Công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh & hạ giá thành sản phẩm tại Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng

Mục lục Trang Lời nói đầu 4 Chương I- Những lý luận chung về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm 6 I- Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp 6 1. Khái niệm 6 2. Phân loại chi phí 8 2.1. Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh 8 2.2. Theo yếu tố chi phí 8 2.3. Theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm 9 2.4. Theo chức năng chi phí trong sản xuất kinh doanh 10 2.5. Theo cách thức kết chuyển chi phí 10 2.6. Theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản p

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh & hạ giá thành sản phẩm tại Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm hoàn thành 10 2.7. Một số cách thức phân loại khác 11 3. Những ngành nghề đặc trưng và đặc điểm về chi phí của chúng 12 3.1. Ngành công nghiệp 12 3.2. Ngành nông nghiệp 12 3.3. Ngành xây dựng cơ bản 12 3.4. Ngành thương mại - dịch vụ 13 4. Nội dung chi phí kinh doanh năm tài chính 13 4.1. Chi phí kinh doanh 13 4.2. Các chi phí hoạt động khác 14 4.3. Các loại thuế chủ yếu 14 II- Giá thành sản phẩm 16 1. Nội dung giá thành sản phẩm và dịch vụ 17 2. Lập kế hoạch giá thành sản phẩm - dịch vụ 17 3. Các chỉ tiêu đánh giá việc hạ giá thành sản phẩm so sánh được các nhân tố ảnh hưởng đến việc hạ giá thanh 18 3.1. Các chỉ tiêu 18 3.2. Các nhân tố tác động để giảm giá thành sản phẩm 19 III. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm. 20 IV. Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm 21 1. Sự cần thiết 21 2. ý nghĩa của việc hạ giá thành sản phẩm 22 V. Vai trò và các biện pháp của quản trị tài chính trong các hoạt động quản trị doanh nghiệp. 22 1. Vai trò của quản trị tài chính trong các hoạt động quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm 22 2. Các biện pháp tài chính để quản lý chi phí và hành chính giá thành sản phẩm 23 2.1. Lập kế hoạch chi phí 24 2.2. Kiểm tra tài chính đối với những chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm 24 V- Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 26 Chương II- Tình hình thực tế về công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm tại công ty gốm xây dựng hữu hưng 28 I- Đặc điểm chung của công ty 28 1. Quá trình hình thành và phát triển 28 2. Đặc điểm qui trình công nghệ 29 3. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý ở Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 32 3.1. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh 32 3.2. Đặc điểm tổ chức quản lý 33 4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán 34 II- Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 37 III- Tình hình quản lý chi phí và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 42 1. Đặc điểm chi phí sản xuất kinh doanh của công ty 42 1.1. Phân loại theo khoản mục chi phí 43 1.2. Phân loại theo yếu tố chi phí 45 2. Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 45 3. Phương thức quản lý giá thành sản phẩm công ty 46 IV- Tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm chủ yếu tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 49 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong giá thành đơn vị sản phẩm 59 2. Chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành sản phẩm 61 3. Chi phí sản xuất chung trong giá thành sản phẩm 63 4. Chi phí quản lý doanh nghiệp trong giá thành sản phẩm 64 5. Chi phí bán hàng trong giá thành sản phẩm 65 6. Nhận xét về tình hình quản lý chi phí và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 66 Chương III- Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 70 I- Phương hướng kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng năm 2001 và trong thời gian tới 70 II- Các biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng 72 1. Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu 72 2. Phát triển nguồn nhân lực - giảm chi phí nhân công 73 3. Kiểm soát chặt chẽ chi phí quản lý doanh nghiệp 74 4. Nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị 74 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 77 Lời nói đầu Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự khan hiếm các nguốn lực như hiện nay, việc chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm đều là nhu cầu bức thiết của bất cứ đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh nào. Các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, hộ gia đình kinh doanh, hợp tác xã, các doanh nghiệp nước ngoài hay liên doanh đều coi đó là nhiệm vụ chiến lược để tồn tại và phát triển, cho dù mục đích của mỗi loại hình doanh nghiệp có khác nhau, ngoài mục tiêu chung là lợi nhuận. Đối với doanh nghiệp nhà nước, trước đây trong thời kỳ bao cấp, hoàn toàn sản xuất theo mệnh lệnh, kế hoạch nhà nước rót xuống. Sau đại hội VI của Đảng (1986) và tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới trong các đại hội VII và VIII, doanh nghiệp nhà nước ngày càng được tụ chủ hơn. Do đó, với các doanh nghiệp này, việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm không ngoài mục đích tăng lợi nhuận (với doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh), mang lại sản phẩm rẻ, có chất lượng tốt cho mọi người (với doanh nghiệp nhà nước công ích) và tiết kiệm chống lãng phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của quốc gia. Còn với loại hình doanh nghiệp khác, quản lý được tốt các chi phí cũng đều là tiền đề của hạ giá thành sản phẩm. Nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về giá. Doanh nghiệp nào có mức giá hợp lý sẽ bán được nhiều hơn và từ đó thu hồi vốn nhanh và tăng lợi nhuận. Mặt khác, nó giúp doanh nghiệp kiểm soát được các nguồn lực của mình để sử dụng có hiệu quả. Như vậy có thể nói, với các đơn vị doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn phải nghĩ đến mặt phương trình kinh tế căn bản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng không dễ giải. Đó là: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí. Để tăng lợi nhuận thì hoặc tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc mức tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi phí vẫn được coi là linh hồn, nhân tố chất lượng của phương trình này Nhận thức được điều đó, sau một thời gian thực tập tốt tại công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng (Đại Mỗ - Từ Liêm - Hà Nội), tôi đã quyết định trọn