Lời nói đầu
Sự tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định trong đó không thể không kể đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách Bảo hiểm Xã hội (BHXH ). BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. BHXH ở việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.
Hoạt động c
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác thu, chi & quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội huyện Yên Sơn - Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa BHXH ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ BHXH dược hình thành độc lập ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ BHXH là sương sống của bất kỳ một hệ thống BHXH nào vì các chế độ BHXH đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan BHXH phải có một lượng tiền nhất định.
Trong những năm qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH của cơ quan BHXH huyện Yên Sơn( Tuyên Quang )đã thu được nhiều thành tựu như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng...Tuy nhiên trong quá trình trên chúng ta vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập như: Chưa khai thác hết lực lượng lao động, vẫn tồn tại tình trạng trục lợi BHXH. Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH chưa cao và còn nhờ nhiều vào ngân sách Nhà Nước. Như vậy vấn đề thu chi có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chế độ BHXH Việt Nam cũng như BHXH các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có BHXH Huyện Yên Sơn nhưng vẫn còn nhiều tồn tại cần phải được xem xét và bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy em đã chọn đề tài:
“ Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH Huyện Yên Sơn(Tuyên Quang ) thời gian qua ”
Mục đích của chuyên đề :
1. Làm rõ thu, chi BHXH là gì ?
2. Đánh giá thực trạng công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH Huyện Yên Sơn trong thời gian qua.
3. Đề xuất ý kiến để nâng cao hiệu quả của công tác thu chi quỹ BHXH huyện Yên Sơn trong thời gian tới.
Bố cục bài được chia làm 3 phần:
Phần 1 : Nhận thức lý luận về BHXH và công tác thu chi
Phần 2 : Thực trạng công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn thời gian qua.
Phần 3 : Những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt của công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn.
Chuyên đề này dược thực hiện thành công là nhờ sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Tôn Thanh Huyền _Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân và tập thể cán bộ công nhân viên của cơ quan BHXH huyện Yên sơn. Tuy nhiên trình độ còn nhiều hạn chế nên bài viết này còn nhiều thiếu xót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TônThanh Huyền đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Phần 1
Khái quát chung về BHXH
I/ Tính tất yếu khách quan của BHXH .
Sự xuất hiện của các loại hình quỹ tương hỗ, đặc biệt là sự ra đời của các loại hình bảo hiểm đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Từ đây những nỗi lo toan phiền muộn về các biến cố bất lợi xảy ra trong cuộc sống con người đã được giải tỏa. Con người cảm thấy an toàn hơn với sự giúp đỡ của các công ty, các tổ chức BHXH. Hoạt động của loại hình này đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của người lao động, cho sự ổn định hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức và các công ty. Có thể thấy rằng sự xuất hiện của BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan và là nhu cầu của cuộc sống của người lao động.
Xét từ phía người lao động: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động luôn gặp phải những rủi ro mang tính khách quan như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp gây ra làm cho hị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc người lao động bị chết trong khi con cái đang tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa; hoặc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập từ tiền lương, tiền công, hơn thế nữa bệnh tật ốm đau lại xảy ra thường xuyên hơn gây nhiều khó khăn cho người lao động. Những rủi ro này không chỉ làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm nguồn lực tài chính của họ và gia đình do các chi phí mới phát sinh như: chi phí khám chữa bệnh, chi phí chăm sóc, phục hồi sức khỏe, chi phí mai táng. Do đó cuộc sống của người lao động trong hoàn cảnh này là rất khó khăn và giúp đỡ về mặt tài chính là rất cần thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Xét từ phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường mối quan hệ giữa giới chủ và thợ là mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao động, phải trả công cho họ vừa phải có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp phải rủi ro trong quá trình lao động như: tai nạn lao động, ốm đau. Chính các chi phí phát sinh này làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là những đợt dịch bệnh, trường hợp tích tụ rủi ro, rủi ro mang tính thảm họa. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh để trang trải cho các chi phí đó.
Xét từ phía xã hội: Sự vận động của các quy luật nội tại trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, trong nhiều trường hợp đã đẩy một số doanh nghiệp vào tình trạng bất ổn, thậm chí là phá sản dẫn đến hàng loạt người lao động bị mất việc làm, không đảm bảo được cuộc sống và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp. Vì thế, để đảm bảo nền Kinh tế xã hội phát triển bình thường, xét từ phía trách nhiệm của xã hội, Nhà nước buộc phải tiến hành phân phối lại qua ngân sách Nhà nước hoặc buộc các doanh nghiệp phải tự tạo quỹ tài chính cho vấn đề trên.
