Lời nói đầu
Bảo hiểm xã hội- một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, ấm no, tự do và hạnh phúc của con người, có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời ( sinh, lão, bệnh, tử ) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác tổ chức và quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội thị xã Phủ Lý- Tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. Từ đó góp phần thực hiện mục đích phục vụ cuộc sống con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Do đó, nó được coi là chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới và được Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) công nhận.
ở nước ta, ngay khi thành lập nước, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới công tác BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động qua việc ban hành các sắc lệnh và một số Nghị định về BHXH.
Bước sang thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các văn bản mang đậm nét sự thay đổi bản chất của BHXH được ban hành. Đặc biệt, Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995, Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995.
Từ khi triển khai điều lệ BHXH theo Bộ luật lao động, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, hệ thống BHXH đã nhanh chóng xây dựng, tổ chức, bộ máy, thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với người tham gia và người được hưởng BHXH, tổ chức thu đạt kết quả cao, chi trả kịp thời cho các đối tượng và bước đầu đã hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập với Ngân sách Nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn chỉnh các chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Để có những chính sách BHXH tốt hơn nữa cần nắm bắt được tình hình hoạt động BHXH hiện nay, đặc biệt là công tác thu BHXH, công tác quản lý các nguồn thu quỹ BHXH, khả năng thu, khả năng bù đắp các khoản chi từ Ngân sách Nhà nước... Đây chính là yêu cầu dẫn đến việc nghiên cứu đề tài '' Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý- Tỉnh Hà Nam''.
Nội dung đề tài bao gồm:
Lời nói đầu
Phần I: Lý luận chung về BHXH.
Phần II: Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và quản lý thu BHXH trên địa bàn thị xã Phủ Lý.
Kết luận.
Phần I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội
I. Sự cần thiết của BHXH
1. BHXH trong đời sống kinh tế xã hội của người lao động.
Trong quá trình sản xuất, quá trình lao động là một bộ phận chủ yếu được hợp thành từ 3 bộ phận: Công cụ lao động (máy móc), đối tượng lao động (nguyên vật liệu) và sức lao động (con người). Trong đó, con người đóng vai trò đặc biệt, quyết định vì chỉ có sức lao động của con người mới mang lại giá trị thặng dư, mang lại lợi ích kinh tế, đồng thời mọi công cụ cũng như đối tượng lao động đều do con người tạo ra và chính nó giúp con người tạo ra năng suất lao động ngày càng cao.
Tham gia vào quá trình lao động, sức lao động của con người bị hao phí, tiêu hao, do đó đòi hỏi phải được khôi phục và tái tạo để quá trình lao động cũng như quá trình sản xuất được tiếp diễn thông qua chính tiêu dùng những sản phẩm đó.
Như vậy, con người luôn là động lực chính và là trung tâm cho sự phát triển kinh tế - xã hội, họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, dịch vụ cho xã hội và cũng chính là những người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ cuối cùng bằng những đồng thu nhập trong quá trình lao động, từ đó thúc đẩy quá trình sản xuất diễn ra liên tục và ngày càng hoàn thiện.
Trong cuộc sống, con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải được thoả mãn những nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần mà trước hết là phải có cái ăn, mặc, ở... Những điều kiện trên không có sẵn trong tự nhiên mà để có được nó, người ta lao động tạo ra sản phẩm và tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều làm cho cuộc sống của họ phong phú hơn, văn minh hơn. Nhưng trong thực tế, cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng đủ sức khoẻ để lao động để tạo ra thu nhập và có điều kiện sống bình thường vì rất nhiều trường hợp gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bất lợi làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập ảnh hưởng đến điều kiện sinh sồng do bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất khả năng lao động và khi về già không còn khả năng lao động. Trong điều kiện như vậy, người lao động cần một nguồn hỗ trợ khác bên ngoài về kinh tế để bù đắp vào sự thiếu hụt thu nhập do khả năng lao động bị giảm sút, nhằm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, duy trì và ổn định cuộc sống cho chính họ và gia đình họ.
Để giải quyết vấn đề này cần có sự quan tâm của toàn xã hội. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người phần vừa tự lực, phần vừa biết hợp đoàn để đi săn bắn, lao động nhằm kiếm sống. Khi gặp rủi ro, tai biến thì họ vừa tự mình chịu đựng, khắc phục, vừa được các thành viên của cộng đồng chia sẻ, gánh chịu. Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau của họ hàng, làng xã hoặc của những người hảo tâm và Nhà nước, ngoài ra họ còn có thể đi vay hoặc đi xin...với những cách giải quyết này người gặp khó khăn hoàn toàn thụ động chờ vào sự cứu trợ. Do vậy, sự trợ giúp mới chỉ là khả năng có hoặc không, nhiều hoặc ít và không chắc chắn.
Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức con người ngày càng được nâng cao thì cách giải quyết này càng được sửa đổi, bổ sung hợp lý và nó ngày càng phát triển theo không gian, nội dung cũng như phương thức thực hiện. Dần dần cách giải quyết chung nhất mà cho đến bây giờ vẫn được sử dụng, đó là BHXH như ta vẫn gọi ngày nay.
Có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Có thể hiểu ''BHXH là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập''.
Hơn nữa, BHXH không chỉ là nhu cầu của người lao động mà còn là chính sách lớn của mỗi quốc gia về thực hiện BHXH sẽ góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện BHXH sẽ hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần cho các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Khoản đầu tư này góp phần phát triển sản xuất, vừa bảo đảm an toàn cho quỹ BHXH khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động và gia đình họ.
Vậy có thể nói rằng, BHXH ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi có khó khăn về kinh tế. Điều đó đã làm cho người lao động yên tâm trong quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động góp phần vào việc phát triển và tăng trưởng.
2. Sự ra đời của BHXH.
ở thời kỳ cổ đại, con người vừa phần tự lực, vừa phần biết hợp đoàn để đi săn bắn nhằm kiếm sống, vật lộn với thiên nhiên. Sản phẩm thu được của quá trình đó được phân phối bình quân cho tất cả mọi người trong cùng nhóm, đồng thời khi gặp rủi ro tai biến thì họ vừa tự mình gánh chịu, khắc phục, vừa được các thành viên trong cộng đồng hỗ trợ, cưu mang. ở thời kỳ này, sự tương trợ lẫn nhau mang tính chất tự phát, theo bản năng và mới được thể hiện trong phạm vi cộng đồng nhỏ: giữa anh chị em, thôn xóm...
Đến giai đoạn có phân công lao động, sản xuất xã hội phát triển hơn, các quan hệ xã hội tác động qua lại lẫn nhau giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển theo. Nhiều hình thức tổ chức được hình thành nhằm mục đích từ thiện, trợ giúp con người khi hoạn nạn. Các hình thức, biện pháp như tích trữ thức ăn phòng đói, quần áo phòng rét, dự phòng những lúc sinh, lão, bệnh, tử... được hình thành. Đồng thời, đề cao các giáo lý, phương châm xử thế như: Thấy người hoạn nạn thì thương, bầu ơi thương lấy bí cùng, một miếng khi đói bằng một gói khi no... Cộng đồng, làng xã chủ động dành những ruộng công, đất công giúp đàn bà goá, trẻ mồ côi, lập quỹ nghĩa thương...