đề tài: "Một số biện pháp để quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng:" làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp. Bài khoá luận gồm có ba chương: Chương I: Những lý luận chung về chi phí sản xuất kinh doanh và gía thành sản phẩm. Chương II: Tình hình thực tế về công tác kế quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm tại công ty - Gốm xây dựng Hữu Hưng-. Chương III: Những giải pháp cơ bản để quản lý chi phí và hạ giá thành sản phậm tại công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng. Bài khoá luận được hoàn thành bằng nhiều nỗ lực nghiên cứu tìm tòi học hỏi của bản thân, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Bùi Tiến Hanh và sự tạo điều kiện giúp đỡ tận tâm của các cô chú, các chị cán bộ công nhân viên công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng, góp phần quan trọng cho sự thành công của bài khoá luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ đó. Do trình độ còn hạn chế nên bài khoá luận này không tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất mong được thầy cô giáo và các bạn bè, các độc giả quan tâm góp ý kiến. Chương I NHững lý luận chung về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. I. Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. 1.Khái niệm. Các Mác và Ănghen đã có một phát minh vĩ đại: Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất vật chất là quy trình tác động lẫn nhau giữa con người và tự nhiên, trong đó con người biến đổi vật thể tự nhiên và làm cho chúng thích ứng với nhu cầu của mình Phân công lao động ngày càng phát triển đến độ một bộ phận nào đó tách ra chuyên sản xuất những của cải vật chất. Cái mà bắt đầu được gọi chung là đơn vị sản xuất và nay được gọi là những doanh nghiệp. Sản xuất ra đời khi con người biết sử dụng các công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động theo mục đích của mình. Thời đại ngày nay đã khác rất nhiều và như thế Doanh nghiệp cũng đã phát triển rất nhiều. ở Việt Nam, trong thời kỳ bao cấp, các Doanh nghiệp Nhà nước được coi là con đẻ của nhà nước, được bao cấp toàn bộ từ khâu đầu vào (Vốn, nguyên vật liệu, nhân lực...) đến khi sản xuất sản phẩm thì nhà nước cũng bao nốt khâu phân phối sản phẩm. Như vậy, Doanh nghiệp lúc này mới chỉ là nhà máy, xí nghiệp, phân xưởng sản xuất. Sản xuất cự kỳ trì trệ và lãng phí. Thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (Đại hội VI,VII,VIII) tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ cùng với sự "bung ra" của các thành phần kinh tế khác. Như thế Nhà nước ta đã coi các doanh nghiệp nhà nước như các thực thể độc lập tự hạch toán, tự quản lý trong khuôn khổi pháp luật cho phép. Một Doanh nghiệp ngày nay phải tính đến những vấn đề gì? Đó là kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch nhân sự, kế hoạch Maketing, là 4 kế hoạch cơ bản xuất phát từ các khâu cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. Lao động Nguyên vật liệu Vốn Sản xuất Tiêu thụ Sản phẩm Thị trường Các khâu cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh gồm: chuẩn bị các yếu tố đầu vào, tiến hành sản xuất ra sản phẩm và cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Trong mỗi khâu lại phát sinh ra những chi phí. Khâu sản xuất thì có chi phí sản xuất, chi phí bán hàng này sinh trong quá trình lưu thông hàng hoá, những chi phí quản lý doanh nghiệp nhằm duy trì bộ máy quản lý doanh nghiệp cũng như trong các hoạt động chung của toàn doanh nghiệp. Đó là một trong những cách tiếp cận và phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. Còn có nhiều cách khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc tính, ngành nghề kinh doanh, ý đồ của chủ doanh ngiệp và trình độ quản lý... Xét cho cùng nền sản xuất của bất kỳ một phương thứcnào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tó cơ bản, đó là quá trình kết hợp của 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. để sản xuất ra hàng hoá, người ta phải bỏ ra các chi phí về thù lao lao động, về mua sắm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Cho nên sự hình thành các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan. Vậy, chi phí sản xuất kinh doanh là gì? đó là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Tuy nhiên không phải khoản chi nào cũng được coi là chi phí. Chỉ những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ mới là chi phí. Nó khác chi tiêu ở chỗ chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bao gồm: Chi tiêu cho quá trình cung cấp, chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh và cho quá trình tiêu thụ. Có những khoản chi tiêu cho kỳ này nhưng không được tính vào chi phí của kỳ này ( Khoản tạm ứng...), có những chi phí đã phát sinh trong kỳ nhưng thực tế chưa chi tiêu( Chi phí trích trước). Do đó, thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn - dịch chuyển giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá( Sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Hiểu được bản chất của chi phí chính là cơ sở để phân loại nó. 2 - Phân loại chi phí: Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh là việc sắp xếp chi phí vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Các tiêu thức khác nhau cho phép những cách tiếp cận khác nhau về chi phí. Mỗi cách có những tác dụng cho quản lý, hạch toan, kiểm soát chi phí lập kế hoạch và tính giá thành... 2.1 - Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh: Chi phí được chia thành: - Chi phí sản xuất kinh doanh gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ, quản lý hành chính, quan trị kinh doanh ... - Chi phí hoạt động tài chính gồm những chi phí liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính. Chi phí bất thường gồm những chi phí phát sinh ngoài dự kiến có thể do khách quan hoặc chủ quan. Cách phân loại này rất hữu ích đối với các doanh nghiệp có nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Nó giúp doanh nghiệp hiểu được thế mạnh trong từng lĩnh vực để có thể tìm ra phương hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả. 2.2 - Theo yếu tố chi phí: - Chi phí nguyên vật liệu gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế và công cụ dụng cụ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (Trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi) - Chi phí nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ ( Trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương phải trả cho nhân