Như vậy, đứng trước những rủi ro trong cuộc sống của người lao động, trong quá trình lao động ,sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và cả xã hội đều cần phải có một nguồn lực tài chính đủ lớn nhằm đảm bảo cho sự ổn định cuộc sống của người lao động , hoạt động của các tổ chức và sự ổn định về mặt chính trị, xã hội. Để có nguồn tài chính nàythì con người đã có nhiều biện pháp khác nhau như: né tránh rủi ro, san sẻ tổn thất trong cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc là thành lập các quỹ tương hỗ. Tuy nhiên, các biện pháp trên là không hiệu quả hoặc là hiệu quả không cao (quỹ tương hỗ )biện pháp hữu hiệu nhất là tham gia BHXH tức là trong quá trình lao động cả người lao động và người sử dụng lao động đều trích ra một phần thu nhập của mình để cùng nhà nước thành lập nên một quỹ tài chính BHXH.
Cùng với sự tiến bộ của xã hội tiến bộ của xã hội loài người, BHXH đã được coi như là nhu cầu khách quan củat con người Và được xem như là một trong những quyền cơ bản của con người đã được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/ 12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH . quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.
II/ Các đối tượng của BHXH
Để có được sự nhận biết đúng đắn, đầy đủ về một loại bảo hiểm nào đó, trước hết chúng ta phải xem xét đến các khái niệm cơ bản của chúng như: đối tượng được tham gia, đối tượng được bảo hiểm, đối tượng hưởng thụ quyền lợi bỏa hiểm. đối vơi BHXH việc nhận biết các đối tượng này không khó, tuy nhiên vẫn có nhiều người nhầm lẫn giữa đối tượng và đối tượng tham gia BHXH , họ cho rằng đối tượng của BHXH là người lao động. Thực ra, trong BHXH thì đối tượng của nó chính là thu nhập của người lao động. Bởi lẽ, khi người lao động gặp sự cố hoặc rủi ro thì họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến thu nhập bị giảm hoặc mất hẳn, do đó, tại thời điểm ấy họ mong muốn có một khoản tiền nhất định để chi trả cho các nhu cầu thiết yếu cũng như các nhu cầu mới phát sinh. Còn người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được bảo hiểm, họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH). Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có cả người sử dụng lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH là vì phàn họ thấy được lợi ích thiết thực khi đã tham gia BHXH, một phần là do sự ép buộc của nhà nước thông qua các văn bản qui phạm pháp luật. đối với nhà nước thì lại khác, họ tham gia BHXH với hai tư cách là chủ sử dụng lao động đối vơi tất cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước: tư cách thứ hai là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà cụ thể là bảo hộ giá trị cho quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quĩ nhằm tạo sự ổn định cho quĩ và sự ổn định về mặt xã hội.
Đối tượng được bảo hiểm trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải bỏ ra một khoản chi phí cho người lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh chóng được cơ quan BHXH hoàn trả lại.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là người lao động trong trường hợp họ rủi ro như: ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, hưu trí. Nhưng trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng hưởng thụ quyền lợi BHXH lại là thân nhân của người lao động nhự: bố, mẹ, con, vợ(chồng).
III/ chức năng của BHXH.
BHXH có một số chức năng chủ yếu sau:
+ Thay thế và bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, bị mất việc làm. sự đẩm bảo chắc chắn sẽ xẩy ra vì suy cho cùng mọi người rồi sẽ mất kha năng lao động khi họ hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH vì nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế hoạt động của BHXH.
+ Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước và các bên tham gia đã cùng góp ý xây dựng nên quỹ BHXH. Quỹ này được sử dụng để chi trả cho những người tham gia BHXH không may gặp rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng số lượng này thường nhỏ hơn rất nhiều so với số lượng người tham gia, do đó theo quy luật số đông bù ít, quỹ BHXH đã tiến hành phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Sự phân phối này là phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người già cả, ốm đau đang nghỉ việc. Chức năng này của BHXH đã góp phần tạo nên sự công bằng xã hội mang tính nhân văn cao cả.
