Công tác quản lý Ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên - Tỉnh Lai Châu

MỞ ĐẦU Sau hai mươi hai năm thực hiện cơ chế chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, kể từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đã được cải thiện vượt bậc, tạo cho Việt Nam một bộ mặt với những thay đổi to lớn về diện mạo kinh tế mới trong mắt bạn bè quốc tế. Cùng với sự thay đổi về cơ chế chính sách như vậy, nền kinh tế nước nhà đã liên tục tăng trưởng qua các năm một cách ổn định và bền vững, tạo nguồn lực tài chính để thúc đẩy sự phát triển lâu dài. Từ nhữn

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác quản lý Ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên - Tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thành tựu đã đạt được Nhà nước ta đã không ngừng cải cách, đổi mới hệ thống Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững an ninh tài chính quốc gia, thúc đẩy hội nhập kinh tế, quốc tế. Song song với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng với tính chất là nội lực cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và phát triển của một Nhà nước luôn luôn cần thiết phải có nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường xuyên của những tổ chức, cơ quan đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước. Để đáp ứng nguồn kinh phí để đảm bảo cho các hoạt động như; Các cơ quan quản lý Nhà nước, quân đội, cảnh sát, sự ngiệp văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, đầu tư phát triển kinh tế đất nước thì Nhà nước phải tạo ra các nguồn thu để bảo đảm, đó là nguồn thu từ các loại thuế và các nguồn khác. Tất cả quá trình thu nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó của Nhà nước đều phải được phản ánh qua Ngân sách Nhà nước. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước cùng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước. Nó có chức năng trung gian giữa cấp ngân sách Trung ương, ngân sách cấp Tỉnh, thành phố và ngân sách cấp xã phường, thị trấn. Quản lý và phân phối lại nguồn tài chính của địa phương nhận từ ngân sách cấp trên hoặc từ nguồn thu được điều tiết theo quy định phát sinh trên địa bàn cho hoạt động của bộ máy quản lý cấp huyện và bổ sung cân đối cho hoạt động của cấp xã, phường, thị trấn. Ngân sách Nhà nước ta đã ra đời từ lâu, tuy nhiên nó chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm 1997. Trong quá trình thực hiện đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nước ta, Luật ngân sách Nhà nước đã được sửa đổi nhằm để quản lý thống nhất nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sau một thời gian nghiên cứu thực tập, thu thập các thông tin, kiến thức thực tế để bổ sung cho kiến thức đã học tại nhà trường, em đã nhận thấy rằng trước những đòi hỏi bức xúc về quản lý điều hành ngân sách Nhà nước nói chung và quản lý điều hành ngân sách cấp quận, huyện nói riêng, em xin mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề thực tập với nội dung “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách Nhà nước huyện Than Uyên - tỉnh Lai Châu” Qua thực tiễn tại đơn vị phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên, em đã nhận thấy rõ được kiến thức về công tác quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước nói chung và ngân sách cấp huyện nói riêng. Em mong rằng một số ý kiến đề xuất của cá nhân em sẽ đóng góp phần nào nhỏ bé vào công tác quản lý điều hành ngân sách tại địa phương và luật Ngân sách Nhà nước. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo Trần Việt Lâm cùng tập thể các đồng chí trong phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Mong rằng các bạn đọc đóng góp ý kiến tham gia những khiếm khuyết và thiếu xót trong đề tài này./ Em xin chân thành cảm ơn! Than Uyên 06-2008 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN. I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm về Ngân sách Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. (4) 2. Nội dung của Ngân sách Nhà nước. (4,5,8) - Nội dung của Ngân sách Nhà nước gồm các khoản thu và chi. Các khoản thu bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản chi bao gồm chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm Quốc phòng - An ninh; chi bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. - Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Hệ thống ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương, Ngân sách địa phương bao gồm Ngân sách sách của các đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. - Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: + Ngân sách Trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; + Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách. + Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách giữa các cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. + Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo, việc ban hành và thực hiện các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp đảm bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp. + Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. + Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên là nguồn thu của ngân sách cấp dưới. + Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối ngân sách, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên. 3. Nguyên tắc của Ngân sách Nhà nước. (4,5,8) - Về thu ngân sách Nhà nước, phải được thực hiện theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. - Về chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây: + Đã có trong dự toán Ngân sách được giao. Trừ trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định thì lập lại dự toán ngân sách Nhà nước. Trường hợp dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ Ngân sách Trung ương chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương trình Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quy định. Trường hợp dự toán Ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình chưa được Hội đồng nhân dân quyết định, Uỷ ban nhân dân lập lại dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình, trình Hội đồng nhân dân vào thời gian do Hội đồng nhân dân quyết định, tuy nhiên không được chậm hơn thời hạn do Chính phủ quy định. Trong quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước, nếu có sự thay đổi về thu, chi thì thực hiện như sau: Thứ nhất số tăng thu và tiết kiệm chi so với dự toán được giao được sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Chính phủ dự kiến phương án sử dụng đối với từng nhiệm vụ chi, báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi thực hiện; Uỷ ban nhân dân dự kiến phương án đối với từng nhiệm vụ chi, thống nhất ý kiến với thường trực Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện; đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân trước khi thực hiện. Thứ hai trường hợp số thu không đạt dự toán được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định, Chính phủ báo cáo với Uỷ ban thường vụ quốc hội, Uỷ ban nhân dân báo cáo với thường trực Hội đồng nhân dân, đối với cấp xã, Uỷ ban nhân dân thống nhất ý kiến với Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân điều chỉnh giảm một số khoản chi tương ứng. Thứ ba trường hợp có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể ttrì hoãn được mà dự phòng ngân sách không thể đáp ứng được, Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải xắp xếp lại các khoản chi trong dự toán được giao hoặc sử dụng các nguồn dự trữ để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất. Thứ tư trường hợp biến động lớn về ngân sách so với dự toán đã được phân bổ cần phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ lập dự toán điều chỉnh ngân sách Nhà nước trình quốc hội, Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân theo quy trình lập, quyết định theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước hiện hành. Ngoài ra còn một số trường hợp khác cần phải điều chỉnh dự toán nêu trong luậ Ngân sách Nhà nước năm 2002. + Chi ngân sách Nhà nước phải đúng tiêu chuẩn, đúng chế độ và định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. + Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi. + Các cấp, các ngành, các đơn vị không được đặt ra các khoản thu, chi trái với quy định của pháp luật. + Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống thất thoát, tham nhũng. - Các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ. 