Tài liệu Công tác quản lý và sử dụng bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam: ... Ebook Công tác quản lý và sử dụng bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Công tác quản lý và sử dụng bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
đề tài:" Bàn về công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH tại cơ quan BHXH Việt nam" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi và trọng tâm nghiên cứu.
Do những hạn chế về thời gian kiến thức và tư liệu vì vậy phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như sự cần thiết khách quan khi sử dụng sổ BHXH trong quá trình quản lý và giải quyết chính sách cho người lao động. Mặt khác sổ Bảo hiểm xã hội là một trongnhững hình thức, công cụ quản lý riêng có của Việt Nam, nó là phương tiện quản lý, giám sát, kiểm tra của cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Đồng thời nó cũng là phương tiện sử dụng của người lao động trong quá tình làm việc, tham gia và hưởng các chế độ về Bảo hiểm xã hội. Do vậy, chuyên đề tập trung đi sâu phân tích đánh giá thực trạng cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH trong thời gian qua, từ đó em xin nêu ra một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò của công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH
Trong phần lý luận của chuyên đề em trình bày một số khái quát về BHXH và công tác quản lý sổ BHXH. Trong phần thực tế, thực trạng hoạt động của công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH được đưa ra phân tích. Ngoài ra em còn tìm hiểu và đề xuất một số biện pháp với hy vọng phần nào có thể khắc phục các khó khăn, tồn tại trong công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH gặp phải hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Cũng như các đề tài nghiên cứu khoa học khác, chuyên đề này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu. Phương pháp này đòi hỏi nghiên cứu về Bảo hiểm xã hội trong mối liên hệ chặt chẽ với điều kiện kinh tế và với cơ chế quản lý kinh tế, đảm bảo tính khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể của việc nghiên cứu, phân tích từng vấn đề của đề tài. Ngoài ra chuyên đề còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp dãy số thời gian, phương pháp phân tích so sánh, điều tra xã hội học, thông kê dữ liệu… để phân tích đánh giá nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH trong quá trinh quản lý thu và giải quyết các chế độ Bảo hiểm.
4. Cấu trúc của chuyên đề:
Với tất cả những điều trên. Chuyên đề được bố cục như sau:
Chương I: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội và công tác quản lý sổ BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý sổ BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH.
Với khả năng hạn chế của một sinh viên, nên mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chắc chắn trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến, phê bình của thầy cô giáo, các cán bộ trong ngành và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Hải Đường- giáo viên hướng dẫn cùng các cán bộ công tác tại Ban thu Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này!
Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỔ BHXH
I. Khái quát chung về BHXH
1. Vai trò của BHXH
Trong quá trình lao động và sản xuất người lao động thường gặp rất nhiều biến cố rủi ro do nhiều nguyên nhân khác nhay làm ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân và gia đình họ. Có những biến cố xảy ra ngay trong quá trình lao động cũng có những biến cố xảy ra ngoài quá trình lao động. Trước những biến cố rủi ro này người lao động gặp rất nhiều khó khăn và xã hội bị mất an toàn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tình trạng này càng diễn ra phổ biến khi nền sản xuất phát triển, khi có sự thuê mướn lao động, nhân công. Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một mức độ nhất định việc thuê mướn lao động diễn ra ngày càng phổ biến, mâu thuẫn chủ - thợ bắt đầu phát sinh. Trong số rất nhiều mâu thuẫn khác nhau, những mâu thuẫn sau càng trở lên gay gắt..Việc đấu tranh giữa hai bên để giải quyết mâu thuẫn ngày càng trở lên phức tạp và mang tính xã hội rộng khắp. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán một cách chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Với sự ra đời như trên BHXH đã có vai trò rất lớn đối với xã hội:
- BHXH có thể thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định.
- BHXH còn góp phần phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy, BHXH có vai trò rất lớn trong góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi người lao động khoẻ mạnh họ tham gia lao động sản xuất và được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Nhưng khi họ bị ốm đau, thai sản, tại nạn lao động hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Chính vì vậy mà cuộc sống của họ và gia đình luôn luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc.Từ đó, họ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
- BHXH còn giúp cho mối quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động ngày càng gắn bó hơn. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn tồn tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động…Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH mà họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau.
2. Đối tượngcủa BHXH và công tác quản lý đối tượng tham gia.
2.1. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Từ năm 1883, ở nước phổ ( CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm y tế. Một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
Tuy ra đời lâu như vậy,nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH vơi đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị mất đi do người lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nướcmà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước,những người làm công hưởng lương. Việt Namcũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không biình đẳng giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH,ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng hiếm có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển cảu BHXH một cách ổn định và bền vững.
2.2. Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.
Bộ luật lao động đã có một chương về BHXH, trong đó quy định các đối tượng sau đây phải áp dụng các chế độ BHXH:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên;
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể;
- Người lao động làm việc trong cá doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ, lực lượng vũ trang ;
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cửlàm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện
- Côngchức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ươngđến cấp huyện;
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng ở ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc
Các đối tượng quy định trên gọi chung là người lao động.
Cùng với đối tượng tham gia BHXH được mở rộng hơn so với trước đây, thì loại hình tham gia BHXH cũng được thống nhất: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Vấn đề này bước đầu đã tạo ra sự bình đẳng giữa những người lao động thuộc các thành phần kinh tế. với đối tượng đã được quy định như ở trên, hiện nay cả nước ta đã có khoảng 15% lực lượng lao động tham gia BHXH.
3. Các chế độ BHXH
3.1. Quan điểm của tổ chức Lao Động Quốc Tế
Theo công ước Giơnever số 102 ra đời tháng 6 năm 1952 tổ chức này có khuyến cáo BHXH thế giới phải bao gồm 9 chế độ sau đây:
Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp gia đình.
Trợ cấp sinh đẻ.
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp cho những người còn sống.
