T
Lời nói đầu
rong quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của đầu tư trong sự phát triển kinh tế, đặc biệt là đầu tư phát triển. Công cuộc đầu tư diễn ra trong thời gian dài, mang nhiều rủi ro và chịu tác động của nhiều yếu tố. Muốn cho công cuộc đầu tư có hiệu quả thì chúng ta phải làm tốt từ khâu chuẩn bị cho đến khi thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Nhưng không phải mọi dự án đầu tư khi thực hiện đều m
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định & Giám sát Đầu tư - Bộ Kế hoạch & Đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang lại hiệu quả. Do vậy, trước khi thực hiện dự án đầu tư chúng cần phải được cân nhắc, xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án có mang lại hiệu quả cho nền kinh tế hay không. Công việc đó gọi chung là thẩm định dự án đầu tư. Như vậy có thể thấy, thẩm định dự án đầu tư có vai trò lớn trong việc quyết định hay bác bỏ dự án đầu tư. Nó là cơ sở vững chắc giúp cho chủ đầu tư, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng cho công cuộc đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư giúp cho nền kinh tế hạn chế được những dự án không có hiệu quả khi thực hiện gây lãng phí cho nền kinh tế đồng thời tạo điều kiện cho nhiều dự án khả thi đi vào hoạt động mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Với tầm quan trọng của công tác thẩm định, trong quá trình thẩm định, được sự giúp đỡ của bác Phó Vụ trưởng Mai Hữu Dũng và cô T.S Nguyễn Bạch Nguyệt em quyết định chọn đề tài “Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát Đầu tư- Bộ Kế hoạch và Đầu tư” làm chuyên đề nghiên cứu. Chuyên đề này bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và giám sát Đầu tư- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát Đầu tư.
Chương I Những vấn đề lý luận chung
I. Các khái niệm.
1. Dự án đầu tư.
1.1 Khái niệm dự án đầu tư.
Dự án đầu tư được xem xét từ nhiều góc độ tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu của chủ thể đầu tư:
Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là công cụ quản lý thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư, quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế chung.
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau để kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Theo nghị định 52/ 1999/ NĐ-CP thì dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Mặc dù trên các quan điểm nghiên cứu thì dự án đầu tư có những cách tiếp cận khác nhau, nhưng một dự án bao giờ cũng gồm 4 thành phần chính:
-Mục tiêu của dự án thể hiện ở 2 mức: mục tiêu phát triển( lâu dài): hiệu quả và những tác động kinh tế xã hội mang lại cho đất nước thông qua việc thực hiện dự án; mục tiêu trước mắt: chính là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuôn khổ thời gian và các nguồn lực của mình để đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu phát triển.
-Kết quả của dự án: là những kết quả cụ thể có thể định lượng và được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Các kết quả được coi là cột mốc để đánh dấu tiến độ của dự án, vì vậy chu trình của dự án phải thưòng xuyên theo dõi và đánh giá.
- Các hoạt động của dự án: đó là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra kết quả nhất định, những nhiệm vụ và hành động này cũng có một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bên tham gia thực hiện và từ đó tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
Các nguồn lực của dự án: là nguồn lực tài chính và con người để tiến hành các hoạt động của dự án, giá trị và chi phí của các nguồn lực này được thực hiện bằng ngân sách của dự án.
1.2 Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án.
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhau nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội nói riêng. Hoạt động đầu tư trực tiếp tái sản xuất xã hội các cơ sở vật chất kỹ thuật trên đây gọi là đầu tư phát triển. Đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều năm với số lượng các nguồn lực huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn và nằm khê đọng trong quá trình thực hiện đầu tư
Các thành quả của hoạt động đầu tư này cần và có thể được sử dụng trong nhiều năm để các lợi ích thu được tương ứng phải lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như vậy công cuộc đầu tư mới được coi là hiệu quả, khi các thành quả của đầu tư là các công trình xây dựng hoặc kiến trúc hạ tầng thì các thành quả này sẽ tiến hành hoạt động ngay tại nơi đã được tạo ra. Do đó sự phát huy tác dụng của chúng chịu ảnh hưởng nhiều của các điều kiện kinh tế xã hội tự nhiên tại nơi đây.Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận tiện, đạt mục đích mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị. Có nghĩa là phải xem xét toàn diện các khía cạnh kinh tế kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội, pháp lý…có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư. Do tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, do đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật của đầu tư, do hiệu quả và hậu quả kinh tế xã hội mà hoạt động đầu tư có thể đem lại cho nền kinh tế. Tất cả những lý do đó đòi hỏi phải tiến hành hoạt động đầu tư thì phải có sự chuẩn bị cẩn thận nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện bằng việc soạn thảo các dự án đầu tư có nghĩa là công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong muốn.
1.3 Phân loại dự án đầu tư.
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư nhằm mục đích để tiện cho việc theo dõi, quản lý hoạt động đầu tư:
a. Theo trình độ hiện đại của sản xuất:
Dự án được chia thành dự án đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu. Dự án đầu tư theo chiều rộng là việc mở rộng sản xuất được thực hiện bằng kỹ thuật lặp lại như cũ nhưng quy mô lớn hơn. Dự án đầu tư theo chiều sâu là việc mở rộng sản xuất được thực hiện bằng kỹ thuật tiến bộ hơn và kỹ thuật hơn.
b. Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội:
Người ta phân chia dự án thành:dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh dự án đầu tư cho khoa học kỹ thuật; dự án đầu tư cho kết cấu hạ tầng.Trong đó hoạt động của các loại đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Dự án đầu tư khoa học và công nghệ và dự án đầu tư kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Còn dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học công nghệ và dự án đầu tư cho kết cấu hạ tầng.
c. Theo quá trình tái sản xuất xã hội:
Dự án được phân thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư là ngắn. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tính chất kỹ thuật phức tạp do vậy tính rủi ro cao.
d. Theo nguồn vốn đầu tư:
Dự án được chia thành: dự án đầu tư có vốn huy động trong nước( vốn của ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của nhân dân). Dự án có vốn đầu tư huy động từ nước ngoài( vốn đầu tư trực tiếp FDI và gián tiếp ODA).
e. Theo phân cấp quản lý:
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 phân thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
2.Thẩm định dự án đầu tư
2.1 Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư.
a. Khái niệm.
Các dự án đầu tư khi được soạn thảo xong mặc dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ thì cũng chỉ mới qua bước khởi đầu tư. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và quyết định dự án được thực thi hay không cần phải có một quá trình xem xét, kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thẩm định tuỳ theo tính chất của dự án và chủ thể có thẩm quyền thẩm định, song đứng trên góc độ tổng quát có thể định nghĩa như sau:
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình thẩm tra, so sánh, xem xét, đánh giá một cách khách quan khoa học và toàn diện các nội dung của dự án, hoặc so sánh đánh giá các phương án của một hay nhiều dự án để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án, để từ đó ra các quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư và triển khai dự án.
b. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư.
Để một lượng vốn lớn bỏ ra hiện tại và chỉ có thể thu hồi vốn dần trong tương lai khá xa, thì trước khi chi vốn vào các công cuộc đầu tư phát triển, các nhà đầu tư đều tiến hành soạn thảo chương trình, dự án hoặc báo cáo đầu tư…tuỳ theo tính chất của dự án. Soạn thảo và thực hiện dự án là công việc rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều lĩnh vực… nên phải huy động sức lực, trí tuệ của nhiều người, nhiều tổ chức. Việc tổ chức phối hợp các hoạt động của các chuyên ngành khác nhau trong tiến trình đầu tư khó tránh khỏi những bất đồng, mâu thuẫn hay sai sót, vì vậy cần được theo dõi, rà soát, điều chỉnh lại.
Chủ đầu tư muốn khẳng định quyết định đầu tư của mình là đúng đắn, các tổ chức tài chính tiền tệ muốn tài trợ hay cho vay vốn đối với dự án, để ngăn chặn sự đổ bể, lãng phí vốn đầu tư, thì cần kiểm tra lại tính hiệu quả, tính khả thi và tính hiện thực của dự án.
Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, của mọi thành phần kinh tế đều phải huy động các nguồn lực xã hội và đều tham gia vào qýa trình khai thác, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên đất nước và có thể gây tác động xấu đến cả cộng đồng. Nhà nước cần kiểm tra lại những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của dự án đến công đồng, nhằm kịp thời ngăn chặn, ràng buộc hay hỗ trợ dự án.
Một dự án dù có được chuẩn bị kỹ càng đến mấy cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo, bởi người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận vấn đề. Để đảm bảo tính khách quan cần phải thẩm định. Người thẩm định thường khách quan và có tầm nhìn rộng hơn trong nhìn nhận và đánh giá, do vị trí của người thẩm định tạo nên, họ được phép tiếp cận và có điều kiện thu thập, tổng hợp thông tin đầy đủ hơn. Đặc biệt khi xem xét cả lợi ích của cộng đồng,người thẩm định ít bị lợi ích trực tiếp của dự án chi phối.
Khi soạn thảo và giải trình chi tiết dự án có thể có những sai sót, các ý tưởng có thể mâu thuẫn, không phù hợp, không lô gíc, thậm chí có những câu văn, những chữ dùng sơ hở có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác, thẩm định chính là để phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các đối tác tham gia dự án.
Như vậy, thẩm định dự án là cần thiết, nó là một bộ phận của công tác, quản lý, nhằm đảm bảo cho dự án được thực thi và đạt hiệu quả.
2.2 Vai trò, mục đích, ý nghĩa của việc thẩm định dự án.
a. Vai trò của thẩm định.
Thẩm định giúp cho các chủ thể đầu tư đưa ra được những quyết định đúng đắn khi thực hiện đầu tư.
+Đối với chủ đầu tư: với tư cách là người lập dự án, có trình độ chuyên môn, họ là người nắm chắc nhất về dự án. Tuy nhiên, khi phải lựa chọn nhà thầu họ thấy khó khăn, bên cạnh đó việc nắm bắt thông tin còn hạn chế nên những phán đoán của họ nhiều khi còn thiếu chính xác. Vì vậy, với việc thẩm định chủ đầu tư sẽ đi sâu phân tích, làm rõ các khía cạnh của dự án giúp cho họ lựa chọn được phương án hiệu quả nhất.
+ Với ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng: thông qua quá trình thẩm định dự án giúp cho họ biết rằng dự án đó có khả thi hay không. Từ đó giúp cho họ có nên bỏ vôn cho vay hay không, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ cho vay khi dự án đó đem lại hiệu quả để họ có thể thu hồi vốn đúng hạn. Chính vì vậy thẩm định dự án là cơ sở giúp các ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng đưa ra các quyết định tài chính nhằm hạn chế ở mức thấp nhất các rủi ro khi tham gia vào dự án.
+ Đối với nhà nước và xã hội: Trước khi phê duyệt các dự án, các cơ quan nhà nước quan tâm đến viêc dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước không chỉ xem xét đánh giá tính hiệu quả, khả thi của dự án mà còn tính đến sự phù hợp của dự án đối với các chiến lược, định hướng phát triển kinh tế- xã hội và các lợi ích về mặt kinh tế – xã hội của dự án. Cho nên thông qua việc thẩm định dự án đầu tư giúp các cơ quan nhà nước thực hiện được mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
b. Mục đích của việc thẩm định.
- Đánh giá tính hợp lý của dự án: Tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp( biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi) và được biểu hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án( hợp lý trong xác định mục tiêu, trong xác định các nội dung của dự án. Khối lượng công việc cần tiến hànhm các chi phí cần thiết và các kết quả cần đạt được).
- Đánh giá hiệu quả của dự án bao gồm: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
- Đánh giá tính hợp lý và thống nhất của dự án.
- Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục tiêu hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án( xem xét các kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án).
c. ý nghĩa của việc thẩm định cac dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư có nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ thuộc các chủ thể khác nhau:
- Giúp cho cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được tính hợp lý của dự án đứng trên giác độ hiệu quả kinh tế xã hội.
- Giúp cho chủ đầu tư lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất theo quan điểm hiệu quả tài chính và tính khả thi của dự án.
- Giúp cho các định chế tài chính ra quyết định chính xác cho vay hoặc tài trợ cho dự án theo các quan điểm khác nhau.
- Giúp cho mọi người nhận thức và xác định rõ những cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt để có các biện pháp khai thác và khống chế.
- Xác định rõ tư cách pháp nhân của các bên tham gia đầu tư.
II. Tổ chức thẩm định dự án
1. Căn cứ để thâm định dự án đầu tư.
1.1 Hồ sơ dự án.
Hồ sơ dự án do chủ đầu tư lập, trình duyệt cấp có thẩm quyền thẩm định. Hồ sơ dự án sẽ do Nhà nước quy định tuỳ theo dự án được thực hiện bằng nguồn vốn nào. Hồ sơ dự án bao gồm: văn bản tài liệu, kết quả nghiên cứu có liên quan đến dự án được thiết lập theo quy định của Nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ dự án bao gồm:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp.
- Giấy phép kinh doanh.
- Quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng.
- Biên bản bầu Hội đồng quản trị( nếu có).
- Điều lệ hoạt động.
- Các báo cáo tài chính 5 năm gần nhất( đối với doanh nghiệp đang hoạt động).
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt.
- Hồ sơ thế chấp của dự án.
- Hợp đồng xuất nhập khẩu, hợp đồng vay vốn trong nước và nước ngoài.
- Giấy phép xuất nhập khẩu.
- Các quyết định về cấp quyền sử dụng đất, thuê đất, giấy phép xây dựng cơ bản.
- Các văn bản khác có liên quan.
1.2 Các căn cứ pháp lý.
Viêc thẩm định các dự án đầu tư phải được thực hiện theo luật và các văn bản quy định của Nhà nước về các hoạt động đầu tư và quản lý dự án đầu tư, quy định trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác thẩm định dự án đầu tư. Các văn bản đó bao gồm:
Nghị định 52/ 1999/ NĐ-CP ngày 8/ 7/ 1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng.
Nghị định 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31/ 7/ 2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị định 87/ 1997/ NĐ- CP ngày 05/ 8/ 1997 của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA.
Thông tư số 06/ 1999/ TT-BKH ngày 25/ 12/ 1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về nội dung Tổng mức đầu tư, hồ sơ thẩm định dự án đầu tư và báo cáo đầu tư.
Thông tư số 09/ BKH/ VPTĐ ngày 21/9/ 1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về lập, thẩm định dự án đầu tư và quyết định đầu tư.
Thông tư 11/ 2000/ TT- BKH ngày 11/ 9/ 2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn sửa đổi bổ sung một số nội dung của thông tư 06/ 1999/ TT- BKH ngày 24/ 11/ 1999.
Nghị định 12/2000/ NĐ- CP ngày 05/ 5/ 2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý Đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/ 1999/ NĐ- CP.
Nghị định 07/2003/ NĐ- CP ngày 30/ 1/ 2003 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/ 1999/ NĐ- CP và Nghị định 12/ 2000/ NĐ- CP.
Thông tư số 04/2003/ TT- BKH ngày 17/ 6/ 2003, hướng dẫn về thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư, sửa đổi, bổ sung một số điểm về Hồ sơ thẩm định dự án đầu tư, Báo cáo đầu tư và Tổng mức đầu tư.
Thông tư số 05/ 2003/ TT- BKH ngày 22/ 7/ 2003, hướng dẫn về lập, thẩm định và quản lý các dự án quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội lãnh thổ(Bộ KH&ĐT đã dự thảo, trình Chính phủ về công tác quy hoạch.
1.3 Các tiêu chuẩn, quy chuẩn và định mức trong từng lĩnh vực kinh tế kỹ thuật cụ thể.
Tiêu chuẩn xây dựng là các tiêu chuẩn kỹ thuật được quy địnhđể thực hiện các công việc khảo sát, thiết kế, xây lắp, nghiệm thu, đảm bảo chất lượng công trình áp dụng cho từng loại chuyên ngành xây dựng do Nhà nước hoặc các Bộ có chức năng xây dựng chuyên ngành ban hành.
Quy chuẩn xây dựng là văn bản quy định các yêu cầu kỹ thuật tối thiểu bắt buộc phải tuân thủ đối bới mọi hoạt động xây dựng và các giải pháp các tiêu chuẩn xây dựng được sử dụng để đạt được các yêu cầu đó do Bộ Xây dựng thống nhất ban hành.
Định mức kỹ thuật chính là những quy chuẩn, tiêu chuẩn được nhà nước quy định đối với từng loại công trình, hạng mục công trình nhằm đánh giá, xem xét các công việc có đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và đạt được các định mức đó hay không.
1.4 Các quy ước thông lệ quốc tế và các thông tin có liên quan.
Quy ước thông lệ quốc tế chính là các quy định, chuẩn mực yêu cầu chúng ta phải áp dụng trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư. Trong quá trình quản lý các hoạt động đầu tư chúng ta phải tuân theo các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Các thông tin có liên quan như giá cả, tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của dự án trên thị trường, chủ đầu tư, thông tin trong nước và thế giới về những vấn đề có liên quan.
2. Nguyên tắc trong thẩm định.
Trên giác độ quản lý các dự án đầu tư, việc thẩm định cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tin dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà nước đầu tư đều phải tổ chức thẩm định trước khi phê duyệt và quyết định đầu tư.
- Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn và mọi thành phần kinh tế khi ra quyết định và cấp giấy phép đầu tư phải qua khâu thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội, về quy hoạch xây dựng , các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên. Nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội cho các dự án đầu tư. Tránh thực hiện những dự án chỉ đơn thuần có lợi về hiệu quả tai chính. Các cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý Nhà nước các dự án đầu tư trước hết phải bảo đảm sự hài hoà giữa lợi ích kinh tế xã hội và lợi ích của các chủ đầu tư.
- Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn phải được thẩm định về phương diện tài chính của dự án ngoài phương diện kinh tế xã hội đã nêu ở nguyên tắc đầu. Nhà nước với tư cách vừa là chủ đầu tư vừa là cơ quan quản lý chung các dự án thực hiện cả hai chức năng quản lý dự án: quản lý dự án với chức năng là chủ đầu tư và quản lý dự án với chức năng quản lý vĩ mô( quản lý nhà nước). Thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhất những đồng vốn của Nhà nước. Trong mọi dự án đầu tư không thể tách rời giữa lợi ích của chủ đầu tư quan tâm đặc biệt đến hiệu quả tài chính mà ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hôi, Nhà nước cần quan tâm đến phương diện kinh tế xã hội.
- Đối với những dự án sử dụng vốn ODA và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, khi thẩm định dự án cần chú ý đến những thông lệ quốc tế, hiệp định mà Việt Nam tham gia.
- Cấp nào có quyền ra quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư thì cấp đó có trách nhiệm thẩm định dự án. Thẩm định dự án được coi như là chức năng quan trọng trong quản lý dự án của Nhà nước. Thẩm định đảm bảo cho các cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp khác nhau ra quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư đúng theo thẩm quyền của mình.
- Nguyên tắc thẩm định có thời hạn: Theo nguyên tắc này các cơ quan quản lý đầu tư của Nhà nước cần nhanh chóng thẩm định, tránh những thủ tục rườm rà, châm trễ, gây phiền hà trong việc ra quyết định và cấp giấy phép đầu tư.
3. Các quy định về công tác thẩm định.
3.1 Về hồ sơ thẩm định.
Hồ sơ dự án được chủ đầu tư trình trực tiếp người có thẩm quyền quyết định đầu tư, cơ quan trực tiếp quản lý. Chủ đầu tư và cơ quan tổ chức thẩm định dự án, với số lượng theo yêu cầu của cơ quan tổ chức thẩm định dự án, để lấy ý kiến thẩm định của các cơ quan có liên quan.
Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính chuẩn xác và tính hợp pháp của các thông tin, số liệu, tài liệu trong hồ sơ dự án. Để thúc đẩy nhanh quá trình thẩm định, Chủ đầu tư có thể trực tiếp xin ý kiến đóng góp của các cơ quan liên quan về dự án.
Các cơ quan trực tiếp quản lý Chủ đầu tư và các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm về những ý kiến của mình đối với dự án.
Người có thẩm quyền quyết định đầu tư là người có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư.
Hồ sơ thẩm định dự án đầu tư bao gồm:
a. Đối với dự án nhóm A;
- Tờ trình của Chủ đầu tư gửi cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư( đối với những dự án Chủ đầu tư không tự thẩm định và phê duyệt kèm theo Báo cáo NCKT của dự án đã được hoàn chỉnh sau khi Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư.
- Hồ sơ thẩm tra dự án và Báo cáo của cơ quan thẩm tra trình Thủ tướng Chính phủ xin phép đầu tư;
- Văn bản cho phép đầu tư của Thủ tướng Chính phủ;
- ý kiến thẩm định của tổ chức cho vay vốn ( đối với các dự án sử dụng vốn vay) về phương án tài chính, phương án trả nợ, về việc chấp thuận cho vay.
- Các văn bản và số liệu cập nhật về đền bù giải phóng mặt bằng, phương án tổng thể về tái định cư( đối với các dự án có yêu cầu tái định cư).
Đối với các dự án đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua Báo cáo NCTKT, cần bổ sung một số văn bản chưa có trong hồ sơ trình thông qua Báo cáo NCTKT như: Văn bản xác nhận về khả năng huy động các nguồn vốn của dự án; Báo cáo tài chính có xác nhận của tổ chức kiểm toán trong hai năm gần nhất( đối với các doanh nghiệp đã hoạt động trên 2 năm) hoặc của năm trước( đối với các doanh nghiệp hoạt động chưa đủ 2 năm); Các văn bản thoả thuận về đền bù giải phóng mặt bằng, phương án tổng thể về tái định cư( đối với các dự án có yêu cầu tái định cư); Các thoả thuận , các hợp đồng, các hiệp định, các văn bản khác về những vấn đề liên quan…
b. Đối với các dự án nhóm B và C;
- Tờ trình của Chủ đầu tư gửi cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tgư ( đối với những dự án Chủ đầu tư không tự tổ chức thẩm định và quyết định đầu tư) kèm theo báo cáo NCKT dự án .
Báo cáo nghiên cứu khả thi được lập phù hợp với nội dung quy định tại điều 24 của Nghị định 52/ CP và được cụ thể hoá phù hợp với ngành nghề kinh tế- kỹ thuật.
- Văn bản thông qua báo cáo NCTKT của người có thẩm quyền quyết định đầu tư( đối với dự án thuộc nhóm B có lập báo cáo NCTKT);
- Các văn bản có giá trị pháp lý xác nhận tư cách pháp nhân của chủ đầu tư; Quyết định thành lập( đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp); Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh( đối với doanh nghiệp).
- Văn bản xác nhân khả năng huy động các nguồn vốn của dự án; Báo cáo tài chính có xác nhận của tổ chức kiểm toán trong hai năm gần nhất ( đối với những doanh nghiệp đã hoạt động trên 2 năm) hoặc của năm trước ( đối với doanh nghiệp hoạt động chưa đủ 2 năm).