4. Vai trò của Ngân sách Nhà nước. - Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Ngân sách Nhà nước là đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương. Ngân sách Nhà nước là công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, tạo đà tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, thực hiện tiến trình công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. - Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của bộ máy hành chính, đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền đất nước và trật tự xã hội. - Ngân sách Nhà nước đầu tư cho sự phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định và điều khiển nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Ngoài việc đảm bảo ngân sách cho chi thường xuyên. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế bằng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn hoặc kế hoạch dài hạn. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Hiện nay trong nền kinh tế năng động, thời kỳ kinh tế Việt Nam hội nhập với các nền kinh tế trên toàn cầu, việc sử dụng Ngân sách Nhà nước để tác động vào nền kinh tế là hết sức quan trọng. Do đó luật ngân sách cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện để đáp ứng đúng yêu cầu là vài trò thúc đẩy sự phát triển và ổn định cho một nền kinh tế năng động của nước ta hiện nay. Ngân sách Nhà nước với tư cách là một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ chế tác động của thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của Ngân sách Nhà nước để tăng cường vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Ngân sách Nhà nước. - Song song với việc chi đảm bảo cho hoạt động của hệ thống chính trị, đầu tư cho phát triển đem lại những thành tựu to lớn. Nhiệm vụ quan trọng không kém là những khiếm khuyết mà nền kinh tế thị trường đã tạo ra là môi trường sinh thái ô nhiễm, sự mất cân đối về cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, sự chênh lệch giữa các vùng miền trong cả nước. Vì vậy để giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường và đảm bảo công bằng xã hội thì Ngân sách Nhà nước cần có các biện pháp nhằm giải quyết các hậu quả do nền kinh tế thị thường đã đem lại cho xã hội. 5. Chức năng của Ngân sách Nhà nước. (4) - Ngân sách Nhà nước có những chức năng cơ bản sau: Thứ nhất là chức năng phân phối giữa các cấp ngân sách; thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách và bổ sung cân đối ngân sách cho cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng. Thứ hai là chức năng đôn đốc; kiểm tra, giám sát, chức năng này cụ thể là các nghiệm vụ như kiểm tra việc chấp hành ngân sách Nhà nước, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách Nhà nước một cách thường xuyên liên tục. Thực hiện tốt chức năng này sẽ đem lại những thông tin trung thực cho việc quản lý các hoạt động của Ngân sách Nhà nước, giúp cho Nhà nước phát hiện những thiếu sót, kịp thời chỉnh sửa, phát huy những kết quả tốt đã đạt được góp phần thúc đẩy hoàn thiện luật Ngân sách Nhà nước, tiến tới các mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định. 6. Hệ thống Ngân sách Nhà nước Việt Nam. (4) Hệ thống Ngân sách Nhà nước Việt Nam được phân cấp thành 4 cấp: Ngân sách Trung ương, Ngân sách tỉnh, thành phố, ngân sách quận, huyện và ngân sách xã, phường, thị trấn tương ứng với hệ thống chính trị của Việt Nam. Ngân sách Trung ương đóng vai trò chủ đạo đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, ngân sách xã, phường, thị trấn đóng vai trò chủ đạo, ngân sách cấp tỉnh, thành phố, quận huyện đóng vai trò trung gian. 7. Niên độ ngân sách Nhà nước. (4) Niên độ ngân sách nước ta; được thực hiện bắt đầu vào ngày 01/01 hàng năm tính theo dương lịch và kết thúc vào 31/12 các năm tính theo dương lịch. Niên độ Ngân sách là năm ngân sách chỉ thời gian mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách đã được phê chuẩn, quyết định và thực hiện. Chu trình của một niên độ ngân sách nước ta; là xây dựng kế hoạch thu chi ngân sách Nhà nước, chấp hành thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước và cuối cùng là kiểm tra quyết toán ngân sách Nhà nước. 8. Phân cấp ngân sách Nhà nước. (4) 8.1 Nguyên tắc phân cấp ngân sách; Nhằm đảm bảo tính chủ động trong việc quản lý điều hành Ngân sách Nhà nước của từng cấp, phù hợp với thực tế, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp gắn liền với trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cấp. 8.2 Nội dung của phân cấp ngân sách; Là phân cấp nội dung thu và các nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách. II. NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN 1. Sự tồn tại khách quan của ngân sách huyện. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, ngân sách Nhà nước đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Với chức năng là công cụ tài chính rất quan trọng của Nhà nước, Ngân sách Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là Nhà nước và kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước tất yếu kéo theo yêu cầu tập trung nguồn lực tài chính vào tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải, đáp ứng cho các chi phí nuôi sống bộ máy thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước ta đã có từ lâu, song chỉ được thể chế thành Luật năm 1996 và có hiệu lực từ năm 1997, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật ngân sách Nhà nước đã được hoàn thiện và thông qua. Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI của Quốc hội nhằm quản lý ngày càng tốt hơn nền Tài chính Quốc gia, nâng cao tính chất chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tải sản của Nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngân sách huyện với tư cách là một bộ phận hữu cơ của Ngân sách Nhà nước, cũng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại phát triển của hệ thống ngân sách Nhà nước, đảm bảo chức năng là cấp ngân sách trung gian giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp xã, phường cùng một số nhiệm vụ được uỷ quyền từ ngân sách Trung ương. 2. Vai trò của Ngân sách huyện. Như đã nêu ở trên, Ngân sách huyện là một bộ phận hữu cơ của ngân sách địa phương. Đóng vai trò Ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện, đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước của Chính quyền cấp huyện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Ngân sách cấp huyện cùng ra đời và trải qua chặng đường hình thành và phát triển, cùng với sự vận động, biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, sự tồn tại và phát triển của chính quyền cấp quận - huyện cả về lượng và chất là một thực tế không thể phủ nhận được. Vị trí, vai trò của Ngân sách huyện được thể hiện rõ trong Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 2 khoá XI. Ngân huyện là một cấp ngân sách quan trọng, đóng vai trò là cầu nối giữa các đơn vị cơ sở với các cơ quan quản lý cấp trên. Mọi chủ chương, chính sách của Nhà nước, hiệu lực quản lý Nhà nước đều có sự tham gia của cấp ngân sách này, giúp cho công tác quản lý điều hành đạt hiệu quả tốt hơn. Đồng thời cũng phản ánh kết quả của chủ trương chính sách, chế độ đó khi triển khai thực hiện tại cơ sở. Là một cấp chính quyền cơ sở cũng tổ chức cho mình một bộ máy quản lý với hệ thống các cơ quan, đoàn thể, hành chính nhằm tổ chức thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa rằng để cho các cơ quan, đoàn thể, tổ chức đó hoạt động được thì cần phải có một quỹ tài chính tập trung, đó chính là Ngân sách huyện. Mặc dù không thực hiện các nhiệm vụ quan trọng và các mục tiêu chiến lược như ngân sách Trung ương nhưng Ngân sách huyện cũng tạo cho mình một vị trí nhất định, nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước tại ở địa phương tuỳ theo địa giới hành chính, tình hình kinh tế xã hội của từng huyện mà nhu cầu đảm bảo này sẽ khác nhau. Trong thời gian qua, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và thay đổi của đất nước, sự năng động của Chính quyền các cấp cơ sở đã giúp cho kinh tế nhiều địa phương phát triển mạnh mẽ, đó chính là đóng góp không nhỏ của ngân sách huyện, nguồn thu không ngừng tăng lên, các khoản chi được quản lý ngày một chặt chẽ, điều này khẳng định vai trò của ngân sách huyện. Trong giai đoạn đổi mới hội nhập giao lưu kinh tế quốc tế, tăng cường vai trò, vị trí ngân sách huyện là hết sức cấp thiết, ngoài việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động Nhà nước, ngân sách huyện còn phải hướng cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển đúng đắn, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả những tiềm năng thế mạnh của địa phương, giải quyết các nhu cầu cấp thiết về vấn đề phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, phát triển cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là vấn đề xoá đói giảm nghèo tại các huyện vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới của tổ quốc, đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, giữ vững quốc phòng, an ninh xã hội. Có thể nói công tác triển khai thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước, ngân sách huyện ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của mình nhằm thúc đẩy nền kinh tế - xã hội địa phương tạo bước phát triển đáng kể góp phần thay đổi diện mạo về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương, tạo đà cho đất nước vững bước trong thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới công bằng dân chủ văn minh. 3. Nhiệm vụ của ngân sách huyện. Là một cấp Ngân sách địa phương, ngân sách huyện các nội dung thu và nhiệm vụ chi cụ thể gắn với việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của cấp mình như sau: 3.1 Về thu ngân sách: Nguồn thu Ngân sách cấp huyện bao gồm: 3.1.1 Các nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng 100%: + Thuế Nhà đất. + Thuế môn bài. + Thuế chuyển quyền sử dụng đất. + Thuế sử dụng đất nông nghiệp. + Tiền sử dụng đất. + Tiền cho thuê hoặc bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước. + Lệ phí trước bạ. + Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. + Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ quỹ đóng góp của địa phương. + Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân nước ngoài trực tiếp cho địa phương. + Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách Nhà nước của địa phương theo quy định của pháp luật. + Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác. + Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. + Đóng góp của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước theo luật định. + Thu kết dư ngân sách địa phương. + Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. 3.1.2 Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %: + Thuế giá trị gia tăng (Không kể hàng hoá nhập khẩu) + Thuế thu nhập doanh nghiệp. 3.1.3 Thu bổ sung cân đối ngân sách. + Thu bổ sung có tính chất xây dựng cơ bản. + Thu bổ sung cân đối ngân sách. + Thu bổ sung chương trình mục tiêu. 3.2 Về chi ngân sách: Chi Ngân sách luôn gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong từng thời kỳ. Đặc điểm này có thể nhìn ra từ vai trò của Ngân sách và bản chất Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước mang bản chất chính trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển. Do vậy nhiệm vụ chi ngân sách huyện bao gồm: 3.2.1 Chi đầu tư phát triển: - Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do địa phương quản lý. - Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia do các địa phương thực hiện. - Chi đầu tư để lại theo Nghị quyết Quốc hội. - Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. 3.2.2 Chi thường xuyên. - Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do địa phương quản lý: + Sự nghiệp kinh tế bao gồm; Sự nghiệp giao thông: Duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa cầu, đường và các công trình giao thông khác; lập biểu báo và các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường. Sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp: Duy tu, bảo dưỡng các tuyến kênh mương, các công trình thuỷ lợi, các trạm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; công tác khuyến nông, khuyến ngư; chi chăn nuôi, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Sự nghiệp kiến thiết thị chính: Đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính và các sự nghiệp thị chính khác. Sự nghiệp kinh tế khác gồm: Các hoạt động sự nghiệp về môi trường, phục vụ công cộng . . . + Sự nghiệp Giáo dục bao gồm: Nhà trẻ mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, Phổ thông trung học, bổ túc văn hoá, giáo dục thường xuyên và các hoạt động khác. + Sự nghiệp y tế bao gồm hoạt động trung tâm y tế quận huyện, các trạm xá xã, thị trấn. + Công tác đảm bảo xã hội, cứu tế xã hội, cứu đói, phòng chống các tệ nạn xã hội, thiên tai hoả hoạn và các hoạt động xã hội khác. + Bảo tồn, thư viện, biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động văn hoá khác. + Về văn hoá thông tin; tuyên truyền cổ động, văn hoá văn nghệ quần chúng, xây dựng bản làng văn hoá và các hoạt động văn hoá xã hội khác. + Thể dục thể thao Bồi dưỡng, huấn luyện các vận động viên các đội tuyển cấp huyện; các giải thi đấu cấp huyện; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục, thể thao và các hoạt động thể dục thể thao khác. + Các sự nghiệp khác do địa phương khác quản lý. - Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội do ngân sách huyện đảm bảo theo quy định của chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện. - Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương. - Hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở huyện theo quy định pháp luật. - Thực hiện chính sách xã hội với các đối tượng do huyện quản lý. - Chương trình quốc gia do chính phủ giao cho địa phương quản lý . - Trợ giá theo chính sách Nhà nước. - Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. 