+ Góp phần kích thích tinh thần lao động, khuyến khích họ hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Quỹ BHXH thực hiện được chức năng này là vì họ không may gặp các rủi ro, phần thu nhập của hộ bị giảm hoặc không còn, nhưng sự suy giảm này đã được bù đắp một phần hoặc toàn bộ từ quỹ BHXH. Chính vì vậy mà đời sống của người lao động và gia đình họ không bị sáo trộn, hay nói cách khác là họ luôn được đảm bảo cuộc sống và có chỗ giựa về mặt tinh thần. Do đó họ luôn yên tâm sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH những mâu thuẫn giữa người lao động như mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động ...sẽ được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt là cả hai giới này đều thấy được nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích với nhau. Còn đối với Nhà nước và xã hội thì chi cho BHXH là khoản chi rất nhỏ (vì chỉ mang tính chất hỗ trợ), nhưng lại đem lại hiệu quả rất cao trong đảm bảo ổn định trong đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất và kinh tế xã hội.
IV/ Tính chất của bảo hiểm xã hội.
Sự ra đời của BHXH gắn liền với đời sống của người lao động do đó BHXH có một số tính chất cơ bản sau:
+ Mang tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
+ BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Những rủi ro trong BHXH đã hình thành nên tính chất ngẫu nhiên của nó. Bởi lẽ các rủi ro được áp dụng các BHXH đều không thể lường trước được, các rủi ro này xảy ra một cách bất thường. Chính vì vậy mà không phải tất cả người lao động của một tổ chức hay là tất cả các tổ chức đều phải chịu chung một hay nhiều rủi ro cùng một lúc.
+ BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa có tính xã hội và cả tính dịch vụ. Tính kinh tế của BHXH được thể hiện thông qua cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng thì nhất thiết phải có sự đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan. Mức đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù số ít, do thực chất mức đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể so với mức họ được hưởng. Xét dưới góc độ kinh tế thì người sử dụng lao động cũng được lợi rất nhiều trong quan hệ BHXH khi tham gia BHXH họ sẽ không phải chi trả các chi phí cho người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Còn về phía Nhà nước thì hoạt động tạo lập quỹ BHXH đã làm giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN đồng thời nó góp phần đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH đã đem lại rất nhiều lợi ích cho NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
BHXH là một bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội vì tính chất xã hội của nó được thể hiện rất rõ nét về lâu dài mọi NLĐ trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả họ đang còn trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tính chất dịch vụ và tính chất xã hội hóa của BHXH ngày càng cao.
V/ quỹ bảo hiểm xã hội.
1khái niệm: có một số khái niệm về quỹ BHXH:
quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước.
2.Đặc điểm.
-Là một quỹ tiền tệ tập chung, giữ vị chí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư.
-Phân phối quỹ BHXH vừa mâng tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với những người đã tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thỏa mãn về BHXH của người lao động càng được nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng ngày càng được thể hiện thông qua các mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đống góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có thời gian dự bị.
Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
3. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
+Sự đóng góp của người lao động
+Sự đóng góp của người sử dụng lao động
+Sự đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước
+Thu từ các nguồn khác
Đối với phần lớn các nước trên thế giới thì quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên tùy từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của từng quốc gia mà tỉ lệ đóng góp giữa các bên, mức độ đóng góp của từng bên, mức độ can thiệp của Nhà nước, hay phương thức đóng góp sẽ khác nhau.
Về phương thức đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện nay còn có hai quan điểm.Việc xác định mức đóng góp phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp là nội dung của quan điểm thứ nhất. Còn quan điểm thứ hai thì cho rằngphair căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định nên mức đóng góp.
Việc lựa chọn quan điểm nào là tùy thuộc vào mỗi quốc gia nhưng phải đảm bảo rằng mức đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối thu,chi của quỹ BHXH. Trong thực tế việc xác định mức đóng góp của các bên ( thực chất là xác định phí BHXH ) được tính toán một cách rất khoa học. Việc xác định phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường dùng các phương pháp toán học khác nhau để xác định.
Phí BHXH được xác định theo công thức:
P = f1 + f2 +f3
Trong đó : f1: là phí thuần BHXH
f2 : là phí quản lý
f3 : là phí dự trữ
Phí thuần của BHXH là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí BHXH. Phí thuần được xác định để đảm bảo chi trả cho tất cả các chế độ BHXH. Chính vì vậy,việc xác định phí BHXH là rất phức tạp, nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau: cơ cấu lao động theo độ tuổi, đặc điểm cấu tạo sinh học của người trong một nước, kết cấu giới tính trong lực lượng lao động, tuổi thọ bình quân của người dân, điều kiện làm việc chung của người lao động...
Ngoài sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, quỹ BHXH còn được hình thành từ các nguồn khác như : tiền sử phạt đối với các đơn vị vi phạm điều lệ BHXH; sự hỗ trợ, sự viện trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, lãi từ hoạt động đầu tư phần quỹ BHXH nhàn rỗi..
