Mở đầu
Hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập và hoạt động đến nay đã được 10 năm . Cơ sở vật chất những ngày đầu thành lập rất khó khăn, các trang thiết bị phục vụ công tác thiếu thốn, không đồng bộ, nhất là hệ thống trụ sở làm việc các cấp từ Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố, cấp quận, huyện và các trang thiết bị thiết yếu phục vụ công tác như hệ thống máy vi tính.... Chính vì vậy, Chính phủ đã có chủ trương cho phép BHXH Việt Nam được huy động các nguồn vốn để đầu tư xây dựng trụ sở làm việ
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và mua sắm các trang thiết bị phục vụ công tác. Những công trình trụ sở làm việc của Bảo hiểm xã hội ở các cấp có đến nay xét về quy mô xây dựng, chất lượng công trình cũng như công năng sử dụng còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Nhiều công trình quy mô quá nhỏ, quá chật hẹp rất khó khăn khi bố trí sử dụng; các hạng mục phụ trợ không đồng bộ, không hoàn chỉnh làm giảm hiệu quả sử dụng của công trình. Những công trình xây dựng trước năm 2000 đã xuống cấp, một phần do thời gian sử dụng nhưng phần chủ yếu do suất đầu tư thấp, các loại vật liệu, vật tư sử dụng cho công trình có phẩm cấp thấp, rẻ tiền và đến nay bị lạc hậu, xuống cấp. Các trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu nhiều, trang bị không đồng bộ, lạc hậu, tính năng chưa phù hợp. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ở các cấp ( cấp chủ quản đầu tư, chủ đầu tư), các ngành (Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Tài chính ở trung ương và địa phương) còn bộc lộ những thiếu sót.
Do đó nghiên cứu đề tài " Công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Bảo hiểm xã hội Việt Nam " là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trong hệ thống BHXH Việt Nam.
Chương 1
Thực trạng công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở của bảo hiểm xã hội Việt Nam thời gian qua
I. Một số nét về Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá VIII và chương trình cải cách hành chính của Chinh phủ, ngày 24/01/2002 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 20/2004/QĐ-TTg chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam nhằm giảm bớt đầu mối quản lý và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Ngày 6/12/2002 Chớnh phủ đó ban hành Nghị định 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam cụ thể như sau:
1. Vị trí và chức năng của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (sau đây gọi chung là bảo hiểm xã hội) và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
2.1. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt:
a) Chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam và kế hoạch dài hạn, năm năm về thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội;
b) Đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng Quỹ bảo hiểm xã hội;
2.2. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội; thu các khoản đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cấp về bảo hiểm xã hội cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật;
2.3. Cấp các loại sổ, thẻ bảo hiểm xã hội;
2.4. Quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ;
2.5. Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan về việc sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội; cơ chế quản lý Quỹ, cơ chế quản lý tài chính (kể cả chi phí quản lý bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt Nam) và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
2.6. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội và nghiệp vụ thu, chi bảo hiểm xã hội theo thẩm quyền; quản lý nội bộ ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
2.7. Tổ chức hợp đồng với các cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có sổ, thẻ bảo hiểm theo quy định của pháp luật;
2.8. Kiểm tra việc ký hợp đồng và việc thu, chi bảo hiểm xã hội đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa bệnh; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
2.9. Từ chối việc chi các chế độ bảo hiểm xã hội khi đối tượng tham gia bảo hiểm không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm theo quy định của pháp luật hoặc khi có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo, khai man hồ sơ để hưởng bảo hiểm;
2.10. Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội;
2.11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
2.12. Lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
2.13. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động bảo hiểm xã hội;
2.14. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội;
2.15. Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội;
2.16. Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
2.17. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở Trung ương và địa phương, với các bên tham gia bảo hiểm xã hội để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
2.18. Quản lý tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tài chính và tài sản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định của pháp luật;
2.19. Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức bộ mỏy của BHXH Việt Nam
Hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, gồm có:
3.1. ở Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
3.2. ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Bảo hiểm xã hội tỉnh) trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
3.3. ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Bảo hiểm xã hội huyện) trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh.
Trong quá trình hoạt động, BHXH Việt Nam luôn quan tâm củng cố và hoàn thiện tổ choc bộ máy, thường xuyên bám sát thực tiễn, khắc phục những chồng chéo về choc năng, nhiệm vụ, giảm bớt khâu trung gian, đảm bảo sự chỉ đaon thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, kiện toàn đội ngũ cán bộ theo hướng tinh gọn.
Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam
Sơ đồ tổ chức bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Hội đồng Tổng
Quản lý Giám đốc
Đơn vị
chức năng
2
Đơn vị
chức năng
17
Đơn vị
chức năng
16
Đơn vị
chức năng
15
Đơn vị
chức năng
3
Đơn vị
chức năng
1
Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thànhphố trực thuộc Trung ương
Đơn vị
chức năng
3
Đơn vị
chức năng
1
Đơn vị
chức năng
2
Đơn vị
chức năng
10
Đơn vị
chức năng
9
Đơn vị
chức năng
8
Bảo hiểm xã hội quận, huyện,
thi xãtrực thuộc tỉnh, thành phố
II. Thực trạng công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Bảo hiểm xã hội việt Nam
1. Hoạt động quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc
- Quản lý về quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng.
BHXH Việt Nam thống nhất quản lý quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng trụ sở trong toàn hệ thống. Tuy chưa hoàn chỉnh và thông qua quy hoạch xây dựng trụ sở làm việc, nhưng ngay từ những năm đầu, BHXH Việt Nam đã lựa chọn và thông qua các mẫu thiết kế cho trụ sở BHXH cấp huyện, đó là mẫu số 8a, 8b, 10a, 10b, 11, 12, 14a, 14b và 15. Quy mô xây dựng của các mẫu trên từ 200m2 đến 350m2. BHXH cấp huyện sẽ căn cứ vào các điều kiện cụ thể như số biên chế hiện có, thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu ( Thu, Chi trong 1 năm), diện tích và sơ đồ mặt bằng đất xây dựng được cấp, quy hoạch xây dựng tại địa phương để được lựa chọn các mẫu thiết kế tương ứng, tương đối phù hợp. Đối với các đơn vị có đặc thù riêng như mặt bằng khu đất xây dựng không phù hợp với mẫu thiết kế, số biên chế và khối lượng công tác quá lớn ( thường là BHXH các TP, thị xã thuộc tỉnh; BHXH các quận của các TP lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng) sẽ được xem xét cho lập dự án với thiết kế riêng. Đối với trụ sở BHXH cấp tỉnh, bắt buộc các đơn vị phải lập dự án với quy mô xây dựng từ 1.500m2 đến 7.500 m2. Quy mô xây dựng và thiết kế sơ bộ được Hội đồng thẩm định dự án đầu tư của BHXH Việt Nam xem xét kỹ, góp ý sửa đổi kịp thời trước khi chủ đầu tư triển khai các bước tiếp theo.
- Quản lý các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng.
Căn cứ vào các quy định hiện hành của các Bộ quản lý chuyên ngành (Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp ), BHXH Việt Nam hướng dẫn các chủ đầu tư thực hiện và trực tiếp giao cho bộ phận quản lý đầu tư xây dựng của mình ( Ban Kế hoạch Tài chính- Phòng Đầu tư Xây dựng) thực hiện. Tuy chỉ là các công trình dân dụng thông thường nhưng các trụ sở là việc của BHXH Việt Nam bắt buộc phải tuân theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng do Nhà nước ban hành.
- Quản lý định mức kinh tế - kỹ thuật; đơn giá xây dựng cơ bản.
Định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá xây dựng cơ bản là những chỉ tiêu luôn được BHXH Việt Nam quan tâm đầy đủ và quản lý chặt chẽ theo các quy định hiện hành của Nhà nước về công tác xây dựng cơ bản. Quản lý chặt chẽ định mức kinh tế- kỹ thuật không chỉ là việc chấp hành và thực hiện các quy định của Nhà nước mà là đảm bảo cho việc quản lý đúng và tiết kiệm kinh phí xây dựng, hạn chế phần lớn thất thoát, tiêu cực trong đầu tư xây dựng; ngăn chặn hiệu quả nhất hành vi tham nhũng trong hoạt động đầu tư. Hệ thống định mức do các cơ quan quản lý chuyên ngành quy định như Bộ Xây dựng ( chủ yếu trong xây dựng dân dụng ), Bộ Công nghiệp. Số lượng vật tư, vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công lao động sử dụng cho công tác xây dựng cơ bản phải theo đúng định mức được các cơ quan quản lý ban hành. Riêng với các đơn giá xây dựng cơ bản, theo phân cấp quản lý hiện nay do các cơ quan quản lý chuyên ngành tại các địa phương quản lý như các Sở xây dựng, Liên Sở Tài chính Vật giá - Xây dựng. BHXH Việt Nam đảm bảo các khối lượng công tác xây dựng được thực hiện ở địa phương nào, tại thời điểm nào phải đúng với đơn giá xây dựng cơ bản của địa phương đó, thời điểm đó.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đầu tư XDCB.
