Công tác thẩm định dự án FDI vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể cho nền kinh tế quốc gia, nhất thiết phải cần tới việc sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Vốn đó có thể xuất phát từ nội lực nền kinh tế trong nước, cũng có thể thu hút từ nước ngoài và đi vào phục vụ nền kinh tế chủ yếu thông qua các dự án đầu tư. Một dự án đầu tư có thể được xác định theo nhiều cách. Các dự án có thể do các Bộ, Ngành hữu quan đề xuất, chúng có thể bắt nguồn từ quá trình

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Công tác thẩm định dự án FDI vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xây dựng các kế hoạch kinh tế quốc gia, hoặc cũng có thể được đề xướng bởi các động lực chính trị. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và nước ngoài khi đầu tư cũng đòi hỏi chính phủ phải trợ giúp hoặc phê chuẩn trước khi thực hiện. Trong bất kể một dự án đầu tư nào, bao giờ cũng có sự mâu thuẫn tiềm ẩn về lợi ích giữa những người đề xuất dự án hay chương trình và toàn xã hội. Sự mâu thuẫn này không phải là một chuyện gì mới lạ: lợi ích của các dự án thường được tập trung cho một bộ phận tương đối hạn hẹp (thường là các chủ đầu tư) trong khi những chi phí về môi trường, chi phí cơ hội cho nguồn lực thì lại phân bổ cho toàn bộ xã hội. Do vậy mà không một cá nhân nào thấy mình phải chịu gánh nặng chi phí mà các dự án đem lại. Kết quả có thể đoán trước được là những người được hưởng lợi từ dự án có xu hướng tận dụng triệt để các ưu đãi về nguồn lực và cố gắng giảm tối thiểu các chi phí bằng cách chuyển các gánh nặng chi phí. Trong khi đó nhóm người có khả năng bị thiệt hại (là những người phải gánh chịu chi phí ) lại quá phân tán và những mất mát của từng cá nhân trong số họ lại quá nhỏ, bởi vậy họ không thể trở thành một đối trọng hiệu quả chống lại nhóm hưởng lợi có tính tập trung cao. Theo cách này, cán cân chính trị thường nghiêng về phía chấp thuận các dự án, ngay cả các dự án có thể gây thiệt hại cho sự phát triển chung của cả quốc gia. Để ngăn chặn điều này xảy ra cần phải có sự can thiệp của chính phủ thông qua các quy định về đầu tư, ban hành các tiêu chuẩn định mức, và chỉ cấp phép cho các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn. Muốn làm được như vậy cần thông qua công tác thẩm định, giám sát đầu tư để làm căn cứ quyết định. Trên thực tế, công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn khá sơ sài, các khía cạnh nghiên cứu, đánh giá phần lớn chỉ mang tính phân tích định tính, thiếu tính định lượng nên mang tính phiến diện trong đánh giá. Thêm vào đó, cơ sở lý luận về vấn đề này lại rất thiếu thốn bởi những vấn đề lý luận chỉ dừng lại ở việc đưa ra các khái niệm, vấn đề liên quan đến tính hiệu quả xã hội của dự án chứ chưa phân tích sâu hơn trong khía cạnh thẩm định…Điều này đặt ra một vấn đề bức thiết đó là phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư. Cũng bởi vậy mà tôi đã chọn đề tài: “Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu và làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2. Mục tiêu nghiên cứu a. Mục tiêu tổng quát: - Tổng hợp cơ sở lý luận cho việc thành lập 1 khung thẩm định hoàn thiện cho công tác thẩm định các dự án đầu tư. Đồng thời tạo cơ sở quản trị rủi do cho các dự án đầu tư. - Đánh giá thực trạng công tác thẩm định trong thời gian qua, các mặt được cũng như hạn chế, làm cơ sở đề ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa công tác thẩm định dư án. b. Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá và bổ sung các vấn đề lý luận liên quan đến công tác thẩm định kinh tế dự án đầu tư nước ngoài. - Phân tích thực trạng và đánh giá những kết quả đạt được của công tác thẩm định dự án đầu tư FDI. - Dựa trên những đánh giá, phân tích thực trạng để làm cơ sở đề ra các giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước với công tác Thẩm định dự án đầu tư nước ngoài. Tức là đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu công tác thẩm định tính kinh tế đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phạm vi về không gian nghiên cứu của đề tài là các dự án đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, với phạm vi thời gian từ năm 1988 ( năm bắt đầu thực hiện luật đầu tư nước ngoài) đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài chủ yếu sừ dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích định tính (gồm các chỉ tiêu định tính, thể hiện các chủng loại hiệu quả đạt được: hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả quốc gia và cộng đồng); phương pháp phân tích định lượng (gồm các chỉ tiêu định lượng, thể hiện quan hệ giữa chi phí và kết quả đạt được của dự án) và phương pháp phân tích dòng tiền, phân tích chi phí – lợi ích. 5. Kết cấu đề tài Từ vai trò của các dự án đầu tư, từ đó là vai trò của công tác thẩm định, giám sát đầu tư đối với nền kinh tế Việt Nam, cùng với yêu cầu cấp thiết đặt ra cho hoàn thiện hệ thống thẩm định trong tình hình hiện nay, tôi chọn đề tài “Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Tôi mong muốn đề tài có thể đóng góp một chút công sức vào việc nghiên cứu, hệ thống vấn đề, đề xuất các giải pháp và cải thiện được công tác thẩm định dự án về dự án đầu tư ở Việt Nam. Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu của đề tài bao gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chuơng 2 : Thực trạng công tác thẩm định các dự án đầu tư FDI vào Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nước ngoài. Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI I. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư 1.1. Khái niệm dự án đầu tư : Từ khi thuật ngữ dự án ra đời, người ta thường dùng nó để chỉ những hoạt động, những quá trình rất khác nhau trong từng lĩnh vực cụ thể. Chúng ta đã được biết đến các dự án như dự án “đường dây cao thế 500kw xuyên Bắc Nam”, dự án “Xây dựng đường cao tốc Thăng Long-Nội Bài”, dự án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, dự án cải cách hệ thống hành chính, dự án cải tạo và nâng cấp môi trường đô thị, dự án tăng cường tiềm lực và phát triển công nghệ quốc phòng tới năm 2010…Các dự án được tiến hành trong các lĩnh vực rất khác nhau, với các nội dung và các hoạt động cụ thể cũng rất khác nhau, nhưng chúng đều được gọi là dự án. Mỗi một dự án đều được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc, cũng như thoả mãn các yêu cầu cụ thể của nền kinh tế hoặc của một tổ chức nhất định. Từ trước tới nay có rất nhiều các nhà khoa học kinh tế cũng như các nhà quản lý đã đưa ra khái niệm rất khác nhau về dự án. Mỗi một quan niệm nhấn mạnh về một số các khía cạnh của một dự án cùng các đặc điểm quan trọng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nếu xét về hình thức, dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai. Nếu xét về góc độ nội dung, dự án được hiểu là một ý đồ tiến