4.Mục đích sử dụng quỹ BHXH .
Như đã trình bày ở phần trên, phí BHXH bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí dự trữ, phí quản lý. Như vậy, rõ ràngquỹ BHXH được dùng cho 3 mục đích: chi trả cho các chế độ BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống BHXH , chi trích lập quỹ dự trữ cho những trường hợptônr thất lớn.
Trong cơ cấu chi BHXH thì cho các chế độ BHXH là rất lớn và chiếm phần lớn nguồn quỹ này vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của BHXH :đẩm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo ổn dịnh hoạt động của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy, việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên và liên tục với số lượng lớn trên phạm vi rộng lớn. Một trong những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu cho những người đã nghỉ công tác; và chi trả trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của người lao động khi họ qua đời.
Nguồn chi thứ hai trong BHXH là chi cho việc quản lý nghiệp vụ BHXH. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi BHXH nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng lớn. Bởi vì các chế độ BHXH ngày càng rộng rãi để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ phục vụ BHXH ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng ra tăng. Vì vậy, chi phí choviệc xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên.
Mục đích chi thứ 3 của quỹ BHXH là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích lũy trong quá trình sử dụng quỹ BHXH. Định kỳ hàng tháng (quý, năm )cơ quan BHXH giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ BHXH hoặc trong lúc đồng tiền mất giá.
5.Tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH .
Quá trình thu BHXH có những đặc thù sau:
Thứ nhất: Việc quy định đóng BHXH đã thành mối quan hệ 3 bên: người lao động ( NLĐ ), người sử dụng lao động (NSDLĐ), và cơ quan BHXH, giữa các bên có sự ràng buộc giám sát lẫn nhau về mức đóng và thời gian đóng BHXH đến từng người suốt quá trình tham gia BHXH, lấy đó làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ BHXH theo luật định.Đây là một nội dung của nghiệp vụ thu BHXH không giống với các nghiệp vụ khác.
Thứ hai: Từ đặc thù thứ nhất, yêu cầu theo dõi kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH cho từng người, tương đương với mức lương làm căn cứ đóng BHXH đây là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục, kéo dài hàng chục năm, lại có biến động về mức đóng. Đồng thời, việc theo dõi ghi chép kết quả đóng góp của mỗi con người là căn cứ pháp lý để thực hiện chế độ BHXH, do đó mỗi lần giải quyết chế độ BHXH là một lần kiểm tra, xác định độ chuẩn xác của nghiệp vụ BHXH .
Thứ ba: Trong nghiệp vụ quản lý thu BHXH, ngoài nghiệp vụ kế toán thực hiện quản lý theo chế độ tài chính thực hiện thu tập trung vào một tài khoản của cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố chuyển lên quỹ BHXH trung ương đúng, kịp thời; còn nghiệp vụ quản lý thu BHXH theo danh sách lao động đăng ký đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cùng sổ BHXH của từng người mà việc quản lý theo dõi phải được thực hiện ở ba cấp là: BHXH tỉnh quản lý danh sách, lao động, tiền lương đơn vị, cơ quan đăng ký đóng BHXH cơ bản tăng, giảm hàng tháng để ghi nhận kế quả đóng lập thành hồ sơ gốc. BHXH huyện làm nhiệm vụ đôn đốc và đối chiếu kêt quả đóng của cơ quan, đơn vị theo địa bàn quản lý, từ đó hướng dẫn cơ quan đơn vị ghi kết quả đóng BHXH vào sổ BHXH của từng người. Đây là căn cứ để giải quyết chế độ hưởng BHXH.
Chính vì những đặc thù trền mà hoạt động thu BHXH đòi hỏi phải được tập trung thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính tiền tệ, đảm bảo đọ chính xác trong việc ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị đến từng lao động theo tiền lương, lấy đó làm căn cứ đóng BHXH từng tháng trong nhiều năm, kể cả trường hợp liên tục cũng như gián đoạn, làm việc một nơi hay nhiều nợi ...Như vậy quá trình theo dõi ghi kết quả thu BHXH đòi hỏi liên tục trong nhiều năm, kể cả thời gian ngừng đóng BHXH vẫn phải lưu giữ đẻ đảm bảo khi người lao động tiếp tục đóng hoặc yêu cầu giải quyết chế độ đều được thực hiện ngay. Hoạt động thu của BHXH là hoạt động của cả đời người, có tính kế thừa, cho nên nghiệp vụ quản lý thu, lưu giữ sổ biểu là không có giới hạn về thời gian.