3.2.3 Chi bổ sung cân đối ngân sách cho cấp dưới - Bổ sung cân đối chi thường xuyên cho cấp xã, phường, thị trấn và các nguồn vốn do cấp trên phân bổ qua ngân sách huyện. 4. Nội dung quản lý Ngân sách Huyện. Qua các nội dung đã nghiên cứu về Ngân sách huyện đã nêu ở trên gồm các khoản thu và nhiệm vụ chi. Tuy nhiên, để quản lý Ngân sách một cách khoa học, đúng theo luật Ngân sách Nhà nước các quy định của pháp luật, các nghị định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính và các văn bản của địa phương thì quản lý Ngân sách huyện bao gồm các bước sau: - Lập dự toán Ngân sách huyện. - Chấp hành Ngân sách huyện. - Kế toán và quyết toán Ngân sách huyện. Quản lý Ngân sách huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp huyện; quản lý các khoản thu, chi của huyện đã dự toán bởi Uỷ ban Nhân dân huyện giao và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cấp trên giao và Hội đồng nhân dân huyện đề ra. 4.1 Lập dự toán Ngân sách huyện. 4.1.1 Yêu cầu của việc lập dự toán. Dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm được lập căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh. Việc lập dự toán ngân sách huyện cũng không nằm ngoài những điều kiện trên. Các khoản thu trong dự toán phải được xác định trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu có liên quan và các quy định của pháp luật về thu ngân sách. Các khoản chi ngân sách trong dự toán ngân sách phải được xác định trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an inh , quốc phòng. Đối với đầu tư phát triển việc lập dự toán phải căn cứ vào quy hoạch, chương trình, dự án đầu tư đã có quyết định của cấp có thẩm quyền phê duyệt, ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai thực hiện các chương trình, dự án. Đối với chi thường xuyên, việc lập dự toán phải căn cứ vào nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và tuân theo các chế độ, tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Đối với trả nợ phải căn cứ vào nghĩa vụ trả nợ của năm dự toán. Dự toán ngân sách huyện được tổ chức xây dựng, tổng hợp từ cơ quan thu, đơn vị sử dụng ngân sách, đảm bảo đúng thời gian và biểu mẫu quy định. Dự toán Ngân sách huyện phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi, theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. 4.1.2 Căn cứ lập dự toán Ngân sách huyện. Dự toán Ngân sách nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô, nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên. Để đảm bảo cho việc quản lý Ngân sách được tốt, hiệu quả thì công tác lập dự toán ngân sách huyện đặc biệt chú ý các điểm sau: Về thu ngân sách phải bám sát các luật, pháp lệnh thuế chế độ thu; chế độ, tiêu chuẩn định mức do cấp có thẩm quyền quyết định; các chế độ chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi Ngân sách. Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung phải được nghiên cứu và ban hành trước thời điểm lập dự toán Ngân sách. Dựa trên cơ sở những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý Ngân sách. Thực hiện đúng theo tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và mức bổ xung từ Ngân sách cấp trên. Đối với chi ngân sách: + Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào các dự án phù hợp với quy hoạch được duyệt, những dự án có đủ điều kiện bố trí vốn theo quy định của quy chế quản lý vốn đầu tư xây dựng và phù hợp với khả năng bố trí ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính 5 năm; đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Đối với chi thường xuyên, với việc lập dự toán phải tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định trong đó. Hội đồng nhân dân huyện căn cứ vào định mức phân bổ chi ngân sách địa phương do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định, ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách cho các cơ quan, đơn vị, các xã, phường, thị trấn trực thuộc huyện. Đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, phải lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (thường không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp do đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I. Các tổ chức được Ngân sách Nhà nước trợ cấp kinh phí phải lập dự toán thu, chi ngân sách phạm vi nhiệm vụ được giao gửi cơ quan Tài chính - Kế hoạch cấp huyện. Đối với các cơ quan hành chính thực hiện chế độ khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính và các đơn vị sự nghiệp có thu, việc lập dự toán thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. + Đối với chi trả nợ, đảm bảo bố trí trả đủ các khoản nợ đến hạn (kể cả gốc và lãi) theo đúng nghĩa vụ trả. + Đối với vay bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nướ._.c, việc lập dự toán phải căn cứ vào cân đối ngân sách, khả năng từng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức bội chi ngân sách theo quy định của cấp có thẩm quyền. Sau khi Hội đồng Nhân dân huyện ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách, các đơn vị, tổ chức tiến hành lập dự toán chi của đơn vị mình. Việc lập dự toán thu chi, ngân sách phải căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, căn cứ vào các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền ban hành. 4.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của phòng Tài chính - Kế hoạch huyện trong quá trình lập dự toán Ngân sách huyện. Hàng năm cùng các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách trên địa bàn, Uỷ ban nhân dân cấp dưới thảo luận về dự toán ngân sách. Được phép yêu cầu lập lại dự toán về các khoản thu chưa đúng với khả năng và tình hình thực tế của đơn vị, của Uỷ ban nhân dân cấp dưới. Đối với các khoản chi trong dự toán chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức, chưa tiết kiệm, chưa phù hợp với khả năng Ngân sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình thảo luận để tổng hợp và lập dự toán Ngân sách, nếu còn có ý kiến khác nhau, cơ quan tài chính ở cấp địa phương phải báo ngay cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định. Chủ trì phối hợp với cơ quan thuế và đơn vị khác liên quan trong việc tổng hợp lập dự toán Ngân sách và phương án phân bổ dự toán Ngân sách của cấp mình. Phối hợp với đơn vị ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản, phòng hạ tầng kinh tế trong việc lập và phân bổ dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản cho từng đơn vị, từng dự án, công trình. Tham mưu, đề xuất ý kiến về giải pháp và các phương án cân đối Ngân sách địa phương nhằm tăng cường thực hiện chính sách tăng thu ngân sách, tiết kiệm chi Ngân sách, đảm bảo đúng chế độ chính sách. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện xem xét dự toán của các đợn vị thuộc ngân sách địa phương, dự toán thu do cơ quan thuế lập, dự toán thu, chi Ngân sách của các xã, thị trấn lập. Tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân huyện để báo cáo thường trực Hội đồng Nhân dân xem xét báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh, đồng gửi Sở Tài chính - Vật giá, Sở Kế hoạch - Đầu tư . 