- ý kiến thẩm định của tổ chức cho vay vốn ( đối với các dự án sử dụng vốn vay) về phương án tài chính, phương án trả nợ, về việc chấp nhận cho vay, kiến nghị phương thức quản lý dự án đối với dự án nhiều nguồn vốn khác nhau;
- Các văn bản cần thiết khác:
+ Văn bản phê duyệt quy hoạch;
+Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất( đối với dự án Chủ đầu tư đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoặc văn bản giới thiệu địa điểm, thoả thuận cho thuê đất của cơ quan có thẩm quyền( đối với dự án Chủ đầu tư chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất);
+ Các văn bản thoả thuận về đền bù giải phóng mặt bằng, phương án tái định cư( đối với các dự án có yêu cầu tái định cư);
+ Các thoả thuận, các hợp đồng, các hiệp định, các văn bản khác liên quan đến dự án ;
3.2 Phân cấp thẩm định.
Phân cấp thẩm định là việc phân chia quyền hạn và trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức nhà nước hoặc tư nhân thẩm định, quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư quy định về đầu tư. Các cá nhân, tổ chức dựa vào quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cùng với các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành quy chế hiện hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong phạm vi được Chinh phủ phân cấp và hướng dẫn.
Chủ đầu tư( hoặc tư vấn) có trách nhiệm lập và chịu trách nhiệm về tính chuẩn xác của các thông tin trong dự án, chuyển trực tiếp đến cá nhân, tổ chức có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
Cá nhân, tổ chức có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt chịu trách nhiệm về các ý kiến và quyết định của mình.
3.2.1 Thẩm quyền thẩm định các dự án đầu tư trong nước.
a. Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ quyêt định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ chức thẩm định dự án trình TTCP quyết định đầu tư.
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị- xã hội( được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết định chủ trương đầu tư bằng văn bản của cấp có thẩm quyền, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư.
Người có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án nhóm A tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi, có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của bộ quản lý ngành; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng( đối với các dự án đầu tư xây dựng), Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đến dự án để báo cáo TTCP cho phép đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, các Bộ, ngành, địa phương được hỏi ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân nhân thảo luận, quyết định và công bố công khai.
Trường hợp các dự án nhóm A chưa có trong quy hoạch phát triển kinh- xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng được duyệt hoặc chưa có văn bản quyết định chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền thì trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi phải được TTCP xem xét, thông qua báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và cho phép đầu tư.
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị- xã hội, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C phù hợp với quy hoạch được duyệt.
Đối với các dự án nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt thì trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi phải có ý kiến đồng ý bằng văn bản của người có thẩm quyền.
Riêng đối với các dự án nhóm C, cơ quan quyết định đầu tư phải đảm bảo cân đối vốn đầu tư để thực hiện dự án không quá 2 năm.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của các Bộ ngành, địa phương, người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép uỷ quyền cho các đối tượng quy định tại điểm d khoản này quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người được uỷ quyền.
Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án trong phạm vi ngân sách của địa phương( bao gồm tất cả các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên) có mức vốn dưới 3 tỷ đồng( đối với cấp huyện) và dưới 1 tỷ đồng( đối với dự án cấp xã) tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương do uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và năng lực thực hiện của các đối tượng được phân cấp.
Trước khi quyết định đầu tư, uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã có trách nhiệm lấy ý kiến các tổ chức chuyên môn đủ năng lực để thẩm định dự án. Việc quản lý thực hiện dự án phải theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với dự án cấp xã sử dụng vốn ngân sách nhà nước đầu tư và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội sau khi được hội đồng nhân dân cấp xã thông qua phải được uỷ ban nhân dân cấp huyện chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch. Nếu đầu tư từ nguồn vốn đóng góp của dân, uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đầu tư và xây dựng theo Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn ban hành kèm theo Nghị định số 24/ 1999/ NĐ- CP ngày 16 tháng 4 năm 1999.
Người có thẩm quyền quyết định đầu tư không được sử dụng nguồn vốn sự nghiệp để đầu tư xây dựng mới. Đối với việc cải tạo, mở rộng, nếu sử dụng nguồn vốn sự nghiệp có mức vốn từ 01 tỷ đồng trở lên để đầu tư phải thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư theo quy định của Nghị định này.
b. Đối với dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh.
Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng của quốc gia ._.do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ chức thẩm định dự án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư.
Các dự án nhóm A, B, C do doanh nghiệp đầu tư, doanh nghiệp tự thẩm định dự án, tự quyết định đầu tư theo quy định và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, dự án đầu tư nhóm A, B phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch được duyệt, dự án đầu tư nhóm A, trước khi quyết định đầu tư phải được TTCP cho phép đầu tư. Nội dung báo cáo xin phép đầu tư như quy định tại khoản (4) điều 1 của Nghị định này.
Bộ quản lý ngành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi dự án nhóm A của doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính và các Bộ ngành, địa phương có liên quan đến dự án để tổng hợp báo cáo TTCP cho phép đầu tư. Nội dung thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án là những nội dung chủ đầu tư phải xin phép đầu tư đã nêu ở khoản(4) điều 1 của Nghị định này. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, các Bộ, ngành địa phương được hỏi ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
Trường hợp các dự án đầu tư thuộc nhóm A hoặc nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt thì thực hiện theo quy định tại điểm b khoản (4) điều 1 của Nghị định này.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp, người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép uỷ quyền cho Giám đốc đơn vị trực thuộc quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người uỷ quyền
c. Đối với dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác:
Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng của quốc gia do Quốc hội chủ trương đâù tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ chức thẩm định dự án trình thủ tướng chính phủ quyết định đầu tư.
Các dự án nhóm A, B, C do doanh nghiệp đầu tư doanh nghiệp tự thẩm định dự án, tự quyết định đầu tư theo quy định và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, các dự án đầu tư phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch được duyệt, dự án đầu tư nhóm A, trước khi quyết định phải được phép TTCP cho phép đầu tư.
3.2.2 Thẩm quyền thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan giúp Chính phủ quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chủ trì xây dựng trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch thu hút vốn đầu tư nước ngoài, soạn thảo các dự án luật, chính sách về đầu tư nước ngoài phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, hướng dẫn UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài.
* Đối với các dự án nhóm A: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương có liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập hội đồng tư vấn gồm đại diện các cơ quan có liên quan và chuyên gia, xem xét dự án trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.
*Đối với dự án nhóm B: Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ ngành và UBND tỉnh có liên quan trực tiếp trước khi xem xét quyết định.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể uỷ quyền cho UBND cấp tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp, thẩm định và quyết định các dự án không thuộc nhóm A.
3.3 Về thời hạn thẩm định.
Thời hạn thẩm định là thời gian tối đa mà có quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định và quyết định phải hoàn thành chức năng của mình( đồng ý hay bác bỏ dự án ).
Thời hạn thẩm định được ấn định cụ thể đối với từng dự án trong từng thời kỳ phát triển kinh tế và thay đổi theo xu hướng ngày càng ngắn lại khi có sự trợ giúp ngày càng đắc lực của máy tính, các quy trình thẩm định được chuẩn hoá, các thủ tục đơn giản và trình độ dân trí được nâng cao.
Thời hạn thẩm định được xác định thông qua bảng sau:
Dự án đầu tư trong nước
Dự án đầu tư nước ngoài
A
B
C
A
B
P/ cấp cho tỉnh
Cho KCN
BCKT
60
30
20
60
40
15+30+7
15+7
TKKT
45
30
20
GPXD
30
30
30
30
30
30
KHĐT
30
20
KQĐT
30
20
3.4 Về lệ phí thẩm định.
Mức chi phí cho việc thẩm định dự án gọi là lệ phí thẩm định.
Những dự án đầu tư theo quy định phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định thì chủ đầu tư phải nộp lệ phí thẩm định theo quy định của pháp luật hiện hành. Đối với dự án đầu tư quy định phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định, nhưng cơ quan nhà nước không đủ điều kiện thẩm định mà phải thuê chuyên gia tư vấn thẩm định thì cơ quan nhà nước không được thu toàn bộ mức phí thẩm định tương ứng.
Lệ phí thẩm định được trích một phần nộp lại ngân sách nhà nước phần còn lại dùng vào thanh toán cho công tác thẩm định. Lệ phí thẩm định được quy định trong thông tư 109/ 2000/ TT- BTC và thể hiện qua bảng sau:
Giá trị công trình(tỷ. đ)
1
2
15
25
100
200
500
1000
2000
Lệ phí thẩm định( %)
0.025
0.023
0.019
0.017
0.015
0.01
0.0075
0.0047
0.0025
4. Phương thức thẩm định.
Tuỳ theo tính chất, tầm quan trọng của dự án mà các cơ quan chức năng tổ chức thẩm định theo các phương thức khác nhau:
4.1 Chuyên viên tự thẩm định.
Phương thức này áp dụng đối với các dự án đơn giản, có nội dung công nghệ rõ ràng; đối với các dự án chuyên ngành và ý kiến của các ngành liên quan đã rõ ràng. Các chuyên viên được phân công thẩm định dự án phải là những người lĩnh vực hoạt động của dự án. Cấp có thẩm quyền chủ trì sử dụng chuyên viên ở các phòng ban chức năng trực thuộc thẩm định dự án từng phần.
4.2 Thuê chuyên gia hoặc cơ quan tư vấn thẩm định độc lập.
Phương thức này được áp dụng trong các dự án lớn, kỹ thuật công nghệ phức tạp mà mặc dù chuyên viên thẩm định tuy am hiểu về lĩnh vực hoạt động của dự án nhưng không có đủ thông tin cần thiết cho việc thẩm định. Bên cạnh đó nội dung công nghệ của dự án đòi hỏi phải có ý kiến của các chuyên gia, cơ quan chuyên môn, chuyên sâu.
4.3 Lập hội đồng thẩmđịnh.
Phương án này được áp dụng đối với các dự án có tính chất liên ngành và có phạm vi ảnh hưởng rộng; dự án có những vấn đề phức tạp, các ý kiến có mâu thuẫn.
Hội đồng thẩm định là một nhóm các thành viên có chức năng chuyên môn có liên quan đến dự án. Hội đồng thẩm định có 2 cấp:
Hội đồng thẩm định cấp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Hội đồng thẩm định cấp bộ, ngành do các bộ ngành quyết định thành lập. Đối với các địa phương do chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định thành lập
5. Quy trình tổng quát thẩm định dự án đầu tư.
5.1 Tiếp nhận hồ sơ.
Hồ sơ dự án phải đầy đủ và hợp lệ theo đúng Thông tư 04/ 2003/ BKH ngày 17 tháng 6 năm 2003 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hưỡng dẫn về thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư sửa đổi, bổ sung một số điểm về Hồ sơ thẩm định dự án, Báo cáo đầu tư và Tổng mức đầu tư
5.2 Lập hội đồng thẩm định.
Tuỳ theo quy mô của dự án mà thành lập Hội đồng thẩm định Nhà nước, Hội đồng thẩm định Bộ, ngành hay hội đồng thẩm định thành phố, địa phươn.
- Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ để thẩm định hoặc thẩm định lại các dự án sau:
+ Các dự án đầu tư lớn, quan trọng trước khi Chính phủ trình Quốc hội thông qua và quyết định chủ trương đầu tư.
+ Các dự án đã thông qua quá trình thẩm định nhưng Thủ tướng Chính phủ thấy cần thiết phải thẩm định lại.
+ Các dự án đầu tư và dự án quy hoạch theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư.
Tuy nhiên việc thành lập hội đồng thẩm định thường chỉ áp dụng đối với những dự án có vốn đầu tư lớn, tính chất phức tạp còn những dự án đầu tư nước ngoài không lập hội đồng thẩm định.
5.3 Tổ chức thẩm định.
Quá trình thẩm định đóng vai trò quyết định trong tiến trình thẩm định dự án, vì vậy quá trình này phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về mức độ chính xác, khách quan và hợp lý, tập trung vào nội dung cơ bản của dự án tránh những câu hỏi không cần thiết. Do đó, trong quá trình thực hiện tổ chức thẩm định yêu cầu phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, các tổ chức tư vấn, các bộ, ngành, vụ, viện có liên quan. Đồng thời phải có sự phân công chặt chẽ, phù hợp các cán bộ vào dự án cụ thể. Làm tốt các khâu từ xử lý hồ sơ sơ bộ đến khi dự thảo trình duyệt cấp giấy phép đầu tư hoặc quyết định đầu tư.