3.2. Cơ sở hình thành và đặc điểm hệ thống các chế độ BHXH.
Hệ thống các chế độ BHXH được hình thành trên cơ sở:
- Cơ sở sinh học liên quan đến người lao động
- Phân ngành kinh tế quốc dân.
- Cơ sở ngành nghề,vệ sinh an toàn lao động và bảo hộ lao động.
- Điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ.
Hệ thống các chế độ BHXH có đặc điểm chủ yếu sau:
- Được xây dựng trên cơ sở pháp luật của quốc gia.
- Mang tính chất phân tán rủi ro, chia sẻ tài chính
- Mức chi trả cho từng chế độ căn cứ chủ yếu vào mức dóng góp của các bên tham gia và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả.
- Phần lớn các chế độ trong hệ thống được chi trả định kỳ (đối với các chế độ dài hạn)
- Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH được hưởng ( BHXH phải chi và người lao động có quyền được hưởng).
- Mức chi trả phụ thuộc vào quỹ dự trữ, vào quy mô của quỹ và vào từng chế độ bảo hiểm.
- Hệ thống các chế độ BHXH được điều chỉnh và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Sự phát triển theo điều kiện này có thể liên quan đến nội dung từng chế độ hoặc liên quan đến tất cả hệ thống.
3.3. Hệ thống các chế độ BHXH.
Theo điều 2 của Điều lệ BHXHViệt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tại nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. So với trước đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động đã bị loại bỏ. Nội dung của 5 chế độ trên được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ:
Chế độ trợ cấp ốm đau:
Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp. Đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời có tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên trong qúa trình thực hiện, vẫn còn một số vấn đề phải tiếp nghiên cứu xem xét như: không quy định thời gian dự bị trước khi hưởng BHXH; thời hạn hưởng tối đa chưa rõ; thủ tục, danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu, cần phải bổ sung một số bệnh mới..v.v.
Chế độ trợ cấp thai sản:
Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa, việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiệnvà môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khácnhau. Qua thực tiễn, chế độ này còn một số điểm cầnkhắc phục như: còn đan xen giữa chính sách BHXH với chính sách dân số , kế hoạch hoá gia đình; thời gian dự bị trước khi được hưởng cũng chưa có…v.v.
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp:
Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy nhiên, cần phải xác định rõ hơn TNLĐ xảy ta trên đường đi từ nhà tới nơi làm việc và ngược lại, danh mục bệnh nghề nghiệp cần phải được bổ sung vì có một số loại bệnh mới phát sinh nhưng chưa được xếp vào bệnh nghề nghiệp v.v…
Chế độ hưu trí:
Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoảng trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Nội dung chế độ này đã khắc phục được những hạn chế trước đây như: Việc quy đổi thời gian công tác; bóc tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội khỏi chế độ hưu trí v.v… vì thế đã đảm bảo được sự công bằng bình đẳng giữa đóng và hưởng BHXH; giữa các nhóm lao động khác nhau. Tuy vậy, chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm cần khắc phục như: Tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động; những người được hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những người này chưa đủ tuổi, vừakhông đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ lao động nữa, do quỹ BHXH đảm nhận.
Chế độ tử tuất:
Một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất đó là chế độ tử tuất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết; khi xây dựng chế độ này, đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là có tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của người chết. Song, việc quy định đối tượng được hưởng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mệ bên vợ, bên chồng còn có thân nhân của cả hai bên chụi trách nhiệm. Điều này cần phảia căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định v.v…
4. Quỹ BHXH
4.1. Khái niệm
Sự ra đời, tồn tại phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế- xã hội của từng quốc gia, vào điều kiện lịch sử trong thời kỳ nhất định của đất nước. Trình độ kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia càng phát triển thì các chế độ BHXH được áp dụng càng mở rộng, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao và khi kinh tế phát triển, người lao động có thu nhập cao càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn tại và gắn với mục đích bảo đảm cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước.
4.2. Nguồn quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi)
Trong nền kinh tế hành hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro,mà là lời ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phảo chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà minh thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ- thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v…
Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên nước
Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của người lao động so vơi tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương (%)
CHLB Đức
CH Pháp
Inđônêxia
Philipin
Malaixia
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản
14,8-18,8
11,82
3,0
2,85-9,25
9,5
16,3-22,6
19,68
6,5
6,85-8,05
12.75
Ở nước ta, từ 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do Ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, chính phủ đã ban hành Nghị đinh 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối vơi người lao động.
- Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu, chi quỹ BHXH. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toàn khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó cơ cơ sở xác định mức phí đóng.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: cân bằng thu- chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P= f1 + f2 + f3
Trong đó: P- Phí BHXH
f1 - Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f2 - Phí dự phòng
f3 - Phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn ( thường là một năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ…Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v…quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải dược dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn
Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề…Ngoài ra con phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động.
4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
*Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy định: nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước quy định nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi v.v… Hoặc khi các điều kiện hưởng trợ cấp cho các chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến yếu tố: Điều kiện và môi trường lao động; bảo hộ lao động… Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao, nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức tiền lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao.
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã tìm cách khắc phục như: Trả ngay một phần khi nghỉ hưu hoặc suốt đời tính theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý như: tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v…Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Quá trình đầu tư quỹ phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội.
II. Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.
1.Các phương thức quản lý đối tượng tham gia BHXH.
1.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua các công cụ pháp luật.
Một trong những công cụ quản lý của Nhà nước về BHXH là các chế định pháp luật đối với các đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội. Chính sách Bảo hiểm xã hội là một chính sách mở cả về nội dung và phương thức thực hiện; không phải ngay một lúc, một thời điểm các chế định pháp luật về đối tượng tham gia BHXH đã được quy định một cách đầy đủ, bao hàm được toàn bộ cộng đồng dân cư có nhu cầu về BHXH; mà các chế định đó được bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh dần dần. Do vậy, đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội được Nhà nước điều chỉnh trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; đáp ứng được nhu cầu và khả năng tài chính của các tầng lớp dân cư.