4.1.4 Phân bổ, giao dự toán Ngân sách huyện. Sau khi Uỷ ban nhân dân huyện nhận được quyết định về việc phân bổ dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước của Uỷ ban nhân dân tỉnh, phòng Tài chính - Kế hoạch huyện có nhiệm vụ tham mưu giúp cho Uỷ ban nhân dân huyện trình Hội đồng nhân dân huyện ra Nghị quyết phê chuẩn dự toán thu, chi Ngân sách huyện. Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, Uỷ ban nhân dân huyện ra quyết định về việc giao dự toán thu, chi Ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách địa phương và dự toán thu, chi Ngân sách cho từng xã, thị trấn. 4.1.5 Điều chỉnh dự toán Ngân sách. Hàng năm, khi có một số nhiệm vụ phát sinh đột xuất nằm ngoài dự toán tại các cơ quan đơn vị dự toán. Các đơn vị có nhiệm vụ phát sinh này lập tờ trình nộp phòng Tài chính - Kế hoạch huyện tổng hợp báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện xem xét trình Hội đồng Nhân dân dân huyện tại kỳ họp hội đồng nhân dân gần nhất phê duyệt. Sau khi có nghị quyết phê chuẩn của Hội đồng nhân dân huyện, Uỷ ban nhân dân huyện ra quyết định điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách cho các cơ quan đơn vị, các xã , thị trấn. 4.2 Chấp hành Ngân sách huyện. Sau khi được Uỷ ban nhân dân huyện tiến hành ra quyết định giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc. Phòng Tài chính - Kế hoạch căn cứ vào quyết định của Uỷ ban nhân dân huyện thông báo phân bổ dự toán ngân sách gửi cho các đơn vị trực thuộc; đồng thời gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch, Kho bạc Nhà nước huyện để phối hợp thực hiện. Khi nhận được quyết định của Uỷ ban nhân dân huyện Than Uyên, thông báo của phòng Tài chính - Kế hoạch huyện. Các cơ quan đơn vị, các xã, thị trấn tổ chức triển khai ngay công tác thu, chi ngân sách Nhà nước thuộc nhiệm vụ được giao. Về thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách chỉ cơ quan tài chính, cơ quan Thuế, cơ quan Hải Quan và cơ quan khác được Nhà nước giao nhiệm vụ thu ngân sách (Gọi chung là cơ quan Thu) được tổ chức thu Ngân sách Nhà nước. Cơ quan Thu có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Phối hợp với các cơ quan Nhà nước hữu quan tổ chức thu đúng pháp luật; chịu sự chỉ đạo, kiểm tra của Uỷ ban nhân dân và sự giám sát của Hội đồng nhân dân về công tác thu Ngân sách tại địa phương; Phối hợp với mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp ngân sách theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. Tổ chức quản lý, thực hiện thu thuế và các khoản thu khác phải nộp Ngân sách Nhà nước do các tổ chức, cá nhân nộp. Kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu của Ngân sách Nhà nước; kiểm tra việc chấp hành thu, nộp Ngân sách Nhà nước và xử lý các hành vi, vi phạm theo quy định của pháp luật. Toàn bộ các khoản thu ngân sách phải được nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan thu được phép thu trực tiếp, nhưng phải nộp đầy đủ, đúng thời hạn vào Kho bạc Nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Về chi ngân sách căn cứ vào dự toán ngân sách được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện rút kinh phí chi tiêu cho hoạt động của đơn vị mình và phải chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng tài sản và Ngân sách Nhà nước theo đúng chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức dự toán được giao; trường hợp vi phạm sẽ xử lý theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước năm 2002. Người phụ trách công tác tài chính, kế toán tại các đơn vị sử dụng Ngân sách có trách nhiệm thực hiện chế độ quản lý tài chính - ngân sách, chế độ kế toán Nhà nước; thực hiện kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm phát hiện, ngăn ngừa và kiến nghị thủ trưởng đơn vị, cơ quan tài chính xử lý đối với những trường hợp vi phạm. Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm, sửa chữa lớn được bố trí trong thời điểm kinh phí ngân sách đáp ứng được thì thực hiện. Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo cấp đúng và đủ theo tiến độ thực hiện trong phạm vi tổng mức dự toán được giao. Đối với những dự án, nhiệm vụ chi quan trọng, đột xuất cấp thiết thì được tạm ứng trước dự toán để thực hiện. Về nhiệm vụ chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia; chi mua sắm, sửa chữa lớn, chi sự nghiệp kinh tế, dự toán năm giao cho các đơn vị sử dụng còn được phân theo tiến độ từng quý. Dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản được phân bổ chi tiết theo từng loại và các hạng mục của Mục lục Ngân sách Nhà nước phân bổ bằng thông báo hạn mức vốn đầu theo tiến độ thực hiện. Khi phân bổ dự toán ngân sách được giao, cơ quan, đơn vị phân bổ dự toán chi phải đảm bảo bố trí đủ vốn, kinh phí cho các dự án, nhiệm vụ đã được chi ứng trước dự toán nhưng đồng thời phải phân bổ hết dự toán ngân sách được giao. Trường hợp có các nhiệm vụ chi chưa xác định được rõ đơn vị thực hiện trong dự toán đầu năm thì được giữ lại để phân bổ sau, nhưng khi phân bổ thì phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp để xem xét. Theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, nguyên tắc chi trả, thanh toán các khoản chi của Ngân sách Nhà nước là: căn cứ vào dự toán Ngân sách Nhà nước được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi của đơn vị theo đúng tiến độ, tiêu chuẩn, định mức. Phòng Tài chính - Kế hoạch và Kho bạc Nhà nước huyện thực hiện chi trả thanh toán các khoản chi có tính chất lương, người cung cấp hành hoá, dịch vụ và người nhận thầu. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do chưa đủ điều kiện thực hiện chi trả, thanh toán theo nguyên tắc như trên. Việc chi trả, thanh toán đối với một số khoản chi Ngân sách Nhà nước được áp dụng theo một số hình thức khác như: Lệnh chi tiền, Uỷ nhiệm chi, Ghi thu, ghi chi. . . Thanh toán, chi trả theo dự toán từ Kho bạc Nhà nước huyện. Đối tượng chi trả, thanh toán theo dự toán từ Kho bạc Nhà nước huyện gồm các khoản chi thường xuyên trong dự toán ngân sách được giao của các cơ quan, đơn vị sau: + Các cơ quan hành chính Nhà nước. + Các đơn vị sự nghiệp. + Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp thường xuyên được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí. Dựa trên cơ sở dự toán ngân sách đã gửi Kho bạc Nhà nước huyện và theo yêu cầu nhiệm vụ chi cho hoạt động của đơn vị mình, thủ trưởng cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách lập chứng từ, giấy rút dự toán ngân sách kèm theo hồ sơ thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước huyện. Kho bạc Nhà nước huyện kiểm tra tính hợp pháp của chứng từ, hồ sơ thanh toán, các điều kiện chi và giấy rút dự toán, nếu đầy đủ thì thực hiện thanh toán, nếu chưa đầy đủ các điều kiện để thực hiện thanh toán ở tất cả các khoản thì được phép cấp tạm ứng đối với một số khoản chi nhất định. Sau khi hoàn thành công việc và có đầy đủ chứng từ thanh toán thì chuyển từ tạm ứng sang thực thi. Thanh toán, chi trả bằng hình thức lệnh chi tiền. Một số nhiệm vụ được thanh toán, chi trả theo hình thức lệnh chi tiền gồm có: Chi hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế, xã hội các đơn vị đóng trên địa bàn không thụ hưởng ngân sách địa phương; chi trả nợ, viện trợ; chi bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới và một số khoản chi khác. Căn cứ vào dự toán Ngân sách Nhà nước được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, cơ quan tài chính xem xét, kiểm tra từng yêu cầu, nhiệm vụ chi và nếu có đủ điều kiện thanh toán thì ra lệnh chi trả cho tổ chức, cá nhân được hưởng ngân sách. Kho bạc Nhà nước thực hiện tính hợp lý của chứng từ xuất quỹ ngân sách, chuyển khoản hoặc cấp tiền mặt cho các tổ chức, cá nhân được hưởng ngân sách. Thanh toán, chi trả bằng Uỷ nhiệm chi; chi bằng hình thức này đối với các chương trình, dự án của cấp trên uỷ quyền cho cơ quan tài chính cấp dưới thực hiện một số nhiệm vụ chi phát sinh trên địa bàn. Có thể nói tất cả các khoản chi đều có quy định cụ thể, từ đối tượng được chi, quy trình chi trả, thanh toán như việc đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Quan trọng là trong thực tế phải nghiêm chỉnh chấp hành theo luật Ngân sách Nhà nước và các quy định của pháp luật, đồng thời sáng tạo trong việc áp dụng vào thực tế. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước trên lĩnh vực Tài chính ngân sách phải có trình độ, có lương tâm nghề nghiệp. Trong quá trình chấp hành ngân sách, khi phát sinh các công việc đột xuất như; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch hoạ và các nhiệm vụ chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự toán được giao mà sau khi sắp xếp lại các khoản chi, đơn vị vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lập tờ trình báo cáo phòng Tài chính tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân huyện để xử lý. Việc xử lý các khoản chi phát sinh đột xuất trong năm, phòng Tài chính - Kế hoạch huyện tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân huyện xem xét điều chỉnh bổ sung dự toán ngân sách Nhà nước trình Hội đồng nhân dân vào kỳ họp gần nhất. Quá trình thực hiện khâu chấp hành dự toán ngân sách huyện, sự giám sát của nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện, các cơ quan tài chính cấp trên, nhất là Sở Tài chính tỉnh phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn công tác quản lý tài chính là một công việc hết sức quan trọng giúp cho Uỷ ban nhân dân huyện phát hiện được những sai sót, kịp thời điều chỉnh cho đúng với các quy định của Nhà nước. 4.3 Kế toán và Quyết toán Ngân sách. Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước phải tổ chức hoạch toán, kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ kế toán của Nhà nước. Cơ quan Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán Ngân sách Nhà nước; định kỳ báo cáo việc thực hiện tiến độ dự toán thu, chi cho cơ quan Tài cính và cơ quan Nhà nước hữu quan. Các cơ quan quản lý Ngân sách huyện, các đơn vị dự toán có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán Ngân sách thuộc phạm vi quản lý, lập quyết toán thu, chi Ngân sách Nhà nước, tổng hợp báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước. 4.3.1 Tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách. Đơn vị dự toán và cấp chính quyền địa phương, phải tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách. Những cán bộ làm công tác kế toán phải được đào tạo đúng chuyên môn và bố trí theo đúng chức danh tiêu chuẩn quy định của Nhà nước và được bảo đảm quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Khi thay đổi hoặc điều chuyển cán bộ kế toán phải thực hiện bàn giao giữa cán bộ kế toán cũ với cán bộ kế toán mới, cán bộ kế toán cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc của mình đã làm kể từ ngày bàn giao về trước, cán bộ kế toán mới phải chịu trách nhiệm về công việc của mình kể từ ngày nhận bàn giao. Khi giải thể, tiếp nhận, chia tách hoặc sát nhập đơn vị kế toán, thủ trưởng đơn vị cùng kế toán trưởng hoặc người phụ trách công tác kế toán phải hoàn thành việc quyết toán của đơn vị đến thời điểm giải thể, chia tách, sát nhập. 4.3.2 Khoá sổ kế toán Ngân sách. Hết kỳ kế toán (tháng, quý, năm) các đơn vị dự toán và ngân sách cấp huyện phải thực hiện công tác khoá sổ sách kế toán. Đối với các đơn vị dự toán, phải theo rõi chặt chẽ dự toán còn lại chưa chi, số sư tài khoản tiền gửi của đơn vị tại Kho bạc Nhà nước và tồn quỹ tiền mặt tại đơn vị để chủ động chi tiêu trong những ngày cuối năm. 4.3.3 Quyết toán Ngân sách. Cuối năm ngân sách, căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tài chính, sở Tài chính và các quy định của pháp luật, thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ thu, chi ngân sách lập quyết toán ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên. Số liệu thể hiện trong báo cáo quyết toán ngân sách phải chính xác, trung thực. Nội dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục Ngân sách Nhà nước và đúng các biểu mẫu theo quy định của Bộ Tài chính phát hành. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện có trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán, lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp, lập báo cáo thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện và quyết toán thu, chi ngân sách của huyện bao gồm quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, gửi Sở Tài chính tỉnh, đồng thời trình Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn. Trong trường hợp báo cáo quyết toán năm của huyện do Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban nhân dân huyện đã gửi Sở Tài chính thì Uỷ ban nhân dân huyện báo cáo bổ sung, gửi Sở Tài chính. Sau khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn, trong thời gian 5 ngày, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện gửi báo cáo quyết toán đến các cơ quan sau: - 01 bản gửi Hội đồng Nhân dân huyện. - 01 bản gửi Uỷ ban Nhân dân huyện. - 01 bản gửi Sở Tài chính. - 01 bản lưu tại Phòng Tài chính - KH huyện. Đồng thời, gửi Kho bạc Nhà nước huyện Nghị quyết phê chuẩn quyết toán của Hội đồng huyện. 5. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý ngân sách huyện trong điều kiện hiện nay. 5.1 Xuất phát từ nền kinh tế nước ta. Sau 20 năm nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã mang lại hiệu quả. Đất nước ta đang từng ngày thay da đổi thịt, nền kinh tế ngày càng năng động hơn, từng bước hội nhập cùng khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để tiến tới một nền kinh tế đủ mạnh có thể hội nhập cùng khu vực và thế giới, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, một trong những việc cấp bách đó là phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội cho phù hợp. Bắt nguồn từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện trong điều kiện hiện nay cần thiết phải được củng cố, tăng cường, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, tăng cường nội lực bằng tài chính, nâng cao hiệu quả chi của Nhà nước để đẩy mạnh và thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại đất nước, làm cho quỹ tài chính công được quản lý chặt chẽ, thống nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện còn là vấn đề phát huy được vai trò của chính quyền cấp huyện trong việc nâng cao hiệu quả của những nguồn thu đáp ứng cho các khoản chi, mỗi đồng chi đều tiết kiệm nhưng có hiệu quả, đảm bảo đúng chính sách, chế độ, định mức. 5.2 Xuất phát từ thực trạng quản lý ngân sách huyện thời gian qua. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, công tác quản lý thu, chi ngân sách Nhà nước nói chung và thu, chi ngân sách huyện nói riêng đã có những đóng góp tích cực, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, chống thất thoát lãng phí, đảm bảo cho chính quyền cấp huyện thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Trong công tác lập, chấp hành và quyết toán ngân sách huyện đã thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn một số đơn vị do điều kiện khó khăn, trình độ hạn chế, công tác quản lý còn bị buông lỏng... nên việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách huyện chưa được chú ý đúng mức, từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng Ngân sách Nhà nước chưa đạt hiệu quả cao. Công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện còn bộc lộ những hạn chế và yếu kém nhất định. Hạn chế cơ bản là có quá nhiều sự lãng phí trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, công tác quản lý chi ngân sách chưa được chặt chẽ, tinh thần trách nhiệm chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế phải kể đó là chính quyền cấp huyện và các cơ quan ở địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thu và bố trí chi hợp lý; chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” chưa được phát huy mạnh mẽ và sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Trước yêu cầu đòi hỏi trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và đứng trước thực trạng công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện, cần thiết phải có những biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu, chi ngân sách huyện, góp phần hoàn chỉnh cơ chế quản lý ngân sách huyện, đảm bảo cho ngân sách huyện có thể chủ động đáp ứng được yêu cầu thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp huyện. III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH HUYỆN THAN UYÊN TRONG NHỮNG NĂM QUA (2003-2006). 1. Tổng quan về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy quản lý ngân sách huyện Than Uyên. (1) 1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện Than Uyên. Than Uyên, là một huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lai Châu, huyện cách trung tâm tỉnh lỵ trên 95 km. Phía đông Đông Bắc giáp huyện Sa Pa và huyện Văn Bàn của tỉnh Lào Cai, phía Đông Nam giáp với huyện Quỳnh Nhai của tỉnh Sơn La, phía Đông giáp với huyện Mù Cang Chải của tỉnh Yên Bái; phía Tây Bắc giáp huyện Tam Đường và Sìn Hồ tỉnh Lai Châu. Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện 169.095,731 ha, trong đó: đất nông nghiệp chiếm 22,33%; đất lâm nghiệp chiếm 18,7%; đất bố trí dân cư chiếm: 0,95%; đất khác chưa sử dụng chiếm 58,02% diện tích (phần lớn là đất đồi núi đá, sông, suối...). Than Uyên có hai tuyến Giao thông trọng yếu là hai quốc lộ chạy qua, quốc lộ 32 và quốc lộ 279; quốc lộ 32 được nối liền từ huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai chạy qua xã Bình Lư huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu và qua địa phận các xã của huyện Than Uyên 75 km là (xã Mường Khoa, trị trấn Nông Trường, xã Thân Thuộc, xã Pắc Ta, Mường Than, thị trấn huyện Than Uyên, xã Nà Cang, xã Mường Kim) sang huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái. Quốc lộ 279 được nối liền từ huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai chạy qua địa phận của huyện Than Uyên là các xã; (xã Mường Than, thị Than Uyên, xã Nà Cang, Tà Hừa) dài trên 40 km sang huyện Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La. Than Uyên có hệ thống sông suối dày đặc bắt nguồn từ những cánh rừng già nguyên sinh. Đặc biệt có con sông Nậm Mu được nối liền từ huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu chảy qua các địa phận của huyện Than Uyên gồm các xã: xã Mường Khoa, xã Nậm Cần, xã Tà Mít, xã Pha Mu, xã Tà Hừa, xã Nà Cang, xã Mường Kim, xã Ta Gia, xã Khoen On, chiều dài gần 200 km xuyên sang huyện Mường La tỉnh Sơn La, Với hệ thống sông suối như vậy Than Uyên có một tiềm năng phát triển kinh tế về thuỷ điện nhỏ và nuôi trồng thuỷ sản là rất lớn. Về tài nguyên, khoáng sản huyện Than Uyên còn có mỏ Than nằm ở địa phận tiếp giáp giữa xã Mường Than và xã Mường Mít. Qua thăm dò ban đầu cho thấy đây là mỏ than có trữ lượng tương đối lớn, hiện nay tỉnh và huyện đang mở đường vào để tổ chức khai thác. Huyện Than Uyên có tổng số dân là 94.750 người gồm 10 dân tộc anh em cùng chung sống là; Dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân tộc Dao, dân tộc Lự, dân tộc Giáy, dân tộc Khơ Mú, dân tộc Cao Lan, dân tộc Mường. Trong đó dân tộc Thái chiếm đa số tới 70%. Bố trí ở 15 xã và 2 thị trấn là xã Mường Khoa, xã Nậm Cần, xã Tà Mít, xã Pha Mu, xã Tà Hừa, xã Nà Cang, xã Mường Kim, xã Ta Gia, xã Khoen On, thị trấn Than Uyên, thị trấn Nông Trường, xã Nậm Cần, xã Nậm Sỏ, xã Hố Mít, xã Pắc Ta, xã Mường Mít, xã Mường Than, với sự đa dạng về dân tộc do vậy sự đa dạng về bản sắc văn hoá dân tộc của huyện Than Uyên cũng là một tiềm năng để phát triển về du lịch văn hoá. Với điều kiện tự nhiên và xã hội như đã đề cập, thực hiện Nghị quyết số: 22/2003/QH11 của Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 từ ngày 21/10 đến ngày 26/11/2003, về việc chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính tách huyện Than Uyên từ tỉnh Lào Cai về tỉnh Lai Châu quản lý. Huyện Than Uyên được chính thức bàn giao về Lai Châu từ ngày 11/01/2004, huyện được tỉnh Lai Châu đánh giá là huyện có nhiều tiềm năng và thế mạnh nhất trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, sau khi được tỉnh Lai Châu quản lý cũng còn gặp không ít những khó khăn nhất định, đặc biệt là do cơ chế chính sách có nhiều điểm chưa đồng nhất, công tác tổ chức cán bộ trong hệ thống chính trị phải thực hiện điều chuyển, luân chuyển, gây ảnh hưởng không ít tới tư tưởng, tâm lý của đội ngũ cán bộ trong toàn huyện. Song với sự quyết tâm của toàn Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Than Uyên đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp cận và bắt nhịp nhanh các cơ chế, chính sách của tỉnh Lai Châu. Huyện Than Uyên cũng như các địa phương khác trên cả nước nói chung, và tỉnh Lai Châu nói riêng, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã đầu tư các Chương trình, dự án cho đồng bào các dân tộc đặc biệt khó khăn sớm thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu như: Chương trình 135, Chương trình WB, chương trình 159, chương trình 186, chương trình 134, dự án 5 triệu ha rừng (661), các chương trình mục tiêu quốc gia. Thực hiện Nghị quyết số 05 của Tỉnh uỷ Lai Châu, đã tạo đà thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển qua 5 năm. Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện khoá XIV nhiệm kỳ 2000 - 2005, Đảng bộ huyện Than Uyên luôn đoàn kết, thống nhất, tập trung trí tuệ, phát huy nội lực, khơi dậy mọi tiềm năng thế mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương liên tục tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng GDP hàng năm đều đạt trên 10%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến tích cực; tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp giảm dần; các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ ngày càng tăng. 1.1.1 Sản xuất Nông - Lâm nghiệp. Với tỷ lệ về diện tích đất sử dụng và kinh tế ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của huyện. Tổng diện tích trồng cây lương thực là 10.460 ha, trong đó diện tích lúa nước là 8.802 ha. Tổng sản lượng lương thực năm 2005 đạt 38.504 tấn, bình quân lương thực năm 2005 là: 424 kg/người/năm. Phương thức sản xuất của đồng bào các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc vùng sâu vùng xa của huyện còn lạc hậu, điều này dẫn tới mức sống của nhân dân còn thấp. Để cải thiện đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn, huyện Than Uyên đang tận dụng sự hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh từ các chương trình mục tiêu, chương trình hỗ trợ giá, giống cây trồng vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để thực hiện đề án nâng hệ số sử dụng ruộng đất, nâng cao giá trị trên 1 đơn vị diên tích canh tác, nhân rộng diện tích cánh đồng thâm canh, đặc biệt là đầu tư vào cánh đồng Mương Than, cánh đồng rộng thứ ba trong khu vực tây bắc, phấn đấu đạt mức 50 triệu/ha từ 300 - 500 ha. Về sản xuất cây lâm nghiệp, cây chè với tổng diện tích 1.555,3 ha; sản lượng chè búp tươi 8.000 tấn. Chăn nuôi có bước chuyển đổi theo hướng tập trung, hàng năm bán ra thị trường gần 3.000 con trâu, bò, dê; 800 tấn thịt lợn. Huyện đã thực hiện giao đất giao rừng, cấp giấy quyền sử dụng đất cho nhân dân, năm 2005 đã giao 20.670 ha đất lâm nghiệp để dân tự trồng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng. 1.1.2 Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2006 ước đạt khoảng 30.800 triệu đồng, bình quân tăng so với năm trước 15,4%. Như đã đề cập ở trên huyện Than Uyên có sông Nậm Mu chảy qua, đây là nguồn tài nguyên lớn cho huyện Than Uyên khai thác cả hiện tại cũng như tương lai. Năm 2005 đã được Chính phủ phê duyệt dự án xây dựng 2 công trình thuỷ điện lớn đó là: đầu tư xây dựng hai dự án Thuỷ điện Bản Chát và Huổi Quảng với thiết kế: Công suất: 520 MW. Cao trình: 370 m. Điện lượng trung bình hàng năm: 1.868 triệu KWh. Tổng mức đầu tư: 9.788,572 tỷ đồng (VND) Thời gian hoàn thành công trình đưa vào vận hành: năm 2010. Hai công trình trên từ khởi công đến khi khánh thành đi vào sử dụng, sẽ tạo điều kiện làm thay đổi diện mạo của huyện Than Uyên cả về kinh tế, chính trị và xã hội một cách nhanh chóng và ổn định. 1.1.3 Giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cùng với sự đầu tư của Nhà nước cho cơ sở hạ tầng, trong huyện đã thi đua Thực hiện tốt phong trào toàn dân tham gia làm đường giao thông nông thôn. Trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư 65 tỷ đồng để phát triển đường giao thông. Trong đó nhân dân đóng góp 8,5 tỷ đồng, làm được 243,5 km đường liên xã, liên thôn bản. Trong huyện đã 100% số xã có đường giao thông đến trung tâm xã, xây dựng các trung tâm cụm xã, các công trình kết cấu hạ tầng bằng nhiều kênh vốn, dự án của Nhà nước đã đầu tư 168,83 tỷ đồng. Tạo ra cơ sở vật chất ban đầu phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. 1.1.4 Công tác tài chính - tín dụng, thương mại - dịch vụ. Do có sự tăng trưởng về kinh tế cùng với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đối với các tỉnh vùng sâu vùng xa trong nhiều lĩnh vực, cùng với sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện về tăng cường biện pháp điều hành ngân sách Nhà nước nên các chỉ tiêu thu, chi ngân sách trên địa bàn hàng năm đều tăng và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch do tỉnh và Hội đồng nhân dân huyện đã đề ra, mức tăng bình quân hàng năm từ 10% trở lên thể hiện qua những số liệu sau: Năm 2003: + Thu ngân sách địa phương: 53.868,1 triệu đồng. + Chi ngân sách địa phương: 53.731,0 triệu đồng. Năm 2004: + Thu ngân sách địa phương: 67.218,2 triệu đồng. + Chi ngân sách địa phương: 66.061,2 triệu đồng. Năm 2005: + Thu ngân sách địa phương: 84.662,5 triệu đồng. + Chi ngân sách địa phương: 83.405,7 triệu đồng. Năm 2006: + Thu ngân sách địa phương ước đạt: 101.704 triệu đồng. + Chi ngân sách địa phương ước đạt: 101.381 triệu đồng. Sơ đồ Chi Ngân sách Sơ đồ thu Ngân sách Năm 2006 tổng thu ngân sách Nhà nước qua Kho bạc huyện ước đạt 102,2 tỷ đồng, chi ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước 101,4 tỷ đồng. Số dư nợ ngân hàng năm 2006 ước đạt 96,7 tỷ đồng. Hàng hoá dịch vụ đảm bảo lưu thông, cung ứng đủ cho các nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng trên địa bàn huyện. 1.1.5 Công tác giáo dục đào tạo. Cấp lãnh đạo của địa phương đã ưu tiên chi cho sự nghiệp giáo dục và thường xuyên quan tâm chỉ đạo phát triển đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hoá, xã hội hoá công tác giáo dục chuyển biến tích cực, chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên. Chương trình kiên cố hoá trường lớp học, năm 2005 - 2006 đã có 795 phòng học đưa vào sử dụng, với trang thiết bị dậy và học tương đối đầy đủ; cơ bản đã xoá bỏ tình trạng nhà tranh tre lứa lá và học 3 ca; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi huy động ra lớp đạt 95% năm học 2006, duy trì và giữ vững phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ ở 17 xã, thị trấn. 1.1.6 Công tác y tế, dân số, gia đình - trẻ em. Với mạng lưới y tế được củng cố về cả tổ chức bộ máy quản lý, đội ngũ thầy thuốc, y, bác sỹ, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh và chất lượng điều trị, chăm sóc sức khoẻ đã được nâng lên. Với 228 gường bệnh ở hai bệnh viện, 3 phòng khám đa khoa khu vực đạt chuẩn quốc gia và số gường bệnh các trạm y tế đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số để giảm tỷ lệ tăng dân số hàng năm, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã được giảm nhanh qua các năm. 1.1.7 Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao và chính sách xã hội. Toàn huyện đã được phủ sóng phát thanh - truyền hình, 90% số xã có điểm bưu điện văn hoá xã; các hoạt động văn hoá - văn nghệ, thể dục - thể thao có bước phát triển mới, đa dạng, phù hợp với phong tục tập quán của các dân tộc miền núi, duy trì được nét đẹp văn hoá dân tộc, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Không ngừng tăng cường công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, triển khai thực hiện đồng bộ, thể hiện rõ qua tỷ lệ hộ đói nghèo được giảm dần qua các năm. Từ những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Than Uyên đã nêu trên cho thấy: Than Uyên là một huyện thuần nông, nguồn thu ngân sách trên địa bàn rất hạn hẹp, chủ yếu trông chờ vào nguồn trợ cấp cân đối ngân sách cấp trên. Chính vì vậy, cần phải tăng cường đẩy mạnh các giải pháp để khai thác nguồn thu cho ngân sách theo quy định, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân trong huyện được nâng cao, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. 1.2 Khái quát tổ chức bộ máy Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Than Uyên chịu sự quản lý của Uỷ ban nhân dân huyện Than Uyên và sự quản lý về chuyên môn của Sở tài chính tỉnh Lai Châu, là cơ quan chuyên môn, tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân huyện quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tài chính ngân sách, giúp Uỷ ban nhân dân huyện xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh hằng năm, 5 năm, 10 năm. . . Hiện nay Phòng có 13 cán bộ, trong đó có 12 biên chế chính thức, 1 cán bộ hợp đồng được bố trí theo các bộ phận sau: TRƯỞNG PHÒNG PHÓ TRƯỞNG PHÒNG BỘ PHẬN KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI BỘ PHẬN NGÂN SÁCH HUYỆN BỘ PHẬN NGÂN SÁCH XÃ BỘ PHẬN ĐỀN BÙ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG, THẨM ĐỊNH QUYẾT TOÁN V._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7798.doc
Tài liệu liên quan