Để ngăn chặn những rối loạn xã hội có thể nảy sinh làm lung lay địa vị thống trị, không ít vua quan đã tham gia hoạt động từ thiện, trích công quỹ để tế bần, phát chuẩn cho những người túng đói. Nhiều triều vua đã coi việc hỗ trợ các gia đình, giảm thiểu nghèo đói không chỉ là nghĩa vụ nhân đạo mà còn là một trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất để làm yên dân, thịnh nước.
Khi ngành công nghiệp hình thành, hàng loạt dân nông thôn di cư ra thành thị. Trong khoảng từ thế kỷ XVI-XVIII, tình đoàn kết tương thân giữa người làm thuê, sự thành lập quỹ tương trợ, hội bằng hữu đã phần nào giúp người lao động trong trường hợp ốm đau. ở nước ta, có các hội đồng hương, hội đồng niên (cùng lứa tuổi), hội hiếu, hội hỷ... nhằm chia ngọt sẻ bùi giữa các hội viên với nhau.
Đặc biệt, đến giai đoạn cách mạng công nghiệp, số công nhân trong công nghiệp tăng dần, những người nông thôn thoát ly nông nghiệp, từ sản xuất tự cấp, tự túc trở thành những người làm công ăn lương, chỉ dựa vào nguồn tiền lương làm nguồn sống của mình. Có làm việc thì mới có lương để sống, dù chỉ là đồng lương ít ỏi. Nếu ốm đau, bị tai nạn, sinh con... phải nghỉ việc không có lương, cuộc sống sẽ lập tức bị đe dọa. Đến lúc này, những rủi ro, tai biến uy hiếp những người làm công không chỉ là sinh, lão, bệnh, tử không thoát khỏi trong đời thường, mà còn là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, gánh nặng gia đình sau khi chết... Để giảm thiểu nỗi lo âu của người làm công ăn lương, ổn định xã hội, nhiều hình thức trợ giúp xã hội nối tiếp nhau ra đời. Bên cạnh những khoản tiền khiêm tốn của hội tương tế, còn có những quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích thành lập, những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người thuộc quyền quản lý bị ốm đau hoặc tai nạn lao động, những tổ chức bảo hiểm của tư nhân ra đời...
Trong quá trình phát triển công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, cơ chế giải quyết vấn đề giảm thu nhập cũ đã không còn phù hợp, sức ép về chính trị ngày càng lớn làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã hội của các quốc gia, bởi lợi ích giữa các bên (người lao động và người sử dụng lao động) không thể điều hoà theo cơ chế cũ được nữa. Trước tình đó để ổn định lại trật tự, môi trường xã hội và bảo vệ lợi ích các bên. Chính phủ các nước, đặc biệt là các nước công nghiệp không thể quan tâm đến tình cảnh của người lao động, do đó, Nhà nước đã phải can thiệp để tạo ra chế độ và hình thức thích hợp hơn nhằm tỏ ra chăm sóc tới người lao động. Và, từ năm 1850 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc những người được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm xã hội và có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đồng thời cả 3 thành viên xã hội này là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước đều có vị trí, trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống BHXH: Năm 1950 dưới thời thủ tướng Bis-mác, nhiều bang của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau. Chế độ ốm đau này được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883 do các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm các rủi ro nghề nghiệp (tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý.
Theo gương Đức, năm 1981, Pháp thực hiện bảo hiểm xã hội phổ cập trong cả nước nhưng không thành công. Năm 1930, Pháp thông qua đạo luật thứ 2 về BHXH, áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. Sau đó, bắt đầu những thập kỷ 30 thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ la tinh, Hoa kỳ, Canađa đều áp dụng. Từ sau thế chiến thứ 2, tầm quan trọng của BHXH tiếp tục được nhiều nước Châu Phi, Châu á và vùng Caribe công nhận và thi hành.
Để bình ổn xã hội, giúp người lao động yên tâm sản xuất và đáp ứng những nguyện vọng sâu sắc nhất, chung nhất của nhân dân toàn thế giới. Ngày 28/6/1952 hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 về an toàn xã hội trong đó có BHXH là cơ chế chủ yếu, giúp các nước định hướng trong việc xây dựng hệ thống BHXH với 9 chế độ BHXH.
Từ khi BHXH ra đời cho đến nay, nó luôn được hoàn thiện và chứng tỏ sự phù hợp với xã hội đương thời thông qua sự vận động hài hoà các mối quan hệ giữa 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Qua thực tế và lý luận cho thấy BHXH có những tác dụng rất to lớn giúp giải quyết tốt mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động ổn định trật tự và trợ giúp phát triển xã hội:
-Đối với người lao động: BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân họ cũng như gia đình họ khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống cũng như trong lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động cho xã hội.
Người lao động là người tham gia vào quá trình sản xuất- quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ, phục vụ cho lợi ích xã hội. Do đó, xã hội phải có trách nhiệm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho họ, đặc biệt khi họ gặp rủi ro, tai nạn, thai sản, về già... làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Điều này được thông qua quỹ BHXH, mà cụ thể quỹ BHXH sẽ chi trả cho người lao động khoản thu nhập nhất định thay cho cơ quan sử dụng lao động khi rơi vào những điều kiện đã quy định sẵn trong luật định điều chỉnh mối quan hệ BHXH giữa người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Từ đó, sẽ giúp người lao động có đủ điều kiện vật chất, tinh thần giảm bớt những khó khăn, ổn định cuộc sống khi gặp sự cố. Đó chính là mục đích chính của BHXH. Nó vừa thể hiện tính nhân đạo xã hội, vừa thể hiện trách nhiệm xã hội, sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động.
-Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn, nhiều khi rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, từ đó góp phần ổn định môi trường lao động, ổn định xã hội, nâng cao trách nhiệm của người lao động, tạo năng suất cao.
Sự đóng góp thêm của người sử dụng lao động chủ yếu nhằm bù đắp phần chênh lệch giữa số đông người lao động kém may mắn và số đông người lao động may mắn không đủ lớn để đùm bọc số người gặp rủi ro. Sự đóng góp này nhân danh tình đoàn kết xã hội, căn cứ vào khả năng thực tế thanh toán của mỗi bên. Nhưng thực chất, phần phí BHXH mà người sử dụng lao động đóng góp thêm cho người lao động được hạch toán vào giá thành sản phẩm; người sử dụng lao động có thể nâng giá bán hàng hóa và cuối cùng là người tiêu dùng gánh chịu chứ không phải người sử dụng lao động gánh chịu. Người lao động được bảo hiểm thì yên tâm phấn đấu làm việc, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, góp phần giữ vững, thậm chí làm tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động, có lợi cho cả 2 bên.
-Đối với Nhà nước: BHXH là công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện chức năng xã hội được tốt hơn nhằm đạt tới mục tiêu xã hội công bằng văn minh, nhân dân ấm no, hạnh phúc... Bởi: thông qua các quy định về BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước thực hiện việc điều tiết lợi ích, quyền lợi của các bên. Nói cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật để can thiệp vào mối quan hệ chủ- thợ, đảm bảo những quyền lợi xã hội cho người lao động tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, phân phối lại thu nhập, từ đó phát huy tốt nhân tố con người, kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Không những BHXH trợ giúp đắc lực cho Nhà nước phân phối lại thu nhập, điều tiết lợi ích các bên, mà: nguồn quỹ BHXH nhàn rỗi còn là nguồn cung cấp tiền tệ lớn cho việc đầu tư phát triển đối với nền kinh tế và cũng chính điều này là sự đảm bảo cho quỹ BHXH được bảo toàn và phát triển trên sự mất giá của đồng tiền qua thời gian.