Thông qua các chế định pháp luật chúng ta có thể nhận dạng cụ thể đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế với những yêu cầu, đặc điểm của từng giai đoạn, từng thời kỳ, cụ thể như sau:
1.1.1- Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội
Ngay từ khi mới thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Công hoà, theo Sắc lệnh số 105/SL năm 1946, đối tượng điều chỉnh là người lao động được BHXH theo loại hình hưu trí.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1959 tại Điều 32 quy định đối tượng là người lao động có quyền được Bảo hiểm xã hội và ngày 27/12/1961 Hội đồng chính phủ có Nghị định số 218/CP ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ Bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước.
Thông tư Liên Bộ số 14/TT-LB ngày 09/06/1988 của Liên Bộ Tài chính- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn quy định cụ thể về đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội là tất cả các cơ quan hành chính sự nghiệp như cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, khoa học kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật, thông tin y tế, giáo dục… các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc kinh tế quốc doanh bao gồm cả xí nghiệp kinh doanh thuộc Bộ quốc phòng, Nội vụ …có cán bộ, công nhân viên chức thuộc đối tượng hưởng Bảo hiểm xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được sửa đổi bổ sung tại Điều 56 đã nêu Nhà nước quy định về chế độ BHXH đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương.
Giai đoạn từ 01/04/1993 đến 31/12/1994 đối tượng tham gia BHXH đã được điều chỉnh thay đổi một cách cơ bản và đã được mở rộng. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/CP ngày 22/06/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH và Nghị định số 66/CP ngày 30/09/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH đối với lực lượng vũ trang trong đó quy định bắt buộc đối với công nhân viên chức thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, các tổ chức Đảng, đoàn thể. Người lao động làm việc và hưởng lương hoặc tiền công ở doanh nghiệp có sử dụng từ 11 lao động trở lên. Người lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt; BHXH tự nguyện đối với người lao động ngoài đối tượng trên.
Giai đoạn từ 01/05/1995 đến 31/12/2002. trong giai đoạn này Nhà nước đã có những điều chỉnh căn bản về các chính sách xã hội trong đó có chế độ BHXH, Căn cứ Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá IX ngày 23/06/1995 và được thực hiện từ ngày 01/01/1995,Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 ban hành Điều lệ BHXH trong đó đã quy định rõ các đối tượng phải nộp BHXH bắt buộc bao gồm người trong các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức nước ngoài, các đơn vị có vốn đầu tư của nước ngoài, người lao động làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp….. Cán bộ xã phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí được quy định tại Điều 03 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ; Người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài quy định tại Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ.
Giai đoạn từ ngày 01/01/2003 đến nay Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP ngày 09/01/2003 sửa đổi bổ sung Nghị đinh số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính Phủ ban hành Điều lệ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định tại khoản 1, Điều 1, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ được mở rộng đến người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa họ._.c, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác; hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, trạm y tế xã phường, thị trấn; người lao động xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp dồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập và hoạt độnt theo Luật hợp tác xã; các tổ chức khác có sử dụng lao động.
1.1.2. Đối tượng tham gia BHYT.
Đối tượng tham gia BHYT đã được điều chỉnh và ấn định bởi các quy định pháp luật xác định trong các văn bản từ Hiến pháp, Pháp lệnh đến các Nghị đinh, Quyết định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ ngành liên quan.
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2002/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội tại điều 39 đã ghi: "Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp sức khoẻ của nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe"
Lệnh của chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam số 36/L/CTN ngày 10/09/1994 công bố pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước:" Bà mẹ Việt Nam anh hùng"; Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ Cách mạng; trong đó tại Điều 5, 9,11,15 quy định về đối tượng và quyền lợi được Nhà nước mua Bảo hiểm y tế. Nghị định số 28/CP ngày 29/04/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lện ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, tai Điều 62 mục I về chăm sóc sức khỏe đã nêu rõ đối tượng được hưởng bảo hiểm y tế là những người có công với Cách mạng nếu không phải là người hưởng lương, hưởng BHXH.
Các quy định pháp luật về đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế là người lao động, người hưởng các chính sách xã hội của Nhà nước, người được hưởng bảo trợ xã hội, các tầng lớp nhân dân…được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật thể hiện tại Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế trong đó quy định về đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế và đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Ngoài ra, Nhà nước còn có những văn bản quy định pháp luật điều chỉnh chính sách, chế độ về BHYT đối với từng loại đối tượng cụ thể. Quyết định số 139/2002/QĐ/TTg ngày 15/10/2002 của thủ tướng Chính phủ về việc khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế cho đối tượng người nghèo. Nghị định số 63/2002/NĐ-CP ngày 18/06/2002 của Chính phủ quy định về việc khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế cho đối tượng là thân nhân sỹ quan tại ngũ…
Nhà nước với chức năng của mình, nhằm đảm bảo các chính sách, chế độ về Bảo hiểm xã hội được thực thi đầy đủ, đúng quy định đã xác lập về trách nhiệm và quyền lợi của các bên khi tham gia BHXH bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Tuỳ theo yêu cầu và mức độ khác nhau trong từng phạm vi và mức độ mà các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh các mối quan hệ về Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan thực hiện chính sách phù hợp với từng loại đối tượng, từng loại hình tham gia Bảo hiểm xã hội.
