huyện Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương được thành lập ngày 01 tháng 04 năm 1996 từ việc chia tách huyện Ninh Thanh thành hai huyện Ninh Giang và Thanh Miện. Huyện Ninh Giang (mới) hiện có 27 xã và 01 thị trấn; toàn huyện có diện tích đất tự nhiên là 13.540 ha, dân số 147.083 người.
Đảng bộ, nhân dân trong huyện luôn giữ vững, phát huy truyền thống đoàn kết và cách mạng. Tuy nhiên, sau khi chia tách, Ninh Giang là một huyện khó khăn nhất so với các huyện, thành phố trong tỉnh Hải Dương. Nền kinh tế ở điểm xuất phát quá thấp, sản xuất hàng hoá chậm phát triển và không đồng đều giữa các xã, cơ sở hạ tầng thấp kém, lạc hậu; tỷ lệ nghèo cao; trình độ dân trí không đồng đều. Một bộ phận cán bộ các cấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tiềm năng của huyện lớn, nhưng các điều kiện về vốn, lao động, khoa học - công nghệ… còn nhiều hạn chế.
1.1. Vị trí địa lý
Ninh Giang nằm ở phía Đông Nam tỉnh Hải Dương cách trung tâm tỉnh 30km là một trong 2 huyện xa nhất tỉnh, phía Đông giáp huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, phía Nam giáp huyện Quỳnh Phụ Tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp huyện Thanh Miện, Hải Dương, phía Bắc giáp huyện Gia Lộc, Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, là Huyện có địa hình trải dài, giáp danh với nhiều huyện trong và ngoài tỉnh Hải Dương. Vì vậy, Ninh Giang có vị trí rất thuận lợi trong việc giao lưu, buôn bán hàng hoá với các địa phương, học tập kinh nghiệm để phát triển kinh tế tuy nhiên cũng gặp khó khăn trong giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
1.2. Thời tiết khí hậu
Do vị trí địa lý của huyện Ninh Giang cũng mang đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành hai mùa rõ rệt, từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt mưa nhiều, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường khô nhưng đến nửa cuối mùa đông thường ẩm ướt, nhiệt độ trung bình từ 15 - 25oC. Thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, trồng một số loại cây đặc sản và cây chế biến xuất khẩu, chăn nuôi thuận lợi, tuy nhiên do thời tiết biến đổi cũng phát sinh nhiều loại dịch bệnh ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi.
1.3. Thuỷ văn
Huyện Ninh Giang nằm trong khu vực đầu nguồn của Sông Luộc, và hệ thống sông, rạch nhỏ khác rất thuận lợi cho việc cung cấp nước tưới tiêu cho đồng ruộng, tuy nhiên vào mùa mưa bão thường xảy ra hiện tượng úng, lụt ảnh hưởng đến sản xuất.
2. Đặc điểm kinh tế
Huyện Ninh Giang có nhiều tiềm năng về trồng trọt và chăn nuôi, phát triển một số làng nghề truyền thống như mộc, mây tre. Huyện Ninh Giang được chia tách là thời cơ, điều kiện thuận lợi mới để củng cố hệ thống chính trị, tăng cường sự chỉ đạo, quản lý, điều hành sâu sát đến cơ sở, sắp xếp lại dân cư, cơ cấu lại sản xuất, khai thác tiềm năng, thế mạnh của Huyện và thu hút đầu tư vào một số lĩnh vực như chế biến nông sản, thủ công mỹ nghệ.