5.4 Dự thảo quyết định đầu tư hay cấp phép đầu tư.
Việc dự thảo quyết định đầu tư hay cấp phép đầu tư phải căn cứ vào điều 30 Nghị định 52/ 1999/ NĐ- CP. Nội dung bao gồm :
- Mục tiêu đầu tư.
- Xác định chủ đầu tư.
- Hình thức quản lý dự án.
- Địa điểm, diện tích đất sử dụng, phương án bảo vệ môi trường và kế hoạch tái định cư và phục hồi ( nếu có).
- Công nghệ, công suất thiết kế, phương án kiến trúc, tiêu chuẩn kỹ thuật và cấp công trình.
- Chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia( nếu có).
- Tổng mức đầu tư.
- Nguồn vốn đầu tư, khả năng và kế hoạch vốn của dự án.
- Các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước mà dự án đầu tư có thể được hưởng theo quy chế chung.
- Phương thức thực hiện dự án. Nguyên tắc phân chia gói thầu và hình thức lựa chọn nhà thầu…
Sau khi lập dự thảo này phải trình người có thẩm quyền ký duyệt.
- Đối với dự án nhóm A và một số dự án nhóm B phức tạp thì người ký duyệt là TTCP.
- Đối với dự án nhóm B và C thì người ký duyệt là Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, Chủ tịch UBND tỉnh, Thành phố
5.5 Phê duyệt báo cáo khả thi.
Việc phê duyệt BCKT được thực hiện bởi Thủ trưởng cấp có thẩm quyền thẩm định. Một dự án khi được trình duyệt thì tính pháp lý của nó phải được đảm bảo bằng luật. Dự án có thể bị đình chỉ hoặc huỷ bỏ do chủ đầu tư hoặc người có thẩm quyền quyết định đầu tư nhưng phải nói rõ lý do chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Quy trình thẩm định dự án thể hiện thông qua sơ đồ sau đây:
Sơ đồ: quy trình thực hiện thẩm định dự án
Tiếp nhận hồ sơ dự án
Đơn vị đầu mốicủacơ quan thẩm định
Nhóm chuyên gia
Báo cáo thẩm định của Nhóm chuyên gia/ phản biện
Phản biện độc lập
Các bộ phận quản lý( sở, vụ chuyên ngành
Báo cáo thẩm định trình Thủ trưởng cơ quan thẩm định
Hội nghị tư vấn thẩm định
ý kiến của bộ ngành, địa phương có liên quan
Ngườicó thẩmquyền thẩm định
Thủ trưởng cơ quan thẩm định
III. Phương pháp thẩm định.
Phương pháp thẩm định dự án là cách thức thẩm định dự án nhằm đạt được những yêu cầu đặt ra đối với công tác thẩm định dự án. Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình thẩm định, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu của dự án.
1. Phương phương so sánh chỉ tiêu.
Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng và đang hoạt động. Phương pháp so sánh chỉ tiêu được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau:
- Quy chuẩn, tiêu chuẩn, thiết kế xây dựng điều kiện thẩm định dự án mà có thể chấp nhận được.
- Quy chuẩn, tiêu chuẩn về công nghệ.
- Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi.
- Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư.
- Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư.
- Các định mức tài chính doanh nghiệp phù hợp với hướng dẫn thi hành của nhà nước.
Trong việc sử dụng phương pháp so sánh cần lưu ý các tiêu chuẩn để so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện, đặc điểm của dự án.
2. Thẩm định theo trình tự.
Việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau:
2.1 Thẩm định tổng quát.
Là việc xem xét một cách khái quát các nội dung cơ bản thể hiện đầy đủ tính hợp pháp của một dự án.
Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu dõ quy mô, tầm quan trọng của dự án trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đất nước, xác định các căn cứ pháp lý của dự án. Dự án có thể bị bác bỏ nếu không thoả mãn các yêu cầu về pháp lý, các thủ tục quy định cần thiết và không phục vụ chiến lược phát triển kinh tế chung.
2.2 Thẩm định chi tiết.
Là việc xem xét một cách khách quan khoa học, chi tiết từng nội dung cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi, tính hiệu quả của dự án trên các khía cạnh pháp lý, thị trường, kỹ thuật- công nghệ, môi trường, kinh tế… phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Trong giai đoạn thẩm định chi tiết từng nội dung, cần đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hay cần bổ sung sửa đổi hoặc không đồng ý. Tuy nhiên mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình cụ thể của từng dự án.
Khi tiến hành thẩm định chi tiết sẽ phát hiện các sai sót, kết luận rút ra từ nội dung trước có thể là điều kiện để tiếp tục nghiên cứu. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án là bác bỏ thi có thể bác bỏ dự án mà không cần đi vào thẩm định các nội dung còn lại của dự án.
3. Thẩm định dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án.
Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc và hiệu quả tài chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đối với dự án, như vượt chi phí đầu tư, không đạt công suất thiết kế, giá cả chi phí đầu vào tăng, giá tiêu thụ sản phẩm giảm… khảo sát tác động của những yêu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoàn vốn của dự án.
Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc tuy theo điều kiện cụ thể và nên chọn các yêu tố tiêu biểu rễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả của dự án được xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc xảy ra đồng thời thì đó là một dự án vững chắc và có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần phải xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc để đề xuất kiến nghị các giải pháp hiệu quả khắc phục hay hạn chế.
4. Phương pháp dự báo.
Cơ sở của phương pháp này là dùng số liệu dự báo điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả chất lượng của công nghệ, thiết bị, nguyên liệu… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, tính khả thi của dự án.
5. Phương pháp triệt tiêu rủi ro.
Dự án là một tập hợp các yếu tố dự kiến trong tương lai, từ khi thực hiện dự án đến khi vào khai thác, hoàn vốn thường rất dài, do đó có nhiều rủi ro phát sinh ngoài ý muốn chủ quan. Để đảm bảo tính vững chắc và dự án có hiệu quả, người ta thường dự đoán một số rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp kinh tế hoặc tài chính thích hợp, hạn chế thấp nhất các tác động rủi ro hoặc phân tán rủi ro cho các đối tác có liên quan đến dự án.
Một số loại rủi ro và biện pháp phòng ngừa sau:
Rủi ro
Biện pháp phòng chống
Thực hiện đầu tư
Chậm tiến độ thi công
đấu thầu, chọn thầu,bảo lãnh thực hiện hơp đồng
Vượt tổng mức đầutư
Kiểm tra hợp đồng giá
Cung cấp dịch vụ kỹ thuật- công nghệ
Kiểm tra hợp đồng trọn gói, bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Tài chính(thiếu vốn, giải ngân không dúng)
Cam kết đảm bảo nguồn vốn góp, bên cho vay hoặc bên tài trợ vốn
Bất khả kháng
Mua bảo hiểm đầu tư hoặc bảo hiểm xây dựng
Giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư
Cung cấp các yếu tố đầu vào
Hợp đồng cung cấp dài hạn,đưa ra các nguyên tắc về giá
Tiêu thụ sản phẩm
Hợp đồng bao tiêu SP, Ng tắc tiêu thụ sản phẩm
Tài chính(thiếu vốn kinh doanh)
Cam kết đảm bảo nguồn vốn tín dụng, mở L/ C với các cơ quan cấp vốn
Quản lý điều hành
Năng lực quản lý của doanh nghiệp,phải có hợp đồng thuê quản lý
Rủi ro bất khả kháng
Mua bảo hiểm tài sản, kinh doanh
IV. Nội dung thẩm định các dự án đầu tư.
Yêu cầu về nội dung quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có khác nhau, tuỳ thuộc theo quy mô tính chất phức tạp hay quan trọng của dự án, hình thức và nguồn vốn được huy động, vì vậy mức độ thẩm định cũng khác nhau:
1. Nội dung thẩm định các dự án sử dụng Vốn ngân sách Nhà nước.
1.1 Đối với các dự án sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
1.1.1 Thẩm định mục tiêu và các điều kiện pháp lý của dự án.
Xem xét mục tiêu của dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, mục tiêu phát triển kinh tế ngành, địa phương trong từng thời kỳ phát triển kinh tế. Xem xét tư cách pháp nhân, năng lực của chủ đầu tư( sở trường, uy tín kinh doanh ). Đây là nội dung quyết định phần lớn đến việc đình hoãn hay huỷ bỏ dự án.
1.1.2 Thẩm định nhu cầu thị trường.
Đời sống của sản phẩm quyết định dự án, vì vậy tuỳ theo phạm vi tiêu thụ sản phẩm các dự án cần lập bảng cân nhu cầu thị trường hiện tại và khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp hiện có và xu hướng phát triển của nguồn cung cấp. Từ đó đánh giá mức độ tham gia và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường mà dự án có thể đạt được. Nếu kết quả phân tích cho thấy triển vọng thị trường chỉ mang lại nhất thời hay đang dần thu hẹp lại, cần thận trọng trong việc xem xét đầu tư cho dự án.
1.1.3 Thẩm định về phương diện kỹ thuật.
Đây là phần cốt lõi của dự án, quyết định đến kết quả và hiệu quả của đầu tư, nên được xem xét kỹ trước khi đánh giá các khía cạnh khác, kể cả khả năng về mặt tài chính và kinh tế- xã hội của dự án. Vì vậy cần thu thập đầy đủ ý kiến của các chuyên viên kỹ thuật, có thể tiến hành điều tra riêng rẽ các vấn đề khác nhau với việc tập hợp nhóm chuyên gia có trách nhiệm xem xét đánh giá tổng hợp. Tuy nhiên bước nghiên cứu này phải đi đến kết luận thiết kế công nghệ hiện tại có giúp dự án đạt mục tiêu đã nêu, có khả thi về mặt kỹ thuật hay không. Vai trò của thẩm định kỹ thuật được thể hiện thông qua sơ đồ ở trang bên.
Thẩm định về phương diện kỹ thuật theo những nội dung sau:
* Thẩm định địa điểm xây dựng dự án:
+ Kiểm tra số liệu cần thiết phục vụ cho thẩm định như khí hậu, thuỷ văn, điều kiện thổ nhưỡng, địa hình, địa chất.
+ Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án: Vị trí của dự án phải tối ưu, đảm bảo các yêu cầu sau: Tuân thủ các quy định về xây dựng, kiến trúc, thuận lợi về giao thông, gần nguồn cung cấp nguyên, vật liệu, đi lại hợp lý, tận dụng các cơ sở hạ tầng sẵn có, phải xa khu dân cư nếu độc hại và gây tiếng ồn.
+ Mặt bằng được chọn phải đủ rộng để có thể phát triển trong tương lai phù hợp với tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Xem xét số liệu địa chất công trình,ước tính chi phí xây dựng và gia cố nền móng.
+ Xem xét khả năng giải phóng mặt bằng, đền bù. Nếu việc đầu tư đòi hỏi phải xây dựng ở địa điểm mới, để ước tính tương đối đúng chi phí và thời gian thực hiện dự án cần xem xét khả năng giải phóng mặt bằng và đền bù thiệt hại cho cộng đồng nơi có dự án.
* Thẩm định thiết bị công nghệ của dự án.
+ Xem xét việc lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án.
Từ việc nghiên cứu kỹ năng lực và điều kiện sản xuất hiện tại của doanh nghiệp, đề xuất hình thức đầu tư thích hợp.