công. - Chi phí về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương và phụ cấp lương phải trả cho nhân công. - Chi phí khấu hao tài sản cố định ở các bộ phận tính cho từng thời kỳ. - Chi phí dịch vụ mua ngoài ( Tiền điện, điện thoại, Fax...) gồm toàn bộ chi phí mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. Chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ ( Trợ cấp thôi việc, các khoản dự phòng...). Cách phân loại này thường được sử dụng trong các doanh nghiệp khác nhau bởi nó giúp xác định giá thành sản phẩm một cách cụ thể , chính xác kể cả khi doanh nghiệp có nhiều mặt hàng khác nhau với cả những đặc trưng, thành phần chi phí khác nhau. Nó là cơ sở tốt nhất để lập kế hoạch quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm. 2.3 - Theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm: Căn cứ vào ý nghĩa của trong giá thành sản phẩm và thuận tiện cho việc tính giá thành công xưởng, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Cách phân loại này cho thấy rõ mức tiêu hao các chi phí trực tiếp để tạo nên sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định được rõ ràng, tách biệt, cụ thể cho từng sản phẩm. Loại này gồm có nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ. Nguyên vật liệu phụ gián tiếp có tham gia cấu thành thực thể sản phẩm nhưng có giá trị nhỏ và không xác định cụ thể, rõ ràng cho từng sản phẩm được hoặc loại nguyên vật liệu dùng kết hợp với nguyên vật liệu chính để làm cho sản phẩm đẹp hơn, tốt hơn (bao gói, đóng hộp...). - Chi phí nhân công trực tiếp là chi phí tiền lương, phụ cấp, lương và các khoản trích theo lương cho các quỹ BHXH,BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh. Ngoài ra, trong cơ cấu chi phí nhân công còn có các khoản mục như chi phí thời gian ngừng sản xuất, chi phí phụ trội, chi phí phúc lợi lao động... - Chi phí sản xuất chung là chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp). Khi tính giá thành toàn bộ, người ta còn tính các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. 2.4. Theo chức năng chi phí trong sản xuất kinh doanh. - Chi phí sản xuất gồm những chi phí phát sinh liện quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. - Chi phí tiêu thụ sản phẩm gồm chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ.... - Chi phí thực hiện chứnc năng quản lý: chi phí quản lý kinh doanh, hành chính, chi phí cho hoạt động doanh nghiệp. Phân chia theo tiêu thức này giúp cho doanh nghiệp trong việc lập báo cáo kết quả kinh doanh. Mặt khác, nó cho phép chủ doanh nghiệp nắm được cơ cấu chi phí sản xuất trong tổng chi phí, xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, trị giá hàng tồn kho, làm căn cứ để kiểm soát, quản lý chi phí. 2.5. Theo cách thức kết chuyển chi phí. Theo đó ta biết được giá trị sản phẩm hàng hoá sản xuất ra trong kì cũng như các chi phí khác phát sinh phục vụ cho quá trình sản xuất đó. - Chi phí sản xuất gồm các chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc mua vào để bán lại. Chi phí này chỉ được thu hồi khi sản phẩm được tiêu thụ. - Chi phí thời kỳ gồm những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán. Nó không phải là những chi phí tạo thành thực thể sản phẩm hay nằm trong yếu tố cấu thành giá vốn của hàng hoá mua vào mà biệt lập với chúng ( chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp). 2.6. Theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành. Cách phân loại này nhằm tạo thuận lợi cho việc lập kế hoạch và điều tra chi phí, làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh. Những thông tin về chi phí dạng này thường mang tính chất nội bộ nhiều hơn. Do đó nó phục vụ chủ yếu cho việc ra quyết định quản trị được kế toán quản trị rất quan tâm. - Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ so với công việc hoàn thành. Nếu tính trên một đơn vị sản phẩm lại có tính cố định. Nghĩa là khi khối lượng sản phẩm hoàn thành tăng lên bao nhiêu cũng không làm thay đổi số lượng chi phí trong một đơn vị sản phẩm đó: chi phí nhân công trực tiếp, nhiên vật liệu trực tiếp... - Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành nhưng nếu tính cho 1 đơn vị sản phẩm thì biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi chẳng hạn chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí quảng cáo ... 2.7. Một số cách phân loại khác: - Theo quan hệ với quá trình sản xuất: Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất và có thế chuyển trực tiếp cho sản phẩm hay đối tượng chịu chi phí. Chi phí gián tiếp là những chi phí chung cần phải phân bổ. - Theo khả năng kiểm soát: Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. - Chi phí chênh lệch là chi phí có được do đem so sánh các phương án kinh doanh, trong trường hợp ở phương án này nhưng chỉ có một phần hay không có ở phương án khác. - Chi phí cơ hội là khoản lợi nhuận tiềm tàng bị mất đi khi chọn một phương án kinh doanh này để thay thế một phương án kinh doanh khác. - Ngoài ra, trong quản trị hoạt động doanh nghiệp, người ta còn phân ra các chi phí thích đáng và không thích đáng, chi phí chìm... Sản xuất vô cùng đa dạng với nhiều ngành nghề, dịch vụ khác nhau. Mỗi loại gắn liền với nhứng đặc thù về chi phí riêng. Việc phân loại một cách phù hợp những chi phí trong từng doanh nghiệp là rất hữu ích trong quản trị tài chính. Nó giúp nhà quản trị có cái nhìn từ nhiều chiều về thực trạng, nắm được kết cấu chi phí, gía thành của sản phẩm, đó chính là thông tin quan trọng nhất, căn bản nhất để xây dựng và thực hiện hạ giá thành. Qua đó doanh nghiệp cũng quản lý chặt chẽ và dễ dàng hơn các chi phí, chống lãng phí vô ích. Các cách phân loại trên cho ta nhìn một cách tổng quát về chi phí các hình thái thể hiện của nó. Trên phương diện ngành nghề sản xuất kinh doanh, chi phí cũng có những đặc tính phân biệt riêng. 3 - Những ngành nghề đặc trưng và đặc điểm về chi phí của chúng. 