Nội dung này cũng được BHXH Việt Nam rất coi trọng. Do phần lớn cán bộ làm công tác xây dựng cơ bản ở BHXH Việt Nam là kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp nên các quy định của Nhà nước về đầu tư- xây dựng phải được phổ biến kịp thời, đầy đủ; đồng thời cũng tăng cường kiểm tra việc thực hiện, chấp hành các quy định đó để có chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời. Do đặc thù quản lý của ngành BHXH có yêu cầu và đặc điểm riêng nên cũng cần xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện riêng ( như trong khâu lập báo cáo đầu tư với các thiết kế mẫu cho trụ sở BHXH cấp huyện, trong khâu cấp phát và thanh toán vốn qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển). BHXH Việt Nam cũng ban hành các văn bản quản lý đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trong ngành và hướng dẫn thực hiện các quy định của ngành, của các cơ quan Nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản.
- Quản lý bộ máy làm công tác xây dựng cơ bản.
ở BHXH Việt Nam (cấp chủ quản đầu tư) giao cho Ban Kế hoạch-Tài chính là đơn vị trực tiếp giúp Tổng giám đốc thực hiện nhiệm vụ quản lý đầu tư xây dựng. ở BHXH các tỉnh, TP và các đơn vị (cấp chủ đầu tư) là các Ban QLDA chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.
- Tại BHXH Việt Nam: Thực hiện các công tác chủ yếu: Lập kế hoạch đầu tư xây dựng - Thông báo cho các Ban QLDA để lập dự án - Thẩm định dự án - Thẩm định TKKT-TDT - Phê duyệt hồ sơ mời thầu và kết quả đấu thầu - Kiểm tra và xử lý những phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư - Thẩm định và phê duyệt quyết toán. Cùng với quá trình trên là cấp phát vốn đầu tư cho các dự án theo tiến độ thực hiện. Khi các dự án được triển khai nhiều thì khối lượng công tác lớn yêu cầu phải có đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có chuyên môn tốt. Nhưng thực tế cán bộ của Phòng Đầu tư Xây dựng luôn không đủ, dẫn tới công tác nhiều khi bị ách tắc, chậm trễ.
- Tại các Ban QLDA: Thực hiện các công tác chủ yếu: lập các báo cáo đầu tư, khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu nếu phải tổ chức đấu thầu (thường thuê Công ty tư vấn thực hiện), trình BHXH Việt Nam phê duyệt để tổ chức thực hiện. Ký kết và thực hiện các hợp đồng thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị. Tổ chức giám sát quá trình thi công và lắp đặt thiết bị. Quyết toán vốn đầu tư theo quy định. Những ban QLDA có chuyên môn tốt và quan tâm thích đáng đến công tác đầu tư xây dựng thì nội dung công tác như trên là phù hợp và được hoàn thành tốt. Một số Ban QLDA quan tâm chưa đầy đủ đến chuyên môn đầu tư xây dựng, không hiểu thấu đáo trình tự, thủ tục và các quy định trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nên rất lúng túng trong công tác, gây ách tắc, cản trở trong quá trình đầu tư xây dựng.
2. Công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam.
a. Quản lý đầu tư xây dựng trụ sở làm việc theo giai đoạn
- Giai đoạn từ 1995 đến hết năm 1997.
Nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn này được NSNN bố trí nên rất nhỏ giọt, thiếu và nhìn chung không đáp ứng được yêu cầu đầu tư xây dựng. Nhu cầu xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam trong giai đoạn này rất lớn nhưng chỉ được ghi kế hoạch và cấp vốn cho 1 công trình nhóm B ( Trụ sở BHXH Việt Nam ở 291C Đội Cấn - 10,77 tỷ đồng) và 18 công trình nhóm C ( là trụ sở BHXH cấp tỉnh - 50,92 tỷ đồng). Rất nhiều công trình đủ điều kiện khởi công nhưng phải đình lại vì không có kế hoạch vốn. Khó khăn lớn nhất BHXH Việt Nam gặp phải trong giai đoạn này là nguồn vốn đầu tư. Vì vậy BHXH Việt Nam đã báo cáo và được sự đồng ý của Hội đồng quản lý, Bộ Tài chính cho phép tiết kiệm kinh phí chi hoạt động để mua, cải tạo, sửa chữa và xây mới được 83 trụ sở BHXH cấp quận, huyện. Những công trình được đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu là mua nhà cũ, cải tạo sửa chữa và đầu tư xây mới một số ít trụ sở . Nguồn vốn sử dụng rất ít, chỉ có 36,026 tỷ đồng; bình quân 434 triệu đồng/1 trụ sở. ưu tiên đầu tư cho những đơn vị quá khó khăn về trụ sở làm việc và hội đủ các điều kiện để đầu tư xây dựng. Trong giai đoạn này BHXH Việt Nam đã khởi công xây dựng được 1 công trình trụ sở BHXH Việt Nam, 18 công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh bằng nguồn vốn NSNN với tổng giá trị là 61,65 tỷ đồng; 83 công trình trụ sở BHXH cấp huyện với tổng giá trị là 36,026 tỷ đồng. [Biểu 1.2, Biểu 1.3].
Trong giai đoạn này, công trình trụ sở BHXH Việt Nam xây dựng tại 291C Đội Cấn là công trình được đầu tư nhiều nhất và xây dựng hoàn chỉnh nhất. Công trình có tổng mức đầu tư 10,77 tỷ đồng, trong đó NSNN cấp 6,5 tỷ đồng, phần còn lại là nguồn vốn của BHXHVN; được xây dựng từ Quý II/1997 đến quý II/1999. Cơ cấu vốn của công trình: xây lắp là 8,12 tỷ đồng, thiết bị 2,02 tỷ đồng và KTCB 0,63 tỷ đồng. Công trình được xây dựng trên diện tích 740 m2, hạng mục chính là khối nhà làm việc cao 8 tầng với tổng diện tích xây dựng là 3.273m2. Phần thiết bị của công trình là khá hoàn chỉnh , gồm : hệ thống thang máy nhập ngoại, hệ thống mạng và thiết bị thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện nguồn và thiết bị phòng, chống cháy. Đơn vị trúng thầu thi công là Công ty lắp máy điện nước và xây dựng- thuộc Tổng công ty xây dựng Hà Nội. Nhà thầu đã có nhiều cố gắng thi công công trình trong điều kiện khó khăn : mặt bằng thi công chật hẹp, chỉ được vận chuyển vật liệu và phế thải về đêm... nhưng vẫn đảm bảo hoàn thành công trình đúng thời gian, về chất lượng được Hội đồng nghiệm thu được đánh giá tốt, đảm bảo các tiêu chuẩn xây dựng. Đến năm 2000, do việc Chính phủ bố trí sắp xếp lại trụ sở của các Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, công trình trên được bàn giao cho Cục dự trữ Quốc gia quản lý sử dụng, đến nay vẫn sử dụng rất tốt, không hư hỏng và cũng không cần cải tạo, sửa chữa gì.
Nguồn vốn đầu tư cho các công trình trong giai đoạn này chủ yếu là của NSNN, BHXH Việt Nam có sử dụng nguồn vốn bổ sung để thanh toán những phần việc thực hiện sau năm 1998 và phần khối lượng chờ thanh toán, giá trị bảo hành nhưng không nhiều. Công tác kiểm soát và thanh toán vốn được thực hiện bởi Tổng cục Đầu tư Phát triển và các Cục Đầu tư Phát triển tại địa phương. Đánh giá chung, công tác kiểm soát, thanh toán vốn đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định. Hệ thống Tổng cục Đầu tư Phát triển cũng đã phối hợp chặt chẽ với BHXH Việt Nam và các Ban QLDA trong việc kiểm soát, thanh toán vốn, giúp cho các Chủ đầu tư thực hiện đúng các quy định về trình tự, thủ tục đầu tư và các quy định khác của Nhà nước.