+ Nghiên cứu về dây chuyền công nghệ và lựa chọn thiết bị. Việc thẩm định phải phân tích rõ ưu điểm và những hạn chế của công nghệ đã chọn. Đối với điều kiện cụ thể của Việt Nam, công nghệ được chọn nên là công nghệ đã qua kiểm chứng thành công. Vì vậy cần thu thập tích luỹ thông tin về kinh nghiệm của các nhà sản xuất có sản phẩm và công nghệ tương tự. Nếu là công nghệ áp dụng lần đầu trong nước cần có kết luận của cơ quan giám định công nghệ
Sơ đồ: Vai trò của thẩm định kỹ thuật
Thẩm định kỹ thuật
Tiết kiệm nguồn lực
Tiết kiệm nguồn lực
Thành công
Thất bại
Thành công
Tổn thất nguồn lực
Bỏ mất nguồn lực
Thu được nguồn lực
Chấp nhận
Lãng phí nguồn lực
Không khả thi
Bác bỏ
Chấp nhận
Bác bỏ
Chấp nhận
Bác bỏ
Không khả thi
Khả thi
Phân tích tài chính
Bỏ lỡ mất cơ hội thu lợi nhuận
Chấp nhận
Bác bỏ
Thông qua luận chứng kinh tế kỹ thuật
Thấtbại
Đối với thiết bị cần kiểm tra đồng bộ về công suất của các thiết bị, các công đoạn sản xuất với nhau, mức độ tiêu hao nguyên, nhiên liệu, tuổi thọ, bảo dưỡng…
Đối với thiết bị mới ngoại nhập cần kiểm tra, đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ thông qua: các thông tin, xuất xứ, thời điểm,mức tự động hoá, chuyên môn hoá… Đánh giá hiệu quả thiết bị công nghệ thông qua cấp tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, mức hao phí nhiên liệu, công suất…
1.1.4 Thẩm định phương diện tài chính của dự án.
* Thẩm tra việc tính toán, xác định tổng vốn và tiến độ bỏ vốn:
- Vốn đầu tư xây lắp: phải phù hợp với nhu cầu thực tế và đơn giá xây dựng tổng hợp.
- Vốn đầu tư thiết bị: giá cả phải phù hợp và chất lượng đảm bảo trong quá trình mua thiết bị.
- Chi phí khác: phải được tính theo giá hiện hành, những chi phí này được phân theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng và xác định theo định mức.
Ngoài các yếu tố vốn đầu tư trên, cần kiểm tra một số chi phí sau:
+ Chi phí trả lãi vay,ngân hàng trong thời gian thi công.
+ Nhu cầu về vốn lưu động ban đầu hoặc bổ sung để khi dự án hoàn thành có thể đi vào hoạt động được ngay.
* Xem xét suất đầu tư theo từng ngành nghề:
+ kiểm tra việc tính toán chi phí sản xuất- giá thành sản phẩm qua việc:
- Tính đầy đủ các yếu tố chi phí cấu thành sản phẩm.
- Kiểm tra chi phí nhân công.
- Kiểm tra tính toán việc phân bổ chi phí lãi vay.
- Kiểm tra thuế, thuế suất và sự phân bổ thuế vào giá bán sản phẩm.
* Kiểm tra về cơ cấu vốn và cơ cấu nguồn vốn:
Cơ cấu vốn theo công dụng( xây lắp, thiết bị, chi phí khác…) được coi là hợp lý nếu tỉ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn xây lắp, tuy nhiên cần phải linh hoạt tránh máy móc trong việc so sánh này.
Phân tích cơ cấu vốn và khả năng đảm bảo nguồn vốn. Việc thẩm định chỉ tiêu này cần chỉ rõ vốn đầu tư cần thiết từ nguồn vốn dự kiến để đi sâu phân tích, tìm hiểu khả năng các nguồn vốn.
* Xem xét lịch trình cung cấp vốn từ các nguồn và phương án vay trả nợ; loại hình cung cấp vốn từ nguồn phải phù hợp với tiến độ thi công xây lắp công trình và phương án vay trả nợ phải tương ứng với mức khấu hao hàng năm; lợi nhuận và các nguồn thu khác giành trả nợ.
* Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án thông qua các chỉ tiêu:
+ Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay: Hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả thu được rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1 mà dự án vẫn thuận lợi.
Tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầutư phải lớn hơn hoặc bằng 50%. Đối với các dự án triển vọng, có hiệu quả rõ ràng tỷ trọng này có thể thấp hơn.
+ Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư( hệ số hoàn vốn).
RR =
Wpv: Lợi nhuận bình quân hàng năm của dự án quy về mặt bằng hiện tại.
Ivo: Vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động.
RR: Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tính bình quân năm của đời dự án.
+ Tỷ số lợi ích – chi phí ( B/ C ).
Chỉ tiêu lợi ích – chi phí được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra.
Trong đó:
Bi: Doanh thu hay lợi ích ở năm i.
Ci: Chi phí năm i.
PV( B): Giá trị hiện tại của các khoản thu bao gồm doanh thu ở các năm của đời dự án .
PV(C): Giá trị hiện tại của các khoản chi phí.
Chỉ tiêu B/ C >= 1 thì dự án được chấp nhận. Khi đó tổng các khoản thu của dự án đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Còn ngược lại B/ C < 1 thì dự án bị bác bỏ.
+ Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án.
Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án đánh giá tính hiệu quả của dự án trong suốt thời gian hoạt động.
NPV =
Bi: Khoản thu của dự án năm i.
Ci: Khoản chi của dự án năm i.
r: Tỷ suất chiết khấu xã hội được chọn.
n: Số năm hoạt động của dự án.
+ Thời gian thu hồi vốn đầu tư.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư là thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
T: Năm thu hồi vốn đầu tư.
(W+ D)ipv: Khoản thu lợi nhuận thuần và khấu hao năm i quy về thời điểm hiện tại.
Ivo: Vốn đầu tư ban đầu.
Dự án được chấp nhận khi thời gian hoàn vốn đầu tư <= Tđm
Tđm: thời gian hoàn vốn định mức được xác định tuỳ theo ngành.
+ Hệ số hoàn vốn nội bộ.
Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu bằng tổng chi.
IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ.
Dự án được coi là khả thi nếu IRR >= rđm
rđm: Lãi suất định mức quy định có thể là lãi suất định mức do nhà nước quy định hoặc là chi phí cơ hội.
+ Điểm hoà vốn.
Điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản chi phí bỏ ra.
Điểm hoà vốn được biểu diễn bằng chỉ tiêu hiện vật ( sản lượng) và chỉ tiêu giá trị( doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoăch doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu tại thời điểm hoà vốn thì dự án có lãi, ngược lại nếu đạt thấp hơn thi dự án bị lỗ. Do đó chỉ tiêu hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi vốn càng ngắn.
1.1.5 Thẩm định hiệu quả kinh tế xã hội của dự án
Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án là việc xem xét lợi ích mà dự án mang lại cho quốc gia và cho cộng đồng thông qua các xem xét sau:
+ Xem xét việc điều chỉnh các khoản chuyển nhượng.
+Xem xét cách xác định giá kinh tế.
+ Xem xét tỷ giá hối đoái được sử dụng để chuyển đổi các khoản thu chi của dự án về cùng một đơn vị tiền tệ.
+Xem xét tỷ suất chiết khấu xã hội được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về cùng một mặt bằng thời gian.
+ Xem xét các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thông qua:
- Giá trị gia tăng thuần tuý.
NVA = O- ( MI+Iv ).
NVA: Giá tri gia tăng thuần tuý do dự án mang lại.
O: Giá trị đầu vào/ hay giá trị đầu ra.
MI: Giá trị vật chất đầu vào thường xuyên.
Iv: Vốn đầu tư bao gồm: chi phí xây dựng, nhà xưởng, máy móc thiết bị.
- Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư.
- Giá trị sản phẩm thuần tuý quốc gia.
NNVA= NVA- RP.
RP: Giá trị lợi ích chuyển ra nước ngoài.
- Chỉ tiêu mức gia tăng của mỗi nhóm dân cư( những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, nhà nước thu thuế…) hoặc vùng lãnh thổ.
- Chỉ tiêu ngoại hối ròng( tiết kiệm ngoại tệ).
- Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế.
- Những tác động khác của dự án gồm: ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng, ảnh hưởng đến môi trường, trình độ nghề nghiệp của người lao động, tác động về xã hội, chính trị kinh tế khác.
1.1.6 Thẩm định về môi trường.
Thẩm định về môi trường sinh thái của dự án cần chú ý đến cả hai chiều, hướng tích cực và tiêu cực. Hướng tích cực có thể là:
- Bảo vệ và cải tạo nguồn nước.
- Bảo vệ và cải tạo nguồn dưỡng khí cho con người.
- Tạo cảnh quan, tôn tạo vẻ đẹp thiên nhiên.
- Giảm thiểu những thiệt hại do môi trường sinh thái gây ra( lũ lụt, bão gió…)
Đánh giá những tác động tiêu cực của dự án cần đặc biệt lưu ý mức độ phá hoại môi trường do phá vỡ cân bằng sinh thái, cũng cần quan tâm đến tác động tiêu cực đến môi trường xã hội.
1.1.7 Thẩm định về kế hoạch tổ chức triển khai dự án.
Thực hiện kiểm tra trên các mặt:
- Năng lực của chủ đầu tư ( tình hình tài chính, tư cách pháp nhân…)
- Kế hoạch triển khai dự án, kế hoạch cung cấp các điều kiện của dự án: vốn, đất đai, sức lao động.
- Kế hoạch về biện pháp thưc hiện.
- Kế hoạch và tiến độ thực hiện dự án.
Đánh giá mức độ khả thi của các kế hoạch đã nêu.
1.1.8 Thẩm định về mặt rủi ro của dự án.
Xem xét những rủi ro khi thực hiện dự án, xem xét khả năng xảy ra rủi ro đó, từ đó phân tích các khả năng phòng chống rủi ro. Qua đó xem xét lại tính khả thi, tính hiệu quả và tính vững chắc của dự án trong điều kiện triển khai dự án.
1.2 Nội dung thẩm định các dự án mua sắm hàng hoá
Nội dung thẩm định các dự án này có đơn giản hơn chủ yếu đi sâu vào xem xét và rút ra kết luận về các vấn đề sau:
+ Các điều kiện pháp lý.
+ Phân tích, kết luận về nhu cầu và yêu cầu mua sắm, đổi mới tăng thêm trang thiết bị, hàng hoá.
+ Phân tích kết luận về lựa chọn công nghệ, thiết bị.
+ Đánh giá về tài chính và hiệu quả của dự án bao gồm: Các kết luận về nhu cầu vốn đầu tư, nguồn vốn và các điều kiện huy động vốn, khả năng hoàn vốn, khả năng vay trả nợ, các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án.
2. Nội dung thẩm định các dự án không sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.
Việc thẩm định hiệu quả của dự án do chủ đầu tư chịu trách nhiệm. Đối với dự án có xây dựng, cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước chỉ khuyến khích các chủ đầu tư quan tâm tới lợi ích bền vững của mình, khi thẩm định cấp phép xây dựng. Việc thẩm định tập trung xem xét và kết luận về các vấn đề chủ yếu sau:
+ Các điều kiện pháp lý.
+ Sự phù hợp về quy hoạch ngành, lãnh thổ.
+ Chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia( nếu có).
+ Tính chắc chắn về lợi ích kinh tế- xã hội mà dự án đầu tư mang lại.
+ Những vấn đề xã hội nảy sinh.
+ Các vấn đề phát sinh trong quá trình đầu tư.
3. Nội dung thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài.
Đứng trên giác độ quản lý vĩ mô của nhà nước, nội dung thẩm định bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
+ Tư cách pháp nhân, năng lực của nhà đầu tư.
+ Sự phù hợp của mục tiêu dự án với quy hoach vùng, lãnh thổ.
+Trình độ kỹ thuật công nghệ áp dụng, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Lợi ích kinh tế- xã hội, khả năng tạo năng lực sản phẩm mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, mở rộng thị trường, khả năng tạo việc làm cho người lao động, các khoản phải nộp cho ngân sách.