hành một công việc cụ thể nào đó nhằm đạt mục tiêu xác định trong khuôn khổ nguồn lực nhất định và khoảng thời gian nhất định. Nếu xét ở góc độ kế hoạch, dự án được hiểu là một chi tiết đầu tư về phát triển, là đơn vị kế hoạch độc lập nhỏ nhất trong hệ thống kế hoạch hoá, làm cơ sở cho việc ra quyết định về đầu tư phát triển. Nếu từ giác độ quan sát các hoạt động cần thiết cho một dự án thì dự án được hiểu là hàng loạt các hoạt động cần thiết nhằm xác định mục tiêu, tiến hành các nghiên cứu khả thi, dự đoán chi phí, hoàn thiện các thủ tục và thiết kế cuối cùng, cũng như việc lắp đặt và hoàn thiện các điều kiện làm việc. Một dự án nhất định sẽ bị giới hạn về thời gian, con người cùng các nguồn lực khác để hoàn thành mục tiêu đã được xác định. Như vậy, một dự án có thể được xem xét như là một chuỗi các công việc và các nhiệm vụ: Có mục tiêu cụ thể được hoàn thành trong những điều kiện nhất định Được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc. Có giới hạn nhất định về tài chính Sử dụng các nguồn lực nhất định về phương tiện, thiết bị, con người… Từ các định nghĩa khái quát về dự án như trên, đến nay dự án đã được dùng rất rộng rãi và phổ biến cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vỡi mỗi lĩnh vực, dự án sẽ được cụ thể hoá một cách chi tiết hơn cho phù hợp với đặc điểm riêng có của lĩnh vực đó. Tuy nhiên, những tính chất chung vốn có của dự án thì vẫn tồn tại và được thể hiện rõ nét ở tất cả các lĩnh vực. 1.2. Dự án đầu tư có các đặc điểm sau: Dự án có tính thống nhất: dự án là một thực thể độc lập trong một môi trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách nhiệm. Dự án có tính xác định: dự án được xác định rõ ràng về các mục tiêu phải đạt được, thời hạn bắt đầu và thời hạn kết thúc cũng như nguồn lực cần có với một số lượng, cơ cấu, chất lượng và thời điểm giao nhận. Dự án có tính logic: Tính logic của dự án được thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận cấu thành dự án. Một dự án thường có 4 bộ phận sau: Mục tiêu của dự án: một dự án thường có hai cấp mục tiêu: mục tiêu phát triển và mục tiêu trực tiếp. - Mục tiêu phát triển: là mục tiêu mà dự án góp phần thực hiện. Mục tiêu phát triển được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng. - Mục tiêu trực tiếp: là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuôn khổ nguồn lực nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Kết quả của dự án: là những đầu ra cụ thể của dự án được tạo ra từ các hoạt động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án. Các hoạt động của dự án: là các đầu vào về vật chất, tài chính, sức lao động cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Nguồn lực cho dự án: là các đầu vào về vật chất, tài chín, sức lao động cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Nguồn lực là tiền đề tạo nên các hoạt động của dự án. Bốn bộ phận trên của dự án có quan hệ logic chặt chẽ với nhau: Nguồn lực của dự án được sử dụng để tạo ra các hoạt động của dự án. Các hoạt động tạo nên các kết quả (đầu ra). Các kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án. Đạt được mục tiêu trực tiếp là tiền đề để góp phần đạt được mục tiêu phát triển. 2. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1. Khái niệm dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này” Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia nào cũng đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp. Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư. 2.2. Vai trò của các dự án FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư . Cụ thể là: - Giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Theo thống kê của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của các nước đang phát triển chiếm khoảng 35- 38% tổng số lao động. - Giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá - thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu tư một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình trạng tích luỹ quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra. - Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của các doanh nghiệp trong  nước ''nóng lên'', buộc họ phải hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. - Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. - Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. - FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không ngừng. Do các công ty tư bản độc quyền quốc gia đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển mà các nước này có thể bước vào thị trường xa lạ, thậm chí có thể xem như “ lãnh địa cấm kỵ ” đối với họ trước kia. - FDI giúp tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thu thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển. II. Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Tổng quan về thẩm định dự án đầu tư 1.1. Khái niệm: Thẩm định kinh tế dự án đầu tư (sau đây gọi tắt là thẩm định dự án) là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án xét trên khía cạnh kinh tế - xã hội, tức là xem xét dự án dưới góc độ chi phí – lợi ích mà toàn xã hội thu được khi thực hiện dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả về mặt xã hội. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định sẽ là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư . 1.2. Tính thiết yếu phải thẩm định dự án đầu tư: Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết, nó bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với chức năng quản lý của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án được đầu tư. Bởi một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo, để đảm bảo tính khách quan cần thiết phải thẩm định khía cạnh kinh tế của dự án. Thẩm định kinh tế dự án là cần thiết, có tính quyết định trong việc trả lời dự án có được chấp nhận và cấp phép đầu tư hay không. Nó là một bộ phận của công tác quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư thực sự có hiệu quả. 1.3. Mục đích của thẩm định dự án Đánh giá tính khả thi của dự án nhằm đưa ra quyết định cấp phép hay không đối với một dự án. Hai tiêu chí được đánh giá là: Đánh giá tính hợp lý của dự án: được biểu hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án, tính phù hợp của dự án với các chương trình phát triển... Đánh giá tính hiệu quả của dự án: hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện đó là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. 1.4. Ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án có ý nghĩa rất lớn, giúp bảo vệ các dự án lớn tốt khỏi bị bác bỏ, ngăn chặn những dự án phi hiệu quả, góp phần đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể là, thẩm định dự án giúp cho các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng, lãnh thổ và của cả nước trên các mặt, mục tiêu, quy mô, quy hoạch. Xác định được hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực xã hội của dự án; những cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động, từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có lợi và hạn chế các mặt có hại… 2. Quy trình thẩm định các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Thực hiện tốt khâu này sẽ đảm bảo được những yêu cầu đặt ra trong công tác thẩm định. Để thực hiện tốt khâu này cần phải có một quy trình thẩm định hợp lý, khoa học. Vì nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án là: Phân tích, đánh giá tính khả thi của dự án về công nghệ, kinh tế, xã hội, môi trường và đề xuất kiến nghị với nhà nước chấp nhận hay không chấp nhận dự án nên về cơ bản, quy trình thẩm định phải bao gồm các bước sau: Cán bộ thẩm định phải xem xét tính hợp lệ của hồ sơ, tính pháp nhân của chủ đầu tư, đánh giá tính phù hợp của lĩnh vực đầu tư đối với sự tác động đến phát triển kinh tế- xã hội. Cán bộ thẩm định phải xác minh tính hợp lý, chính xác của các thông tin do chủ đầu tư đưa ra. Từ đó làm cơ sở cho việc thẩm định có hiệu quả dự án đàu tư. Thành lập các tổ, nhóm chuyên gia, hoặc hội đồng thẩm định (với các dự án lớn) nhằm xem xét đóng góp của dự án đến việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển; đánh giá hiệu quả kinh tế- xã hội mà dự án đem lại, đồng thời đánh giá tính hợp lý của dự án theo các quy chuẩn, chỉ tiêu về công nghệ kĩ thuật, môi trường... Cơ quan thẩm định tổng hợp, đánh giá ý kiến thẩm tra, trình báo cáo, kiến nghị cho các cơ quan quản lý, đồng thời đề nghị cơ quan quản lý cấp hoặc không cấp giấy phép đầu tư cho dự án. 3. Cơ sở phân tích và nội dung thẩm định các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.1. Cơ sở phân tích: Trong phạm vi giới hạn, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thẩm định dự án dưới giác độ nhà quản lý, tức là thẩm định kinh tế đối với dự án đầu tư. Thẩm định khía cạnh kinh tế nhằm đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xác định xem việc thực hiện dự án có cải thiện được phúc lợi kinh tế quốc gia hay không. Sự khác biệt chủ yếu giữa phân tích kinh tế và phân tích tài chính là ở chỗ: Phân tích kinh tế gộp chung lợi ích và chi phí trên tất cả dân cư quốc gia để xác định xem dự án có cải thiện được mức phúc lợi kinh tế quốc gia như là một tổng thể hay không, trong khi phân tích tài chính xem xét dự án từ quan điểm phúc lợi của một nhóm nhỏ dân cư. Chính vì điểm khác nhau căn bản của phân tích kinh tế so với phân tích tài chính nêu trên, nên đối tượng quan tâm tới phân tích kinh tế thường là: Chính phủ, chính quyền địa phương nơi đặt dự án, các cơ quan quản lý nhà nước; đôi khi các tổ chức tín dụng và chủ đầu tư cũng quan tâm tới kết quả phân tích kinh tế của dự án. Một số nội dung chính, các qui ước, nguyên tắc cần quan tâm trong phân tích kinh tế là: Qui ước về giá kinh tế: Mọi lượng nhập, xuất đều được tính toán bằng giá kinh tế. Giá kinh tế được xác định trên cơ sở giá tài chính, thông qua hệ số điều chỉnh để xét đến những biến dạng của thị trường do sự can thiệp của chính sách: Thuế, mậu dịch, giá trần, giá sàn, quota, trợ giá, trợ cấp;… Ngoại ứng: Trong phân tích kinh tế, cần bổ sung thêm ngoại ứng về lợi ích hoặc chi phí mà dự án tạo ra cho con người, môi trường xung quanh vùng dự án. Theo quan điểm toàn quốc gia, các hoạt động phải hy sinh để thực hiện dự án phải được xem và tính như là một khoản chi phí. Nguyên tắc tính toán: Thay vì dựa hoàn toàn vào các nguyên lý kế toán để phân tích lợi ích - chi phí như trong phân tích tài chính, phân tích kinh tế còn đòi hỏi sử dụng kỹ thuật tính toán kinh tế (chủ yếu là kiến thức cơ bản về kinh tế vĩ mô), phương pháp phân tích dòng tiền, chiết khấu để bổ sung vào khung kế toán. Thay vào đó, các hạng mục đầu tư sau khi được điều chỉnh sang giá bóng ( thay cho giá thị trường). Những vấn đề căn bản được nêu ra trong thẩm định kinh tế của một dự án đầu tư có thể được trình bày như sau: Mức độ khác biệt như thế nào giữa các giá trị kinh tế và giá trị tài chính của các biến số. Nguyên nhân của những khác biệt này. Giá trị của các khác biệt này với mức độ chắc chắn như thế nào. Nhằm đảm bảo tính khả thi của dự án về mặt kinh tế, cần phải tính đến các loại tác động ngoại ứng nào. Chính những nội dung, phương pháp và nguyên tắc phân tích nêu trên, dẫn tới hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án về cơ bản là không như nhau, thậm chí đôi khi còn trái chiều nhau. 3.2. Nội dung thẩm định kinh tế dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài: Vì thẩm định dự án là việc cơ quan thẩm định kiểm tra mức độ phù hợp của thiết kế dự án với các mục tiêu kinh tế - xã hội nên về cơ bản, người làm công tác thẩm định sẽ phải rà soát lại tất cả các khía cạnh mà chủ đầu tư đã đề cập trong thiết kế dự án. Tuy nhiên, với tư cách là người đề xuất quyết định có cấp giấy phép đầu tư cho các dự án hay không, cơ quan thẩm định sẽ phải đánh giá giá trị thực sự mà dự án mang lại cho xã hội, chứ không phải trên quan điểm chủ đầu tư. Điều này nghĩa là, cơ quan thẩm định sẽ phải đánh giá giá trị thực sự mà dự án đem lại cho xã hội, xét xem nó có tuân thủ theo các yêu cầu về kĩ thuật, thể chế, tổ chức như quy định hay không, hoạt động của dự án có làm nguy hại tới lợi ích xã hội, môi trường hay không và nếu có thì biện pháp khắc phục là gì, lợi ích mà dự án tạo ra được phân phối như thế nào giữa các dối tượng thụ hưởng…Do vậy, công tác thẩm định dự án sẽ bao gồm một số nội dung cơ bản: 3.2.1. Thẩm định khía cạnh thể chế, tổ chức, quản lý của dự án a. Mục tiêu thẩm định: Thẩm định từ khía cạnh thể chế, tổ chức, quản lý của dự án nhằm rà soát lại một cách chính thức tính hợp lệ của hồ sơ thiết kế dự án, cũng như các vấn đề chung nhất về tổ chức và quản lý của dự án. Căn cứ pháp lý của dự án là điều kiện tiên quyết để xem xét dự án có được chấp nhận hay không. Dự án sẽ chỉ tiếp tục được xem xét nếu thoả mãn các yêu cầu pháp lý, các thủ tục quy định cần thiết. b. Qui trình thẩm tra: Bước 1: Kiểm tra hồ sơ trình duyệt: Đây là bước đầu tiên, cần phải kiểm tra xem hồ sơ trình duyệt đã đủ chưa, các hồ sơ chứng nhận có phù hợp hay không. Nhìn chung, bộ hồ sơ xin cấp giấy phếp đầu tư bao gồm: Đơn xin cấp giấy phép đầu tư Hợp đồng liên doanh (nếu có) Giấy phép thành lập doanh nghiệp Giấy phép kinh doanh Điều lệ doanh nghiệp Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các chủ đầu tư. Giải trình kinh tế - kỹ thuật. Các hồ sơ về công nghệ: hồ sơ xin thuê đất, báo cáo đánh giá tác động môi trường, chứng chỉ quy hoạch và thiết kế sơ bộ của dự án. Bước 2: Đánh giá tư cách pháp nhân của chủ đầu tư: Việc thẩm định này là khó khăn và phức tạp nhất và cán bộ thẩm định cần phải có các thông tin sau: - Công ty đầu tư là độc lập hay là đại diên cho 1 công ty khác, là công ty tài chính hay đầu tư. - Mục tiêu, thế mạnh của họ là gì? Mục đích đầu tư có phù hợp mục đích kinh