Qua tất cả những gì đã nêu, cho thấy, sự tồn tại của BHXH là một tất yếu khách quan cho mọi quốc gia trên thế giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Điều đó đã được pháp luật nhiều nước công nhận, đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ghi nhận trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: '' Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên cơ sở quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người''. Đồng thời, ở cấp độ chung nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BHXH đã được Đảng ta xác định:'' Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; ngược lại, phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế''; ''Mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội; Mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù trước mắt hay lâu dài''.
II.Những nội dung cơ bản về BHXH.
1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH.
a) Bản chất của BHXH.
* Bản chất kinh tế của BHXH.
Sự tồn tại của rủi ro đối với thu nhập của người lao động là khó lường trước. Để bù đắp những khoản thu nhập bị mất đi khi sự cố xảy ra nếu không tham gia BHXH thì cách cơ bản nhất là phải tích luỹ cá nhân. Tuy nhiên, cách dự trữ cá nhân có nhiều hạn chế, bởi vì nếu đòi hỏi phải dự trữ lớn ngay một lúc thì sẽ rất khó khăn, hơn nữa nhiều lao động không có khả năng. Còn nếu tích luỹ dần thì khi rủi ro xảy ra sớm, mật độ thiệt hại lớn thì không đủ nguồn tài chính để bù đắp, trang trải phần thu nhập bị mất.
Nhưng nếu thông qua BHXH, người lao động chỉ cần đóng hàng tháng một tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là sự tập hợp của số đông người lao động tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro. Khi rủi ro xảy ra, bằng hình thức lấy số đông bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong đời sống cá nhân từng lao động do bị mất hoặc giảm thu nhập.
Như vậy, BHXH không phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những khoản thu nhập bị mất của người lao động khi gặp sự cố trong cuộc sống.
* Bản chất xã hội của BHXH:
BHXH là lĩnh vực vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội và vừa mang tính chất dịch vụ. Nhưng, trong đó tính xã hội được thể hiện rõ nhất. Nhờ có BHXH, khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết làm cho thu nhập của họ bị mất hẳn hoặc giảm sút, họ sẽ được bù đắp lại một phần hoặc tất cả từ quỹ BHXH, mà quỹ này là do số đông người lao động đóng góp, cùng trách nhiệm của người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước.
Như vậy, có thể thấy rằng: Bản chất xã hội của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể người lao động. Qua đó cũng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội giữa chủ sử dụng lao động với người lao động, của người lao động với nhau và sự quan tâm của Nhà nước tới sự cống hiến cho lợi ích xã hội của người lao động.
* Bản chất pháp lý của BHXH:
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH được quy định, điều chỉnh thông qua bộ luật BHXH hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở một bộ luật khác (VD: ở Bộ Luật lao động), do đó nó ràng buộc rất chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của người lao động và của người sử dụng lao động là đóng phí BHXH cho các cơ quan BHXH, quyền lợi lớn nhất của người lao động là được chi trả BHXH khi có sự cố theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thực chất BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về BHXH.
b) Các chức năng và nhiệm vụ cơ bản của BHXH.
* Chức năng của BHXH:
- Đảm bảo ổn định đời sống- kinh tế cho người lao động và gia đình họ khi bản thân người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động theo những điều kiện nhất định.
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH là mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ mang tính chất pháp lý được quy định trong pháp luật điều chỉnh BHXH. Trong mối quan hệ đó: người sử dụng lao động đóng phí để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng, người lao động trong điều kiện bình thường cũng phải đóng phí để tự bảo hiểm cho mình. Sự đóng góp này là bắt buộc, đều kỳ và thường theo tỷ lệ quy định của cơ quan BHXH. Đồng thời, khi người lao động gặp sự cố trong cuộc sống làm giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập theo những điều kiện quy định thì họ phải được đảm bảo an toàn đời sống thông qua sự bù đắp thu nhập bị giảm hoặc mất từ quỹ BHXH, với mức lương thời điểm và thời hạn hưởng đúng quy định của pháp luật.
- Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH.
Chức năng này được thể hiện rõ nét và được thực hiện thông qua quá trình lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước vơí mục đích trang trải khó khăn cho người lao động. Về nguyên tắc, người lao động có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, nhưng không phải người lao động cũng được hưởng và mức hưởng như nhau mà chỉ số ít những người gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập mới được hưởng, đồng thời mức hưởng và thời hạn hưởng còn phải phụ thuộc vào những điều kiện quy định, hay nói cách khác, chỉ những người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp.
Như vậy, quỹ BHXH được lập do sự đóng góp của số đông người lao động, người sử dụng lao động và có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng chỉ dùng để phân phối lại cho một số ít người lao động không may bị rủi ro, thiệt hại trong thu nhập. Sự phân phối này được thực hiện theo cả chiều ngang và chiều dọc, giữa những người có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... Quá trình phân phối này cũng có nghĩa là phân phối sự rủi ro giữa những người lao động, đồng thời cũng là sự phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Gắn bó lợi ích giữa những người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giảm tối thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất, nhưng vẫn giải quyết tốt nhất những rủi ro, khó khăn về đời sống và gia đình họ nhờ cả sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Với người sử dụng lao động, trách nhiệm của họ đối với người lao động cũng vì thế mà được giải quyết một cách thuận lợi nhất, có lợi cho cả hai bên. Với Nhà nước, quỹ BHXH là nguồn vốn lớn cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời qua đó cũng làm tăng thêm nguồn thu cho quỹ từ đó, giúp việc chi trả cho người lao động được dễ dàng hơn. Như vậy, lợi ích của 3 bên tham gia BHXH nhờ thông qua BHXH ngày càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn kể cả về lợi ích trước mắt và lâu dài.
- Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, đều đặn.
Người lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh bình thường có tiền lương, khi ốm đau; thai sản; tai nạn lao động; tuổi già... hoặc không may bị chết đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng, do đó, đời sống của bản thân và gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn được đảm bảo. Chính vì thế, họ sẽ gắn bó công việc với nơi làm việc và yên tâm tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Đồng thời, nhờ những khoản trợ cấp BHXH, người lao động nhanh chóng được phục hồi cả về mặt thể xác cũng như mặt tinh thần, từ đó có thể tham gia tiếp tục vào quá trình sản xuất tạo điều kiện tốt diễn ra bình thường, ổn định.
* Nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội:
Để đảm bảo tốt chức năng của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ.
Chính sách bảo hiểm xã hội là định hướng quan trọng nhất cho hoạt động bảo hiểm xã hội. Do đó, nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội. Sự phù hợp của chính sách là cơ sở tồn tại của chính nó, một chính sách bảo hiểm xã hội đúng đắn được áp dụng là điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao, phát huy hiệu quả của hoạt động bảo hiểm xã hội. Để có được điều kiện đó, việc hoạch định chính sách bảo hiểm xã hội cần dựa trên cơ sở, điều kiện cụ thể về đặc điểm dân số, kinh tế, lao động và xã hội... từ đó mới có thể tạo ra sự tồn tại, sức sống thực tế của chính sách bảo hiểm xã hội.