Trước hết, với phương pháp khoa học về định tính, các quy phạm pháp luật đã điều chỉnh từng phạm vi, từng lĩnh vực và từng đối tượng cụ thể trong quá trình tham gia và thực hiện chính sách chế độ về Bảo hiểm xã hội. Phân định rõ các chức năng, phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi của từng cơ quan quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội, cơ quan thực hiện chính sách, chế độ về Bảo hiểm xã hội và các đối tượng trong mối quan hệ ba bên về BHXH: người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội. Trong từng phạm vi điều chỉnh đó cũng đã phân định rõ cho từng lĩnh vực về chính sách, chế độ, tài chính, kế toán, thống kê, báo cáo….một cách cụ thể, rõ ràng và khoa học.
1.2. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý là sổ BHXH và phiếu khám chữa bệnh.
Đối tượng tham gia BHXH, BHYT rất đa dạng, phong phú. Có người là cán bộ, công chức Nhà nước; có người làm việc trong các cơ quan dân cử; có người lao động làm thuê cho các đơn vị sử dụng lao động trong nước hoặc nước ngoài; có người ra nước ngoài để làm thuê; có người thuộc diện chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu đãi trong việc mua, cấp thẻ BHYT, phiếu KCB, có người tự đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH…Có đối tượng hôm nay tham gia BHXH ở địa bàn này, ngày mai ở địa bàn khác; thời gian tham gia tuỳ theo loại hình có thể là vài tháng nhưng cũng có thể là hàng chục năm. Do vậy, việc phân định, xác lâp một phương thức, một công cụ để theo dõi, quản lý các đối tượng tham gia BHXH, BHYT trong một thời gian hay một thời kỳ nhất định là rất cần thiết.
Để quản lý sự nghiệp BHXH cần có các công cụ quản lý; ở Việt Nam hiện nay một trong những công cụ quản lý đó là sổ BHXH, phiếu KCB; đây là những công cụ quản lý đắc lực nhằm quản lý chặt chẽ những biến động về đối tượng: mức đóng của các thời kỳ, thời gian đóng, sự di chuyển, biến động về công việc, các chế độ đã hưởng…Sổ BHXH, phiếu KCB không chỉ cần thiết đối với cơ quan BHXH mà cần thiết cả cho người tham gia BHXH, BHYT, cần thiết cho người sử dụng lao động , cơ quan quản lý đối tượng , đảm bảo việc quản lý, theo dõi việc thực hiện nghĩa vụ và đảm bảo quyền lợi đối với người tham gia BHXH. Đồng thời sổ BHXH, phiếu KCB còn là căn cứ,chứng từ gốc,là hồ sơ phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng trong việc giám sát thực hiện các chế định của Nhà nước về chính sách BHXH.
1.2.1. Sử dụng công cụ quản lý là sổ BHXH và phiếu KCB được điều chỉnh bằng các chế định pháp luật.
1.2.1.1. Sổ BHXH là một trong 3 loại công cụ quản lý.
Sổ BHXH là một trong 3 loại công cụ quản lý mà người sử dụng lao động phải lập, người lao động được cấp theo quy định của Bộ Luật lao động, gồm: Sổ lao động- sổ lương- Sổ BHXH.
Sổ BHXH là một trong những công cụ quản lý đối với người lao động than gia BHXH, được chế đinh bởi pháp luật; được cấp, quản lý, sử dụng theo những quy định của Nhà nước.
Sổ BHXH do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp và chứng thực. Sổ BHXH cấp cho người lao động đã được điều chỉnh và ấn định bởi các quy phạm pháp luật xác định tại Bộ Luật lao động, trong các Nghị định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Nhà nước, đó là:
- Người sử dụng lao động phải lập sổ BHXH xã hội cho người lao động. Người lao động được cấp sổ BHXH theo quy định của pháp luật (diều 182-183-Bộ Luật lao động).
- Người lao động có quyền được nhận sổ BHXH(Điều 43- Nghị đinh số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ).
- Quân nhân, công an nhân dân được cấp sổ BHXH để hưởng các chế độ BHXH theo quy định. Sổ BHXH làm căn cứ hưởng BHXH…( Điều4, 38- Nghị định số 45/CP ngày 15/07 của Chính phủ
- Sổ BHXH dùng để ghi chép quá trình làm việc và đóng BHXH của người lao động tham gia BHXH; làm căn cứ để giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật ( Quyết định số 1443/LĐTBXH ngày 09/10/1995 của Bộ LĐ- TB&XH )…
Về chức năng và thẩm quyền cấp sổ BHXH, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã chỉ rõ: BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm in và tổ chức cấp phát sổ BHXH đến từng người tham gia BHXH. Sổ BHXH do cơ quan BHXH cấp cho các đối tượng tham gia BHXH theo quy định của Nhà nước; người tham gia BHXH phải có sổ BHXH; người sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách đối tượng (thuộc diện tham gia BHXH theo quy định của pháp luật) do đơn vị quản lý để đăng ký, cấp sổ BHXH theo mẫu quy định của BHXH Việt Nam; ghi và xác nhận nội dung quy định trong sổ BHXH, quản lý sổ BHXH trong thời gian người lao động làm việc tại đơn vị.
Như vậy, có thể thấy sổ BHXH là một trong những chứng cứ pháp lý của người lao động tham gia BHXH được chế định bởi Pháp luật; được cấp- sử dụng- quản lý dựa trên những căn cứ pháp lý cao nhất, được pháp luật thừa nhận.
1.2.1.2. Phiếu KCB được cấp cho các đối tượng tham gia BHYT và được chế đinh bởi các quy phạm pháp luật.
Các văn bản của Nhà nước đã điều chỉnh về đối tượng tham gia BHYT, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHYT, cơ quan tổ chức thu BHYT và quản lý cấp, phát phiếu khám chữa bệnh.
BHYT do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội, để tăng cường chất lượng trong việc khám chữa bệnh. Các chế độ BHYT được thực hiện với hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Các đối tượng tham gia BHYT dù dưới hình thức nào cũng được cấp phiếu KCB. Theo Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 58/1998/NĐ- CP ngày 13/08/1998 của Chính phủ, cơ quan BHXH có trách nhiệm thu tiền BHYT, cấp thẻ BHYT, phiếu KCB và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng thẻ BHYT, phiếu KCB; Nghị định số 100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam ghi rõ: cơ quan BHXH Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn chỉ đạo, tổ chức thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện, cấp các loại sổ, thẻ BHXH.