doanh và khả năng hay không? Tư cách pháp nhân thể hiện ở giấy phép đăng kí do cơ quan có thẩm quyền cấp và ngoài ra còn được xem xét trong tính phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế chung của cả vùng, cả nước. 3.2.2. Thẩm định hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án: Đây là nội dung quan trọng nhất trong thẩm định dự án đầu tư. a. Mục tiêu: Đứng trên giác độ chủ đầu tư, mục đích quy tụ luôn là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án chính là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận mọi việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lợi cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà đôi khi nó cũng tạo ra những trở ngại cho quá trình phát triển. Do đó, trên giác độ quản lý vĩ mô cơ quan thẩm định phải xem xét, đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư có những tác động gì đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; có nghĩa là phải xem xét những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện dự án đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư. Lợi ích kinh tế - xã hội của dự án đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra khi thực hiện dự án. b. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội: Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hoá phúc lợi xã hội. Mục tiêu này thường thể hiện trong các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Với các nước đang phát triển, lợi ích kinh tế - xã hội thường được đề cập đó là : Nâng cao mức sống dân cư: thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc dân, mức gia tăng tích luỹ vốn, mức gia tăng vốn đầu tư, tốc độ phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế… Phân phối lại thu nhập: thể hiện qua sự đóng góp của dự án vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển, nâng cao đời sống của tầng lớp dân cư nghèo. Gia tăng số lao động có việc làm. Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ. Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là các nước nhập siêu. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Các mục tiêu khác: Mức độ khai thác và tận dụng tài nguyên. Nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ, tay nghề lao động, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác Phát triển các địa phương nghèo, các vùng xa xôi dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng. c. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội do thực hiện dự án đầu tư : Đối với các cấp quản lý về vĩ mô của nhà nước, khi xem xét lợi ích kinh tế - xã hội của dự án phải tính đến mọi chi phí, lợi ích; cả trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến việc thực hiện dự án đem lại. Để xác định các chi phí, lợi ích đầy đủ của các dự án đầu tư, cần phải sử dụng các báo cáo tài chính, thêm bớt các hạng mục chi phí và lợi ích kinh tế, tính lại các giá đầu vào và đầu ra theo giá xã hội ( giá bóng). Không thể sử dụng giá thị trường để tính thu chi và lợi ích kinh tế - xã hội vì giá thị trường không phản ánh đúng chi phí xã hội thực tế, nó chịu sự chi phối của các chính sách tài chính, kinh tế, hành chính của nhà nước, các ảnh hưởng ngoại ứng và thất bại của thị trường. Khi tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội của những dự án có tầm cỡ lớn phải điều chỉnh lại các giá này theo giá xã hội, cần phải lưu ý đến các yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến dự án và ngược lại. Các nguyên tắc cần quán triệt trong điều chỉnh là : Đối với đầu ra: Để xuất khẩu dùng giá FOB để điều chỉnh. Đây là giá xã hội thực tế sử dụng trong nước. Để tiêu thụ nội địa thay thế nhập khẩu dùng giá CIF để điều chỉnh. Đây là giá xã hội thực tế sử dụng trong nước. Để tiêu thụ nội địa: Nếu là hàng thiết yếu thì dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh. Giá này bằng giá thị trường trong nước cộng với trợ giá (nếu có). Nếu là hàng thông thường thì dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh. Giá này bằng giá thị trường trong nước cộng với thuế gián thu (nếu có). Đối với dịch vụ hạ tầng tiêu thụ nội địa (nếu không thể xuất khẩu như điện, nước, khí đốt, vận tải…) thì dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh hoặc chi phí sản xuất tuỳ thuộc loại nào cao hơn. Đối với đầu vào: Nhập khẩu (vật tư, thiết bị) dùng giá CIF để điều chỉnh. Giá này bằng giá CIF cộng với cước phí vận tải, phí bảo hiểm… trong nước. Đây là giá xã hội thực tế thanh toán ở trong nước. Sản xuất nội địa: Loại đầu vào sản xuất nội địa có thể xuất khẩu dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh hoặc giá FOB điều chỉnh tuỳ thuộc giá nào cao hơn. Loại đầu vào sản xuất nội địa có thể nhập khẩu dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh hoặc giá CIF điều chỉnh tuỳ thuộc giá nào thấp hơn. Các loại đầu vào khác dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh (giá thị trường cộng với trợ giá). Dich vụ hạ tầng tạo ra trong nước nếu không thể xuất hoặc nhập khẩu được dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh hoặc chi phí sản xuất tuỳ thuộc mức nào cao hơn. Đất đai: dùng giá thị trường trong nước điều chỉnh đối với đất để xây dựng nhà máy . Lao động: gồm tiền lương, tiền thưởng và phụ cấp….. Để điều chỉnh giá FOB và CIF về tiền nội địa cần sử dụng tỷ giá hối đoái có điều chỉnh. Tỷ giá hối đoái có điều chỉnh là thước đo giá trị xã hội thực tế của ngoại tệ khi tỷ giá chính thức bị sai lệch không ph._.ản ánh đúng giá trị thực tế của ngoại tệ. d. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế: · Giá trị hiện tại ròng kinh tế (ENPV – Economic Net Present Value) Giá trị hiện tại ròng kinh tế là tổng lãi ròng kinh tế của cả đời dự án được qui đổi về năm đầu tiên theo tỷ lệ chiết khấu kinh tế cho trước. Chỉ tiêu này được tính như sau: Trong đó: EBt là lợi ích kinh tế của dự án năm t ECt là chi phí kinh tế của dự án năm t n : Thời đoạn phân tích dự án re – Tỷ lệ triết khấu kinh tế. Chỉ tiêu này nói lên lãi ròng kinh tế của dự án, phản ánh đóng góp của dự án vào phúc lợi xã hội nói chung. Đánh giá chỉ tiêu ENPV: Nếu dự án có ENPV > 0 thì dự án được chấp nhận Nếu có nhiều phương án loại bỏ lẫn nhau, phương án nào có ENPV lớn hơn thì được đánh giá cao hơn. · Tỷ số Lợi ích/ Chi phí kinh tế (EBCR): Tỷ số lợi ích/ Chi phí kinh tế (EBCR – Economic Benefit Cost Rate) là tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của lợi ích kinh tế thu được với giá trị hiện tại của chi phí kinh tế bỏ ra theo tỷ lệ chiết khấu kinh tế nhất định. Chỉ tiêu này được tính như sau: Đánh giá chỉ tiêu EBCR: Nếu dự án có EBCR 1 thì dự án có hiệu quả về mặt kinh tế · Tỷ suất nội hoàn kinh tế ( Economic Internal Rate of Return- EIRR) Tỷ suất nội hoàn kinh tế là tỷ lệ chiết khấu kinh tế làm giá trị hiện tại ròng kinh tế của dự án bằng 0. Chỉ tiêu này được tính như sau: Tiêu chuẩn đánh giá: Bản chất