6. Tính đặc thù của nghiệp vụ chi BHXH.
Thực chất của hoạt động BHXH như là hoạt động của các quỹ tiền tệ, quỹ tín dụng khác thông qua cơ chế đóng góp trước hưởng thụ sau. Tuy nhiên mục đích của hoạt động BHXH là mang tính nhân văn chứ không phải là mang tính kinh doanh. Do đó mà quá trình chi trả của hoạt động BHXH mang những đặc trưng riêng:
Thứ nhất: Quá trình chi trả trợ cấp cho các đối tượng được bảo hiểm vừa được xác định trước vừa không được xác định trước. chúng ta chỉ có thể xác định trước các khoản trợ cấp sẽ phải chi cho chế độ hưu trí và trong chế độ tử tuất khi người lao động đã qua đời. Còn với các chế độ khác như ốm đau, thai san, tai nạn lao động...Thì chúng ta không thể xác định trước được số tiền phải chi trả cũng như khi nào chúng ta phải chi trả số tiền đó. Bởi vì các rủi ro nói trên xảy ra một cách bất thường và hậu quả để lại là không lường trước được. Chúng ta không thể nào biết được khi nào người lao động bị tai nạn lao động, khi nào họ bị ốm đau và mức độ thương tật là bao nhiêu, thời gian nghỉ ốm là bao nhiêu. Chính vì vậy mà việc cân đối nguồn quỹ BHXH là một điều rất khó thực hiện chính xác. Thông thường người ta thường xác định các khoản chi theo phương pháp xác suất thông qua kết quả điều tra thống kê trên quy mô lớn.
Thứ hai: cũng giống như nghiệp vụ thu BHXH nghiệp vụ chi BHXH cho chế độ hưu trí, mất sức lao động, chế độ tử tuất hàng tháng đòi hỏi phải chi trả trong một thời gian dài, liên tục. Mặt khác số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng lên. Do đó việc chi trả các chế độ này rất phức tạp. Nó đòi hỏi một đội ngũ cán bộ nhiệt tình quản lý một số lượng hồ sơ rất lớn và cũng đòi hỏi công tác lưu trũ hồ sơ phải tiến hành rất tốt và kéo dài trong nhiều năm.
Thứ ba: Khác với quản lý thu BHXH việc quản lý chi đặc biệt là quá trình chi trả BHXH đòi hỏi một nguồn nhân lực rất lớn. Thông thường để chi trả các chế độ hưu trí, mất sức lao động, tuất hàng tháng, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp người ta thiết lập mạng lưới chi trả tại tất cả các cụm dân cư để cho các đối tượng hưởng BHXH dễ dàng nhận tiền trợ cấp của mình. Do đó đội ngũ cán bộ cần cho việc chi trả.
7. So sánh quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước.
NSNN là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập của quốc gia nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng nó cho việc trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội theo kế hoạch của Nhà nước.
Từ khái niệm trên về NSNN ta có thể rút ra một số đặc điểm khác nhau và giống nhau giữa quỹ BHXH và NSNN, từ đó ta sẽ hiểu được đây đủ hơn về quỹ BHXH.
Sự giống nhau giữa NSNN và quỹ BHXH
+ Việc tạo lập và sử dụng mỗi nguồn quỹ đều biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Quá trình này cũng đều được thực thi theo các quy định của pháp luật và việc quản lý được tiến hành theo nguyên tắc cân bằng thu chi.
+ Quỹ BHXH và NSNN là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia, chức năng của NSNN mang tính rộng rãi hơn so với quỹ BHXH.
+ Hoạt động của cả quỹ BHXH và NSNN đều không phải là nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời mà hoạt động của chúng mang đậm tính chất xã hội, tính cộng đồng và trong nhiều trương hợp hoạt động của hai quỹ này mang tính nhân văn cao cả.
- Sự khác nhau giữa NSNN và quỹ BHXH
+ Điều kiện tồn tại ra đời và phát triển của NSNN gắn liền với sự ra đời,tồn tại và phát triển của Nhà nước và quá trình thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa với quan hệ thuê mướn nhân công. Khi nền kinh tế càng phát triển, thu nhập của người lao động càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH càng mở rộng, mức độ thỏa mãn của NLĐ khi tham gia BHXH càng cao.