3.1 - Ngành công nghiệp: Đặc điểm chung là chu kỳ sản xuất tương đối ngắn, ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và khí hậu mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý và sự cố gắng của bản thân doanh nghiệp. Thời gian làm việc là thời gian sản xuất. Sử dụng nhiều máy móc hiện đại, tự động hoá với năng xuất lao động cao. Sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đạI, sản phẩm qua nhiều công đoạn. Cơ cấu chi phí ổn định trong đó chi phí cho khấu hao máy móc thiết bị và chi phí quản lý khá cao. Do đó, viếc tăng năng suất lao động để giảm chi phí đơn vị là rất cần thiết. Nhưng việc hoàn thiện kỹ thuật và nâng cao năng xuất lao động để làm giảm một cách có hệ thống tỷ lệ chi phí tiền lương, vật liệu và chi phí khác chỉ có thể thực hiện dần dần. 3.2 - Ngành nông nghiệp gồm trồng trọt và chăn nuôi, chế biến. Mặc dù đã áp dụng nhiều thành tựu khoa học nhưng nó vẫn chịu chi phối mạnh của điều kiện tự nhiên và khí hậu. Chu kỳ sản xuất dài, thời gian làm việc chiếm tỷ lệ nhỏ trong chu kỳ sản xuất. Sản xuất và sản phẩm mang tính thời vụ. Sự khác biệt về năm sản xuất và năm công lịch gây khó khăn cho quyết toán chi phí sản xuất, chi phí dở dang. Doanh nghiệp ít có khả năng lựa trọn thay đổi sản phẩm nên chi phí của cùng một sản phẩm ở những khu vực khác nhau có chênh lệch khá lớn. Hơn nữa các doanh nghiệp này hầu hết phải kinh doanh nghệ phụ để tận dụng thời gian nhàn rỗi. Do đó, kết cấu chi phí khá phức tạp. 3.3 - Ngành xây dựng cơ bản: Doanh nghiệp ngành này về nội dung tổ chức tài chính và nội dung chi phí sản xuất gần giống doanh nghiệp công nghiệp. Chu kỳ sản xuất dài, thành phần và kết cấu chi phí sản xuất không những phụ thuộc và từng loại công trình còn phụ thuộc vào từng giai đoạn công trình. Phần lớn chi phí của doanh nghiệp xây dựng cơ bản đều nằm ở công trình chưa hoàn thành. Nên phải tập trung vốn, kỹ thuật, rút ngắn thời gian thi công, tăng số công trình hoàn thành. Ngoài ra, do đặc tính cố định của các công trình thi công, dễ ảnh hưởng đến bởi thời tiết đến tiến độ thi công phải chuyển đến chân công trình nên phát sinh các chi phí điều động thiết bị, công nhân, lán trại, chạy thử máy, thuê máy... 3.4 - Ngành thương mại - dịch vụ: Chi phí kinh doanh phát sinh đa dạng và phức tạp . Chi phí gồm toàn bộ các chi phí trực tiếp, gián tiếp liên quan đến hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ và những khoản chi thể hiện nghĩa vụ với nhà nước (thuế gián thu phải nộp, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp...). Chỉ những chi phí bỏ ra liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ nhằm tạo ra thu nhập trong kỳ mới thuộc chi phí kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Trị giá mua vào của hàng hoá tiêu thụ, chi phí lưu thông hàng hoá, các khoản phát sinh liên quan đến đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp ( Liên doanh đầu tư chứng khóan). Như vậy, mỗi doanh nghiệp thuộc ngành nghề khác nhau thì có những dặc trưng riêng có về chi phí, kết cấu chi phí, kể cả những doanh nghiệp cùng ngành nghề cũng khác nhau do những đặc thù riêng. Nhưng nhìn chung, chi phí của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có nội dung cơ bản sau mà quản trị tài chính cần quan tâm. 4 - Nội dung chi phí kinh doanh năm tài chính. 4.1 - Chi phí kinh doanh: - Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Gồm giá trị toàn bộ nguyên vật liệu sử dụng vào hoạt động kinh doanh. - Chi phí nhiên liệu động lực. - Chi phí tiền lương và phụ cấp lương - Các khoản trích nộp theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ. - Khấu hao tài sản cố định với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp theo quy định. - Chi phí dịch vụ mua ngoài là các chi phí trả cho các tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp: Tiền điện, nước, Fax, điện thoại, tư vấn, kiểm toán, bảo hiểm tài sản.... - Các khoản dự phòng:giảm giá hàng tồn kho, phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán. - Các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định. 4.2 - Các chi phí hoạt động khác: Chi phí kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài sản, liên doanh liên kết, các chi phí bất thường phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh... 4.3 - Các loại thuế chủ yếu: Thuế là khoản phải nộp bắt buộc thể hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách nhà nước được quy định trong pháp luật Việt Nam. Với doanh nghiệp, thuế là khoản chi phí. Khi bước vào kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán cả mức thuế, loại hình thuế phải chịu. Thường là các loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước. a) Thuế giá trị gia tăng (VAT) là thuế được tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh từ khâu sản xuất, lưu thông và tiêu dùng . VAT áp dụng cho các đối tượng phải nộp thuế là tất cả các tổ chức, cơ sở kinh doanh có sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và nhập khẩu hàng hóa chịu thuế. Đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ dùng trong sản xuất, kinh và tiêu dùng ở Việt Nam, các cơ sở kinh doanh vàng, bạc đá quý. Đối tượng không chịu thuế là hàng hoá, dịch vụ không có giá trị gia tăng thêm giá trị trong sản xuất hay lưu thông hoặc nếu tăng nhưng đã thuộc hiện chịu thuế khác hay do ưu đãi của nhà nước. Thuế suất VAT Giá tính thuế Thuế giá trị gia tăng = x - = VAT hành hoá dịch vụ đầu vào. VAT hàng hoá dịch vụ đầu ra VAT phải nộp -Tính VAT theo phương pháp khấu trừ: - Tính VAT theo phương pháp trực tiếp: x Thuế suất thuế GTGT = Số thuế phải nộp Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ Tính VAT theo phương pháp trực tiếp áp dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài kinh doanh không theo luật đầu tư nước ngoài, chưa có đủ điều kiện kế toán, hoá đơn chứng từ để có thể tính theo phương pháp khấu trừ. b) Thuế thu nhập doanh nghiệp ( Thuế lợi tức) là thuế thu trên lợi nhuận kinh doanh, thuế suất được quy định theo thuế suất tỷ lệ cố định căn cứ vào ngành nghề kinh doanh. x = Mức thuế nộp trong kỳ Lợi tức chịu thuế Thuế xuất thuế lợi tức Lợi tức chịu thuế + Chi phí hoạt động kinh doanh - = Lợi tức phụ Doanh thu chịu thuế c) Thuế tiêu thụ đặc biệt có bản chất giống thuế doanh thu, ngoài ra, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ thu trên những mặt hàng có tích luỹ lớn và xét thất cần phải hanh chế kinh doanh hoặc nhập khẩu: Rượu, thuốc lá... Chỉ thu một lần ở khâu sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu. Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá thành trong đó chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sau được khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu trước tương ứng... d) Tiền thu về sử dụng vốn ngân sách: Thu về sử dung vốn đối với các doanh nghiệp là khoản thu tính trên vốn, bao gồm vốn cố định, vốn lưu động do ngân sách cấp hoặc vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nào không có vốn cấp từ ngân sách nhà nước thì không phải nộp khoản thu trên vốn. cách tính như sau: Tổng số tiền thu về sử dụng vốn = Tổng số vốn phải tính thu sử dụng vốn trong kỳ x Tỷ lệ thu Tổng số vốn phải tính thu sử dụng vốn trong kỳ = Số vốn phải tính tiền thu sử dụng vốn đầu kỳ + Số vốn tăng trong kỳ - Số vốn giảm trong kỳ Như vậy, khi nghiên cứu về chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, ta cần tiến hành phân loại chi phí của nó, cũng như phải căn cứ và đặc trưng ngành nghề đó nắm được nội dung chi phí kinh doanh. Ngoài ra, ta cũng cần phải xem xét kết cấu chi phí sản xuất để xác định tỷ trọng và su hướng thay đổi trong mỗi loại chi phí sản xuất, đồng thời kiểm tra giá thành sản phẩm và xác định nhiệm vụ cụ thể cho việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. II - Giá thành sản phẩm. Để có thể cạnh tranh về giá, nghĩa là đưa ra thị trường một loại sản phẩm có giá bán rẻ hơn sản phẩm cùng loại thì doanh nghiệp phải đảm bảo rằng sản phẩm của mình có giá thành thấp hơn. Nói cách khác là đưa ra sản phẩm có tổng chi phí trên một đơn vị sản xuất thấp hơn. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Nó biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từ đặc tính đó, có thể phân biệt giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ. Giá thành sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành toàn bộ gồm giá thành sản xuất và các khoản chi phí cho việc bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Dưới góc độ quản lý, chỉ tiêu giá thành giữ vai trò quan trọng. Trước hết, giá thành là thước đo mức hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh. Thứ hai, giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật thông qua việc lập, thực hiện và kiểm tra đánh giá kế hoạch giá thành. Ngoài ra, giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm. Bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào những sản phẩm công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành. Điều đó tạo nên tính hai mặt của giá thành là chi phí đã bỏ ra và lượng giá trị thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm hoàn thành. Do đó giá thành sản phẩm có hai chức năng là chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được tiêu thụ phải đem lại lượng giá trị để bù đắp những chi phí đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ chúng. Mặt khác phải có một lượng giá trị thặng dư ( lợi nhuận) sinh ra để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất. Nếu sản phẩm hàng hoá nào mà không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp đứng trước sự lựa chọn hoặc loại bỏ mặt hàng đó hoặc nâng cao trình độ quản lý chi phí, tiết kiệm và hạ giá thành sản phẩm. Trên thực tế, không dễ gì tìm được một sản phẩm có thể thay thế cho sản phẩm con đẻ của mình nên các doanh nghiệp đều chọn giải pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ. 1 - Nội dung giá thành sản phẩm và dịch vụ: - Giá thành sản xuất gồm: + Chi phí vật tư trực tiếp: Nguyên liệu, nhiên liệu sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Người ta tính trực tiếp từng chi phí này vào giá thành sản phẩm. Trong trường hợp sản phẩm hỏng không sửa chữa được thì tuỳ vào quyết định của nhà quản trị xem có đưa lượng chi phí vật liệu đã hao phí cho những sản phẩm đó vào giá thành hay không. + Chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí lương, tiền công, các khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ ( BHXH, BHYT, KPCĐ). Cũng giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trự tiếp được tính trực tiếp cho từng đơn vị sản phảm. + Chi phí sản xuất chung: là chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm, hàng hóa dịch vụ: Khấu hao phân xưởng, nhân viên quản lý, vật liệu công cụ nhỏ... Để xác định được lượng chi phí tiêu hao cho từng đơn vị sản phẩm người ta phảI tiến hành phân bổ theo các tiêu thức riêng: giờ công lao động của công nhân trực tiếp sản xuất, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, số giờ chạy máy.. - Giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ: + Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ: + Chi phí bán hàng: Toàn bộ chi phí liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ gồm cả chi phí bảo hành sản phẩm. + Chi phí quản lý doanh nghiệp: Chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2 - Lập kế hoạch gía thành sản phẩm - dịch vụ Là việc tính toán, ước đoán trước giá thành sản phẩm - dịch vụ căn cứ vào định mức kỹ thuật, mức giá thành thực tế kỳ trước và chiến lược của công ty. Việc lập kế hoạch giá thành là rất quan trọng. Nó buộc các d._.oanh nghiệp phải quan tâm, phân tích, quản lý chặt chẽ các yếu tố chi phí, cơ cấu chi phí. Mặt khác trong kế hoạch giá thành, doanh nghiệp cũng phải tính đến các tình huống các khả năng có thể xảy ra và phương thức xử lý khiến cho nhà quản lý chủ động trong việc kiểm soát chi phí và giá thành. Nhiệm vụ của xác định kế hoạch giá thành là phát hiện khai thác mọi khả năng tiêm tàng để giảm bớt chi phí sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, trước hết phải xác định giá thành đơn vị sản phẩm với khoản mục trực tiếp ( Nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp), ta tính được bằng cách lấy định mức tiêu hao cho đơn vị sản phẩm nhân với giá kế hoạch. Với khoản mục gián tiếp ( chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp), phải lập dự toán chung và lựa chọn tiêu thức phù hợp để phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm ( Theo tiền lương chính, giờ công lao động...) 3 - Các chỉ tiêu đánh giá việc hạ giá thành sản phẩm so sánh được các nhân tố ảnh hưởng đến việc hạ giá thành 3.1 - Các chỉ tiêu: Sản phẩm có thể so sánh được là những sản phẩm mà doanh nghiệp đã tiến hành sản xuất ở các kỳ trước, đã có tài liệu hạch toán giá thành. Doanh nghiệp thường lập kế hoạch hạ thấp giá thành nhằm xác định mục tiêu phấn đấu, đông thời, xác định rõ quy mô chi phí tiết kiệm để tăng lợi nhuận. - Mức hạ giá thành phản ánh quy mô chi phí tiết kiệm: ( Mz) Trong đó: Mz: Mức hạ giá thành sản phẩm hàng hoá so sánh được Zio: Giá thành đơn vị sản phẩm kỳ gốc Zi1: Giá thành đơn vị sản phẩm kỳ kế hoạch n: Số loại sản phẩm so sánh được i: Loại sản phẩm so sánh thứ i Si1: Số lượng sản phẩm kỳ kế hoạch. Tỷ lệ hạ giá thành phản ánh tốc độ hạ gía thành (Tz) Việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu trên để xem xét doanh nghiệp có hoàn thành kế hoạch đặt ra hay không? Hay hoàn thành ở mức nào? Từ đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ và tỷ lệ hạ giá thành