của EIRR thể hiện mức sinh lời mà dự án đem lại cho toàn xã hội, bởi vậy nhà quản lý luôn luôn mong muốn dự án có EIRR càng cao càng tốt. Có một mốc chuẩn để nhà quản lý quyết định có nên cấp phép thực hiện dự án hay không, đó là so sánh EIRR của dự án với suất sinh lợi tối thiểu chấp nhận được. là điều kiện để kết luận dự án đáng giá. · Việc làm do dự án tạo ra: số lao động có việc làm nếu dự án được triển khai. · Đóng góp của dự án cho ngân sách nhà nước: được thể hiện ở số tiền thuế mà ngân sách thu trực tiếp từ dự án và thể hiện ở số tiền thuế thu thêm được từ các dự án khác nhờ có sự tác động của dự án đang xét. · Đóng góp của dự án vào việc cải thiện cán cân thanh toán: Đóng góp của dự án vào cải thiện cán cân thanh toán thể hiện qua chỉ tiêu thu nhập ngoại hối thuần do dự án tạo ra. Thu nhập ngoại hối thuần bao gồm 2 bộ phận: Số thu nhập ngoại hối tăng thêm do dự án tạo ra. Thu nhập ngoại hối do sản xuất những hàng hoá thay thế nhập khẩu. 3.2.3. Phân tích độ nhạy và rủi do dự án về khía cạnh kinh tế Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của dự án nêu trên thường tính toán dựa trên các giá trị có nhiều khả năng xảy ra nhất của các biến số dự án. Các biến số này thường khó dự đoán trước và kết quả dự án tạo ra cũng không hoàn toàn chắc chắn. Vì thế trong thẩm định kinh tế, người ta cũng phải tiến hành phân tích độ nhạy và rủi do của dự án nhằm đưa ra các biện pháp quản trị rủi do. Việc tính toán các chỉ tiêu ENPV, EIRR thì phải căn cứ vào các dòng lợi ích-chi phí dự tính và các giả định để tính toán được coi là tình huống cơ sở. Việc tính toán độ nhạy của dự án đựơc thực hiện bằng cách đưa ra các kịch bản: dự báo các rủi ro có thể xảy ra trong khi thực hiện dự án, thay đổi một hoặc một số thông số đầu vào tăng hay giảm và tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của dự án, hậu quả thông tin không chính xác… Nếu hầu hết các tình huống đưa ra đều cho kết quả ENPV > 0 thì có thể tiến hành cấp phép thực hiện dự án. Trường hợp ENPV £ 0 thì tạm kết luận mức rủi ro dự tính cao và cần xem xét lại trước khi ra quyết định và do đó có thể điều chỉnh lại tỷ lệ chiết khấu kinh tế của dự án cho phù hợp. Việc thẩm dịnh mức độ tin cậy của dự án giúp cho nhà quản lý có cái nhìn toàn diện về dự án đầu tư để từ đó bảo đảm tính hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. 3.2.4. Thẩm định về công nghệ, tác động môi trường Đây là một công việc khá phức tạp, tốn kém vì phải kiểm tra các phép tính toán, xem xét toàn bộ các kết quả giải trình kinh tế- kỹ thuật. Phải xem xét đến công nghệ và phương pháp sản xuất, chuyển giao công nghệ đặc biệt là công nghệ cao. Công nghệ chuyển giao phải đạt được các yêu cầu sau: Công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Nâng cao tính năng kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất. Tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời nghiêm cấm việc chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và an toàn lao động. Với công nghệ từ các nước G7 thì không quá 10 năm, từ các nước khác không quá 8 năm, chất lượng còn lại phải lớn hơn hoặc bằng 80% máy mới, không được tiêu hao nguyên liệu quá 10%. Phải xem xét về công suất máy móc thiết bị, công suất khả thi, mức sản xuất dự kiến. Đặc biệt cần quan tâm là giá cả thiết bị công nghệ (kể cả phần cứng và phần mềm). Những yếu tố nhập khẩu do lượng thông tin không đầy đủ hoặc thiếu kinh nghiệm, các nhà quản lý thường dễ bị sơ hở nên cần được kiểm tra kỹ lưỡng. Khi thẩm định phải rất quan tâm xem xét đến: Ảnh hưởng của dự án đến môi trường và cách xử lý các chất có khả năng gây ô nhiễm qua nước thải, chất thải rắn, khí thải. Các giải pháp mà dự án sử dụng để chống ô nhiễm, các thiết bị sẽ sử dụng để thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp xử lý cuối cùng (phân huỷ, chôn cất) các chất độc hại thu hồi từ khí thải, nước thải, chất thải rắn của dự án. Thành phần khí thải, nước thải, chất thải rắn sau khi áp dụng các biện pháp trên? Đồng thời cần xem xét những ảnh hưởng khác đến môi trường và các biện pháp khắc phục bao gồm: Ảnh hưởng đến mặt bằng ( khi khai thác đá, khoáng sản…) Ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ( khi khai thác sử dụng tài nguyên rừng, biển…) Ảnh hưởng của bụi, tiếng ồn,… Giải pháp khắc phục. Ngoài vấn đề công nghệ và ảnh hưởng đến môi trường của dự án, thẩm định kỹ thuật, công nghệ đồng thời cũng xem xét đến các mặt: - Các nguyên liệu đầu vào: Cơ sở pháp lý, kỹ thuật để xác định quy mô, trữ lượng và khả năng tiềm tàng của các yếu tố đầu vào, xem xét nguyên liệu đầu vào thuộc loại gì, lấy ở đâu, giá cả như thế nào, tỷ lệ nhập nguyên liệu ra sao. Nhìn chung, nguyên liệu trong nước có tỷ lệ cao thì tốt, tuy nhiên cũng tránh khia thác quá mức các nguồn tài nguyên. Chất lượng của các yếu tố đầu vào, các căn cứ đánh giá. Hình thức khai thác, cung cấp, khả năng bảo đảm ổn định của nguyên vật liệu đầu vào. Về cơ sở hạ tầng cung cấp: dự án sẽ sử dụng năng lượng gì, có liên tục không. Nguồn nước cung cấp và nguồn nước thải có phù hợp với môi trường xung quanh không Cơ sở hạ tầng khác như thông tin, chất thải, an toàn, phòng cháy chữa cháy… Thẩm tra về địa điểm: bao gồm cả văn bản pháp lý và địa điểm cụ thể Tìm hiểu kỹ về chính sách kinh tế- xã hội của Chính phủ, địa phương về khu vực đó. Dự án không được mâu thuẫn với quy hoạch tổng thể. Tuân thủ luật xây dựng, các quy định về quy hoạch xây dựng và kiến trúc của địa phương, các quy định của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về phòng cháy, chữa cháy, quản lý di tích lịch sử, an ninh quốc phòng… Các chất phế thải, nước thải độc hại đều phải qua khâu xử lý và gần tuyến thải cho phép. Về nguồn nhân lực: khi thẩm định cần xem xét về: Dân số trong khu vực và trình độ văn hoá Số lao động có thể thu hút và sử dụng cho dự án Chi phí cho sử dụng lao động. Thẩm định kỹ thuật xây dựng công trình của dự án . Xem xét việc xây dựng có phù hợp với tổng thể không, có phù hợp với công nghệ, thiết bị và yêu cầu về môi trường không. Về mặt thiết bị cần kiểm tra tính đồng bộ với công suất của các thiết bị, các công đoạn sản xuất với nhau, mức độ tiêu hao nguyên liệu, năng lượng, tuổi thọ, yêu cầu sửa chữa bảo dưỡng, khả năng cung ứng phụ tùng. Đối với các loại thiết bị nhập khẩu, ngoài việc kiểm tra theo các nội dung trên cần phải kiểm tra thêm về các mặt như: các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu có đúng với luật và thông lệ ngoại thương hay không, tính pháp lý về trách nhiệm của các bên ra sao. Xem xét các hạng mục phải xây dựng mới và các hạng mục công trình cải tạo nâng cấp. Kiểm tra các giải pháp xây dựng căn cứ vào yêu cầu công nghệ, các định mức, tiêu chuẩn xây dựng của loại dự án, nhu cầu xây dựng các hạng mục công trình chính, phụ trợ, hạ tầng kỹ thuật. Xem xét về tổ chức xây dựng, trình tự và tiến độ thi công. Điều