1.2.2. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý là sổ BHXH và phiếu KCB.
1.2.2.1. Thông qua sổ BHXH:
- Quản lý đối tượng tham gia thông qua kết cấu sổ BHXH:
Để ghi nhận quá trình làm việc có đóng BHXH và các chế độ BHXH đã hưởng của người lao động cần phải có phương thức và công cụ quản lý quá triình đó. Đồng thời phải đòi hỏi công cụ đó phải chứa đựng được đầy đủ những yếu tố cần thiết liên quan đến thân nhân, điều kiện quản lý và căn cứ pháp lý, trên cơ sở đó giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Công cụ quản lý đó chính là sổ BHXH.
Sổ BHXH được dùng để ghi chép quá trình làm việc và đóng BHXH của người tham gia BHXH, làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật.
Với kết cấu của sổ BHXH thể hiện như một loai hồ sơ gốc, một lý lịch gốc về BHXH của người lao động trong suốt quá trình làm việc có đóng BHXH. Trên sổ BHXH nhân thân của người lao động, quá trình làm việc, cấp bậc, chức vụ, chức danh nghề, công việc, đơn vị làm việc, địa điểm đơn vị đóng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ đều được thể hiện đầy đủ, rõ ràng. Sổ BHXH được xác nhận bởi tất cả các thành viên trong mối quan hệ bao bên về BHXH là người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH.
Sổ BHXH với kết cấu bao gồm những chỉ tiêu về mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, tỷ lệ người lao động, người sử dụng lao động và mức tiền lương, tiền công đóng BHXH từng kỳ, thời gian đã đóng BHXH.
Người lao động có đóng BHXH theo quy định của pháp luật mới được cấp sổ BHXH và người lao động chỉ có thể được hưởng chế độ BHXH khi có đóng đầy đủ, kịp thời tiền BHXH theo đúng quy định. Đó là một nguyên tắc, một quyền lợi và là một trách nhiệm của mỗi bên trong quá trình tham gia BHXH.
Khi người lao động thông qua sổ BHXH có thể kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đóng BHXH của người sử dụng lao động, cũng như quyền lợi về các chế độ BHXH mà mình đã được hưởng. Đồng thời, bằng việc triển khai cấp sổ BHXH trên phạm vị toàn quốc, những người lao động thuộc diện tham gia BHXH chưa được đóng và hưởng các chính sách chế độ về BHXH sẽ có thêm cơ sở để yêu cầu người sử dụng lao động phải thực hiện trách nhiệm và đảm bảo quyền lợi về BHXH cho mình.
Người lao động cũng sẽ được tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng và thanh toán kịp thời, đầy đủ, giảm bớt các thủ tục hồ sơ khi hưởng các chế độ BHXH, khi di chuyển đơn vị, địa bàn làm việc, tạm ngừng tham gia BHXH do thôi việc chưa được hưởng BHXH…nếu đã có sổ BHXH.
- Quản lý đối tượng tham gia thông qua nội dung phản ánh:
Nếu diễn đạt trên cơ sở nội dung mà nó thể hiện, thì sổ BHXH được dùng để ghi chép quá trình làm việc, thời gian tham gia, mức tiền đóng BHXH của người lao động của từng giai đoạn, từng thời kỳ trong suốt quá trình người lao động làm việc và tham gia BHXH theo quy định của Pháp luật.
Nếu phân tích nội dung sổ BHXH thể hiện tính khoa học về quản lý đối tượng tham gia BHXH theo phương diện tài chính- tiền tệ thì đó là một loai chứng từ gốc, mà trên đó ghi chép và phản ánh đầy đủ giá trị và thời gian tham gia BHXH của người lao động; giá trị và mức đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thực hiện chế độ BHXH.
Nếu nhìn nhận về nội dung phản ánh của sổ BHXH để phân biệt đối tượng tham gia BHXH thì sổ BHXH là căn cứ để xác định người lao động không tham gia BHXH, bất kể họ làm việc ở khu vực kinh tế nào, thuộc khu vực nhà nước hay tư nhân quản lý, lao động ở trong nước hay ở nước ngoài theo quy định của pháp luật. Những người có sổ BHXH sẽ được hưởng những chính sách, chế độ về BHXH theo phạm vi, mức độ họ tham gia mà những người lao động không đóng BHXH sẽ không được hưởng các quyền lợi đó.
1.2.2.2. Thông qua phiếu khám chữa bệnh.
- Quản lý đối tượng thông qua kết cấu và nội dung phản ánh của phiếu KCB:
Phiếu KCB là một trong những công cụ quản lý nghiệp vụ BHXH, được hình thành, hoàn thiện trong quá trình quản lý đối tượng tham gia BHYT. Phiếu KCB do cơ quan BHYT trước đây và BHXH Việt Nam hiện nay phát hành và cấp cho đối tượng tham gia BHYT sử dụng để khám chữa bệnh theo một mẫu có kết cấu và nội dung thống nhất trong toàn quốc.
Phiếu KCB BHYT được hiểu là một loại giấy tờ xác nhận các quyền lợi được hưởng về BHYT của người có tên ghi trên giấy tờ đó khi khám chữa bệnh theo quy định của Nhà nước. Để có được quyền lợi về BHYT thì đối tượng phải tham gia BHYT với hình thức bắt buộc hoặc tự nguyện. Để quản lý theo dõi đối tượng tham gia BHYT và quản lý trong quá trình khám chữa bệnh của đối tượng tham gia BHYT nhằm đảm bảo quyền lợi của đối tượng đúng chính sách, chế độ của Nhà nước; chi trả về quyền lợi đúng đối tượng được hưởng, cơ quan BHXH đã sử dụng phiếu KCB BHYT là công cụ quản lý với những tiêu thức, nội dung phù hợp, đảm bảo được yêu cầu quản lý, thuận tiện cho đối tượng trong quá trình sử dụng.