+Tính hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, định giá tài sản góp vốn của các bên ( nếu có).
+ Chế độ lao động, tiền lương của người lao động Việt Nam( nếu có).
Chương II
thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư- bộ kế hoạch và đầu tư.
I. sơ lược về Bộ Kế hoạch Đầu tư và Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư.
1. Sơ lược về Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1.1 Chức năng, nhiệm vụ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư bao gồm: Tham mưu tổng hợp về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội chung của cả nước, về cơ chế chính sách, quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ thể, về đầu tư trong nước, ngoài nước, khu công nghiệp, khu chế xuất, về quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây gọi tắt ODA), đấu thầu, doanh nghiệp, đăng ký kinh d._.ồn vốn nguồn vốn nước ngoài càng khó khăn hơn. Nếu chỉ dựa vào những cam kết vốn hoặc những chứng nhận năng lực tài chính trên giấy tờ thì chúng ta không thể xác định chính xác nhà tài trợ có cung cấp đủ vốn, khả năng cung cấp là bao nhiêu khi nào có thể giải ngân và giải quyết theo hình thức nào.
Những vấn để đặt ra ở trên không thể giải quyết bằng thẩm định mà điều quan trọng là nhà nước phải tăng cường kiểm soát sau khi thẩm định xét duyệt cà quyết định đầu tư. Nên xây dựng những căn cứ pháp lý để thiết lập hệ thống tổ chức theo dõi thực hiện dự án , phân cấp thực hiện dự án tránh quản lý lỏng lẻo hoặc quá chồng chéo nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc nảy sinh.
Thiết lập hệ thống chỉ tiêu báo cáo cở các cấp tuỳ theo mức độ tổng hợp khác nhau từ địa phương tới trung ương, thuận tiện cho người thực hiện nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu của việc báo cáo.
Việc đánh giá dự án phải là công việc thường xuyên, được thể hiện vào kế hoạch hàng năm. Công việc đánh giá phải được tổ chức khoa học, đưa hệ thống chỉ tiêu theo dõi và đánh giá dự án.
Vấn đề quản lý ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, cơ chế quản lý hành chính rườm rà mà không hiệu quả, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều kẽ hở làm cho công việc quản lý không đạt hiệu quả như mong muốn. Trong nhiều dự án đầu tư có thể làm rất tốt từ khâu lập dự án, phân tích dự án thẩm định dự án nhưng khi đi vào hoạt động do cơ chế quản lý hoạt động đầu tư không chặt chẽ dẫn đến những sai sót trong khâu thực hiện, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công cuộc đầu tư. Muốn cho công tác quản lý sau quyết định đầu tư thì ngoài việc kiểm tra thanh tra, giám sát thường xuyên thì còn phải xây dựng cơ chế quản lý cho phù hợp.
1.5 Cải tiến quy trình sao cho gọn nhẹ mà hiệu quả.
Phương hướng chung là cần khôi phục sự thống nhất và tính lô gíc về nội dung dự án, thông qua tiến hành thẩm định theo lĩnh vực thay cho thẩm định theo từng giai đoạn như hiện nay. Bộ phận thẩm định cần tổ chức lại theo hướng độc lập hơn trong cơ cấu tổ chức, và phải bao gồm nhiều chức năng hoạt động khác nhau theo từng chuyên môn( thị trường, công nghệ- kỹ thuật, tài chính, pháp lý…). Mỗi bộ phận chức năng sẽ xây dựng các mục tiêu thẩm định riêng, hệ thống cơ sở dữ liệu và các kênh thông tin riêng để phục vụ cho hoạt động của mình. Cán bộ thẩm định sẽ dần được chuyên môn hoá.
Trong quy trình thẩm định của chúng ta vẫn còn tồn tại tình trạng chồng chéo chức năng, sự phối hợp trong quá trình thẩm định không tốt làm cho các cán bộ thẩm định không phát huy được hết khả năng sáng tạo của mình. Quy trình thẩm định rắc rối, không thống nhất gây nên những khó khăn nhất định cho công tác thẩm định. Muốn cho quy trình thẩm định gọn nhẹ, hiệu quả đòi hỏi phải có sự cố gắng rất lớn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Quy trình của chúng ta không sát với thực tế, còn mang nặng tính hành chính, gây ách tắc cho công tác thẩm định mà chất lượng hiệu quả còn chưa cao. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu thay đổi quy trình cho phù hợp với thực tế khách quan. Bên cạnh đó cũng nên tham khảo cách làm của các nước trên thế giới, qua đó vận dụng một cách phù hợp vào nền kinh tế nước ta.
1.6 Mở rộng và nâng cao các hoạt động tư vấn đầu tư.
Tư vấn đầu tư là hoạt động giúp cho công tác quản lý Nhà nước về đầu tư được thuận lợi hơn nhưng hiện nay ở Việt Nam thi công việc này vẫn còn bỏ ngỏ hoạt động chủ yếu do sự tự phát thiếu sự chỉ đạo của các bộ ngành, của các chuyên gia chuyên môn. Trong khi đó lĩnh vực này là rất quan trọng đối với các nhà đầu tư, các cơ quan làm chủ tịch trong việc lập hồ sơ dự án, làm hồ sơ, thủ tục hợp lệ mà còn góp phần xúc tiến hoạt động đầu tư. Chẳng hạn họ có thể giới thiệu cho các cơ quan là chủ đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực được phép đầu tư. Do vậy, nếu như có sự chỉ đạo rõ ràng về các mục tiêu đầu tư và phát triển quốcgia thì sẽ giúp cho việc xây dựng và khai thác chương trình dự án tránh được các nguy cơ mang tính chủ quan và rễ bị các nhà tài trợ chi phối như hiện nay. Việc này vừa giúp cho chủ đầu tư chọn ngành nghề kinh doanh hợp lý vừa giảm bớt những thủ tục cân thiết mà vẫn đảm bảo đáp ứng nhu cầu nhà tài trợ và yêu cầu của quản lý nhà nước, đồng thời giảm bớt khó khăn cho Vụ Thẩm định trong việc xử lý các thiếu sót không cần thiết trong hồ sơ dự án.
1.7 Tăng cường công tác giám sát đầu tư.
Nhằn thực hiện tốt công tác quản lý đầu tư và xây dựng, các bộ ngành, địa phương cần thực hiện tốt công tác giám sát đầu tư theo quy định tại Nghị định 07/ 2003 và Thông tư 23/ 2003/ TT- BKH.
Các Bộ, ngành và địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu bố trí đầu tư đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch kế hoạch được duyệt, thực hiện giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư.
Trong quá trình thực hiện đầu tư cần giám sát: Việc chấp hành các quy định về lập, thẩm định và phê duyệt, thiết kế tổng dự toán, công tác đầu thầu, điều kiện khởi công về xây dựng, việc bố trí kế hoạch huy động và sử dụng vốn của các dự án , việc thanh toán trong thực hiện dự án, Việc thực hiện tiến độ tổ chức quản lý dự án, các yêu cầu về bảo vệ môi trường, đánh giá năng lực của ban quản lý dự án theo phương thức thực hiện đầu tư đã lựa chọn.
Các bộ ngành, địa phương không phê duyệt dự án đầu tư nếu chưa làm rõ và đảm bảo tính khả thi về nguồn vốn: Đối với các dự án đã triển khai thực hiện, không phê duyệt điều chỉnh về nội dung đầu tư hay tổng mức đầu tư khi dự án chưa thực hiện giám sát và báo cáo theo quy định. Bên cạnh đó công tác giám sát cộng đồng cần được tăng cường: Ngoài việc giám sát thường xuyên của các cơ quan Nhà nước, chủ các chương trình dự án đầu tư, sau khi quyết định đầu tư phải công khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư(tên dự án, quy mô xây dựng, phạm vi chiếm đất, nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện…) tại địa điểm thực hiện đầu tư.
Nhà nước khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia giám sát việc thực hiện dự án theo quyết định đầu tư và các quy định của nhà nước, góp phần làm cho việc thực hiện dự án đúng quy định, tiết kiệm, hiệu quả.
Giám sát cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức, đoàn thể quần chúng và hội đồng nhân dân nhân các cấp, các tổ chức xã hội có thể giữ ý kiến về dự án đến cơ quan được cơ quan giao cho đầu mối tổ chức thực hiện việc giám sát, đánh giá đầu tư các cấp, dự án cấp nào quản lý thì ý kiến giám sát cộng động được gửi về cơ quan đầu mối giám sát đầu tư cấp đó.
2. Về phía Vụ thẩm định và giám sát đầu tư
2.1 Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thẩm định.
Đây là một trong những giải pháp cơ bản, có tác động nhanh và ít tốn kém chi phí nhất trong việc nâng cao chất lượng của thẩm định. Các dự án có chất lượng thẩm định như thế nào là tuỳ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm đạo đức nghệ nghiệp của người thẩm định.
Để thẩm định tốt, một chuyên gia thẩm định cần phải được tiêu chuẩn hoá, có kiến thức cơ bản về thị trường, tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án, kỹ thuật công nghệ, có kinh nghiệm hoạt động thực tế vĩ mô, vi mô, có khả năng tập hợp đánh giá thông tin nhạy bén , có khả năng sử dụng thành thạo vi tính, ứng dụng tối đa các phần mềm tin học hỗ trợ cho công tác thẩm định. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn phải có kinh nghiệm thực tế chuyên sâu về một số ngành, lĩnh vực cụ thể mà mình phụ trách.
Với khối lượng công việc thẩm định như hiện nay, sự phức tạp của các dự án, thì việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ là rất cần thiết. Để thực hiện tốt điều này thì trong thời gian tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phải chú ý một số giải pháp sau:
Trước hết tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong toàn cơ quan. Vụ thẩm định và giám sát đầu tư có thể mời chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn thẩm định dự án cho cán bộ dưới hình thức đào tạo ngay tại cơ sở làm việc đối với một số nghiệp vụ chuyên môn đặc thù. Đào tạo nghiệp vụ kỹ năng chuyên sâu theo ngành nghề và lĩnh vực dựa vào thế mạnh và đặc điểm phát triển kinh tế của từng địa phương.
Về lâu dài phải xây dựng đội ngũ ngay từ nguồn gốc đào tạo. Vụ Thẩm định phải kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên có kế hoạch giúp đỡ các trường đại học về giáo trình, kinh nghiệm, kinh phí phát triển các môn học có liên quan đến đầu tư trong nhà trường. Khi đã có một lượng khá đông đảo những người có kiến thức chuyên ngành thì việc quan trọng hơn là việc lựa chọn và thu hút nhân tài vào làm việc trong bộ máy của mình. Việc tuyển dụng cán bộ nói chung, tuyển dụng chuyên viên thẩm định nói riêng phải nghiêm ngặt tuân theo chế độ thi tuyển công chức. Sau khi thi tuyển rồi vẫn phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ như tổ chức học tập kinh nghiệm ở nước ngoài, gửi cán bộ vào các khoá đào tạo cao cấp.
Cần có biện pháp khuyến khích bằng hình thức cụ thể, thiết thực để mỗi chuyên viên tự bổ sung và tích luỹ kinh nghiệm, kiến thức của mình bằng việc tiếp tục học tập để nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn về thẩm định dự án như tham gia các lớp đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về quản lý trong đầu tư trong đó có thẩm định dự án, các lớp đào tạo tin học ứng dụng cho công tác thẩm định, các lớp học ngoại ngữ chuyên ngành nhằm giúp chuyên viên mở rộng hiểu biết ra bên ngoài, đặc biệt có ích trong việc thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài. Đây là một giải pháp khá tiết kiệm chi phí đào tạo nhưng vẫn đạt được hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, các cán bộ thẩm định phải luôn luôn chủ động tìm hiểu, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân. Có như vậy mới đáp ứng được công tác thẩm định và chất lượng thẩm định được nâng cao.