này liên quan tới thời gian đưa dự án vào sử dụng, thời gian góp vốn, công nghệ 4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4.1. Những nhân tố khách quan: 4.1.1. Quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài Các chủ trương chính sách của nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác thẩm định. Đó là: Phân cấp thẩm định và ra quyết định đầu tư; các ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư ; các định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội theo lãnh thổ; các quy định trong việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ. Các quy định này không chỉ tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động thẩm định mà còn tác động trực tiếp đến việc thực thi các dự án sau này. 4.1.2. Môi trường pháp luật Các văn bản pháp luật là yếu tố trực tiếp định hướng và ảnh hưởng đến công tác thẩm định. Các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thẩm định các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được quy định cụ thể và gần đây đã được bổ sung sửa đổi để ngày càng phù hợp và cập nhật hơn với thực tế hiện nay. Những tiến bộ hay những mặt còn hạn chế của các văn bản pháp luật chính là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến chất lượng của công tác thẩm định cũng như việc ra quyết định đầu tư. Một số văn bản pháp luật liên quan đến công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang áp dụng hiện nay là: Luật đầu tư số 59/2005/QH của Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2005 quy định về hoạt động đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 09/6/2000. Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15//8/1998 của Chính phủ về Ban hành quy chế đầu tư theo Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao, Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh, Hợp đồng xây dựng- chuyển giao áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Nghị định số 02/1998/NĐ-CP ngày 27/01/1999 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 62/1998/NĐ-CP. Thông tư số 12/2000/TT-BKH ngày 13/9/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam... 4.1.3. Tác động của lạm phát Lạm phát là yếu tố bất định có ảnh hưởng tới việc thẩm định kinh tế dự án. Lạm phát gây nên sự thay đổi về giá cả theo thời gian. Do vậy, nó làm biến đổi mức chiết khấu khi đánh giá hiệu quả dự án đầu tư. Mức lạm phát không thể dự đoán một cách chính xác vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quy luật cung cầu, thu nhập và tâm lý người tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Các biến số kinh tế trong dự án, các yếu tố đầu vào của các chỉ tiêu như ENPV, EIRR…đều chịu tác động của lạm phát. Do vậy, đánh giá tính hiệu quả của một dự án nào đó, cần phải xác định chính xác, hợp lý giá cả của các yếu tố cấu thành. Việc tính toán đến yếu tố lạm phát sẽ làm cho quá trình phân tích dự án được chính xác hơn, hiệu quả thẩm định dự án cao hơn. 4.2. Những nhân tố chủ quan 4.2.1. Phương pháp thẩm định Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào từng nội dung của dự án cần xem xét. Việc lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp đối với từng dự án là một yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng thẩm định. Các phương pháp thường được sử dụng đó là phương pháp so sánh, phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Tuy nhiên phương pháp chung để thẩm định là so sánh, đối chiếu nội dung dự án với các chuẩn mực đã được quy định bởi pháp luật và các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật thích hợp hoặc thông lệ (quốc tế, trong nước) cũng như các kinh nghiệm thực tế, phần lớn mang tính chất định tính. 4.2.2. Thông tin Thông tin là một yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thiếu được trong công tác thẩm định. Thông tin đầy đủ và chính xác là cơ sở cho việc thẩm định đạt kết quả cao. Ngược lại thông tin không đầy đủ và phiến diện sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm về tính khả thi của dự án, từ đó có thể đưa đến những quyết định đầu tư sai lầm. Đặc biệt đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối tác là người nước ngoài ở nhiều khu vực khác nhau nên việc tìm hiểu, thu thập thông tin chính xác về họ lại càng trở nên cần thiết. Các thông tin cần thiết cho việc thẩm định một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm cả các thông tin về đối tác trong nước cũng như nước ngoài. Đối với bên Việt Nam cần tìm hiều các thông tin đầy đủ về các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam tham gia liên doanh như tư cách pháp lý, ngành nghề định kinh doanh, khả năng tài chính trong tham gia liên doanh…Đối với bên nước ngoài, các thông tin không thể thiếu được là tư cách pháp lý, năng lực tài chính, lịch sử phát triển, uy tín, vị thế của đối tác trong kinh doanh, đạo đức doanh nghiệp, công nghệ áp dụng vào Việt Nam…Ngoài ra cũng cần có những thông tin chính xác liên quan đến các chính sách mới, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế. Để có được nguồn thông tin có chất lượng thì phương pháp thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy bên cạnh việc phối hợp giữa các cơ quan, công ty để thu được những thông tin từ nhiều nguồn và nhiều chiều; vấn đề xử lý, phân tích và lưu trữ thông tin cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng và từng bước nâng cao chất lượng của hoạt động này. 4.2.3. Quy trình và nội dung thực hiện thẩm định Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Thực hiện tốt khâu này sẽ đảm bảo được những yêu cầu đặt ra trong công tác thẩm định. Để thực hiện tốt khâu này phải có một quy trình thẩm định hợp lý, khoa học. Xây dựng được một quy trình thẩm định phù hợp sẽ đảm bảo được các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp các ngành, các địa phương trong việc đánh giá, thẩm định và xử lý những vấn đề tồn tại của dự án; đồng thời đảm bảo tính khách quan trong việc thẩm định các dự án, cho phép phân tích đánh giá sâu sắc các căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề chuyên môn; bên cạnh đó còn đơn giản hoá được công tác tổ chức thẩm định mà vẫn nâng cao được chất lượng thẩm định. 4.2.4. Đội ngũ cán bộ thẩm định Các tố chất của cán bộ thẩm định bao gồm cả năng lực, trình độ, kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm. Để công tác thẩm định đạt kết quả cao đòi hỏi người cán bộ thẩm định phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa năng lực sẵn có của bản thân, trình độ chuyên môn và những kinh nghiệm từ thực tế, đặc biệt phải thực sự có tinh thần trách nhiệm, biết đặt lợi ích của công việc lên hàng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình để đưa ra những kết luận khách quan về dự án, làm cơ sở đúng đắn cho việc ra quyết định đầu tư. 4.2.5. Vấn đề định lượng và xác định tiêu chuẩn trong đánh giá thẩm định dự án Để thẩm định đánh giá tính khả thi của dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật mặc dù trong thẩm định đánh giá dự án cũng có những vấn đề được phân tích lựa chọn trên cơ sở định tính. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cần thiết phải giải quyết được hai vấn đề là định lượng và xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá các chỉ tiêu đó. Để có cơ sở đánh giá dự án thì việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn hoặc chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết, trước hết là các chỉ tiêu về kinh tế và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả dự án như: tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho từng loại dự án, lượng hoá các luồng lợi ích - chi phí, chuyển đổi giá kinh tế của các hạng mục, … Đây là những điểm cần phải được đặc biệt chú ý đối với các cơ quan thẩm định dự án. Chương II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CÁC DỰ ÁN FDI VÀO VIỆT NAM I. Khái quát chung về các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua. 1. Tình hình thẩm định cấp phép đầu tư. Tính đến cuối năm 2008, cả nước có hơn 10.600 dự án FDI được thẩm định và cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 165 tỷ USD. Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có  9.240 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 150 tỷ USD. Tình hình cấp phép đầu tư theo vùng, ngành kinh tế: Bảng 1: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm 1988 - 2007 phân theo vùng:  Các vùng kinh tế Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)(*) Tổng số Trong đó: Vốn điều lệ Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp Tổng số 9810 99596.2 43129.0 36413.7 6715.3 Đồng bằng sông Hồng 2261 26728.0 11663.1 9356.3 2306.8 Đông Bắc 409 3014.9 1260.2 975.7 284.5 Tây Bắc 38 154.1 61.3 50.9 10.4 Bắc Trung Bộ 145 2084.6 713.8 565.6 148.2 Duyên Hải Nam Trung Bộ 414 8349.3 3719.1 3039.4 679.7 Tây Nguyên 128 1183.8 292.4 226.6 65.8 Đông Nam Bộ 5931 50837.9 20969.8 18230.2 2739.6 Đồng bằng sông Cửu Long 425 4057.9 1806.1 1630.1 176.0 (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép từ 1988 đến 2007 phân theo ngành kinh tế Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) Tổng số Trong đó: Vốn điều lệ Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp Tổng số 9810 99596.2 43129.0 36413.7 6715.3 Nông nghiệp và lâm nghiệp 518 3397.5 1512.2 1322.4 189.8 Thủy sản 156 515.1 249.3 188.4 60.9 Công nghiệp khai thác mỏ 119 3742.8 2892.3 2525.9 366.4 Công nghiệp chế biến 6323 52345.4 21328.6 18598.4 2730.2 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 30 1937.7 612.3 594.6 17.7 Xây dựng 254 6808.0 2171.3 1600.9 570.4 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 108 641.9 292.2 192.9 99.3 Khách sạn và nhà hàng 291 7620.6 3144.9 2474.0 670.9 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 272 5072.3 3788.4 2918.7 869.7 Tài chính, tín dụng 65 862.7 791.1 730.6 60.5 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 1341 14191.8 5252.3 4391.9 860.4 Giáo dục và đào tạo 101 146.8 72.7 60.3 12.4 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 54 591.4 224.8 188.5 36.3 HĐ văn hóa và thể thao 112 1683.5 769.4 603.1 166.3 HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng 66 38.7 27.2 23.1 4.1 (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2. Tình hình thực hiện các dự án FDI Trong hơn 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn FDI đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Biểu đồ 1: Tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp FDI trong GDP Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đâu tư Như vậy, từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đóng góp trên 17% GDP. Biểu đồ 2: Giá trị xuất khẩu của cac doanh nghiệp FDI Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ta có thể thấy, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn FDI cũng gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước;(nếu tính cả dầu thô thì tỷ lệ này lên tới 56%). Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn FDI (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2008, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 tỷ USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm tới 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn FDI cũng tạo việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư không nhỏ, tính đến năm 2008, tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người, góp phần quan trọng vào giải quyết vấn đề công an việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam hiện nay. II. Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư 1. Về quy trình tổ chức thẩm định dự án đầu tư Quy trình thẩm định vẫn được thực hiện tuân theo quy tắc "một cửa" và đã loại bỏ những khâu không cần thiết, những chồng chéo vướng mắc, phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền của cán bộ thực thi nhiệm vụ, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức và cá nhân, giải quyết các yêu cầu của tổ chức, công dân một cách nhanh chóng thuận tiện đúng quy định của pháp luật. Cụ thể bao gồm các bước sau: - Chủ đầu tư nộp hồ sơ cho bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. - Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả kiểm tra thủ tục, số lượng hồ sơ, hướng dẫn kê khai bổ sung (nếu thiếu). - Khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ người tiếp nhận hồ sơ tiến hành ghi mã số vào phiếu nhận, có chữ ký của bên giao (có địa chỉ, số điện thoại để thông tin liên hệ khi cần thiết). Trong thời gian 01 ngày làm việc, sau khi nhận hồ sơ, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả báo cáo lãnh đạo cơ quan thẩm định xem xét để giao cho phòng chuyên môn, chuyên viên trực tiếp giải quyết hồ sơ hoặc yêu cầu thành lập hội đồng đánh giá. Trong thời gian tối đa 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, cán bộ chuyên môn được phân công giải quyết nếu thấy hồ sơ chưa đạt chất lượng yêu cầu thì sẽ báo lại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ để trực tiếp thông báo bằng văn bản cho chủ đầu tư về yêu cầu cần chỉnh sửa hoàn chỉnh hồ sơ. Cán bộ nhận hồ sơ có trách nhiệm giải thích rõ những yêu cầu cần chỉnh sửa hoàn thiện hồ sơ cho chủ đầu tư (việc hướng dẫn này chỉ thực hiện một lần). Cán bộ được giao giải quyết hồ sơ có trách nhiệm nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra thực địa (nếu cần), phối kết hợp với các cơ quan chức năng (nếu công việc có liên quan), hoàn thành các thủ tục giải quyết hồ sơ. Phòng chuyên môn, chuyên viên thực hiện xong bàn giao kết quả trả lại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để chuyển Văn thư đóng dấu cơ quan và trả cho tổ chức, cá nhân theo phiếu hẹn. Trường hợp giải quyết hồ sơ không đúng như thời gian đã hẹn thì bộ phận tiếp nhận và