- Thu hút đông đảo người lao động trong mọi thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội cũng như mọi lĩnh vực bảo hiểm khác: hoạt động trên nguyên tắc''lấy số đông bù số ít''. Số người tham gia bảo hiểm xã hội sẽ là yếu tố quyết định đến thu của bảo hiểm xã hội. Thu của bảo hiểm xã hội ngày càng lớn htì khả năng chi, tức khả năng đáp ứng chế độ càng cao, đem lại sự đảm bảo về vật chất tốt hơn cho số ít người lao động gặp rủi ro được hưởng bảo hiểm xã hội. Đồng thời, sự tham gia đông đảo của người lao động là điều quan trọng để bảo hiểm xã hội đạt được mục tiêu xã hội của mình, đảm bảo công bằng, ổn định cho sự phát triển xã hội và điều đó cũng phù hợp với xu hướng xã hội hoá bảo hiểm xã hội của Thế giới.
- Tổ chức tốt mọi hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội.
Để mục đích, tác dụng của bảo hiểm xã hội được thực hiện và phát huy nhiệm vụ tổ chức hoạt động, BHXH đóng vai trò quan trọng xuyên suốt quá trình vận động và phát triển của BHXH, nó tạo sự thống nhất trong hoạt động của toàn hệ thống và phục vụ tốt hơn người lao động. Để thực hiện nhiệm vụ này, BHXH cần thực hiện các công việc như: chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thu chi quản lý quỹ, quyết định các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, thẩm tra và quyết toán thông qua dự toán hàng năm, kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung, sửa đổi tạo sự phù hợp về chính sách BHXH, đề xuất, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý của các đơn vị BHXH các cấp. Ngoài ra, còn phải hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ BHXH thống nhất trong toàn quốc, toàn bộ hệ thống BHXH.
2. Quỹ Bảo hiểm xã hội.
a) Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong toàn bộ quy trình thực hiện chính sách BHXH. Theo quy định của điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 thì quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
* Sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động:
- Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó, 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất.
* Nhà nước đóng và hỗ trợ: Để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động, hàng tháng, Bộ tài chính trích từ ngân sách Nhà nước số tiền bổ sung vào quỹ BHXH đủ chi trả các khoản thuộc về BHXH như sau:
- Chi trả các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất cho tất cả các đối tượng được thụ hưởng chế độ BHXH trước ngày thi hành ''Điều lệ BHXH'' được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.
- Hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động thuộc khu vực Nhà nước ban hành sau ngày ban hành ''Điều lệ BHXH''
- Đóng toàn bộ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng đang được thụ hưởng chế độ BHXH.
* Các nguồn thu khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau đây:
- Tiền lãi, tiền sinh lời từ các việc thực hiện các phương án bảo tồn và phát triển quỹ BHXH.
- Các nguồn tài trợ, viện trợ khác của cộng đồng quốc tế và trong nước, kể cả các tổ chức phi Chính phủ hoặc các cá nhân hảo tâm... Tuy nhiên, nguồn này không ổn định và không nhiều nhất là hoạt động BHXH của nước ta còn chưa phát triển.
- Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo quy định của Chính phủ.
- Các nguồn thu khác: phạt tiền do nộp BHXH chậm so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ BHXH được hưởng thụ...
b) Các bước quản lý thu quỹ BHXH.
Công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH được thực hiện qua các bước sau:
Bước1: Lập kế hoạch thu BHXH.
Kế hoạch thu BHXH là cơ sở để tổ chức thực hiện và quản lý công tác thu BHXH ở từng đơn vị BHXH nói riêng và trên phạm vi toàn hệ thống BHXH Việt Nam nói chung. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để chúng ta tổ chức thực hiện và quản lý các mặt công tác khác của BHXH như hoạch định phương hướng phát triển lâu dài, hoàn chỉnh hệ thống chế độ chính sách, quản lý bảo tồn và phát triển quỹ BHXH... Kế hoạch lập ra càng sát, càng phù hợp với thực tiễn bao nhiêu thì trong công tác tổ chức thực hiện và điều hành quản lý công tác thu BHXH ngày càng chủ động và hoàn thiện bấy nhiêu. Vì vậy bước này rất quan trọng và được thực hiện thường xuyên hàng năm ở tất cả các đơn vị BHXH từ Trung ương đến địa phương, cụ thể:
- Đối với đơn vị sử dụng lao động: Hàng năm, căn cứ vào số lao động để lập ''Danh sách lao động và quỹ tiền lương'' trích nộp BHXH cho năm sau theo mẫu quy định, gửi cho cơ quan BHXH tỉnh hoặc huyện trực tiếp quản lý thu BHXH của đơn vị mình trước ngày 5/12.
- Đối với cơ quan BHXH huyện: Hàng năm, BHXH huyện căn cứ vào ''Danh sách lao động và quỹ tiền lương'' trích nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động cho BHXH huyện quản lý thu gửi trên địa bàn huyện cho năm sau cho BHXH tỉnh trước ngày 15/12.
- Đối với cơ quan BHXH tỉnh: Hàng năm, BHXH tỉnh căn cứ vào ''Danh sách lao động và quỹ tiền lương'' trích nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động cho BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu BHXH và dự toán thu BHXH của các huyện gửi đến để lập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địa bàn toàn tỉnh cho đến năm và gửi cho BHXH Việt Nam.
Bước 2: Phát hiện thêm các đối tượng phải tham gia BHXH trên địa bàn quản lý của các đơn vị BHXH địa phương.
B._.ước này không chỉ quan trọng ở thời kỳ đầu khi BHXH Việt Nam mới được thành lập, lúc đó, chúng ta bắt đầu quản lý trực tiếp các đối tượng tham gia BHXH đến từng đơn vị sử dụng lao động, từng cá nhân lao động mà trước đó chưa từng làm. Còn bây giờ, công tác này vẫn rất quan trọng và sẽ phải tồn tại mãi mãi cùng với sự tồn tại và phát triển của BHXH Việt Nam nói chung, của BHXH các tỉnh, huyện nói riêng. Bởi vì việc phát triển thêm các đối tượng tham gia BHXH mới có nghĩa là phát hiện thêm các nguồn lực cho quỹ BHXH ngày càng lớn, càng có nhiều người lao động tham gia đóng góp thì tính chất xã hội, tính chất nhân văn của nó ngày càng được phát huy mạnh mẽ hơn, công bằng xã hội ngày càng đảm bảo rộng rãi hơn, đồng thời càng đảm bảo cho quỹ BHXH được độc lập thật sự và dần dần chủ động trong việc chi trả các chế độ BHXH, tiến tới thoát dần khỏi dự bao cấp của ngân sách Nhà nước hiện nay.
Hiện nay, nước ta đang chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc đa dạng hoá thành phần kinh tế, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh, việc mở cửa, việc kêu gọi vốn của nước ngoài... chắc chắn sẽ làm biến động số lượng các đơn vị sử dụng lao động rõ nét hơn. Dẫn đến các đối tượng tham gia BHXH sẽ thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thu BHXH. Do đó, việc phải thường xuyên phát hiện thêm các đối tượng tham gia BHXH mới là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc lập kế hoạch, điều chỉnh và quản lý các nguồn thu BHXH.