Xuất phát từ những đặc điểm lợi thế nêu trên, huyện đã chủ động thu hút nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế để hình thành cơ sở công nghiệp của địa phương có lợi thế như: chế biến nông sản xuất khẩu, chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, một số làng nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển như: Hợp tác xã mộc Cúc Bồ, làng nghề trùng tu di tích xã Hưng Long; mây tre đan ở xã Ninh Thành; chế biến nông lâm sản thực phẩm ở thị trấn Ninh Giang. Trên địa bàn toàn huyện có 26 doanh nghiệp và chi nhánh, văn phòng đại diện (trong đó có 2 doanh nghiệp Nhà nước, 21 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, 3 chi nhánh, văn phòng đại diện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ) đăng ký hoạt động . Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng chiếm 19,7%; tỷ trọng ngành thương mại, dịch vụ 29,2%; tỷ trọng ngành nông 51,1%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 đạt 6,8 triệu đồng.
Như vậy với đặc điểm kinh tế nêu trên huyện Ninh Giang có thuận lợi phát triển các ngành nghề truyền thống, chế biến nông sản tuy nhiên quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, khả năng cạnh tranh kém, trình độ quản lý còn hạn chế do vậy lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp chưa cao dẫn đến thu nhập của người lao động thấp, tình trạng không có việc làm xảy ra thường xuyên.
3. Đặc điểm dân số và chất lượng nguồn lực lao động
3.1. Dân số
Theo số liệu thống kê, dân số trung bình năm 2007 là 149.083 người; trong đó nữ chiếm 53,05%. Lao động trong độ tuổi là 81.777 người, chiếm 53,5% so với dân số toàn huyện, số lao động trong nông nghiệp chiếm 70%. Hàng năm số người trong độ tuổi lao động tăng thêm khoảng gần 1.000 người, tạo ra sức ép lớn về vấn đề giải quyết việc làm tại huyện.
3.2. Chất lượng nguồn lao động
Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 15% so với tổng số lao động hoạt động kinh tế. Trong đó, lao động có trình độ đào tạo sơ cấp chiếm 7,5%. Công nhân kỹ thuật (kể cả số lượng đã qua đào tạo nhưng chưa được cấp bằng) chiếm 26%; trung cấp chiếm 50,5%; cao đẳng, đại học trở lên chiếm 16% so với tổng số lao động đã qua đào tạo.
Cơ cấu lao động chủ yếu tập trung ở ngành nông, lâm nghiệp; công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ rất thấp, cụ thể như sau:
- Nông nghiệp:
57.244 người,
chiếm 70%.
- Công nghiệp, xây dựng:
11.449 người,
chiếm 14%.
- Thương mại, dịch vụ:
13.084 người,
chiếm 16%.
Nhìn chung Ninh Giang là một huyện có chất lượng nguồn lực lao động thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, hiện nay đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nhất là đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề.
Như vậy, gia tăng dân số các hộ nghèo gây sức ép lao động, việc làm, chất lượng nguồn lao động, làm cho tình trạng nghèo đói ở huyện khó cải thiện.
4. Đặc điểm văn hoá, y tế, giáo dục
4.1. Văn hoá thông tin - thể dục thể thao
Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động được đổi mới cả về nội dung và hình thức hướng vào tuyên truyền các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, các chương trình hoạt động của huyện, các ngày lễ lớn, sự kiện trọng đại của dân tộc. Được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền với mục tiêu cụ thể là chú trọng văn hoá thông tin ở cơ sở. Đã thành lập được một số câu lạc bộ văn hoá, thể thao, người cao tuổi, xây dựng trung tâm văn hoá thể thao làm nòng cốt cho các hoạt động từ tỉnh đến cơ sở, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phong trào xây dựng làng, khu phố văn hoá được duy trì, góp phần tuyên truyền, phổ biến, thúc đẩy công tác xoá đói, giảm nghèo, sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân.