Các công trình trụ sở BHXH cấp huyện được triển khai không nhiều (chỉ có 83 công trình) và được đầu tư bằng nguồn kinh phí chi hoạt động của BHXH Việt Nam. Trong giai đoạn này, các mẫu thiết kế được lựa chọn xây dựng là mẫu số 2, mẫu số 4, mẫu số 8 và thi công theo thiết kế riêng. Quy mô xây dựng các trụ sở khá nhỏ, bình quân 229 m2 xây dưng/1 trụ sở cấp huyện; suất đầu tư bình quân cho xây lắp 1,757 triệu đồng/1 m2; nếu trừ giá trị xây lắp cho phần phụ trợ thì suất đầu tư cho hạng mục chính chưa đến 1,4 triệu đồng/1m2 xây dựng. Trái ngược với trụ sở BHXH cấp tỉnh, thiết kế trụ sở BHXH cấp huyện ở giai đoạn này mới chỉ chú ý đến công năng sử dụng mà coi nhẹ đến phần kiến trúc, đến vẻ đẹp của công trình nên nhiều công trình xây dựng xong được nhận xét là chưa đẹp, thiếu hài hoà với cảnh quan môi trường (điển hình là các công trình xây dựng theo mẫu số 2). Do khó khăn về nguồn vốn nên các công trình không được bố trí vốn mua sắm các trang thiết bị. Vốn đầu tư chủ yếu dành cho hạng mục chính, hạn chế và tiết kiệm tối đa kinh phí cho các hạng mục phụ trợ như hàng rào, sân, vườn, nhà phụ trợ nên nhiều công trình được xây dựng xong nhưng không hoàn chỉnh, hiệu quả sử dụng thấp ( như công trình trụ sở BHXH huyện Ngân Sơn- Cao Bằng, sau này chuyển cho Bắc Kạn). Ngay như hạng mục hàng rào cho các công trình chỉ cho phép thiết kế- dự toán hàng rào kiên cố tại mặt trước công trình, 3 mặt còn lại chỉ làm tạm: tận dụng hàng rào cũ hoặc chôn cọc căng dây thép gai. Vì thế công trình khi xây dựng xong vẫn không hoàn chỉnh và có những nét phản cảm ( cơ quan BHXH là nơi gặp gỡ, tiếp xúc với nhân dân nhưng căng dây thép gai như doanh trại quân đội). Cơ cấu vốn cho các công trình cấp huyện trong giai đoạn này chỉ bố trí cho xây lắp và KTCB khác, không bố trí cho mua sắm các trang thiết bị. Vật liệu sử dụng cho các công trình chỉ là vật liệu thông thường: lát gạch hoa, cửa nhôm kính Trung Quốc, vật liệu điện, nước, sản xuất trong nước, tường quét vôi ve mà không bả ma tít lăn sơn… Chính vì vậy, chất lượng và kỹ, mỹ thuật của các công trình được xây dựng không cao, chỉ đảm bảo thi công đúng thiết kế- dự toán. Một số công trình được UBND các địa phương cấp, cho mua nhà cũ và BHXH Việt Nam đầu tư cải tạo, sửa chữa lại nên công trình rất chắp vá, không phù hợp với công năng sử dụng, không có dáng dấp của công sở. Phần lớn những công trình này những năm sau BHXH Việt Nam phải bàn giao lại cho UBND các địa phương và xin cấp đất, đầu tư xây dựng trụ sở mới ( điều này giải thích tại sao số lượng công trình phải đầu tư xây dựng lớn hơn số lượng các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh). Những bất hợp lý này đã được BHXH Việt Nam tổng kết và kịp thời khắc phục trong những năm tiếp theo. [Biểu 1.6].
Đánh giá chung: với sự nỗ lực cố gắng của cả ngành, bằng việc huy động các nguồn vốn hợp pháp, BHXH Việt Nam đã đầu tư, xây dựng được trên 60 công trình trụ sở BHXH các cấp trong giai đoạn 1995-1997. Những công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh, cấp huyện được xây dựng đã góp phần giải quyết nhu cầu trụ sở làm việc rất cấp thiết của các đơn vị, hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động của ngành. Công tác quản lý đầu tư xây dựng của BHXH Việt Nam đảm bảo thực hiện đúng các quy định của Nhà nước, không xảy ra hiện tượng, vụ việc thất thoát, lãng phí, tiêu cực. Tuy nhiên theo chúng tôi do gặp những khó khăn của một ngành mới thành lập, thiếu vốn đầu tư và cả kinh nghiệm trong công tác đầu tư xây dựng, kinh nghiệm quản lý đầu tư xây dựng nên nhiều công trình chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng, chưa đạt đến chuẩn công sở của ngành BHXH nên vẫn phải tiếp tục đầu tư, cải tạo mở rộng hoặc xây dựng mới
- Giai đoạn từ 1998 đến hết năm 2005.
Trong giai đoạn này, vốn đầu tư xây dựng của BHXH Việt Nam đã được bố trí từ nguồn tăng trưởng quỹ BHXH nên có thể nói là đáp ứng được yêu cầu đầu tư xây dựng trụ sở BHXH các cấp. Các công trình được triển khai nhiều, trên hầu khắp cả nước.
Nhận thức được những hạn chế của giai đoạn trước, BHXH Việt Nam đã chỉ đạo các chủ đầu tư chú trọng hơn nữa cho công tác đầu tư xây dựng, tăng cường chất lượng các Báo cáo đầu tư và Báo cáo nghiên cứu khả thi; kiên quyết không thông qua những báo cáo nghiên cứ khả thi không đảm bảo chất lượng, lập sơ sài hoặc thiếu các căn cứ. Không bị áp lực của việc thiếu vốn đầu tư nên các dự án được xây dựng cũng đồng bộ, hoàn chỉnh hơn, quy mô đầu tư cũng lớn hơn giai đoạn trước và nhất là phải được đặt trong sự phát triển của ngành trong tương lai 10 năm, 20 năm và xa hơn nữa.
b. Một số kết quả đạt được
Các dự án trụ sở BHXH cấp tỉnh :
BHXH Việt Nam đã thực hiện được 57 dự án xây dựng trụ sở BHXH cấp tỉnh với tổng số vốn là 337,7 tỷ đồng.
Quy mô xây dựng các công trình là tương đối lớn, với diện tích xây dựng từ 1.250m2 đến 6.000 m2. Suất đầu tư trung bình từ 1.800.000đ/1m2 xây dựng đến 2.250.000đ/1m2 xây dựng. Với suất đầu tư này, các công trình được thiết kế hoàn chỉnh hơn; các vật liệu được sử dụng cho công trình có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn so với giai đoạn trước. Cơ cấu vốn đầu tư cho các công trình được bố trí tương đối hợp lý: phần xây lắp ngoài khối nhà chính còn có các công trình phụ trợ như nhà xe, nhà công vụ… Xây lắp hoàn chỉnh hệ thống mạng nội bộ để phục vụ hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở BHXH các tỉnh, thành phố. Các công trình đều được bố trí kinh phí mua sắm các trang thiết bị, bình quân khoảng 400 triệu đồng/ 1trụ sở. Phần vốn thiết bị dùng để mua sắm các trang thiết bị cần thiết như thiết bị phòng chống cháy, thiết bị thông tin liên lạc và truyền dẫn, điều hoà nhiệt độ và thông gió...Một số trụ sở có nguồn điện không ổn định còn được bố trí kinh phí cho hệ thống cung cấp điện (đường dây và trạm biến áp riêng) như trụ sở BHXH TP Hà Nội, Trụ sở BHXH tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc....Chính vì vậy, các công trình được xây dựng xong là tương đối hoàn chỉnh, khá đồng bộ và phát huy tác dụng rất lớn khi đưa vào khai thác, sử dụng. Công trình có quy mô đầu tư lớn phải kể đến là trụ sở BHXH TP Hà Nội , Thanh Hoá. Chỉ tính riêng trong năm 2000, BHXH Việt Nam đã khởi công mới 19 công trình trụ sở cấp tỉnh với tổng số vốn đầu tư là 68,235 tỷ đồng, bình quân 3,591 tỷ đồng/1trụ sở.
Đến năm 2005, BHXH Việt Nam phê duyệt triển khai xây mới 2 công trình là BHXH tỉnh Quảng Ninh, Ninh Bình và cải tạo mở rộng 13 trụ sở cũ với tổng số vốn là 151,413 tỷ đồng, bình quân 7,078 tỷ đồng/1 trụ sở (số vốn này nhiều hơn xây dựng mới 1 trụ sở ở các năm trước). Các công trình khởi công trong năm 2005 đều được bố trí kinh phí để xây lắp hoàn chỉnh mạng vi tính, mạng thông tin liên lạc và các thiết bị truyền dẫn để có thể tiếp nhận kết quả đầu tư của dự án CNTT. ưu tiên của BHXH Việt Nam năm 2005 và những năm tiếp theo là tập trung xây dựng các phương án cải tạo mở rộng các trụ sở đã có với quy mô đủ đáp ứng yêu cầu sử dụng. Đối với những trụ sở không có phương án cải tạo, mở rộng khả thi ( như diện tích đất quá chật, trụ sở cũ không cho phép cải tạo mở rộng) thì xin cấp đất và lập dự án đầu tư mới. Chính vì vây, nhiệm vụ đầu tư xây dựng trụ sở BHXH các cấp nói chung, cấp tỉnh nói riêng trong những năm tới là khá nặng nề.