Để làm tốt công tác này, các cán bộ thu BHXH phải nắm chắc đối tượng tham gia BHXH theo luật định, kết hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan để có những thông tin làm căn cứ phát hiện, bổ sung hoặc điều chỉnh số lượng các đơn vị sử dụng lao động chính xác và kịp thời để tổ chức thực hiện việc thu BHXH cho phù hợp.
Bước 3: Phân cấp quản lý thu BHXH.
Theo Quyết định số 177/BHXH thì việc phân cấp quản lý thu BHXH quy định:
''Giám đốc tỉnh có trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo BHXH huyện, thị thu BHXH của tất cả các đơn vị sử dụng lao động có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn tỉnh, thành'' theo phân cấp quản lý như sau:
* BHXH tỉnh thu của các đơn vị sử dụng lao động gồm có:
- Các đơn vị thuộc trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh.
- Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các đơn vị, tổ chức quốc tế có trên địa bàn tỉnh trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các doanh nghiệp quốc doanh có sử dụng 50 lao động trở lên. Trường hợp BHXH các huyện thuộc tỉnh không đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dưới 50 lao động hoặc các đơn vị trung ương, đơn vị thuộc tỉnh có số lao động không nhiều thì giám đốc BHXH tỉnh quyết định việc phân cấp thu đối với từng đơn vị cụ thể cho các huyện.
* BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại các huyện bao gồm:
- Các đơn vị thuộc cấp huyện trực tiếp quản lý.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động đến dưới 50 lao động.
- Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu.
* Đối với một số đơn vị sử dụng lao động có các loại đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động ở địa bàn thuộc nhiều tỉnh, muốn nộp BHXH cho các đơn vị trực thuộc tại BHXH nơi đóng trụ sở chính thì phải có sự thống nhất của BHXH các tỉnh có liên quan (nơi có trụ sở các đơn vị trực thuộc đóng) và được BHXH Việt Nam chấp nhận.
Bước 4: Tiếp xúc với các đơn vị sử dụng lao động.
Bước này khá quan trọng, là căn cứ để biến tiềm năng của quỹ BHXH thành quỹ BHXH thực tế. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, liên tục của tất cả các đơn vị địa phương.
* Đối với các đơn vị sử dụng lao động mới phát hiện, chưa tiến hành đăng ký kê khai tham gia BHXH thì ngay từ đầu BHXH địa phương phải đặt ra mối quan hệ với các đơn vị sử dụng lao động qua các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, qua đó cơ quan BHXH tiến hành các công việc:
- Tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách về BHXH và quyền lợi, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động.
- Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập và gửi cho cơ quan BHXH địa phương theo biểu mẫu quy định.
- Thống nhất đơn vị sử dụng lao động về lịch làm việc, phối kết hợp giữa các bên lịch thu nộp BHXH, thông báo số liệu tài khoản thu BHXH tỉnh mở tại địa phương và số liệu tài khoản của đơn vị sử dụng lao động...
- Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động làm thủ tục cấp sổ BHXH cho người lao động thuộc quyền quản lý của họ.
* Đối với các đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký tham gia BHXH và các đơn vị vừa mới tham gia BHXH, các cán bộ chuyên quản lý thu được phân công phải thường xuyên tiếp xúc với họ, làm công tác điều tra cơ bản để nắm chính xác các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thu BHXH gồm:
- Tổng số lao động thực tế đơn vị đã sử dụng, tổng số lao động đã đăng ký tham gia BHXH. Trong tổng số lao động còn lại chưa đăng ký tham gia BHXH có còn ai thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà đơn vị sử dụng lao động chưa đăng ký cho họ không. Nếu còn thì yêu cầu đơn vị phải đăng ký tiếp và nộp BHXH cho họ.
- Tình hình biến động tăng giảm số lao động trong quý.
- Tổng quỹ tiền lương trích nộp BHXH của những người tham gia BHXH.
Từ những thông tin trên xác định số tiền nộp BHXH phải thu hàng tháng đối với đơn vị sử dụng lao động.
Bước 5: Thu và ghi sổ BHXH.
Đây là bước quan trọng nhất trong nghiệp vụ BHXH vì có thu được tiền BHXH vào khoản thu BHXH của BHXH Việt Nam thì quỹ BHXH mới hình thành và tồn tại, việc thu và ghi sổ BHXH cho người lao động được tiến hành ở tất cả các tỉnh, huyện một cách thường xuyên theo trình tự sau:
- Hàng tháng, căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH do các đơn vị sử dụng lao động lập và danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm nộp BHXH lập hàng quý, BHXH tỉnh huyện đôn đốc và tổ chức thu BHXH theo mức quy định, chậm nhất là vào kỳ lương cuối cùng trong tháng.
- Chậm nhất là vào ngày 10 tháng đầu quý sau, BHXH tỉnh, huyện cùng các đơn vị sử dụng lao động kiểm tra, lập bảng đối chiếu nộp BHXH của quý trước. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp thì nộp tiếp vào đầu quý sau (nếu chênh lệch thiếu) hoặc coi như đã nộp trước cho tháng đầu quý sau (nếu chênh lệch thừa).
- Trường hợp các đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH chậm hàng tháng thì ngoài việc nộp phạt số tiền chậm trả tính theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn của ngân hàng tại thời điểm truy nộp, còn phải nộp phạt theo quy định tại điều 11 trong Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định và xử phạt hành chính.
- Căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH, danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm mức nộp BHXH và số tiền BHXH các đơn vị sử dụng lao động đã nộp, cơ quan BHXH tiến hành kiểm tra, đối chiếu mức nộp BHXH của từng người lao động trước khi ghi vào sổ BHXH.
Việc cấp sổ BHXH cho từng người lao động được thực hiện thường xuyên 1lần/1năm cho các lao động không thay đổi mức đóng BHXH trong năm. Đối với các trường hợp người lao động có thay đổi mức đóng BHXH hoặc di chuyển nơi làm việc thì phải ghi từng thời điểm, thời gian có sự thay đổi.
Bước 6: Chuyển tiền thu BHXH về cơ quan BHXH cấp trên.
Chỉ khi nào toàn bộ số tiền thu BHXH được chuyển đầu tư vào tài khoản thu BHXH Việt Nam thì lúc đó quá trình thu BHXH mới kết thúc và quỹ BHXH mới thực sự hình thành và có điều kiện để đảm bảo tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, BHXH địa phương cần có những biện pháp nhằm tập trung nhanh số thu BHXH đồng thời làm thủ tục chuyển kịp thời số thu BHXH về tài khoản thu của BHXH Việt Nam. Số lần chuyển tiền về BHXH Việt Nam được quy định vào ngày 10,20 và 30 hàng tháng.
Bước 7: Thống kê, tổng hợp số liệu, lập và gửi báo cáo thu BHXH về cơ quan BHXH cấp trên.