Cán bộ thẩm định phải đóng vai trò là người phản biện trong việc thẩm định dự án nhằm phát hiện các bất hợp lý, những điều chưa chắc chắn, những rủi ro bất trắc củadự án đồng thời đưa ra những nhận xét có tính xác thực. Điều đó phụ thuộc vào năng lực và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định vì vậy việc nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định là hết sức cần thiết
2.2 Nâng cao chất lượng của công tác thu thập thông tin cho cán bộ trong quá trình thẩm định.
Trong hoạt động thẩm định chất lượng thẩm định phụ thuộc rất nhiều vào thông tin của dự án. Thông tin có đầy đủ thì chất lượng thẩm định mới cao. Thông tin có ý nghĩa quan trọng quyết định tới hiệu quả của công tác thẩm định bởi lẽ trong tình hình hiện nay khi mà nền kinh tế đang phải đối mặt với sự thiếu vốn gay gắt thì việc tiếp nhận khác nhau là không tránh khỏi đối với quá trình đầu tư. Việc thông tin thiếu chính xác hoặc không đầy đủ khiến thẩm định không đúng đắn dẫn tới việc những dự án kém hiệu quả vẫn đưa vào hoạt động gây lãng phí vốn, ảng hưởng xấu đến nền kinh tế.
Để nâng cao chất lượng thông tin phải có sự so sánh, đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau. Do vậy tại Vụ Thẩm định phải xây dựng cho mình một kênh thu thập thông tin:
Thông tin cung cấp cho cơ quan thẩm định thường được lấy từ nhiều nguồn: Thông tin từ doanh nghiệp, từ dự án, từ các nguồn khác có liên quan đến dự án. Thông tin thu thập được có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhu cầu thông tin của thẩm định dự án xuất phát từ những nội dung cần đánh giá của dự án từ phương pháp thẩm định được sử dụng và từ các yếu tố cấn được đảm bảo.
Việc thu thập xử lý thông tin để đạt được tính pháp lý và độ chính xác cao trong thẩm định là rất phức tạp. Do đó Vụ Thẩm định cần phải củng cố và phát triển hệ thống cung cấp thông tin cho công tác thẩm định một cách toàn diện tránh tình trạng sự dụng thông tin một chiều từ dự án. Cán bộ thẩm định cần phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để phân tích đánh giá khách quan và đưa ra những kết luận thẩm định chặt chẽ có độ tin cậy cao. Để làm được điều này có thể áp dụng một số biện pháp sau: Xây dựng một hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ thuận tiện hiện đại, phải làm sao để thông tin được thông suốt trong toàn bộ hệ thống các phòng ban. Những thông tin cần thiết liên quan đến nhiều dự án có thể được truy cập một cách nhanh chóng.
Tổ chức hệ thống thu thập thông tin, xử lý, lưu trữ và quản lý thông tin nhăm trao đổi cung cấp kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định, đồng thời có khuyến cáo sớm những thông tin dự báo cần thiết.
Vụ Thẩm định cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng cho hoạt động thẩm định. Trong dó phải tập hợp, lưu trữ thông tin cần thiết về ngành, lĩnh vực , tình hình kinh tế các khu vực khác nhau trong cả nước, phát triển theo hướng lấy thông tin theo ngành dọc từ các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các địa phương sau đó truyền về sắp xếp lại thông qua mạng nội bộ.
Tiếp tục thực hiện việc phân tích , tổng hợp các thước đo, các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, suất đầu tư đối với một số ngành, sản phẩm hay loại hình dự án đầu tư, lĩnh vực đầu tư quan trọng.
Đứng trên giác độ thẩm định, các cán bộ thẩm định phải có kiến thức am hiểu mọi lĩnh vực dự án, là người có kỹ năng phân tích, tổng hợp dự án. Để có thể thu thập những thông tin cần thiết yêu cầu các cán bộ thẩm định phải tích cực chủ động tìm hiểu, nắm bắt các thông tin liên quan đến dự án qua các kênh thông tin trong và ngoài Vụ.
2.3 Tăng cường sự phối hợp giữa các cán bộ trong quá trình thẩm định.
Trong công tác thẩm định tại Vụ hầu như không có sự phối hợp giữa các chuyên viên và lãnh đạo. Trong Vụ có sự phân chia nhiệm vụ xử lý các mảng công việc riêng biệt thông qua các lĩnh vực trong nền kinh tế. Các cán bộ thẩm định chỉ biết hoàn thành công việc mà mình được phân công mà không tham khảo ý kiến, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Các Vụ phó chỉ có sự trao đổi với các chuyên viên của mình về những vấn đề mà mình phụ trách chứ không trao đổi qua lại giữa các Vụ phó và chuyên viên. Việc phối hợp giữa các chuyên viên trong quá trình thẩm định là rất cần thiết, không những làm cho chất lượng công tác thẩm định được nâng cao mà còn giúp các cán bộ thẩm định giải quyết được các vướng mắc trong quá trình thẩm định. Muốn vậy trong Vụ phải thực hiện chủ trương trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm, tích cực trong việc hợp tác và tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp có liên quan đến dự án mà mình phụ trách.
2.4 Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo rút kinh nghiệm về công tác thẩm định.
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng là tổ chức các cuộc trao đổi tổng kết công tác thẩm định. Việc này không những giúp cho các cán bộ và chuyên viên trong bộ trau dồi kiến thức, giải quyết được những thắc mắc trong công việc thẩm định của mình đồng thời tăng cường đoàn kết trong Vụ. Cuộc hội thảo này, giúp cho Vụ đánh giá được những việc đã làm và chưa làm được, đồng thời đề ra phương hướng giải quyết. Một dự án đầu tư thông thường liên quan đến nhiều mặt của nên kinh tế, mà do sự phân công công việc trong Vụ phân chia phụ trách các lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy sẽ gây khó khăn cho các cán bộ thẩm định nếu không có sự phối hợp thực hiện, trao đổi ,rút kinh nghiệm. Muốn vậy thì các lãnh đạo Vụ phải thực hiện công việc này một cách nghiêm túc thể hiện đúng vai trò của nó là biểu toạ đàm giữa các cá nhân trong Vụ, đưa các vấn đề phức tạp, những khúc mắc gặp phải cùng nhau tìm cách giải quyết vấn đề, góp phần nâng cao chất lượng của công tác thẩm định dự án.
2.5 Quan tâm hơn nữa đến yêu cầu phân tích, đánh giá định lượng nội dung thẩm định dự án.
Như trên đã nói, phân tích định lượng là một trọng những điểm yếu trong công tác thẩm định tại Vụ Thẩm định. Từ trước tới nay việc thẩm định thường nghiêng về các đánh giá mang tính định tính hơn là các yêú tố định lượng. Nhưng chính những chỉ tiêu mang tính định lượng mới là các yếu tố đảm bảo chất lượng và độ chính xác trong việc phân tích đánh giá dự án. Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao tính chuẩn xác và độ tin cậy trong các luận cứ, các kết luận và kiến nghị của Văn phòng thì Văn phòng nên điều chỉnh lại các nội dung thẩm định đi sâu vào việc kiểm tra, tính toán các yếu tố định lượng làm cơ sở cho việc đánh giá dự án. Đây là một trong những yêu cầu cần thiết đối với công tác thẩm định để đánh giá dự án, lựa chọn giải pháp đầu nhưng cũng đòi hỏi cao về cung cấp thông tin, sự am hiệu phương pháp và thời gian thực hiện.
Như vậy, bên cạnh việc xem xét đánh giá chủ trương, mục tiêu và các giải pháp thiết kế kỹ thuật, các yếu tố tổ chức dự án trên cơ sở phân tích định tính, Văn phòng Thẩm định sẽ chú trọng đi sâu vào việc phân tích định lượng, trong đó khía cạnh kinh tế - xã hội và môi trường của dự án sẽ được đặc biệt quan tam.
Để thực hiện được mục tiêu này, Văn phòng Thẩm định dự án cần có biện pháp thích hợp để tăng cường các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ nhằm nâng cao hiểu biết và đảm bảo thống nhất về phương pháp, về tiêu chuẩn đánh giá đối với mỗi nội dung thẩm định. Các công tác tính toán kiểm định trong nhiều trường hợp có tính nghiệp vụ cần phân công trách nhiệm cho chuyên viên thực hiện công tác đánh giá định lượng. Các chuyên viên này phải có kỹ năng và hiểu biết về các phương pháp toán học và biết sử dụng các chương trình phần mềm ứng dụng trên máy tính để phân tích.
Khi phân tích các chỉ tiêu mang tính định lượng cần chú ý tiêu điểm của việc phân tích chính là các dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ tiêu, phương pháp tính toán chỉ tiêu phải đảm bảo dựa trên cơ sở những số liệu có thể thu thập hoặc dự kiến được một cách tương đối chính xác chẳng hạn như giá cả, lãi suất, lạm phát, sản lượng… Từ đó tiến hành phân tích định lượng một cách có khoa học…
Cuối cùng khi đánh giá dự án cần kết hợp giữa hai chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối để bổ sung cho nhau và để nhân thức, đánh giá sâu sắc sự việc.
Chú ý việc xác định các giá kinh tế và các chỉ tiêu hiệu quả về mặt xã hội của dự án.
Việc xác định giá kinh tế để tính toán các dòng thu, chi của dự án phụ thuộc vào kỹ năng của người phân tích. Do vậy, nếu cán bộ thẩm định không xác định một cách chính xác các giá kinh tế của một dự án cũng sẽ không xác định chính xác dẫn đến những kết luận sai về dự án. Khi tiến hành định giá chi phí cho các luồng thu, chi của dự án thì ngoài phương pháp thị trường điều chỉnh cần kết hợp với các kỹ thuật phân tích bởi vì giá kinh tế thường được xác định dựa trên những giả định về môi trường kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ áp dụng kỹ thuật phân tích và dự báo trong thống kê để phân tích các luồng thu, chi của dự án thì mới xác định được chính xác cái mà xã hội đã bỏ ra hay thu về từ dự án.
Ngoài ra khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế –xã hội của dự án đầu tư cần chú ý việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các luồng thu, chi của dự án. Tỷ suất chiết khấu này phụ thuộc vào mức lãi suất thực tế cho vay của các tổ chức cho vay vốn, nhà tài trợ, chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy tỷ suất chiết khấu xã hội cần phải ổn định và áp dụng cho mọi dự án trong nước, trong từng ngành, địa phương nhưng trong mỗi thời kỳ, thường là trung hạn, tỷ suất chiết khấu cũng cần được định kỳ xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển trong và ngoài nước. Cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên về việc xem xét lại tỷ suất chiết khấu xã hội cho phù hợp với tình hình với tình hình mới.
Khi vân dụng các chỉ tiêu thẩm định hiệu quả kinh tế- xã hội dự án đầu tư cần căn cứ vào từng loại dự án khác nhau mà có cách tiếp cận , xử lý và so sánh khác nhau. Mỗi chỉ tiêu từ hệ thống chỉ tiêu thẩm định cần được xem xét trong dự án sẽ được so sánh với các chỉ tiêu chấp nhận dự án nhất định. Tuỳ thuộc vào từng chỉ tiêu, có thể là một chỉ tiêu do nội tại chỉ tiêu mang lại( NPV) hoặc là một chỉ tiêu qua so sánh chỉ tiêu khác( IRR), có thể là một tiêu chuẩn do thống kê kinh nghiệm thực tế, do thông lệ quốc tế song tiêu chuẩn chấp nhân dự án ở đây không nên áp dụng quá cứng nhắc mà có thể thay đổi khi không gian và thời gian phân tích thay đổi. Kết quả thẩm định qua từng chỉ tiêu khi so sánh với các tiêu chuẩn nói lên ý nghĩa từng mặt của vấn đề. Kết luân chung cuối cùng về dự án đầu tư phải là một kết luận mang tính tổng hợp, khái quát thậm chí phải nhờ vào sự cho điểm quan trọng khác nhau của các chỉ tiêu đánh giá. Mặt khác, kết luận chung đôi khi cũng cần linh hoạt tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sự ưu tiên khía cạnh nào đó của dự án.