Các dự án trụ sở BHXH cấp huyện :
Song song với việc xây dựng các trụ sở BHXH cấp tỉnh, BHXH Việt Nam cũng triển khai xây dựng các trụ sở BHXH cấp huyện. Có thể nói đây là giai đoạn công tác đầu tư xây dựng trụ sở BHXH được triển khai mạnh mẽ nhất, rộng khắp nhất. BHXH Việt Nam chỉ đạo các chủ đầu tư chuẩn bị sớm nhất các điều kiện cần thiết để có thể khởi công các công trình. Về phía các chủ đầu tư, cũng rất tích cực, chủ động làm các thủ tục ban đầu như xin cấp đất, xin chứng chỉ quy hoạch và lập các báo cáo đầu tư. Những nơi không quá khó khăn về đất xây dựng sẽ xin cấp từ 500m2 đến 1.000m2 với chiều ngang mặt đường tối thiểu 15m. Với diện tích đất như vậy sẽ dễ lựa chọn các mấu thiết kế phù hợp. Về phía BHXH Việt Nam, đã hoàn chỉnh và thông qua các mẫu thiết kế trụ sở BHXH cấp huyện. Rút kinh nghiệm ở giai đoạn trước, BHXH Việt Nam rà soát các mẫu thiết kế cho phù hợp hơn với công năng sử dụng ở cấp huyện. Đã chỉnh sửa các mẫu số14B, mẫu số10B và mẫu số 12 theo hướng mở rộng bước gian và các phòng làm việc; bố trí các phòng làm việc với các chức năng nhiệm vụ cụ thể. Về thiết kế kiến trúc và ngoại thất đã cải tiến các chi tiết và mặt đứng kiến trúc, làm cho công trình hài hoà hơn, đẹp hơn. BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định về việc sử dụng các mẫu thiết kế trụ sở BHXH cấp huyện. Xác định các tiêu chí cụ thể để sử dụng thiết kế mẫu như ngoài yếu tố đất được cấp xây dựng sẽ xem xét đến các yếu tố khác như: nhiệm vụ Thu- Chi thường xuyên hàng năm, số biên chế hiện có và dự kiến biên chế trong tương lai; quy hoạch xây dựng tại địa phương...Chính vì vậy, phần lớn các công trình trụ sở BHXH cấp huyện đã lựa chọn được các mẫu thiết kế phù hợp.
c. Đánh giá chung.
- Những thành tựu đạt được.
Từ năm 1996 đến hết năm 2005, công tác đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam đã đạt được những kết quả rất to lớn, đó là:
Một là, xây dựng được hệ thống trụ sở BHXH các cấp để phục vụ công tác của ngành góp phần phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tại các địa phương; tạo niềm tin của người lao động, của người sử dụng lao động và các đối tượng khác đối với cơ quan BHXH.
Trụ sở BHXH cấp huyện: đã triển khai xây dựng, mua sắm được 554 công trình với tổng diện tích xây dựng 132.252 m2, tổng giá trị 320.201 triệu đồng, trong đó hoàn thành đưa vào sử dụng được 544 công trình với tổng giá trị là 295.026 triệu đồng. [Biểu 1.3].
Trụ sở BHXH cấp tỉnh và cấp TW đã triển khai xây dựng được 76 công trình với tổng diện tích xây dựng 129.739 m2, tổng giá trị 394.606 triệu đồng, trong đó đã hoàn thành đưa vào sử dụng được 59 công trình với tổng giá trị là 200.254 triệu đồng. [Biểu 1.2].
Hai là, công tác đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam đến nay chưa phát hiện có tiêu cực, thất thoát, lãng phí. Đây được đánh giá là thành tích nổi bật của BHXH Việt Nam. Với số lượng công trình triển khai rất nhiều, trên địa bàn cả nước, tổng số vốn đầu tư ước đạt trên 600 tỷ đồng nhưng đến nay sau 2 lần Kiểm toán Nhà nước làm việc chính thức và rất nhiều Đoàn thanh tra, kiểm tra khác vào làm việc với các chủ đầu tư; các kết luận khẳng định công tác đầu tư xây dựng của BHXHVN thực hiện đúng quy định, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát vốn đầu tư. Trong lĩnh vực thu hút sự quan tâm của xã hội, trong công tác dễ xảy ra tiêu cực, để lại nhiều tiếng xấu trong xã hội thì thành tích của BHXH Việt Nam là rất đáng trân trọng. Nguyên nhân chủ yếu là BHXH Việt Nam đã quán triệt từ trên xuống dưới và thực hiện nghiêm chỉnh các quy trình, các quy định của Nhà nước về công tác quản lý đầu tư xây dựng. Trong tất cả các khâu, các phần công tác đều phải thực hiện đúng quy định. Tăng cường công tác kiểm tra và tự kiểm tra ở tất cả các khâu để kịp thời phát hiện, uốn nắn các biểu hiện sai phạm.
Ba là, BHXH Việt Nam đã xây dựng được rất nhiều công trình có chất lượng tốt, có kỹ mỹ thuật được đánh giá cao lànhm tô điểm ững nét đẹp tại các địa phương nơi xây dựng trụ sở. Hầu hết các công trình được BHXH Việt Nam xây dựng đều đảm bảo chất lượng. Đến nay đã gần 10 năm đưa vào sử dụng nhưng các công trình vẫn đảm bảo chất lượng, chưa công trình nào phải sửa chữa, cải tạo vì lý do kỹ thuật. Chất lượng của các công trình được xây dựng đảm bảo quy chuẩn, quy phạm xây dựng.
- Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Một là, rất nhiều công trình đã được xây dựng đến nay không đáp ứng được yêu cầu sử dụng nhất là về quy mô công trình và công năng sử dụng. Đặc biệt những công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh và cấp huyện xây dựng trước năm 1998 có quy mô rất nhỏ, suất đầu tư thấp, kỹ, mỹ thuật chưa cao. Các công trình xây dựng trong giai đoạn này đòi hỏi phải sửa chữa, cải tạo mở rộng mới có thể đáp ứng yêu cầu sử dụng. Các công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh xây dựng trong những năm 1996, 1997 chủ yếu sử dụng vốn do NSNN cấp nên quy mô nhỏ, chỉ từ 800m2 đến 1.700 m2 xây dựng; tổng mức vốn đầu tư thấp, chỉ từ 2 tỷ đồng đến dưới 4 tỷ đồng. Nhiều công trình thiết kế chưa hợp lý, bố trí các phòng làm việc, phòng đệm, phòng phụ trợ không phù hợp và nhiều công trình lạm dụng sử dụng vật liệu nhôm kính dẫn đến nhiều khó khăn, bất tiện khi đưa vào sử dụng. Điển hình trong số này là trụ sở BHXH tỉnh Kiên Giang. Đối với các trụ sở BHXH cấp huyện cũng gặp khó khăn tương tự. Nhưng công trình xây dựng theo thiết kế mẫu chỉ được lựa chọn những mẫu có quy mô xây dựng nhỏ, vốn đầu tư ít. Một số công trình triển khai theo thiết kế riêng, do thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong khâu thiết ké nên công trình xây dựng xong không mang dáng dấp của công sở; bố trí các phòng làm việc không hợp lý, thiếu khoa học, khi đưa vào sử dụng bộc lộ rất nhiều nhược điểm.
Hai là, có một số công trình được xây dựng xong nhưng không phù hợp với quy hoạch tại các địa phương phải bàn giao lại cho địa phương để cấp đất tại địa điểm khác và xây mới gây nhiều khó khăn cho cơ quan BHXH. Khi cấp phép xây dựng trụ sở cơ quan BHXH cấp huyện, nhiều địa phương không xem xét đến quy hoạch chung và quy hoạch xây dựng tại chỗ, dẫn đến tình trạng có trụ sở BHXH xây dựng xong nhưng không được quy hoạch trong khu hành chính, không được sử dụng làm công sở. Do thiếu quy hoạch chi tiết xây dựng hoặc quy hoạch thay đổi nên có trụ sở xây xong không phù hợp với cốt cao độ đường giao thông, hoặc đường giao thông mở rộng vào sát công trình chính, gây khó cho người sử dụng và làm xấu công trình, gây phản cảm.