Bước này được thực hiện ở tất cả các BHXH tỉnh và huyện một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy thì các số liệu thống kê về công tác thu BHXH do chúng ta cung cấp mới thực sự đảm bảo được chính xác và kịp thời, góp phần phục vụ cho công tác quản lý của BHXH cấp dưới được tốt. Để thực hiện được tốt đòi hỏi các cơ quan BHXH cấp dưới phải tổ chức thu thập thông tin, tổng hợp số liệu về thu BHXH qua đó gửi báo cáo nhanh (10ngày 1 lần), báo cáo hàng tháng, hàng quý cho cơ quan BHXH cấp trên. BHXH Việt Nam là cơ quan cuối cùng tổng hợp số liệu về tình hình thu và quản lý nguồn thu BHXH từ BHXH tỉnh.
3. Hệ thống các chế độ BHXH.
Chế độ Bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, điều kiện hưởng, mức hưởng trợ cấp... và nêu rõ sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện. Những quy định này được luật pháp hoá và thể chế hoá dưới dạng luật hoặc các văn bản pháp luật khác, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các chế độ BHXH có tính chất pháp lý chặt chẽ với những quy định rõ ràng, chi tiết và dễ hiểu. Vì vậy, có thể chính sách BHXH của một số nước giống nhau, nhưng nội dung các chế độ BHXH thường khác nhau, thậm chí rất khác nhau.
Theo công ước Giơnever số 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc liên hợp quốc tế ký ngày 28/6/1952, BHXH có 9 chế độ sau:
Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp gia đình.
Trợ cấp sinh đẻ.
Trợ cấp khi tàn phế.
Trợ cấp ch người còn sống.
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước cào cũng có phạm vi, đối tượng hình thành quỹ... giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể cuả từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 (trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 (trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp gia đình).
ở Việt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết.
Còn đối với công nhân Việt Nam, việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su... không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà được thành lập, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sắc lệnh 54/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Sắc lệnh này quy định công chức phải đóng hưu liễm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của Nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với viên chức. Trong khu vực sản xuất, lúc này chưa thành lập quỹ BHXH, nhưng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân.
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến Pháp năm 1949, Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước kèm theo Nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ quy định như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại:
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thai sản.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp mất sức lao động.
Trợ cấp hưu trí.
Trợ cấp tử tuất.
Do một thời kỳ dài bao cấp 6 chế độ này nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người lao động, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiều chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế thị trường điều kiện kinh tế của Nhà nước đã thay đổi hẳn vì vậy Nghị định 43/CP ra đời ngày 22/6/1993 và Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 đều thống nhất một quan điểm là BHXH chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động.
Hiện nay, mức sống của dân cư toàn thế giới nói chung và từng nước nói riêng ngày càng được nâng cao do sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Bởi vậy, ngày càng có nhiều nước quan tâm nghiên cứu và áp dụng hệ thống BHXH. Tính đến nay đã có trên 160 nước thực hiện chế độ BHXH.
Bảng1: Số nước thực hiện các chế độ BHXH trên thế giới.
ĐVT: nước
Năm
Chỉ tiêu
1940
1949
1958
1967
1977
1983
BHXH nói chung.
57
58
80
120
129
140
Chế độ trợ cấp tuổi già, tàn tật,tử tuất.
33
44
58
82
114
130
Chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản.
57
36
59
65
72
85
Chế độ trợ cấp TNLĐ và BNN.
24
57
77
117
129
136
Chế độ trợ cấp thất nghiệp.
21
22
26
34
38
40
(Nguồn: Chương trình BHXH thế giới).
Đại đa số các nước đều tổ chức BHXH cho người cao tuổi, người tàn tật và thân nhân người bị tai nạn, chỉ có khoảng 1/4 nước trong số nước áp dụng BHXH thực hiện trợ cấp thất nghiệp, chế độ này thường được thấy ở những nước công nghiệp và có nền kinh tế thị trường phát triển.
III. BHXH ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường.
Sau khi thành lập chính quyền dân chủ nhân dân và trong suốt thời kỳ kháng chiến, mặc dù hoàn cảnh khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chăm sóc đời sống cho người lao động. Riêng đối với công nhân viên chức ngoài việc ban hành các chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội như: chế độ đãi ngộ khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, già yếu, chế độ trợ cấp gia đình khi công nhân viên chức chết...
Các chế độ đó đã có tác dụng giải quyết được một phần những khó khăn trong đời sống sinh hoạt của công nhân viên chức và gia đình họ cũng có thêm niềm tin vào Đảng, Chính phủ, làm cho mọi người an tâm phấn khởi đẩy mạnh sản xuất và công tác tốt. Nhưng các chế độ nói trên vì ban hành sau hoà bình năm 1945 nên tính chất hoàn thiện, đầy đủ chưa có. Tuỳ theo sự đòi hỏi của tình hình thực tế, tuỳ theo từng thời gian và ngành hoạt động trong điều kiện nền kinh tế còn trong thời kỳ khôi phục, bước đầu phát triển nên mới nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt, do đó BHXH có tính chất toàn diện và lâu dài.
Trải qua một thời kỳ dài đến nay BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường đã có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Sự sửa đổi bổ sung đó được thể hiện thông qua việc ban hành các Nghị định và các chế độ mà thể hiện thông qua việc ban hành các Nghị định và các chế độ mà thể hiện rõ nhất là Nghị định 12/CP ngày 26/1/1996, trong đó, các chế độ BHXH được quy định lại với 5 chế độ:
1/ Trợ cấp ốm đau: người lao động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội, là động lực chính thúc đẩy xã hội phát triển, vì vậy, khi họ ốm đau phải được xét trợ cấp BHXH trong thời gian ốm đau, mức trợ cấp phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Tình trạng sức khoẻ và thời gian công tác.
- Tiền lương thực tế đang làm.
- Phụ thuộc vào ngành nghề công tác của người đó.
2/ Trợ cấp thai sản: lao động nữ chiếm quá một nửa lực lượng lao động xã hội. Họ không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn tạo ra nhiều sản phẩm tinh thần cho xã hội, vì vậy, khi họ sinh đẻ phải được nghỉ ngơi an dưỡng và nuôi con, họ phải được xét trợ cấp BHXH thay vì tiền lương trong thời gian nghỉ đẻ, mức lương được hưởng trợ cấp thông thường là bằng mức tiền lương và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó.
3/ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, Nhà nước cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm xét trợ cấp bảo hiểm cho họ để họ tiếp tục ổn định và duy trì cuộc sống, mức độ trợ cấp phụ thuộc vào 4 yếu tố:
- Tình trạng thương tật và sức khoẻ thông qua giám định y khoa.
- Tiền lương thực tế.
- Thời gian làm việc.
- Ngành nghề công tác của người đó.
4/ Trợ cấp hưu trí: người lao động khi hết tuổi lao động họ phải được nghỉ ngơi an dưỡng, khi đó có một số nhu cầu không những giảm đi mà còn tăng lên, vì vậy, họ vẫn phải được xét trợ cấp BHXH dưới hình thức tiền hưu trí, mức trợ cấp phụ thuộc vào 5 yếu tố:
- Tiền lương thực tế bình quân một số năm trước khi nghỉ hưu.
- Phụ thuộc vào thời gian công tác.
- Phụ thuộc vào mức đóng BHXH.
- Phụ thuộc vào ngành nghề công tác và độ tuổi khi nghỉ hưu.