Với mục đích quản lý, theo dõi đối tượng tham gia BHYT trong quá trính đóng BHYT và tạo sự thuận tiện cho đối tượng trong quá trình khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế; Phiếu KCB có kết cấu nhỏ, gọn với nội dung phản ánh bao gồm các tiêu thức liên quan đến thân nhân của đối tượng như họ, tên, ngày tháng năm sinh, nơi ở hoặc đơn vị làm việc, giới tính, nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, phạm vi khám chữa bệnh và thời hạn sử dụng của phiếu KCB.
- Quản lý đối tượng thông qua phạm vi khám chữa bệnh và thời hạn sử dụng.
Phân tích theo quyền lợi, phiếu KCB theo chế độ BHYT không phải thanh toán chi phí khám chữa bệnh ( không cùng chi trả), cơ quan BHXH trả thay và một loại cơ quan BHXH thanh toán 20% chi phí khám chữa bệnh ( cùng chi trả). Khi người có thẻ BHXH đi khám chữa bệnh đúng quy định
2. Điều kiện, đối tượng, phạm vị cấp sổ BHXH.
2.1.Đối tượng được cấp sổ.
Đối tượng được cấp sổ BHXH theo quy định của Pháp luật bao gồm tất cả những người lao động làm việc có đóng BHXH. Các đối tượng tham gia BHXH được Chính phủ quy định phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với điều kiện lao động của từng khu vực kinh tế, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, loại hình và quy mô hoạt động của các tổ chức cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức kinh tế trong nước hay của nước ngoài có sử dụng lao động là người Việt Nam.
2.1.1. Đối tượng được cấp sổ BHXH theo quy định tại Điều 3 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngay 26/1/1995 của Chính phủ bao gồm:
- Người lao động làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có số lao động 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn của nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế tại Việt Nam trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác nhau.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc các tổ chức hành chính sự nghiệp, cơ quan, đoàn thể;
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang;
- Người giữ chức dân cử, bầu cử làm việc trong cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến huyện;
- Công chức viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện;
2.1.2. Đối tượng cấp sổ BHXH theo quy định tài điều 3 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị Định số 45/ CP cấp ngày 15/7/1993 của Chính phủ, bao gồm:
- Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp thuộc quân đội nhân dân Việt Nam;
- Sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật thuộc công an nhân dân;
- Cán bộ thuộc ngành cơ yếu hưởng lương theo hệ thống tiền lương lực lượng vũ trang;
Các đối tượng quy định tại điểm 1 và 2 ( gọi chung là người lao động) đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương do cơ quan đơn vị cũ trả thì cũng thuộc diện cấp sổ BHXH.
Trường hợp những người thuộc diện quy định thuộc nhóm 1 và 2 trên nhưng làm việc theo tính chất mùa vụ hoặc theo thể thức hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng thì không cấp sổ BHXH.
2.1.3. Cán bộ xã phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí được quy định tại điểm 1, 2, 3, 4, 5, Điều 3, Nghị đinh số 09/1998/NĐ- CP ngay 23/1/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị Định 50/CP ngay 26/07/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, bao gồm:
Bí thư Đảng uỷ xã, Phó Bí thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Hội Đồng nhân dân (nơi Bí thư Đảng uỷ xã không kiệm nghiệm Chủ tịch Hội Đồng nhân dân xã), Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã, Phó Chủ tịch Hội Đồng nhân dân xã; Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, Chủ tịch mặt trận, trưởng các đoàn thể ( Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh), xã đội trưởng, trưởng, phó công an xã, uỷ viên uỷ ban nhân dân xã, các chức danh khác thuộc Uỷ Ban nhân dân cà 4 chức danh chuyên môn: Địa chính, Tư pháp, tài chính - kế toán, Văn phòng uỷ ban nhân dân xã.
2.1.4. Người lao động Việt Nam đi làm việc tại có thời hạn ở nước ngoài theo quy định tại điều 2, điều 7- Nghị định số 152/1999/NĐ- CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Bao gồm:
Người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo các hình thức:
- Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài.
- Thông qua doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động.
- Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp ký với người sử dụng lao động ở nước ngoài.
2.1.5. Người lao động làm việc ở các cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao theo quy định tại Nghị định số 73/199/NĐ-CP ngày 19/08/199 của Chính Phủ.
Tất cả đối tượng trên đây gọi chung là người lao động.
2.2. Điều kiện và phạm vi cấp sổ BHXH.
2.2.1. Điều kiện để được cấp sổ BHXH:
- Các đối tượng là người lao động theo đúng quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Người lao động có đóng BHXH và có đầy đủ quyền công dân theo quy định của Pháp luật.
- Người sử dụng lao động có đóng BHXH có đủ điều kiện về quản lý, sử dụng lao động và tham gia BHXH theo đúng quy định của Pháp luật.
2.2.2. Phạm vi cấp sổ BHXH:
* Nguyên tắc chung:
- Sổ BHXH do BHXH Việt Nam phát hành, được sử dụng thống nhất trong cả nước chỉ có một loại theo đúng mẫu, màu sắc, kích thước, nội dung quy định trong quyết định số 1443/ LĐTBXH ngày 09/10/1995 của Bộ trưởng Bộ Lao Động- Thương binh xã hội về việc ban hành mẫu sổ BHXH.
- Người lao động thuộc các lĩnh vực: hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, chính trị, xãc hội thuộc khu vực Nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh, có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức, cơ quan nước ngoài hay trong lực lượng vũ trang hoặc ở khu vực xã, phường… đều được thực hiện theo một quy trình, trình tự cấp sổ BHXH chung, một phương pháp đánh số, một phương pháp ghi, xác nhận thống nhất.