Ba là, có một số công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh và rất nhiều công trình trụ sở BHXH cấp huyện sử dụng các loại vật liệu, vật tư trong khâu hoàn thiện có phẩm cấp thấp, tuy giá thành rẻ song chất lượng cũng không cao. Nhiều công trình tường quét vôi, ve hoặc sơn loại rẻ tiền thay vì sơn tường chất lượng cao, ._.sau một thời gian do tác động của thời tiết, khí hậu bị rêu, mốc, bụi bặm làm xấu công trình. Các thiết bị điện, nước và WC sử dụng loại sản xuất trong nước thời gian trước có chất lượng không tốt nên cũng nhanh hư hỏng khi đưa vào sử dụng, làm chất lượng công trình nhanh xuống cấp.
Bốn là, trong khâu khai thác, vận hành công trình khi đưa vào sử dụng chưa được quan tâm đúng mức. Các hồ sơ hoàn công và bàn giao công trình mới chủ yếu phục vụ công tác thẩm định, phê duyệt quyết toán chưa chú trọng đến khâu vận hành khai thác công trình sau này. Các bộ phận sử dụng trụ sở không nắm vững các quy trình, thao tác vận hành và không có hồ sơ những khối lượng ngầm nên sử dụng bị động và đôi khi gây hư hỏng cho công trình. Tuy chỉ là các công trình dân dụng thông thường, độ phức tạp trong khai thác sử dụng không nhiều nhưng cũng cần có các quy định, quy trình khai thác sử dụng, bảo hành, bảo trì công trình thì mới phát huy hiệu quả và chống xuống cấp cho công trình.
* Các nguyên nhân khách quan.
Một là, quy mô về tổ chức của ngành ở cả 3 cấp: TW, tỉnh, huyện đều tăng lên . Ngày 21 tháng 01 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển giao toàn bộ BHYT Việt Nam về BHXH Việt Nam. Như vậy về nhiệm vụ công tác và tổ chức bộ máy của BHXHVN gần như ngay lập tức tăng lên gần 50%. Số lượng biên chế của ngành BHXH tăng từ trên 9.000 người lên trên 13.000 người. Về trụ sở làm việc, BHXH Việt Nam tiếp nhận và tổ chức sắp xếp gần như toàn bộ hệ thống trụ sở hiện có của cả 2 hệ thống đến hết năm 2002. Như đã trình bày ở phần trên, đến trước năm 2002 hệ thống BHYT Việt Nam mới xây dựng được 15 công trình trụ sở BHXH ở cấp tỉnh. Do BHYT Việt Nam chưa thành lập các chi nhánh BHYT cấp 3 ( cấp quận, huyện) nên không xây dựng trụ sở cấp huyện. Trong số 15 công trình kể trên, chỉ có 1 công trình nằm liền kề với trụ sở BHXH nên được sử dụng làm trụ sở BHXH cấp tỉnh ( trụ sở BHYT Lao Cai). Có 2 công trình được chuyển giao làm trụ sở BHXH thành phố, thị xã thuộc tỉnh ( trụ sở BHYT Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế), còn lại 12 công trình BHXH Việt Nam đã bàn giao cho UBND các tỉnh quản lý, sử dụng. Chỉ số ít trụ sở BHXH cấp tỉnh hiện có đáp ứng được nhu cầu sử dụng khi biên chế tăng đột biến như trên.
Hai là, nhà nước quy định định mức sử dụng trụ sở làm việc cho các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp không hợp lý mà BHXH Việt Nam phải tuân thủ. Trước năm 1999, công tác xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp chủ yếu bằng nguồn vốn đầu tư tập trung từ ngân sách nhà nước và chịu ảnh hưởng rất nhiều của cơ chế " xin cho". Ngày 05/7/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 147/1999/QĐ-TTg quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp. Quyết định trên là cơ sở để các cơ quan quản lý phê duyệt quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc và xét duyệt quy mô đầu tư cho từng công trình cụ thể, góp phần công khai, minh bạch công tác đầu tư xây dựng trụ sở làm việc.
Ba là, thiếu vốn đầu tư những năm đầu mới thành lập, mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu được đầu tư xây dựng và khả năng bố trí vốn đầu tư xây dựng. Trong khi nhu cầu được đầu tư xây dựng trụ sở những năm đầu là rất lớn; các đơn vị trong hệ thống BHXHVN đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn như đi mượn, thuê trụ sở làm việc nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu, vẫn phải tập trung đầu tư xây dựng mới. Các công trình được đầu tư xây dựng trước năm 1998 ( trước khi có quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 ) có quy mô xây dựng nhỏ, suất đầu tư thấp, sử dụng các vật liệu rẻ tiền nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn đầu tư. Trước năm 1998, nguồn vốn đầu tư của BHXH Việt Nam chủ yếu là do ngân sách nhà nước cấp và một phần tiền tiết kiệm từ chi hoạt động bộ máy nên rất khan hiếm và được bố trí nhỏ giọt. Vì thế khi quyết định đầu tư các công trình, BHXH Việt Nam phải lựa chọn phương án đầu tư có mức vốn ít nhất, đồng nghĩa với phương án có quy mô xây dựng nhỏ, suất đầu tư thấp. Cũng do thiếu vốn mà các phương án thiết kế được lựa chọn là đơn giản nhất dẫn đến công năng sử dụng của công trình không được hoàn chỉnh như mong muốn.
Bốn là, quy hoạch xây dựng tại các địa phương chậm và thường thay đổi gây bị động cho ngành BHXH nói riêng mà các ban, ngành khác có nhu cầu đầu tư xây dựng trên địa phương nói chung. Mặc dù đã có quy định:
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch xây dựng trong địa giới hành chính do mình quản lý theo phân cấp, làm cơ sở quản lý các hoạt động xây dựng, triển khai các dự án đầu tư xây dựng và xây dựng công trình. [48, Điều 11, 3 ], nhưng việc lập và công bố quy hoạch tại các địa phương thường chậm và hay thay đổi làm cho một số công trình trụ sở của BHXH Việt Nam được xây dựng xong nhưng không phù hợp với quy hoạch của địa phương (cả quy hoạch vùng và quy hoạch xây dựng đô thị). Một số công trình được xây dựng xong nhưng không phù hợp với quy hoạch vùng lại phải chuyển đổi cho địa phương để xây dựng trụ sở mới ở vị trí được quy hoạch là khu hành chính. Tính đến nay đã có 5 công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh và 32 công trình trụ sở BHXH cấp huyện phải chuyển đổi để xây trụ sở mới, như : trụ sở BHXH tỉnh Ninh Thuận, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Tây, Lao Cai và trụ sở các BHXH huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh, Yên Sơn- Sơn La, Ngọc Hồi- Kon Tum... Quy hoạch xây dựng đô thị chậm công bố và thay đổi cũng làm làm ảnh hướng đến các trụ sở BHXH đã được xây dựng. Có công trình khi được cấp phép và xây dựng tuân thủ đầy đủ quy hoạch xây dựng chi tiết: các mốc giới, chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng, cao độ xây dựng và cốt nền. Nhưng sau khi xây dựng xong, UBND địa phương lại công bố quy hoạch mới, công trình phải dỡ bỏ một số hàng mục đã xây dựng như hàng rào, nhà thường trực, sân và thay đổi cả cốt xây dựng, làm xấu công trình và gây khó khăn khi sử dụng.
* Các nguyên nhân chủ quan.
Một là, chậm xây dựng và ban hành quy hoạch đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị cho trụ sở BHXH các cấp trong hệ thống BHXH Việt Nam. Tính đến nay, sau hơn 3 năm nhận chuyển giao BHYT, bộ máy tổ chức thay đổi tăng rất nhiều, các trụ sở cũ đã đầu tư xây dựng không còn phù hợp vì quy mô quá nhỏ so với số biên chế tăng thêm, yêu cầu về trụ sở làm việc cũng có nhiều thay đổi nhưng BHXH Việt Nam vẫn chưa xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể đầu tư xây dựng, mua sắm, trang bị cho trụ sở BHXH các cấp để phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy công tác đầu tư xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam diễn ra khá bị động và bị ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan tác động. Ngay cả quy mô xây dựng các công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh, suất đầu tư và lựa chọn các phương án thiết kế cũng bị động, phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư của mỗi giai đoạn và ý kiến của bộ phận tham mưu, tư vấn ( Hội đồng thẩm định các dự án đầu tư, nay là Hội đồng tư vấn thẩm định dự án đầu tư xây dựng trụ sở BHXH các tỉnh, TP).