- Phụ thuộc vào tuổi thọ bình quân của quốc gia.
Tuy vậy, mức được hưởng lương thấp nhất phải bằng mức sống tối thiểu của quốc gia đó.
5/ Trợ cấp tử tuất: người lao động không may bị chết, Nhà nước và cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm còn sống trong gia đình họ: bố mẹ già không nơi nương tựa, con cái chưa đến tuổi trưởng thành, mức được hưởng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Toàn bộ chi phí mai táng chôn cất hồi hương.
- Hoàn cảnh thực tế gia đình người lao động.
- Tiền lương của người lao động trước khi bị chết.
Tuy vậy, mức được hưởng cao nhất không vượt quá tiền lương thực tế đang làm trước khi bị chết.
Từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, BHXH vừa tiến hành sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ, vừa tiến hành thực hiện các chế độ BHXH rất nhiều khó khăn, nhất là việc chồng chéo khi thực hiện chế độ BHXH. Nói chung thực trạng BHXH Việt Nam từ trước đến nay thể hiện qua các mặt sau:
a) Đối tượng BHXH:
ở Việt Nam, cũng như đại đa số các nước trên thế giới mới chỉ thực hiện được ở những người lao động làm công ăn lương. Đặc biệt những nước mới tiến hành triển khai BHXH, đối tượng làm công ăn lương bao giờ cũng được hưởng lương trước khi nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí ngày càng nâng cao, các quốc gia mới triển khai ở tất cả các đối tượng lao động.
Từ khi Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và thấy rõ được vai trò của các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể thì Nhà nước mới cho phép mở rộng đối tượng BHXH cho mọi người lao động theo Nghị định 43/CP và Nghị định 12/CP để đảm bảo công bằng cho người lao động. Theo Nghị định 43/CP và Nghị định 12/CP thì đối tượng BHXH là người lao động và người có nhu cầu về việc làm, tuy nhiên, việc thực hiện BHXH cho người có nhu cầu đến nay vẫn chưa được triển khai thực hiện.
b) Mức lương BHXH.
Trong chiến tranh, các chế độ BHXH mang tính chất cấp phát bình quân không căn cứ vào mức đóng góp cũng như tiền lương. Dần dần chế độ trợ cấp về BHXH được sửa đổi, cụ thể là chế độ BHXH căn cứ vào mức đóng góp tiền lương của người lao động, mức lương trợ cấp BHXH luôn luôn thấp hơn tiền lương khi đang làm việc nhưng phải đảm bảo một mức sinh hoạt tối thiểu. Mức đãi ngộ cho mỗi người dựa theo nguyên tắc '' hưởng theo lao động...'' có phân biệt tuỳ theo cống hiến, thành tích, thời gian công tác nhiều hay ít và có ưu đãi với những người làm các công việc có tính chất độc hại, đặc biệt nặng nhọc...
Mức đãi ngộ cao hay thấp, phạm vi thi hành rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta trong từng thời kỳ. Các mức hưởng BHXH của từng chế độ đều ghi rõ trong các Nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn thực hiện.
c) Mức đóng góp.
Trợ cấp BHXH và thực hiện trích nộp BHXH gắn trực tiếp và rất chặt chẽ với tiền lương cá nhân và quỹ tiền lương của các đơn vị, tổ chức. Tuy nhiên, ở nước ta từ năm 1926 đến 1987 quỹ BHXH được hình thành từ 2 nguồn:
- Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp từ 4,7% so với tổng quỹ lương của xí nghiệp.
- Phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Từ năm 1988 đến 1993 thì tỷ lệ đóng góp của xí nghiệp tăng 15% và người lao động vẫn không phải đóng góp vào quỹ BHXH. Cơ chế này không xác định rõ mối quan hệ tài chính của chính sách BHXH, không thể hiện được trách nhiệm của người lao động trong việc tự bảo hiểm đồng thời còn là một gánh nặng cho ngân sách. Vì vậy trong cơ chế mới theo Nghị định 12/CP mức đóng góp được quy định ở điều 36 như sau:
(1) Người sử dụng lao động đóng góp bằng 15% so với tổng quỹ lương của đơn vị, trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
(2) Người lao động đóng góp bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất.
(3) Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
(4) Các nguồn thu khác.
d) Chế độ quản lý.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ độc lập thuộc ngân sách Nhà nước. Việc quản lý quỹ qua các giai đoạn như sau: Trước đây do Bộ lao động - thương binh và xã hội thu và quản lý 8% để chi 3 chế độ là hưu trí, mất sức lao động và mất người nuôi dưỡng. Còn Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thu 5% để chi 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.
Hiện nay hai nhánh đã sát nhập thành một tổ chức BHXH Việt Nam. BHXH Việt Nam được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý của các cơ quan Nhà nước có liên quan, nhằm giúp cho Chính phủ thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người lao động. BHXH Việt Nam là cơ quan hạch toán thu chi độc lập, tuy nhiên trong bước đầu hoạt động, Nhà nước cần phải ủng hộ và giúp đỡ đầu tư về mọi mặt.
Phần II: Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý- Hà Nam.
I. Vài nét về cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý.
1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của cơ quan.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, ngày 16/2 cũng là ngày truyền thống của ngành BHXH Việt Nam.
BHXH thị xã Hà Nam (nay là BHXH thị xã Phủ Lý) cùng với BHXH các huyện, thành phố Nam Định tỉnh Nam Hà được thành lập theo Quyết định số
83/QĐ-TCCB ngày 1/8/1995 của tổng giám đốc BHXH Việt Nam.
Sau 6 năm hoạt động, công tác, thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song BHXH thị xã đã phấn đấu vươn lên, khắc phục những khó khăn đó là: những tháng, năm đầu mới được thành lập, cán bộ công chức vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa có kinh nghiệm trong công tác BHXH. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc thiếu thốn, tạm bợ, cho đến nay cũng chưa có chỗ làm việc ổn định. Bên cạnh những khó khăn thì cũng có những thuận lợi cơ bản, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị, xã hội sâu sắc. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Bộ chính trị trung ương Đảng đã chỉ thị số 15/CT-TW ngày 26/5/1997 về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH.
BHXH được cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp quan tâm ngay từ ngày đầu tỉnh Hà Nam mới được tái lập. Thường vụ tỉnh uỷ đã có chỉ thị số 11/CT-TW về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chính sách BHXH.
Với khoảng thời gian đó, BHXH thị xã Phủ Lý dần dần từng bước được tăng cường đủ số lượng cán bộ, công chức. Cán bộ công chức được đi đào tạo và đào tạo lại, tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình công tác, từng bước khắc phục những khó khăn. Có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Đảng, BHXH thị xã cùng nhau đoàn kết phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị, thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch năm sau cao hơn năm trước.
2. Những đặc điểm kinh tế- xã hội của thị xã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của BHXH:
Sau khi được thành lập, BHXH đã nhanh chóng triển khai thực hiện các nghiệp vụ BHXH được giao theo Điều lệ BHXH quy định và tiếp nhận bàn giao theo Nghị đinh 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ. Ngay sau khi điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26/1/1995, UBND thị xã Phủ Lý đã chủ động triển khai nội dung Nghị định và Điều lệ đến các cấp, các ngành thuộc thị xã nhằm quán triệt nội dung, tinh thần điều lệ BHXH trước khi quán triệt đến cơ sở. Đây là một điều thuận lợi cho BHXH thị xã trong việc triển khai thực hiện các nghiệp vụ BHXH của mình.