trả kết quả có trách nhiệm thông báo cho tổ chức, cá nhân biết lý do và hẹn lại thời gian trả kết quả. Sơ đồ: Quy trình thẩm định Sơ đồ thẩm định: Chủ đầu tư nộp hồ sơ dự án Tiếp nhận hồ sơ và ghi biên nhận Kiểm tra, xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ Tiến hành thẩm định Lập tờ trình thẩm định Thủ tướng, lãnh đạo bộ, địa phương đánh giá, xem xét lại, cho ý kiến chỉ đạo Ra quyết định cấp phép đầu tư Yêu cầu bổ sung đầy đủ chưa đầy đủ, hợp lệ đầy không đạt đạt yêu cầu Thời gian thẩm định là 40 làm việc ngày đối với dự án nhóm A, 30 ngày làm việc với dự án nhóm B, 20 làm việc ngày với dự án nhóm C. 2. Về nội dung thẩm định Nội dung thẩm định 3 khía cạnh dự án được thực hiện như sau: 2.1. Thẩm định khía cạnh thể chế, tổ chức, quản lý của dự án - Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án - Thẩm định tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của pháp luật, có hợp lệ hay không? - Thẩm định mục tiêu của dự án để xem xét tính phù hợp của dự án đối với các chương trình kinh tế của địa phương, vùng, ngành. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành cho phép hoạt động hay ưu tiên không? Cụ thể, đối với Việt Nam các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu tư bao gồm: Sản xuất hàng xuất khẩu Nuôi trồng, chế biến nông lâm thuỷ sản Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam. Xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng. Các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn được khuyến khích đầu tư . Các lĩnh vực không được cấp giấy phép đầu tư bao gồm: Các dự án gây nguy hại đến an ninh quốc gia, quốc phòng và lợi ích công cộng. Các dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục Việt Nam Các dự án gây tổn hại đến môi trường sinh thái, các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam. Các dự án sản xuất các loại hoá chất độc hoặc sử dụng các tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế. Nếu dự án đầu tư thỏa mãn các yêu cầu trên thì được đánh giá các khía cạnh còn lại, nếu thiếu phải được bổ sung hoặc bị bãi bỏ nếu trái với quy định về lĩnh vực được phép đầu tư. Dự án đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn trên thì được tiếp tục tiến hành thẩm định, nếu không sẽ bị loại bỏ. 2.2. Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội Hiện tại các tiêu chí đánh giá khía cạnh này mới chủ yếu dựa trên các phân tích định tính như việc đánh giá mức đóng góp của dự án vào việc thay đổi cơ cấu kinh tế, những đóng góp trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội (lao động, tiền lương, chuyển giao công nghệ...) Các chỉ tiêu hiệu quả hiện tại vẫn chưa được lượng hóa do việc tính toán rất phức tạp, đòi hỏi phải có thông tin đầy đủ và chính xác; máy móc hiện đại và phần mềm tính toán chuyên dụng, và dù vậy điều này cũng mất rất nhiều thời gian. 2.3. Thẩm định khía cạnh công nghệ, đánh giá tác động môi trường 2.3.1. Công nghệ, máy móc, thiết bị được thẩm định rõ theo các tiêu chí sau: a. Công nghệ sản xuất (nếu dự án bao gồm cả vùng khai thác và cung cấp nguyên liệu thì phải làm rõ các vấn đề liên quan). - Tổng vốn đầu tư của dự án là bao nhiêu? - Danh mục nguyên liệu, nhiên liệu, phụ liệu (tính chất, nhu cầu hàng năm, nơi cung cấp). - Phương thức vận chuyển, cung cấp và bảo quản nguyên liệu, nhiên liệu và phụ liệu. - Công suất. - Sơ đồ qui trình công nghệ chủ yếu, sơ đồ dây chuyền sản xuất (mô tả đầy đủ cả các công đoạn phụ trợ; xử lý nước cấp, máy phát điện, nồi hơi, hệ thống gia nhiệt, hệ thống làm mát thiết bị…). - Đặc tính thiết bị. - Chất lượng sản phẩm. - Phương thức bảo quản và vận chuyển sản phẩm. - Hợp đồng chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật (nếu có kèm theo). b. Danh mục máy móc thiết bị : Tên thiết bị Xuất xứ Đặc tính kỹ thuật Số lượng Ước giá ThànhTiền NK hay mua tại VN? Ghi chú I-Cho sản xuất : II-Cho công tác phụ trợ : III-Vận chuyển : IV-Cho CT văn phòng : IV-Mục tiêu khác: 2.3.2. Thẩm định các tiêu chuẩn môi trường Bảng 3: Nội dung, yêu cầu và thời gian giải quyết: Nội dung Yêu cầu Thời gian giải quyết (Ngày làm việc) Văn bản cơ sở Quy định Thực hiện 1. Thẩm định thiết kế cơ sở dự án đầu tư - Tờ trình xin thẩm định thiết kế cơ sở. - Thuyết minh và các bản vẽ thiết kế cơ sở - Báo cáo kết quả khảo sát địa chất công trình trong bước thiết kế cơ sở (nếu có). - Thuyết minh dự án. - Văn bản của cấp có thẩm quyền về chủ trương đầu tư xây dựng công trình, quy hoạch xây dựng, sự kết nối hạ tầng kỹ thuật bên ngoài hàng rào, sử dụng đất, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường. - Chứng nhận đăng ký kinh doanh của nhà thầu khảo sát, chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm khảo sát (nếu có báo cáo kết quả khảo sát địa chất công trình). - Chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm và chủ trì thiết kế. Nhóm A:60 -Nhóm B: 25 ngày -Nhóm C: 15 ngày Nhóm A:60 -Nhóm B: 20 ngày -Nhóm C: 10 ngày Theo: Thông tư số 109/2000/TT-BTC ngày 13/11/2000 và văn bản hướng dẫn số 5361/BTC-CST, ngày 24/4/2006 của Bộ Tài chính. 2. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường: - Dự án đầu tư - Văn bản đề nghị thẩm định và phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường (theo mẫu) - Báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án - Văn bản tham vấn cộng đồng. 30 ngày 25 ngày Theo: - Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006; Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 và Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 của Bộ Tài chính 3. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung: - Văn bản đề nghị và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung (theo mẫu) - Báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung của dự án - Bản sao báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt trước đó - Bản sao có công chứng của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường trước đó - Bản giải trình về những nôi dung điều chỉnh của dự án. 30 ngày 25 ngày Theo: - Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006; Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 và Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 của Bộ Tài chính - Quyết định số 13/2006/QĐ-BTNMT ngày 8/9/2006 của Bộ Tài nguyên Môi trường 4. Đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường: - Văn bản đề nghị xác nhận đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường (theo mẫu) - Bản cam kết bảo vệ môi trường (theo mẫu) - Báo cáo đầu tư của dự án. 05 ngày 05 ngày - Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ - Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Về cụ thể, tiến hành xem xét dự án trên các mặt: a. Xem xét địa điểm dự kiến triển khai các hoạt động của dự án. - Về vị trí. - Diện tích mặt bằng. -._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21429.doc
Tài liệu liên quan