Hai là, bộ máy quản lý, số lượng và năng lực cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu khối lượng công việc tập trung quá nhiều trong thời gian vừa qua. Phần đông các các cán bộ kiêm nhiệm, không được đào tạo chuyên ngành nhưng BHXH Việt Nam cũng không thường xuyên đào tạo, tập huấn nghiệp vụ công tác đầu tư xây dựng. Đến nay chỉ có các cán bộ của bộ phận quản lý đầu tư xây dựng tại BHXH Việt Nam ( Phòng đầu tư xây dựng) làm công tác chuyên môn và được đào tạo chuyên ngành. Còn hầu hết cán bộ của các Ban QLDA ( tại 64 BHXH tỉnh, thành phố và 4 Ban QLDA thuộc BHXHVN) là cán bộ kiêm nhiệm và không được đào tạo chuyên ngành. Chính vì vậy mà khi triển khai công tác đầu tư xây dựng trong cả ngành gặp khó khăn, lúng túng, bỡ ngỡ, đôi khi có sai sót; sự phối hợp giữa chủ đầu tư và chủ quản đầu tư chưa được tốt. Có thể do bận thực hiện các nhiệm vụ chính trị chủ yếu nhưng rõ ràng BHXH Việt Nam chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc đào tạo, đào tạo lại và tập huấn các nghiệp vụ công tác quản lý đầu tư xây dựng cho đội ngũ cán bộ làm công tác đó.
Ba là, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các Ban QLDA chưa được tốt. Một trong các chức năng quan trọng của BHXH Việt Nam là phải kiểm tra, giám sát công tác đầu tư xây dựng của các Ban QLDA, các chủ đầu tư, nhưng chức năng này chưa được BHXH Việt Nam thực hiện tốt. Một phần do thiếu cán bộ, khối lượng công việc nhiều nhưng BHXH Việt Nam cũng chưa thực sự quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát cấp dưới thực hiện.
Bốn là, một số ít Ban Quản lý dự án chưa quan tâm đầy đủ đến công tác kiểm tra, giám sát chất lượng công trình, còn có tư tưởng phó thác hết cho các Công ty tư vấn được thuê làm nhiệm vụ giám sát đã dẫn đến một số dự án còn để sai sót trong quá trình thi công: thi công chưa đúng quy trình, quy phạm, chưa đúng chủng loại vật liệu thiết kế đã chỉ định
Năm là, Do không nắm bắt được đầy đủ các quy định, quy trình, quy phạm, quy chế quản lý đầu tư xây dựng nên một số ít Ban Quản lý dự án còn tùy tiện, tự quyết định quá thẩm quyền thay đổi về quy mô đầu tư, thay đổi thiết kế kỹ thuật...
Chương 2
Một số giải pháp chủ yếu
nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng trụ sở của bảo hiểm xã hội Việt Nam thời gian qua
I. Những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung mà xây dựng hệ thống trụ sở làm việc nói riêng là lĩnh vực rộng, liên quan đế nhiều ngành, nhiều cấp và cũng khá phức tạp trong quá trình quản lý, cả quản lý tầm vĩ mô và quản lý tầm vi mô. Vì vậy, về phía Nhà nước và Chính phủ phải thường xuyên rà soát, xem xét để có các chính sách đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp thực trạng phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước.
Đối với các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tài chính, Xây dựng... là cấp thực hiện các chính sách đầu tư XDCB và theo chức năng nhiệm vụ được phân công phải hướng dẫn thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công, yêu cầu các Bộ, ngành phải thường xuyên bám sát cơ sở, rà soát, xem xét những quy định đã có để kịp thời ban hành các quy định quản lý phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị khi thực hiện và đặc biệt phải góp phần ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tham nhũng làm thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Đối với BHXH Việt Nam, tính đến hết năm 2005 đã đầu tư xây dựng mới được 59/64 ( đạt 92%) công trình trụ sở BHXH cấp tỉnh và 557/671 ( đạt 83 %) trụ sở BHXH cấp huyện. Tuy nhiên rất nhiều công trình trong số kể trên không phù hợp với yêu cầu sử dụng. Xét về quy mô xây dựng, nhiều công trình có quy mô nhỏ, diện tích sử dụng phục vụ cho các bộ phận chức năng làm việc hầu hết còn thiếu so với tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc có xét đến các đặc thù riêng của ngành BHXH. Xét về công năng sử dụng, nhiều công trình lạc hậu so với tổ chức bộ máy mới của cơ quan BHXH, các hạng mục phụ trợ và các trang thiết bị đi kèm lạc hậu, không đồng bộ, không đáp ứng yêu cầu sử dụng của các bộ phận chức năng. Chính vì vậy mà công tác đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam đòi hỏi vẫn phải tiếp tục thực hiện; rất cần xem xét kỹ các mặt tác động, các nhược điểm, sai sót mà giai đoạn trước đã mắc phải để khắc phục và hoàn thiện hơn nữa công tác đầu tư xây dựng. Đồng thời BHXH Việt Nam phải sớm kiểm kê rà soát hệ thống trụ sở hiện có và nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư xây dựng các trụ sở làm việc cũng như quy hoạch, kế hoạch đầu tư mua sắm các trang thiết bị phục vụ công tác để sao cho vừa tận dụng cơ sở vật chất sẵn có, vừa đầu tư xây dựng mua sắm mới đáp ứng yêu cầu sử dụng của các đơn vị trong giai đoạn trước mắt và trong dài hạn đến năm 2020 và xa hơn. Quy hoạch đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị cho các trụ sở làm việc phải khoa học, mang tính khả thi cao và phải triệt để tiết kiệm, không được phép lãng phí, không phô trương. Một vấn đề nữa là đòi hỏi BHXH Việt Nam tiếp tục củng cố đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đầu tư xây dựng ở tất cả các cấp, các bộ phận.
II. Định hướng chủ yếu về quản lý đầu tư xây dựng của bảo hiểm xã hội Việt Nam .
a. Quan điểm chung của Đảng, Nhà nước hiện nay về công tác đầu tư xây dựng nói chung và đầu tư xây dựng trụ sở làm việc nói riêng.
Công tác đầu tư xây dựng nói chung và đầu tư xây dựng trụ sở làm việc nói riêng phải đạt được yêu cầu là bảo đảm xây dựng theo quy hoạch xây dựng, kiến trúc, đáp ứng yêu cầu bền vững, mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý. Ngoài ra việc đầu tư xây dựng các công trình phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng, bảo đảm an ninh, an toàn xã hội và an toàn môi trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó công tác đầu tư xây dựng phải sử dụng các nguồn vốn đầu tư do Nhà nước quản lý, các nguồn vốn đầu tư trong xã hội đạt hiệu quả cao nhất, chống tham ô, tiêu cực và chống thất thoát, lãng phí.
Trong lộ trình cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước đề ra trong giai đoạn hiện nay có nhiệm vụ hiện đại hoá công sở. Ngoài những yếu tố khác góp phần hiện đại hoá công sở thì việc đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị cho các trụ sở làm việc của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp ở tất cả các cấp, các ngành là rất quan trọng. Yêu cầu đặt ra là phải:
Xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống công sở của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; đồng thời định rõ kế hoạch đầu tư sửa chữa, cải tạo nâng cấp, xây dựng công sở; xây dựng tiêu chuẩn hoá chế độ về trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức hành chính nhà nước; làm cơ sở xác định nguyên tắc đầu tư, thứ tự đầu tư và bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn có tính đến hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Về đất để xây dựng trụ sở, các địa phương ưu tiên bố trí mặt bằng xây dựng trụ sở cho các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, các cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan sự nghiệp hoạt động theo ngành dọc. Cho phép các đơn vị chủ động tìm phương án hoán đổi trụ sở báo cáo cơ quan có thẩm quyền để giải quyết nhằm có mặt bằng phù hợp và tạo nguồn vốn để đầu tư.
Khoản kinh phí mua sắm trang thiết bị cho trụ sở xây dựng mới được tính vào tổng mức đầu tư dự án đầu tư xây dựng trụ sở và thực hiện từ nguồn vốn đầu tư phát triển.
b. Định hướng về quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng trụ sở của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Thực hiện chủ trương “Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động” [38, tr. 100] và “từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân [38, tr. 217]; ‘Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ; đổi mới cơ chế và chính sách viện phí; có chính sách trợ cấp và BHYT cho người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân” [38, tr. 107]. Mục tiêu chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2020 là:
Một là, thực hiện tốt các chế độ BHXH nhằm ổn định đời sống về vật chất và tinh thần của người tham gia BHXH, góp phần đảm bảo ổn định chính trị, an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hai là, đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội tham gia BHXH đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội, tăng nhanh số lượng người tham gia BHXH dưới cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Bổ sung thêm chế độ trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp tàn tật. Đến năm 2020 có khoảng 17 triệu người lao động (chiếm khoảng 35 % lực lượng lao động xã hội) tham gia BHXH bắt buộc để hưởng các chế độ từ quỹ hưu trí & trợ cấp và 100% dân số tham gia bảo hiểm y tế để hưởng chế độ KCB.