để tìm ra lý do nào làm giảm giá thành. Do trình độ quản lý được nâng cao hay do nguyên nhân khách quan, hay chỉ là do có thay đổi về kết cấu sản lượng sản phẩm tiêu thụ. Khi nắm được các nhân tố đó, ta sẽ có biện pháp hữu hiệu để khắc phục. 3.2 - Các nhân tố tác động để giảm giá thành sản phẩm. - Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ được áp dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất. Nó giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm hao tốn nguyên vật liệu, giảm chi phí nhân công...góp phần mạnh mẽ vào giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. - Tổ chức lao động và sử dụng con người đặc biệt quan trọng trong các doanh nghiệp dệt may, chế biến nông sản... Việc tổ chức, bố chí lao động hợp lý tránh hiện tượng dư thừa biên chế, lao động không cần thiết, lãng phí giờ máy, tận dụng được hết tính năng kỹ thuật, công xuất máy móc thiết bị. Kể cả với các doanh nghiệp sử dụng lao động nhiều hay ít thì việc tổ chức lao động và sử dụng con người tốt sẽ mang lại lợi ích ổn định. Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính: Trình độ tổ chức quản lý cao giúp doanh nghiệp xác định mức sản xuất tối ưu và phương pháp sản xuất tối ưu. Đồng thời, nó giảm sự lãng phí nguyên liệu, giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng. Vai trò quản trị tài chính trong quản lý và phát triển vốn đáp ứng nhu cầu vật tư kịp thời sẽ tránh những tổn thất do ngừng sản xuất... Quản trị tài chính với việc huy động sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp một cách có hiệu quả, tiết kiệm tận dụng tối đa các nguồn vốn chính là cơ sở quan trọng để kiểm soát được chi phí và hạ giá thành sản phẩm. III - Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có các thông tin, số liệu về chi phí mới có cơ sở để tính toán giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là căn cứ đánh giá hiệu quả thực tế của những chi phí đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mối quan hệ đó có thể được xác định như sau: Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm == Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ + + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ +- Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm gốc == Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm gốc quy đổi Như đã nói, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định. Còn giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Trong quá trình sản xuất tính cho một thời kì nhất định, doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, nếu đến hết kì kế toán vẫn còn một số sản phẩm chưa hoàn thành, còn nằm trên dây chuyền sản xuất hay nằm tại kho dưới dạng bán thành phẩm. Trong trường hợp doanh nghiệp không bán ngay các bán thành phẩm thì rõ ràng còn tồn tại một lương giá trị nằm trong bán thành phẩm đó được gọi là gía trị sản phẩm dở dang cuối kì. Giá trị này được thực hiện nốt vào kì sau và ở kì mới này gọi là giá trị sản phẩm dở dang đầu kì. Như vậy trong một kì có các chi phí dở dang từ kì trước chuyển sang và các chi phí phát sinh thêm. Rõ ràng, chí phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và các khoản thuế phải nộp bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Còn giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Điểm khác biệt giữa chi phí và giá thành là ở chỗ: Chi phí sản xuất được xác định cho một thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm được tính cho một khối lượng sản phẩm hoàn thành. Chi phí sản xuất trong kỳ gồm cả giá trị sản phẩm hoàn thành và giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Còn gía thành sản phẩm không liên quan đến chí phí sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng nó liên quan đến chi phí dở dang cuối kỳ trước chuyển sang. Xác định chi phí sản xuất kinh doanh là căn cứ để tính giá thành của sản phẩm. Việc tích kiệm chi phí mới có thể giảm được giá thành sản phẩm. Ngược lại, giá thành sản phẩm phản ánh kết quả thu được từ các chi phí đã bỏ ra để sản xuất kinh doanh. IV - Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm: 1 - Sự cần thiết: Mối quan hệ mật thiết giữa chi phí và giá thành như trên đã phân tích cho thấy nhà quản trị không thể tách rời chúng trong quản lý. Quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, quản lý chi phí có tác động quyết định tới giảm chi phí. Trong xu thế cạnh tranh gay gắt hiện nay, cùng một sản phẩm có nhiều hãng cùng sản xuất và cạnh tranh với nhau. Những cách cạnh tranh nhau cũng rất phong phú, không chỉ cạnh tranh về giá, về uy tín, biểu tượng, cạnh trnah về địa thế, về các dịch vụ sau bán hàng kèm theo... Tuy nhiên, cơ sở để giúp cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh đó là đưa ra sản phẩm có giá thành thấp hơn đôí thủ cạnh tranh, chất lương sản phẩm tốt hơn. Nếu có thể giữ được mức giá bán hiện hành trên thị trường thì công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Nếu không công ty có thể giảm bớt giá bán thấp hơn các đối thủ cạnh tranh để hấp dẫn người mua. Trong trường hợp thị trường có biến động, công ty cũng có thể chủ động điều chỉnh mức giá bán thích hợp mà vẫn có lãi. Do đó, việc quản lý chặt chẽ chi phí và giá thành sản phẩm sẽ luôn giúp công ty hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Mặt khác, quản lý tốt chi phí và hạ gái thành sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho công ty mở rộng sản xuất. Cùng một lượng vốn đầu tư bỏ ra, công ty thu được nhiều kêt quả hơn thông qua việc tăng quy mô sản xuất kinh doanh và như thế lại làm giá thành sản phẩm giảm xuống. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm không chỉ nhằm các mục đích trên, mà còn nhằm tiết kiệm các nguồn lực quố gia, gìn giữ, bảo quản và phát triển nguồn vốn nhà nước giao. Có thể kết luận rằng, việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm là rất cần thiết đối với mọi doanh nghiệp hiện nay. Trên thực tế, kế hoạch quản lý chi phí và giá thành được coi là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch sản xuất kinh doanh nên được các doanh nghiệp luôn quan tâm chú trọng. 