+ Tính chất pháp lý của NSNN cao hơn của quỹ BHXH. Quá trình phân phối của NSNN chủ yếu dựa vào quyền lực kinh tế,chính trị của Nhà nước . Nhà nước ban hành các luật để thực hiện việc thu chi quỹ NSNN và quá trình này được sự giám sát và quản lý chặt chẽ của Quốc hội. Còn đối với quỹ BHXH thì hoạt động thu, chi quỹ cũng được thực hiện dựa vào các văn bản pháp luật nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế,quan hệ lợi ích của những người tham gia theo nguyên tắc có đóng mới có hưởng và ngược lại.
-Quan hệ phân phối của NSNN chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả, chủ thể đóng góp và hưởng thụ NSNN thông thường là tách rời nhau. Còn quan hệ phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Việc hoàn trả là không biết trước chính xác về quy mô, thời gian và không gian.
Quan hệ phân phối của NSNN phản ánh quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân nhằm đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH thì ngược lại, trước hết vì lợi ích của từng cá nhân sau đó là lợi ích của đơn vị và cuối cùng là lợi ích xã hội.
VI/.Các chế độ BHXH .
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại công ước 102 tháng 6 năm 1952 ở Giơnevơ thì mỗi quốc gia nên xây dựng hệ thống BHXH của mình với 9 chế độ trợ cấp. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước mà mức độ tham gia vào công ước 102 là khác nhau. Nhưng để được coi là có hệ thống BHXH thì phải có ít nhất 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất một trong năm chế độ: trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp, hưu trí; trợ cấp khi tàn phế; trợ cấp tuất.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước nhưng đều phải dựa vào điều kiện kinh tế, xã hội,các yếu tố sinh học như tuổi thọ bình quân, xác suất tử vong...
Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
Việc chi trả cho các chế độ đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và một phần là quỹ dự trữ.
Phương tiện thanh quyết toán và chi trả là tiền mặt.
Các chế độ BHXH luôn được diều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi các điều kiện kinh tế, xã hội.
Các chế độ BHXH qui định tại Công ước 102 bao gồm:
* chăm sóc y tế: Chế độ này nhằm cung cấp các khoản viện phí, chi phí thuốc chữa bệnh cho người lao động khi họ bị ốm đau phải nằm viện.Hiện nay ở nước ta chế độ này không được đưa vào chế độ này không được đưa vào hệ thống các chế độ BHXH nhưng được tổ chức thành bảo hiểm y tế vơí đầy đủ các phòng ban chuyên môn.
*Trợ cấp thất nghiệp:
Là loại trợ cấp nhằm đem lại cho người lao động những khoản thu nhập định kỳ để họ đủ khả năng duy trì cuộc sống ổn định khi người lao động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp. Đối với Việt Nam chế độ này đang được xem xét để đưa vào loại hình bảo hiểm thất nghiệp.
* Trợ cấp gia đình: Loại hình trợ cấp này mang đậm tính tương trợ. Bởi vì nó sẽ cung cấp tài chính cho các gia đình trở nên khó khăn, vất vả như: thiên tai, lụt lội, dịch bệnh ...
* Trợ cấp khi tàn phế:
Trong trường hợp người lao động không may bị mất khả năng lao động vĩnh viễn hay bị coi là tàn phế thì họ sẽ được nhận trợ cấp định kỳ hàng tháng (quí, năm) từ quỹ BHXH. Điều này làm cuộc sống của người lao động bớt khó khăn hơn.
Trên đây là 4 trong sô 9 chế độ BHXH được ILO nêu nêu ra mà Việt Nam hoặc là không thực hiện hoặc là xây dựng thành một hệ thống BHXH riêng. 5 chế độ BHXH còn lại đã được nước ta tiếp nhận và thực hiện hoàn chỉnh theo ND 12 CHI PHí ngày 26 tháng 1 năm 1995:
*/chế độ trợ cấp ốm đau:
Mục đích của chế độ này là giúp cho NLĐ có được khoản trợ cấp thay thé thu nhập bị mất do không làm việc khi họ ốm đau. Một số mức hưởng và điều kiện hưởng của chế độ này được qui định như sau:
Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường:
+ 30 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm
+40 ngày trong năm, nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm
+ 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH trên 30 năm
Đối với người lao động làm việc nặng nhọc, độc hại, ở nơi có trợ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên:
+ 40 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm
+ 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm
+ 60 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH trên 30 năm
Mức trợ cấp ốm đau là bằng 75% của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ ốm.
Trong trường hợp NLĐ bị mắc các bệnh cần điều trị dài ngày thì được hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong 1 năm không phân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0063.doc