* Phân định phạm vi về cấp, quản lý và sử dụng BHXH:
Đối tượng là người lao động quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 73/1999/NĐ- CP ngày 19/08/1999 của Chính Phủ được thực hiện theo các quy định chung quy định tại Thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày 26/04/1996 của Bộ lao động- Thương Binh & Xã hội và các văn bản hướng dẫn của BHXH Việt Nam.
- Các trường hợp quy định đặc thù:
+ Người lao động theo Nghị Định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ: Về nguyên tắc thực hiện theo quy định chung. Tuy nhiên, do đặc thù riêng của lực lượng vũ trang, nên BHXH chỉ đóng dấu giáp lai bằng dấu của BHXH trên sổ BHXH chưa sử dụng trước khi cấp cho quân đội, công an. Quá trình cấp sổ, xét duyệt, thẩm định, xác nhận trên sổ BHXH phân cấp cho BHXH thuộc Bộ Quốc Phòng, Công An.
+ Người lao động theo Nghị định số 152/ 1999/NĐ- CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ: Do tính chất lao động của người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài nên việc thu nộp BHXH của người lao động ( cơ quan, đơn vị được phép tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài nộp thay) được quy định 6 tháng 1 lần, mức nộp cũng quy định khác nhau: nếu trong nước đang tham gia BHXH thu nộp bằng 15% trên mức lương, phụ cấp trước khi đi. Lao động phổ thông thì bằng 2 lần mức lương tối thiểu (thông tư số 17/TT-LĐTBXH ngày 24/04/1997 của Bộ lao động- Thương binh & Xã hội). Trường hợp người lao động chưa được cấp sổ BHXH, người sử dụng lao động lập sổ BHXH cho người lao động, khi người lao động mới ký ở trang 3 và thực hiện tiếp theo các quy định về sổ BHXH ( nếu người lao động thôi việc hưởng chế độ trợ cấp một lần, hay người lao động tiếp tục làm việc…)
Riêng đối với trường hợp người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với phía nước ngoài thì mọi giao dịch về thanh toán, thu nộp BHXH và cấp sổ BHXH được thực hiện thông qua Sở LĐ- TB& XH nếu người lao động đăng ký trước khi đi.
+ Người lao động theo Nghị định 09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ: Về nguyên tắc là thực hiện theo quy định chung, nhưng có đặc thù riêng về mức nộp là 10% và 5% trên mức sinh hoạt phí và việc ký xác nhận trên sổ quy định bí thư huyện ủy xác nhận trên sổ BHXH cho Bí thư, phó Bí thư hoặc thường trực Đảng uỷ xã, phường có thời gian làm việc và đóng BHXH trước ngày 01/01/1998 còn các chức danh khác do Chủ tich UBND huyện ký xác nhận. Từ ngày 01/01/1998 trở đi do Chủ tịch UBND xã ký, xác nhận.
+ Người lao động thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/04/2002 của Chính phủ được tự đóng tiếp BHXH với mức 15% lương tháng trước khi nghỉ việc cho cơ quan BHXH quận huyện nơi cư trú. Người lao động ký trên cột 9, cơ quan BHXH quận huyện ký trên cột 10, người lao động trực tiếp quản lý sổ BHXH.
3. Quản lý sổ BHXH
3.1.Người lao động:
Người lao động trực tiếp quản lý sổ BHXH, nhận sổ BHXH và các giấy tờ liên quan trong các trường hợp di chuyển đơn vị làm việc hoặc khi tạm ngừng tham gia BHXH do thôi việc, chưa hưởng BHXH. Trong quá trình quản lý sổ BHXH không được tự ý sửa chữa, tẩy xóa, ghi chép trên sổ BHXH, phải đảm bảo an toàn, không để hư hỏng, mất mát. Trường hợp đặc biệt khi thay đổi, biến động về nhân thân ( họ, tên, ngày tháng năm sinh) người lao động phải có đơn trình bày kèm theo các giấy tờ liên quan gửi cho cơ quan BHXH để lưu cùng hồ sơ cấp sổ BHXH làm căn cứ khi giải quyết các chế độ BHXH sau này.
Người lao động có quyền được kiểm tra, xem xét các nội dung ghi trong sổ BHXH. Có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan BHXH hoặc các cơ quan có trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc kê khai, xác nhận, ghi và cấp sổ BHXH không đúng quy định cho bản thân cũng như đối với người lao động khác.
3.2. Người sử dụng lao động:
Người sử dụng lao động quản lý sổ BHXH trong quá trình người lao động làm việc tại đơn vị, đồng thời lập, ghi, xác nhận và làm thủ tục giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động có trách nhiệm ghi bổ sung kịp thời khi một trong những yếu tố liên quan đến mức đóng BHXH của người lao động thay đổi.
Khi người sử dụng lao động thay đổi về pháp nhân ( tên đơn vị,chức danh lãnh đạo, thủ trưởng đơn vị) liên quan đến việc quản lý, ghi và xác nhận trên sổ BHXH phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan BHXH.
Người sử dụng lao động trong phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của mình quản lý sổ BHXH và các hồ sơ, giấy tờ liên quan của người lao động không để hư hỏng, mất mát. Những người không có thẩm quyền không được sao chụp, ghi chép, sửa chữa trên sổ BHXH. Trong các trường hợp thiên tai, hỏa hoạn làm mất, hỏng sổ BHXH, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan BHXH để phối hợp xử lý. Định kỳ phải tổ chức kiểm tra việc quản lý, sử dụng và bảo quản sổ BHXH.
Chương II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỔ BHXH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái quát chung về chính sách BHXH qua các giai đoạn.