2.6 Tăng cường hệ thống công nghệ thông tin cho từng ngành, từng lĩnh vực trong phạm vi cả nước.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mang lại những thành tựu rực rỡ trong công nghệ thông tin cùng với các thế hệ máy tính đang mở ra chiều hướng mới về xử lý thông tin theo xu hướng tự động hoá các hoạt động của con người trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. ở nước ta hiện nay, công nghệ thông tin đã được áp dụng vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và quản lý Nhà nước. Để đáp ứng ngày một tốt hơn các nhu cầu thông tin phục vụ hoạt động thẩm định, Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư cần kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu ứng dụng và phát triển mạng thông tin nội bộ và phối hợp với tát cả các đơn vị liên quan thực hiện trao đổi thông tin trên diện rộng. Hiện nay internet không ngừng phát triển, đó là điều kiện rất thuận lợi trong việc hỗ trợ công việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và Vụ Thẩm định nói riêng. Đặc biệt là những công việc cần thu thập nhiều thông tin như công tác thẩm định việc truy cập các thông tin một cách cập nhật trên các trang web của mạng internet góp phần tích cực trong việc thẩm định các dự án, rút ngắn được thời gian thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
2.7 Đâu tư thêm máy móc thiết bị và đưa chương trình phần mềm tin học ứng dụng trong công tác thẩm định
Trong thời đại thông tin việc áp dụng thiết bị máy tính vào trong công việc là điều hết sức cần thiết. Một trong những nguyên nhân khiến cho công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định Dự án Đầu tư chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do cán bộ thẩm định thiếu phương tiện để đánh giá, phân tích dự án. Do vậy, đẻ nâng cao chất lượng thẩm định dự án và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thẩm định cần thiết phải trang bị cho họ những công cụ và kỹ năng hiện đại cần thiết để thực hiện chức năng chuyên môn và nhiệm vụ của mình. Một trong nhữngcông cụ hiện đại và phổ biến nhất hiện nay trên thế giới đó là máy vi tính và các chương trình phần mềm ứng dụng trên máy tính. Mặc dù đa số cán bộ tại Vụ Thẩm định Dự án Đầu tư đều đã được trang bị máy tính để sử dụng nhưng phần lớn các máy tính đều đã cũ kỹ và không có phần mềm ứng dụng riêng cho công tác thẩm định. Hiện nay máy tính chưa được nối mạng Internet để khai thác thông tin mặc dù công tác thẩm định đòi hỏi nhiều thông tin. Do đó trong thời gian tới cần phải đầu tư thêm cho hệ thống máy tính, các chương trình phần mềm chuyên dụng đưa việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế cần thiết trong việc thẩm định vào các chương trình phần mềm để có thể kết quả thẩm định chính xác hơn, nhanh chóng hơn.Việc trang bị máy tính vào trong công việc góp phần làm giảm nhẹ áp lực công việc đối với mỗi cán bộ thẩm định, nó không những giúp ích rất nhiều trong vấn đề giải quyết các công việc mà còn làm cho công việc đạt hiệu quả hơn.
Kêt luận
Qua bài viết này, giúp chúng ta hiểu được phần nào về công tác thẩm định, từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến tổ chức thẩm định và ra quyết định, và những quy định của Nhà nước đối với công tác thẩm định. Qua đây cũng cho chúng ta hiểu phần nào thực tế công việc thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư.
Việc chọn đề tài “ Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư- Bộ Kế hoạch và Đầu tư” của em không ngoài mục đích để hiểu sâu hơn về những vấn đề liên quan đến công tác thẩm định. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bác các chú trên Vụ Thẩm định để cho bài viết được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin trân thành cảm ơn cô T.S Nguyễn Bạch Nguyệt và bác Vụ phó Mai Hữu Dũng đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Hà nội, ngày 20 tháng 5 năm 2004
Tài liệu tham khảo
1. Nghị định số 61/ 2003/ NĐ- CP ngày 06 tháng 6 năm 2003.
2. Quyết định số 601/ 2003/ QĐ- BKH ngày 19 tháng 8 năm 2003 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Nghị định 52/ 1999/ NĐ- CP, Nghị định 17/2000/ NĐ- CP và các nghị định sửa đổi bổ sung( Nghị định 12/ 2000, Nghị định 07/ 2003, Nghị định 27/2003).
4. Thông tư 04/ 2003/ TT- BKH ngày 17/ 6/ 2003, hưỡng dẫn về thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư, sửa đổi bổ sung một số điều về hồ sơ thẩm định, báo cáo đầu tư và tổng mức đầu tư.
5. Thông tư 05/ 2003/ TT- BKH ngày 22/ 7/ 2003, hưỡng dẫn về lập, thẩm định và quản lý các dự án quy hoạch phát triển ngành, kinh tế xã hội lãnh thổ.
6. Tạp chí kinh tế và dự báo.
7. Thời báo kinh tế Việt Nam.
8. Giáo trình kinh tế đầu tư- T.S Nguyễn Bạch Nguyệt và T.S Từ Quang Phương chủ biên- 2003.
9. Thẩm định dự án đầu tư - Vũ Công Tuấn- 1998.
10. Bài giảng môn thẩm định dự án đầu tư.
11. Các báo cáo tổng kết các năm của Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư.
Mục lục
trang
Lời nói đầu. 1
ChươngI: những vấn đề lý luận chung. 2
I. Các khái niệm. 2
1. Dự án đầu tư. 2
1.1 Khái niệm dự án đầu tư. 2
1.2 Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án. 3
1.3 Phân loại dự án đầu tư. 4
2. Thẩm định dự án đầu tư. 5
2.1 Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư. 5
2.2 Vai trò, mục đích và ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư. 7
II. tổ chức thẩm định dự án đầu tư. 8
1. Căn cứ để thẩm định dự án đầu tư. 8
1.1 Hồ sơ dự án. 8
1.2 Các căn cứ pháp lý. 9
1.3 Các tiêu chuẩn, quy chuẩn và định mức trong từng lĩnh vực
kinh tê kỹ thuật cụ thể. 10
1.4 Các quy ước thông lệ quốc tế và các thông tin có liên quan 11
2. Nguyên tắc trong thẩm định. 11
3. Các quy định về công tác thẩm định. 12
3.1 Về hồ sơ thẩm định. 12
3.2 Về phân cấp thẩm định. 14
3.3 Về thời hạn thẩm định. 19
3.4 Về lệ phí thẩm định. 19
4. Phương thức thẩm định. 20
4.1 Chuyên viên tự thẩm định. 20
4.2 Thuê chuyên gia hoặc cơ quan tư vấn thẩm định độc lập. 20
4.3 Lập hội đồng thẩm định. 20
5. Quy trình tổng quát thẩm định dự án đầu tư. 21
5.1 Tiếp nhận hồ sơ. 21
5.2 Lập hội đồng thẩm định. 21
5.3 Tổ chức thẩm định. 21
5.4 Dự thảo quyết định đầu tư hay cấp phép đầu tư. 22
5.5 Phê duyệt báo cáo khả thi. 22
III. phương pháp thẩm định. 23
1. Phương pháp so sánh chỉ tiêu. 23
2. Thẩm định theo trình tự. 24
2.1 Thẩm định tổng quát. 24
2.2 Thẩm định chi tiết. 24
3. Thẩm định dựa trên sự phân tích độ nhạy của dự án. 25
4. Phương pháp dự báo. 25
5. Phương pháp triệt tiêu rủi ro. 25
IV. nội dung thẩm định các dự án đầu tư. 26
1. Nội dung thẩm định các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 26
1.1 Đối với dự án sản xuất kinh doanh và dịch vụ. 26
1.2 Đối với các dự án mua sắm hàng hóa. 33
2. Nội dung thẩm định các dự án không sử dụng vốn ngân sách
nhà nước. 34
3. Nội dung thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài. 34
Chương Ii: thực trạng công tác thẩm định dự
án đầu tư tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư
bộ kế hoạch và đầu tư
I. Sơ lược về bộ kế hoạch đầu tư và vụ thẩm định và giám
sát đầu tư. 35
1. Sơ lược về Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 35
1.1 Chức năng, nhiệm vụ. 35
1.2 Cơ cấu tổ chức. 36
2. Sơ lược về Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 37
2.1 Chức năng, nhiệm vụ. 37
2.2 Cơ cấu tổ chức. 38
II. Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại vụ thẩm
định và giám sát đầu tư - bộ kế hoạch và đầu tư. 38
1. Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 38
1.1 Sự phối hợp giữa các đơn vị trong quá trình thẩm định dự án. 38
1.2 Thẩm định dự án. 42
1.3 Soản thảo và cấp giấy phép. 44
2. Phương pháp thẩm định được sử dụng tại Vụ Thẩm định và
giám sát đầu tư. 45
3. Nội dung thẩm định các dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát
đầu tư. 45
3.1 Đối với các dự án nhóm A trong nước. 46
3.2 Đối với dự án đầu tư nước ngoài. 46
Nội dung thẩm định dự án “ Xây dựng hệ thống giám sát
tài nguyên thiên và môi trường ở Việt Nam” 47
III. Đánh giá chung về công tác thẩm định. 64
1. Những kết quả đạt được. 64
1.1 Về tổ chức thực hiện. 64
1.2 Về chất lượng công tác thẩm định. 65
1.3 Về thực hiện công việc theo đúng quy trình. 66
1.4 Về mặt chuyên môn. 69
2. Những hạn chế còn tồn tại. 70 2.1 Về quy trình thẩm định. 70
2.2 Về nội dung thẩm định. 70
2.3 Về năng lực của đội ngũ làm công tác thẩm định. 71
3. Nguyên nhân. 72
3.1 Nguyên nhân khách quan. 72
3.2 Nguyên nhân chủ quan. 73
4. Bài học kinh nghiệm. 74
Chương III: một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác thẩm định dự án
đầu tư tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư
I. Các yếu tổ ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định
dự án đầu tư. 75
1. Thông tin và xử lý thông tin. 75
2. Năng lực và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định. 76
3. Quy trình và phương pháp thẩm định. 77
4. Tính đồng bộ và thống của hệ thống các văn bản của Nhà
nước trong công tác thẩm định 77
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 78
1 Về phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan. 78
1.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến công
tác thẩm định dự án. 78
1.2 Nâng cao chất lượng lập dự án. 80
1.3 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan. 80
1.4 Tăng cường quản lý sau quyết định đầu tư. 81
1.5 Cải tiến quy trình sao cho gọn nhẹ mà hiệu quả. 83
1.6 Mở rộng và nâng cao các hoạt động đầu tư. 83
1.7 Tăng cường công tác giám sát đầu tư. 84
2. Về phía Vụ thẩm định và giám sát đầu tư. 85
2.1 Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ. 85
2.2 Nâng cao chất lượng của công tác thu thập thông tin cho
cán bộ thẩm định 86
2.3 Tăng cường sự phối hợp giữa các cán bộ trong quá trình
thẩm định 88
2.4 Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo để rút kinh nghiệm
trong công tác thẩm định. 88
2.5 Quan tâm hơn nữa đến yêu cầu phân tích, đánh giá nội
dung thẩm định dự án 89
2.6 Tăng cường hệ thống thống tin cho từng ngành, từng
lĩnh vực trong phạm vi cả nước. 91
2.7 Đầu tư thêm máy móc thiết bị và đưa chương trình phần
mềm tin học ứng dụng trong công tác thẩm định. 92
kết luận. 93
Tài liệu tham khảo. 94
Mục lục. ` 95
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0054.doc