Từ khi thành lập, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý chi trả lương hưu trợ cấp BHXH và thực hiện chi trả trợ cấp TBXH do Chính phủ yêu cầu đến hết ngày 31/12/1997. Sau đó chi trả chế độ của đối tượng chính sách bàn giao lại cho ngành lao động TBXH tự chi trả quản lý.
Cùng với những mặt thuận lợi đó, BHXH thị xã cũng còn gặp nhiều bất cập, đó là sự chia tách tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định đã có gây khó khăn trong việc quản lý và tổ chức công tác BHXH. Do địa phận thị xã đa phần là thuộc ngoại thị, do đó việc hiểu biết và nhu cầu về BHXH vẫn chưa được thông thái. Với lại, cùng với việc thành lập tỉnh, bộ máy tổ chức vẫn chưa được ổn định, các công trình xây dựng mới bắt đầu xây lên, các đơn vị tham gia BHXH chưa được quyết toán đầy đủ, việc đóng BHXH cũng rất chậm trễ. Hơn thế nữa, đến năm 2000, BHXH Phủ Lý có nhiều biến động. Quý I đồng chí giám đốc được nghỉ chế độ; Quý IV: tiếp nhận đối tượng thuộc 4 xã: Châu Sơn, Phù Vân, Lam Hạ, Liêm Chung sát nhập về thị xã theo Nghị định 53 của Chinh phủ. Cũng từ sự biến động đó mà làm cho công tác BHXH có sự bận rộn hơn trong việc điều hành các công việc. Công việc bộn bề song được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của thị uỷ, HĐND, UBND thị xã Phủ Lý, BHXH Phủ Lý đã phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch. Và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị xã Phủ Lý sẽ càng phải cố gắng hơn trong việc điều hành bộ máy tổ chức, góp phần giúp cho việc BHXH ngày càng hoàn thiện và phát triển.
II. Công tác tổ chức và quản lý thu BHXH của BHXH Phủ Lý.
1. Các đối tượng tham gia BHXH
Trước đây ở Việt Nam, BHXH chỉ được áp dụng cho công nhân viên chức Nhà nước, các đối tượng khác không được quan tâm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, các thành phần kinh tế đều được Nhà nước coi trọng, thêm vào đó, Điều lệ BHXH ra đời nhằm hoàn thiện hơn hệ thống BHXH Việt Nam thì đối tượng áp dụng BHXH cũng được mở rộng ra trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó có địa bàn thị xã Phủ Lý.
Theo điều lệ BHXH của Chính phủ quy định thì đối tượng áp dụng bắt tham gia BHXH bao gồm:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước;
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế mà cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện; Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
Như vậy, đối tượng của BHXH thị xã Phủ Lý cũng như đối tượng BHXH Việt Nam noi chung được mở rộng ra. Điều này là do sự phát triển của nền kinh tế- xã hội mang lại, là một yêu cầu cấp thiết của một nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên trong thực tế, việc huy động, động viên các đối tượng thuộc các doanh nghiệp ngoài kinh tế quốc doanh là rất khó khăn, gặp nhiều cản trở trong thực hiện công việc. Do đó hiện nay, chủ yếu đối tượng vẫn là công nhân viên chức thuộc thành phần kinh tế quốc dân. Đến hết năm 1999 đã có 25 đơn vị tham gia BHXH đăng ký với danh sách là: 1.20 6 lao động cùng với quỹ lương trích nộp BHXH 1.198.738.240đ.
Những năm trước đây, hai nghiệp vụ thu và chi BHXH tách biệt nhau, mức chi BHXH không dựa vào thu BHXH, nhiệm vụ thu chưa đáp ứng được yêu cầu chi trong công tác chi BHXH thường dựa vào ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Do đó, đối tượng áp dụng thu BHXH không được quan tâm, chú ý một cách đúng đắn. Sau khi được thành lập, cơ quan BHXH được giao cho nhiệm vụ hạch toán thu chi độc lập. Do đó đối tượng thu phải được giám sát chặt chẽ, đây cũng là một trong những yêu cầu mà nhiệm vụ được giao đặt ra, thêm vào đó, cán bộ BHXH phải đi sát đối tượng. Đây là một lý do làm tăng đối tượng BHXH theo lẽ tự nhiên của nhiệm vụ đặt ra.
Thị xã Phủ Lý là một địa bàn quản lý rộng nhất tỉnh Hà Nam. Trên địa bàn thị xã lại có nhiều cơ quan, đơn vị thuộc các cấp, các ngành đóng trên địa bàn hoạt động. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, việc nhận thức của người lao động ngày càng được nâng cao, trong đó nhận thức của người lao động về BHXH ngày càng hoàn chỉnh hơn. Để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội thì pháp luật Nhà nước ta cũng chặt chẽ,ít kẽ hở hơn. Có thể nói đây là hai lý do thúc đẩy người lao động tham gia đóng BHXH theo hai tính chất là tình nguyện và cưỡng chế của pháp luật.
Trình độ xã hội ngày càng cao, nhu cầu tự bảo vệ mình trong những trường hợp khó khăn trở nên là nhu cầu cấp thiết, thêm vào đó, pháp luật thừa nhận nhu cầu đó không phải do người sử dụng lao động đóng góp. Để thực hiện được quyền lợi đó thì người lao động có trách nhiệm yêu cầu người sử dụng lao động phải đáp ứng nhu cầu đó - nhu cầu BHXH phải thể hiện trong các văn bản hợp đồng lao động mà Nhà nước quy định. Trong kế hoạch thu cho những năm tới, cơ quan BHXH cần có những biện pháp để lôi kéo những đơn vị chưa đăng ký danh sách đóng BHXH trên cơ sở tận thu trong địa bàn thị xã nhằm góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước về việc bù đắp cho quỹ BHXH, để ngân sách Nhà nước sử dụng các khoản này vào các công việc đầu tư, kiến thiết đất nước, phát triển một nền kinh tế - xã hội ở mức cao, hoà nhập vào cộng đồng thế giới.
Mức thu BHXH cũng có nhiều thay đổi, trước đây Nhà nước chỉ quy định các doanh nghiệp sản xuất vật chất góp 4,7% so với tổng quỹ lương của đơn vị, trong đó, người sử dụng lao động chịu trách nhiệm đóng 15% và người lao động có trách nhiệm đóng 5% so với mức lương tháng của mình. Đối tượng thu BHXH tăng lên, mức thu cũng tăng lên, đây là hai lý do chính làm tăng mức thu của cơ quan BHXH thị xã Phủ Lý trong năm 2000.
2. Công tác tổ chức thu BHXH.
Công tác tổ chức thu BHXH được đánh giá là nhiệm vụ trọng tâm. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác này, cán bộ được phân công đảm nhiệm đã cố gắng đôn đốc, tuyên truyền chế độ chính sách với các đơn vị sử dụng lao động từng bước đưa công tác tổ chức thu vào nề nếp.
BHXH thị xã quản lý thu BHXH trực tiếp từng đơn vị sử dụng lao động theo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV562.doc