Ba là, quản lý chặt chẽ nguồn thu BHXH; thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời của các đối tượng tham gia bảo hiểm theo quy định để tăng nhanh nguồn thu. Kiểm soát chặt chẽ mọi nguồn chi ra từ quỹ, thực hiện chi đúng đối tượng, đúng chính sách, đủ số lượng và kịp thời cho đối tượng được thụ hưởng. Thực hiện hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả cao, tránh rủi ro, thất thoát quỹ.
Bốn là, từng bước tăng mức đóng góp của người tham gia BHXH và chủ sử dụng lao động để giảm dần sự bao cấp của Nhà nước. Quỹ BHXH đảm bảo sự cân đối ổn định, vững chắc, luôn luôn có đủ nguồn lực tài chính để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu chi tiêu của quỹ.
Năm là, thực hiện tốt chương trình cải cách hành chính Nhà nước trong hệ thống BHXH Việt Nam, nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp BHXH; phục vụ ngày càng tốt hơn các đối tượng tham gia và người được hưởng các chế độ BHXH.
c. Định hướng về quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc; mua sắm, trang bị các tài sản phục vụ công tác của ngành.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam và chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy đã được Chính phủ quy định, BHXH Việt Nam xác định tổ chức và biên chế đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 để có cơ sở xây dựng quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở. Bên cạnh đó căn cứ các yêu cầu hiện đại hoá trụ sở làm việc, BHXH Việt Nam cần rà soát quỹ nhà đất hiện có, xác định số lượng nhà đất không phù hợp với yêu cầu sử dụng để kiến nghị Bộ Tài chính, Chính phủ cho phép chuyển đổi để tạo nguồn vốn đầu tư và tiến hành đầu tư xây dựng các trụ sở cho phù hợp với yêu cầu sử dụng và quy hoạch đầu tư. Quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở của ngành BHXH theo chúng tôi cần dựa vào các căn cứ khoa học và thực tiễn ; bám sát các quy định của Nhà nước ( quy định hiện hành và quy định sắp sửa đổi) và không thể tách rời với quy hoạch xây dựng tại các địa phương- nơi xây dựng trụ sở. Quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam phải đảm bảo mục tiêu đến hết năm 2010 tất cả các đơn vị BHXH ở các cấp có trụ sở làm việc đáp ứng các yêu cầu sử dụng đến năm 2020 và có thể xa hơn nữa.
d. Định hướng về chất lượng các công trình trụ sở làm việc và chất lượng các thiết bị được mua sắm trang bị.
Chất lượng các công trình xây dựng, chất lượng các trang thiết bị được đầu tư mua sắm bằng nguồn vốn Ngân sách và có nguồn gốc Ngân sách là vấn đề nổi cộm trong quản lý đầu tư xây dựng hiện nay. Trụ sở làm việc của hệ thống BHXH Việt Nam và các trang thiết bị đi kèm là các công trình được sử dụng lâu dài và rất quan trọng đối với hoạt động của ngành cũng như đảm bảo an sinh xã hội, bởi thế chất lượng phải tốt, hình thức phải đẹp và phải sử dụng được lâu dài. Tuy nhiên do là các công trình dân dụng, là trụ sở của các cơ quan hành chính sự nghiệp nên chất lượng, cấp của công trình cũng tuân theo các quy định chung, không được sử dụng các vật liệu đặc biệt, quá đắt tiền, không được phô trương, xa hoa về chất lượng cũng như kỹ, mỹ thuật của công trình.
Chất lượng các sản phẩm đầu tư xây dựng của BHXH Việt Nam theo chúng tôi được đánh giá trên cơ sở: thứ nhất là sự bền vững của công trình xây dựng trước tác động của thời gian, tác động của thời tiết khi hậu và có khi là cả thiên tai; thứ hai là các chủng loại vật tư vật liệu được sử dụng, thiết bị được mua sắm trang bị phải đảm bảo theo đúng thiết kế dự toán, theo đúng hồ sơ mời thầu; thứ ba là sản phẩm xây dựng phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, phải thoả mãn các yêu cầu mỹ thuật, phải đẹp.
e. Định hướng về giá thành các trụ sở làm việc, giá cả các thiết bị được trang bị.
Giá thành các sản phẩm đầu tư xây dựng là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu quả, chất lượng của công tác đầu tư xây dựng, đánh giá mức độ tiêu cực, thất thoát, láng phí trong đầu tư xây dựng. Ngoài ra có mối liên quan hữu cơ ( nếu được thực hiện đúng) giữa giá thành và chất lượng của sản phẩm đầu tư xây dựng. Các trụ sở làm việc và các trang thiết bị được mua sắm, trang bị của BHXH Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Giá thành các trụ sở làm việc cùng các trang thiết bị được mua sắm, trang bị phải hợp lý, tiết kiệm, không ẩn chứa các yếu tố tiêu cực.
Khi phê duyệt dự án đầu tư, phê duyệt thiết kế-dự toán, BHXH Việt Nam phải được cung cấp các thông tin cần thiết để có cơ sở so sánh, đối chiếu các phương án kinh tế-kỹ thuật, các mức giá để thực hiện khối lượng đầu tư xây dựng và phải bám sát giá thị trường, giá tại địa phương và các quy định khác của pháp luật để có mức giá phù hợp nhất cho sản phẩm đầu tư xây dựng của ngành.
Xác định giá thành hợp lý của các sản phẩm đầu tư xây dựng là nhân tố quan trọng hạn chế tiêu cực, thất thoát lãng phí trong xây dựng- một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm và cũng là cơ sở để có thể có sản phẩm đầu tư xây dựng đảm bảo chất lượng theo đúng thiết kế, dự toán.
III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam.
1. Những giải pháp trong quá trình chuẩn bị đầu tư.
- Hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của hệ thống BHXH Việt Nam.
Một vấn đề rất cần thực hiện đối với BHXH Việt Nam hiện nay là phải sớm xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, công bố rộng rãi để định hướng cho công tác xây dựng trụ sở làm việc trong toàn ngành. Quy hoạch đầu tư xây dựng sẽ là một chủ trương, là cơ sở vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính khoa học và thực tiễn cao để tất cả các bộ phận có liên quan thực hiện. Theo chúng tôi. quy hoạch đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam phải bao gồm những nội dung chủ yếu như sau:
+ Căn cứ để xây dựng quy hoạch:
- Chiến lược phát triển ngành BHXH đến năm 2010 và giai đoạn 2010-2020
- Quy hoạch biên chế các đơn vị BHXH trong các giai đoạn 2005-2010 và giai đoạn 2010-2020.
- Tình hình quản lý, sử dụng quỹ nhà, đất làm trụ sở làm việc của tất cả các đơn vị trong hệ thống BHXH Việt Nam đến hết hết năm 2005.
- Các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về tiêu chuẩn, định mức sử trụ sở làm việc(Quyết định 147/1999/QĐ-TTg ngày 5/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ). Cần chú ý đến các quy định mới về tiêu chuẩn định mức, quy định tỷ lệ giữa diện tích sử dụng và tổng diện tích sàn; diện tích sử dụng của bộ phận làm việc(1), bộ phận công cộng kỹ thuật(2), bộ phận phụ trợ, phục vụ (3).
- Các đặc điểm hoạt động riêng của ngành BHXH, của các cơ quan BHXH tại những khu vực, vùng miền có những yếu tố đặc thù riêng biệt.
+ Mục tiêu và phương hướng của quy hoạch:
- Đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng trụ sở làm việc của hệ thống BHXH Việt Nam để từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật; đáp ứng điều kiện làm việc, phục vụ cho chiến lược phát triển ngành BHXH đến năm 2020 và sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Đến năm 2010 có 100% trụ sở làm việc của BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 95% trụ sở BHXH các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đảm bảo nhu cầu về quy mô, diện tích và điều kiện làm việc theo các quy định của Nhà nước, đáp ứng các yêu cầu sử dụng.
- Thực hiện đúng chủ trương của Chính phủ trong đầu tư XDCB, đảm bảo triệt để tiết kiệm, tận dụng tối đa năng lực hiện có tránh lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư. Tập trung đầu tư xây dựng mới các công trình trụ sở khi thực sự cơ sở vật chất hiện có không đủ điều kiện mở rộng hoặc do thay đổi địa giới hành chính và do các nguyên nhân bất khả kháng gây nên.
- Đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng gắn liền với mục tiêu hiện đại hoá cơ sở vật chất của hệ thống BHXH Việt Nam. Công tác xây dựng phải đi trước một bước và đồng bộ với chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của ngành BHXH, đáp ứng điều kiện làm việc cho cán bộ, công chức-viên chức trong ngành và phục vụ đắc lực trong công tác chuyên môn.
- Trong đầu tư xây dựng mới và cải tạo mở rộng phải đảm bảo tính đồng bộ các trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn. Triệt để sử dụng các nguyên vật liệu, trang thiết bị trong nước đã sản xuất được. Chỉ trang bị lắp đặt các trang thiết bị nhập ngoại khi trong nước không sản xuất được hoặc tính năng kỹ thuật không đáp ứng yêu cầu chuyên môn.
+ Xác định nhu cầu đầu tư, xây dựng đến năm 2010:
- Số công trình cần đầu tư xây dựng mới, tổng quy mô xây dựng, tổng mức vốn đầu tư và kế hoạch triển khai thực hiện.
- Số công trình cải tạo mở rộng và mua sắm, trang bị các thiết bị, quy mô đầu tư, tổng mức đầu tư và kế hoạch thực hiện.
- Số công trình không cần cải tạo mở rộng nhưng cần sửa chữa lớn và mua sắm trang bị bổ sung các trang thiết bị.
+ Tổ chức thực hiện :
- ưu tiên 1: Đầu tư xây dựng mới trụ sở BHXH tại các thành phố lớn, tỉnh có số thu, chi BHXH lớn và những đơn vị đến nay chưa có trụ sở như : BHXH thành phố Hồ Chí Minh, BHXH tỉnh Đồng Nai, BHXH tỉnh Hậu Giang, BHXH tỉnh Đắk Nông, BHXH tỉnh Lai Châu.
- ưu tiên 2: Đầu tư xây dựng mới trụ sở BHXH ở những nơi chưa có trụ sở do thay đổi địa giới hành chính , do thay đổi quy hoạch xây dựng hoặc do các nguyên nhân bất khả kháng khác.
- ưu tiên 3: Đầu tư cải tạo mở rộng và mua sắm trang bị các trang thiết bị cho trụ sở BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trụ sở BHXH các quận thuộc các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và thành phố Hải Phòng.
- Cải tạo mở rộng và mua sắm, trang bị các trang thiết bị cho các trụ sở còn lại chậm nhất đến năm 2010 phải hoàn thành toàn bộ.
Trong quá trình đầu tư, cải tạo mở rộng các trụ sở phải kết hợp với việc thiết kế và trang bị hệ thống tin học đảm bảo đủ điều kiện phục vụ công tác và hiện đại hoá, tin học hoá ngành BHXH theo dự án đã được Chính phủ phê duyệt.
+ Nguồn vốn đầu tư :
Xác định tổng mức vốn đầu tư ( tính theo giá của thời điểm xây dựng quy hoạch và có dự phòng cho phần trượt giá ).
Nguồn vốn đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị cho các trụ sở làm việc của BHXH Việt Nam vẫn đề nghị Chính phủ cho sử dụng từ nguồn lãi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH [ Biểu 1.1]. Phần tính toán các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cần xác định đủ các chi phí, các mức đầu tư cho từng công trình để hoàn thành việc đầu tư xây dựng, cải tạo mở rộng và mua sắm trang bị các trang thiết bị đúng như các nội dung trong quy hoạch. Theo tính toán của chúng tôi với số dư nguồn vốn đầu tư xây dựng như hiện nay đủ để BHXH Việt Nam hoàn thành quy hoạch.
- Tăng cường chất lượng các báo cáo kinh tế- kỹ thuật xây dựng công trình, chất lượng lập dự án đầu tư xây dựng trụ sở BHXH các cấp.
Các báo cáo kinh tế- kỹ thuật xây dựng công trình, dự án đầu tư xây dựng trụ sở BHXH là rất quan trọng, cho phép xác định những chỉ tiêu chủ yếu để đầu tư cho phù hợp và giúp cho việc phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng, nâng cấp đối với mỗi dự án cụ thể. Theo chúng tôi, trong hệ thống BHXH Việt Nam , các nội dung chủ yếu báo cáo kinh tế- kỹ thuật xây dựng công trình, dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc gồm:
- Sự cần thiết và mục tiêu đầu tư.
- Địa điểm xây dựng, nhu cầu sử dụng đất và các điều kiện khác.
- Mô tả sơ bộ về quy mô và diện tích xây dựng công trình, các hạng mục cần xây dựng bao gồm công trình chính, công trình phụ và các công trình khác. Trong công trình chính cần thuyết minh các diện tích làm việc, diện tích công cộng và kỹ thuật, diện tích phụ trợ và phục vụ.
- Phương án giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây dựng hạ tầng nếu có.
- Đề xuất các phương án kiến trúc: tuỳ theo quy hoạch tại địa phương và cơ cấu tổ chức của đơn vị mà đề xuất phương án thiết kế tại địa phương hay theo mẫu thiết kế điển hình (đối với trụ sở BHXH cấp quận, huyện) đã được BHXH Việt Nam phê duyệt. Đối với trụ sở BHXH cấp tỉnh phải đề xuất ít nhất 3 phương án kiến trúc để so sánh, lựa chọn.
- Phân đoạn thực hiện và tiến độ thực hiện dự án.
- Phân tích và so sánh với quy hoạch đầu tư xây dựng của ngành, chú ý đến các nội dung thay đổi so với quy hoạch ( nếu có) để bộ phận thẩm định dự án xem xét.
- Trích sao các văn bản khác có liên quan ( giới thiệu địa điểm, chứng chỉ quy hoạch-xây dựng-kiến trúc, trích lục mặt bằng vị trí khu đất).
Đối với các dự án đầu tư thuộc nhóm B, dự án đầu tư thuộc nhóm C có tổng mức đầu tư trên 3 tỷ đồng ( chủ yếu là các công trình cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) chủ đầu tư tự lập hoặc thuê đơn vị tư vấn có đủ điều kiện lập dự án đầu tư. Ngoài các nội dung chủ yếu như trên, dự án đầu tư cần làm rõ phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở như quy định tại Điều 6 và Điều 7 của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP, đó là :
Nội dung thiết kế cơ sở của dự án phải thể hiện được giải pháp thiết kế chủ yếu đảm bảo đủ điều kiện để xác định tổng mức đầu tư và triển khai các bước thiết kế tiếp theo.
Thuyết minh thiết kế cơ sở phải đầy đủ các nội dung được diễn giải:
* Thuyết minh nhiệm vụ thiết kế: giới thiệu tóm tắt mối liên hệ của công trình với quy hoạch xây dựng tại khu vực, các số liệu về điều kiện tự nhiên, tải trọng và tác động; danh mục các quy chuẩn, tiêu chuẩn được áp dụng.
* Thuyết minh công nghệ : giới thiệu tóm tắt phương án công nghệ và sơ đồ công nghệ, danh mục các thiết bị công nghệ và các thông số kỹ thuật chủ yếu liên quan đến thiết kế xây dựng và mua sắm lắp đặt tại trụ sở BHXH đó.
* Thuyết minh xây dựng: Khái quát về tổng mặt bằng xây dựng, cao độ và các toạ độ xây dựng; hệ thống hạ tầng kỹ thuật và các điểm đấu nối; diện tích sử dụng đất, diện tích cây xanh, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, cao độ san nền và các thông số cần thiết khác Tổ chức tư vấn thiết kế được chọn để lập thiết kế cơ sở phải căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế được chủ đầu tư giao để thực hiện. Nhiệm vụ thiết kế phải tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phù hợp với quy hoạch đầu tư và đáp ứng được nhu cầu trước mắt và lâu dài về diện tích sử dụng, phù hợp với cảnh quan môi trường xung quanh. Tổ chức tư vấn lập một số phương án thiết kế để chủ đầu tư lựa chọn phương án thiết kế tối ưu làm căn cứ cho việc lập thiết kế cơ sở.
Đối với những công trình cải tạo, sửa chữa, nâng cấp xây dựng mới trụ sở cơ quan có tổng mức đầu tư nhỏ hơn 3 tỷ đồng (chủ yếu là các công trình xây dựng mới trụ sở BHXH cấp huyện và cải tạo mở rộng trụ sở BHXH cấp tỉnh), chủ đầu tư lập hoặc thuê đơn vị tư vấn lập báo cáo kinh t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32824.doc