1. Giai đoạn 1945- 1986.
1.1. Giai đoạn 1945- 1961.
BHXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội, nên ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các vấn đề xã hội, trong đó chính sách đối với người lao động khi nghỉ hưu đã được quan tâm đáng kể. Nhà nước đã thành lập quỹ hưu bổng và quan hệ thu nộp tiền vào quỹ hưu bổng đầu tiên được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ quy định tại các Sắc lệnh số 105/SL( 1946), trong đó quy định người lao động được BHXH theo loại hình hưu trí phải đóng từ 6% đến 10% tiền lương hàng tháng và công quỹ trích 7% đến 10% nộp vào quỹ hưu bổng. Đến năm 1950 Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh số 77/SL ( 22/5/1950) ban hành quy chế công nhân bổ sung hoàn chỉnh mức nộp và mức hưởng BHXH.
Nhìn lại các chế độ đã ban hành ở giai đoạn này thấy rằng do chính sách BHXH được ban hành ngay sau khi dành được độc lập, trong hoàn cảnh kháng chiến kinh tế còn nhiều thiếu thốn nên chưa được thực hiện đầy đủ, chỉ mới thực hiện được mốt số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo mức sống tối thiều cho công nhân viên chức Nhà nước. Các khoản về hưu trí và mất sức lao động còn lẫn lộn với tiền lương nên rất khó khăn cho việc hạch toán, chi BHXH chưa có quỹ riêng để thực hiện, 100% nguồn chi lấy từ Ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, chính sách BHXH giai đoạn này có ý nghiã giải quyết khó khăn cho công nhân viên chức Nhà nước khi tuổi già hoặc mất sức lao động đã nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến người lao động thông qua chính sách BHXH.
1.2.Giai đoạn 1/1/1962 đến 1986:
Đăc điểm: Giai đoạn này Nhà nước bắt đầu thành lập quỹ BHXH thuộc Ngân sách Nhà nước và quy định điều chỉnh các quan hệ thu nộp tiền vào quỹ BHXH, thay thế các quy định trước đó về các chế độ chỉ mang tính chất BHXH
Các quan hệ thu nộp BHXH được thiết lập như sau:
- Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước.
- Nghị định số 39/CP ngày 22/03/1962 của Hội đồng Chính phủ quy định nội dung thu- chi quỹ BHXH của Nhà nước.
- Quyết định số 62/CP ngày 10/04/1964 của Hội đồng Chính phủ quy định Bộ Nội vụ được quản lý 1% trong tổng số 4,7% thu BHXH.
Trong các Nghị định và Quyết định trên của Chính phủ có một số nội dung điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và đối tượng thu nộp BHXH, chủ yếu trên những mặt cơ bản sau:
+ Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường… của Nhà nước nộp hành tháng vào tháng 04/1964 Quỹ BHXH được ấn định là 4,7% so với tổng quỹ tiền lương của công nhân viên chức Nhà nước.
+ Về quản lý Quỹ BHXH:
Tổng công đoàn quản lý từ tháng 01/01/1962 là 4,7% và từ còn quản lý 3,7%.
Bộ Nội vụ quản lý 1% từ tháng 04/1964
Tại văn bản quy phạm pháp luật này Chính phủ đã quy định thực hiện 6 chế độ chính sách về BHXH cho công nhân viên chức Nhà nước là:
- Chế độ ốm đau.
- Chế độ thai sản.
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Chế độ mất sức lao động.
- Chế độ tử tuất.
2. Giai đoạn 1987 đến 1995.
2.1. Giai đoạn từ 1987 đến 31/3/1993.
Đặc điểm : Giai đoạn này Nhà nước có một số thay đổi về chính sách BHXH và mối quan hệ thu nộp quỹ BHXH.
Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thu nộp BHXH:
- Chính phủ có Quyết định số 131/HĐBT ngày 30/10/1986 nâng tỷ lệ trích nộp BHXH phân do Tổng công đoàn quản lý từ 3,7% lên 5% so với tổng quỹ lương của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước.
- Ngày 16/03/1988 Chính phủ có Quyết định số 40/HĐBT về việc sửa đổi tỷ lệ trích nộp BHXH do Bộ Lao động- Thương binh và xã hội quản lý. Trong đó, quy định nâng tỷ lệ trích nộp BHXH do các cơ quan đoàn thể, xí nghiệp, công nông lâm trường nộp hàng tháng từ 1% lên 10% so với tổng quỹ lương công nhân viên chức Nhà nước.
Đến cuối năm 1988 trích lại 2% cho đơn vị sử dụng lao động để trợ cấp khó khăn cho cán bộ công nhân viên chức- phần quỹ BHXH 8% do Bộ LĐTBXH quản lý. Quy định này được thực hiện từ 01/04/1988.
Tại Thông tư Liên Bộ số 14/TT- LB ngày 09/06/1988 của Liên Bộ Tài chính- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn Quyết đinh 40/HĐBT của Chính phủ đã quy định cụ thể về đối tượng thu nộp BHXH là: tất cả các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp bao gồm cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, khoa học kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật, thông tin, y tế, giáo dục… các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc kinh tế quốc doanh bao gồm cả xí nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng, Nội vụ… có cán bộ, công nhân viên chức thuộc đối tượng được hưởng chế độ BHXH khi về hưu, nghỉ việc vì mất sức lao động hoặc chết đều phải nộp một khoản tiền bằng 10% quỹ tiền lương thực trả hàng tháng cho công nhân viên chức vào quỹ BHXH do Bộ LĐTBXH quản lý.
Giai đoạn này người lao động hưởng các chế độ BHXH như giai đoạn 1962- 1986.
Như vậy, so với giai đoạn trước giai đoạn này chế độ BHXH đã được mở rộng hơn, công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang. Mức đóng BHXH có nâng lên: tổng số phải nộp là 15% trên tổng quỹ tiền lương. Tuy nhiên, giai đoạn này người lao động vẫn chưa phải đóng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3848.doc