4.2. Giáo dục - đào tạo
ở Ninh Giang mức độ giáo dục cũng có liên quan chặt chẽ đến nghèo đói, hệ thống trường, lớp cấp học, ngành học phát triển. Các xã, thị trấn đều có trường Mầm non, Tiểu học và THCS. Toàn huyện có 5 trường Trung học phổ thông công lập và dân lập, có 1 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 1 Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề. Bước đầu thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục - đào tạo. Kết quả đạt chuẩn về phổ cập giáo dục tiểu học. Chất lượng dạy và học được nâng lên. Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học đã được đầu tư khá hơn, chương trình kiên cố hoá trường lớp học cơ bản đã được hoàn thành, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục của toàn tỉnh. Công tác giáo dục đào tạo đã góp phần không nhỏ vào quá trình xoá đói giảm nghèo của huyện, đặc biệt là sự phát triển của trung tâm hướng nghiệp dạy nghề đào tạo và dạy nghề mỗi năm hàng trăm lao động có tay nghề, ngoài ra còn duy trì các lớp chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nhân dân cũng thường xuyên được tổ chức.
Tuy nhiên chất lượng đào tạo, dạy nghề đôi khi còn thấp dẫn đến trình độ lao động vẫn còn hạn chế, đây là nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo trở lên trầm trọng. Do đó, đầu tư giáo dục được coi là yếu tố quan trọng nhất tạo cơ hội cải thiện đời sống, tăng trưởng kinh tế.
4.3. Công tác y tế - dân số - kế hoạch hoá gia đình
Mục tiêu chương trình y tế quốc gia được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả khá. Hệ thống y tế từ huyện đến các xã từng bước được củng cố, đã đảm bảo cơ bản 100% số xã trong huyện có cán bộ y tế; 100% trạm xá xã có y sỹ, 26/28 xã có Bác sỹ, 18/28 trạm xá xã đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở, thực hiện tốt việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, tổ chức khám miễn phí cho người nghèo. Thường xuyên quan tâm chăm sóc trẻ em, thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 0,64%/ năm. Triển khai tốt công tác xoá đói giảm nghèo góp phần đáng kể vào việc cải thiện sức khoẻ cho người nghèo, nâng cao chất lượng dân số và người lao động, tạo cơ hội hộ nghèo, người nghèo cải thiện dinh dưỡng, giảm tỷ lệ bệnh tật.
Tóm lại, nhìn chung thu nhập thấp làm cho mức độ cải thiện y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch hạn chế. Điều đó gây ra khó khăn lớn cho nỗ lực giảm nghèo của huyện.
ii. thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo huyện Ninh Giang (2005 - 2007)
1. Tình hình đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Ninh giang
1.1. Đói, nghèo ở huyện Ninh giang hiện nay
Sau khi chia tách, Ninh Giang là một huyện khó khăn nhất so với các huyện, thành phố trong cả tỉnh. Nền kinh tế ở điểm xuất phát quá thấp, sản xuất hàng hoá chậm phát triển và không đồng đều giữa các vùng, cơ sở hạ tầng thấp kém, lạc hậu; mặc dù không còn hộ đói nhưng tỷ lệ nghèo cao : Năm 2001 tỷ lệ hộ nghèo là 17,02% cao nhất tỉnh ( Tỷ lệ toàn tỉnh là 11,36%) Năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 12,82% ( Tỷ lệ toàn tỉnh là 8,75%). Các năm tiếp theo tỷ lệ hộ nghèo đã giảm đáng kể tuy nhiên vẫn là huyện có hộ nghèo cao nhất tỉnh.
Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện từ năm 2005 đến năm 2007
Bảng 1 :
STT
Các xã, thị trấn
Điều tra năm 2005 (theo tiêu chí mới)
Điều tra năm 2006 (theo tiêu chí mới)
Điều tra năm 2007 (theo tiêu chí mới)
Tổng số hộ
Số hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
Tổng số hộ
Số hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
Tổng số hộ
Số hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
1
ứng hoè
1276
158
12,38
1332
161
12,12
1332
103
7,7
2
Hưng long
1005
139
12,83
1021
115
11,34
1021
97
9,8
3
Hồng thái
1071
121
11, 3
1017
114
11,3
1017
100
9,8
4
Văn hội
989
154
15,57
983
127
12,94
983
10._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7480.doc