2- ý nghĩa của việc hạ giá thành sản phẩm: - Hạ giá thành sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. - Hạ giá thành sản phẩm là yếu tố quan trọng, trực tiếp làm tăng lợi nhuận. Như đã nói ở trên, rõ ràng, ngay cả khi giá bán không thay đổi hay tăng mà giá thành sản phẩm hạ xuống thì lợi nhuận tăng lên gấp bội. - Hạ giá thành sản phẩm có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất. Do doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí nguyên, nhiên vật liệu và chi phí quản lý. Với khối lượng sản xuất như cũ, nhu cầu vốn lưu động được giảm bớt từ đó doanh nghiệp có thể thực hiện được lượng vốn lưu động để mở rộng sản xuất. V - Vai trò và các biện pháp của quản trị tài chính trong các hoạt động quản trị doanh nghiệp 1- Vai trò của quản trị tài chính trong các hoạt động quản lý chi phí và giá thành sản phẩm. Quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Huy động đảm bảo đầy đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả, giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như thế cụ thể hơn, vai trò của quản trị tài chính trong quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm là không thể thiếu được . Quản trị tài chính doanh nghiệp luôn phải bám sát các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đồng thời cũng là căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất đó. Đối với kế hoạch quản lý chi phí và hạ giá thành, vai trò của nó thể hiện ở việc tổ chức huy động và tổ chức sử dụng, hạch toán các nguồn vốn sao cho hiệu quả nhất. Huy động vốn kịp thời có thể giúp doanh nghiệp tránh được những tổn thất do thiếu vốn: thiếu nguyên vật liệu, dụng cụ công cụ sản xuất, thiếu lương trả công nhân viên chức... hoặc thừa, ứ đọng vốn: (Như tồn kho, tồn quỹ quá nhiều). khi không có phương án đầu tư vốn hợp lý. Tổ chức tốt nguồn vốn cũng tránh được các chi phí về lãi vay các khoản phải trả cho ngân sách...Mặt khác, quản trị tài chính tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn, ngăn chặn việc thất thoát lạm dụng, sử dụng sai mục đích, sai nguyên tắc hoặc tham ô hối lộ...Và với chức năng kế toán của mình bộ phận quản trị tài chính là bộ phận trực tiếp tập hợp các chi phí và tính giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ. 2 - Các biện pháp tài chính để quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Sản xuất ngày càng phát triển với sự chuyên môn hoá ngày càng cao và tinh vi, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ đặt ra cho nhà quản trị một nhiệm vụ quan trọng: Làm sao để tính toán tập hợp và phân bổ các chi phí và tính gía thành được chính xác. Nói chính xác hơn và làm sao quản lý được tốt các chi phí và giá thành sản phẩm sao cho sử dụng hiệu quả nhất nguồn lực của doanh nghiệp . Trình độ quản lý chi phí và giá thành thể hiện trình độ quản lý các nguồn lực trong doanh nghiệp và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Nếu so sánh các doanh nghiệp có những đặc thù ngành nghề, cơ cấu vốn, khả năng máy móc thiết bị , công nghệ giống nhau nhưng trình độ quản lý khác nhau sẽ mang lại hiệu quả rất khác biệt. Tuy nhiên bất cứ nhà quản trị nào cũng thường sử dụng các biện pháp sau đây: 2.1 - Lập kế hoạch chi phí. Lập kế hoạch chi phí là việc doanh nghiệp dùng hình thức tiền tệ tính toán trước mọi chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ kế hoạch. Để xác định số chi phí bỏ ra trong kỳ, doanh nghiệp cần lập bảng kế hoạch dự toán chi phí theo yếu tố. - Phương pháp 1: Căn cứ vào bộ phận kế hoạch hoá để lập: Tập hợp các kế hoạch của bộ phận chi phí vật tư, tiền lương khâú hao... để lập kế hoạch chi phí chung cho kỳ sản xuất. - Phương pháp 2: Căn cứ vào dự toán chi phí của các phân xưởng các đơn vị nội bộ để lập. Trước hết lập dự toán chi phí sản xuất cho các phân xưởng, bộ phận sản xuất phụ, lập dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp để làm căn cứ theo dõi, kiểm tra các chi phí của phân xưởng trong quá trình thực hiện kế hoạch. Việc này càng quan trọng với các doanh nghiệp có nhiều phân xưởng cùng với các bộ phận sản xuất phụ. Tiếp đến, dựa vào quy trình công nghệ lần lượt dự toán chi phí sản xuất cho các phân xưởng, bộ phận sản xuất chính, bao gồm dự toán tất cả các chi phí trực tiếp phát sinh trong phân xưởng, chi phí lao vụ và bán thành phẩm của các phân xưởng, bộ phận khác cung cấp, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho các phân xưởng, bộ phận này. Cuối cùng, tổng hợp dự toán chi phí toàn doanh nghiệp. - Phương pháp 3: Căn cứ vào kế hoạch giá thành tính theo khoản mục độc lập, thực chất là đưa những khoản mục quy lại thành yếu tố chi phí. Do đó, một mặt phải dựa vào các khoản mục độc lập, mặt khác phân tích những khoản mục tổng hợp như: Chi phí phân xưởng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng thành yếu tố. Ngoài việc lập bảng kế hoạch chi phí sản xuất theo yếu tố, doanh nghiệp cần phải dự tính chi phí lưu thông trong kỳ. Chi phí này có thể dự tính theo tỷ lệ phần trăm của giá thành sản xuất sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ. 2.2 - Kiểm tra tài chính đối với những chi phi sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. - Kiểm tra tài chính đối với những khoản chi phí nguyên vật liệu: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỉ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đặc biệt đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng... Nó bao gồm hai yếu tố là lượng nguyên vật liệu tiêu hao và giá nguyên vật liệu. Nhưng chi phí nàykhông chỉ phụ thuộc vào khâu sản xuất mà cả khâu thu mua, vận chuyển, bảo quản... Cho nên,cần phải kiểm tra cả khâu thu mua, vận chuyển, dự trữ. Bộ phận tài chính, kế toán cần xây dựng định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm, căn cứ vào đặc tính kỹ thuật của thiết bị, căn cứ vào định mức của ngành. Bên cạnh đó, tình hình biến động cung cầu, giá cả vật tư trên thị trường cũng phải được theo dõi thường xuyên để chớp thời cơ. Mặt khác, bộ phận kế toán, tài chính phối hợp với bộ phận khác để phân tích tình hình cung ứng vật tư cho sản xuất, tìm ra nguyên nhân gây tăng giảm chi phí vật tư cho một đơn vị sản phẩm để có biện pháp khắc phục. - Kiểm tra tài chính với chi phí tiền lương: Nhằm thúc đẩy việc hạ chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm. Mặt khác, thông qua việc kiểm tra góp phần phân phối và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp, thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Việc kiểm tra được thực hiện trong quă trình lập và thực hiện kế hoạch lao động tiền lương của doanh nghiệp thông qua định mức lao động và đơn giá tiền lương, hình thức trả lương. Tìm và phát hiện ra những bất cập trong cơ cấu chi phí tiền lương để điều chỉnh kịp thời, sao cho vừa tránh lãng phí, vừa khuyến khích người lao động sản xuất hăng say hơn, hạn chế tại nạn lao động, tăng năng suất lao động... - Kiểm tra tài chính đối với những khoản chi phí có tính chất tổng hợp như chi phí phân xưởng, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Việc phân bổ các chi phí trên dựa trên những tiêu thức nào? Có hợp lý, hợp lệ không? Và quá trình phân bổ đã đúng và đủ chưa? Kiểm tra việc thực hiện các định mức chi phí đã tốt chưa, chú trọng tới những khoản vượt hoặc thấp hơn định mức quá nhiều... V. Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Trong suốt một thời gian dài của thời kì tồn tại cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp Việt Nam đi vào thế bế tắc, sản xuất trì trệ, lãng phí. Lúc này, các doanh nghiệp đều sản xuất dựa trên những mệnh lệnh của nhà nước. Nhà nước bao cấp toàn bộ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Thị trường hoàn toàn bị đóng băng. Các vấn đề sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất bao nhiêu? cho ai? đều do Nhà nước quyết định. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, bộ mặt các doanh nghiệp có những chuyển biến tích cực. Đường lối đó được cụ thể, phát triển hơn trong các Văn kiện đạI hội Đảng cũng như chủ trương, chính sách của Nhà nước. Đó là đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước. Đường lối đó là hoàn toàn đúng đắn. Các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ Pháp luật nhà nước cho phép. Do đó, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển mạnh vượt qua khó khăn thử thách, kiểm soát và ổn định dần lạm phát và trong hơn 10 năm qua, Việt Nam đã không ngừng phát triển trên mọi phương diện của đời sống xã hội, bắt dần kịp với tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thể hội nhập tự do với kinh tế khu vực và thế giới được. Hàng hoá không cạnh tranh được với hàng ngoại ở nước ngoài và cả thị trường trong nước do giá thành cao mà chất lượng không bằng hàng ngoại của Trung Quốc, Thái lan, Hàn Quốc..( như các mặt hàng may mặc, cà phê, cao su, kể cả gạo..). Chính vì giá thành sản xuất hàng hoá trong nước đã khá cao rồi nên rất khó để giảm giá bán nhằm tăng sức canh tranh ngay trên thị trường nội địa. Trước tình hình đó, nhà nước vẫn còn phải duy trì chính sách bảo hộ hàng nội địa, tăng cường xuất nhập khẩu như chính sách thuế quan, hạn ngạch xuất nhập khẩu, ban hành danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu, dán tem hàng nhập khảu.. Đó chỉ là giải pháp tình thế để dành thời gian cho các doanh nghiệp tranh thủ đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, trình độ công nghệ, trình độ quản lý để giảm giá thành sản phẩm sẵn sàng hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải tự mình tìm các phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhất. Trước hết là quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Đó mới chính là phương hướng hữu hiệu nhất và lâu bền nhất, vững chắc nhất cho các doanh nghiệp. Chương II Tình hình thực tế về công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm tại Công ty gốm xây dựng hữu hưng II- Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng . Thành lập năm 1959 và đến năm 1998, công ty sáp nhập với phân xưởng Ngãi Cầu và Công ty Gốm xây dựng Từ Liêm, tổng mức vốn đầu tư (sau khi sáp nhập) lên tới 31 tỷ đồng và đến cuối năm 1998 lên tới 35,6 tỷ đồng. Sự sắp xếp, tổ chức lại cơ cấu bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh, sự đầu tư nâng cao công nghệ, máy móc kỹ thuật cùng với môi trường kinh doanh thuận lợi đã nhanh chóng giúp Công ty hoà nhập với thị trường và liên tục phát triển. Sản phẩm gạch ngói chất lượng cao và hợp túi tiền của các đối tượng, cùng với sự đa dạng về chủng loại, cấp độ đã chiếm được sự tín nhiệm của khách hàng. Sản phẩm Công ty đã tham gia vào các công trình xây dựng lớn ở thủ đô Hà Nội cũng như các khu vực phụ cận, đáp ứng phần lớn nhu cầu gạch ngói của cư dân trong toàn huyện Từ Liêm và các quận huyện khác. Với đặc thù của một ngành sản xuất vật liệu xây dựng (gạch ngói) là không thể vận chuyển đi quá xa mà thường đáp ứng nhu cầu tại chỗ và khu vực lân cận là chính nhưng Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể. Tổng giá trị hàng hoá thực hiện năm 2000 tăng 27,5% so với năm 1999 và năm 1999 tăng 18,3% so với năm 1998. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm năm 2000 là hơn 24 tỷ đồng tăng 25,5% so với năm 1999 và mức tăng năm 1999 so với năm trước đó là 15,5%. Tổng lợi nhuận sau thuế năm 1999 là gần 170 triệu đồng và năm 2000 lên tới 228 triệu đồng (tăng 34,1%). Bảng so sánh kết quả hoạt động kinh doanh. ĐVT: đồng Khoản mục 1999 2000 Chênh lệch 1. Tổng doanh thu 19.141.451.346 24.030.632.019 +4.889.180.673 - Quý III 3.155.380.571 4.245.874.854 +1.090.494.283 - Quỹ IV 8.096.844.839 9.474.093.468 +1.377.248.629 2. Giá vốn hàng bán 15.369.099.872 19.608.859.631 +4.239.759.759 - Quý III 2.404.315.459 3.354.577.175 +950.261.716 - Quỹ IV 6.887.644.238 7.568.778.856 +681.134.618 3. Chi phí bán hàng 1.302.457.424 1.360.126.855 +57.669.431 - Quý III 242.610.640 174.509.531 -68.101.109 - Quỹ IV 338.012.046 532.073.986 +194.061.940 4. Chi phí QLDN 2.244.383.068 2.756.440.398 +512.057.330 - Quý III 480.313.822 654.767.998 +174.454.176 - Quỹ IV 755.438.355 1.264.746.341 +509.307.986 5. Lợi tức trước thuế 225.510.982 305.205.135 +79.694.153 - Quý III 28.140.650 62.020.150 +33.879.500 - Quỹ IV 115.750.200 117.494.285 +1.744.085 6. Thuế thu nhập DN 56.377.745 76.301.284 +19.923.539 - Quý III 7.035.162 15.505.037 +8.469.875 - Quỹ IV 28.937.550 29.373.571 +436.021 7. Lợi tức sau thuế 169.133.237 228.903.851 +59.770.614 - Quý III 21.105.488 46.515.113 +25.409.625 - Quỹ IV 86.812.650 88.120.714 +1.308.064 Bảng so sánh kết quả hoạt động của công ty trong hai năm gần đây (1999 và 2000) cho thấy tình hình hoạt động có hiệu quả với tốc độ tăng trưởng cao. Doanh thu đạt được năm 2000 là 24.030.632.019 đồng tăng +25% so với năm 1999. Giá vốn hàng bán là19.608.859.631 đồng, tăng +27.6%. Bên cạnh đó, các chi phí cũng tăng lên đáng kể. Chi phí bán hàng tăng lên 1.360.126.855 đồng đạt +4.4%, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng thêm +22.8% (từ 2.244.383.068 đồng năm 1999 lên 2.756.440.398 năm 2000). Từ đó,thuế thu nhập phải nộp cũng tăng thêm +19.923.530 đồng (tăng +35%). Lợi nhuận sau thuế tăng lên đến 228.903.851 đồng (tăng +35,3%). Như vậy, các số liệu phân tích cho thấy, các chỉ tiêu kinh tế năm 2000 của công ty đều đạt mức tăng trưởng cao hơn năm trước. Một số chỉ tiêu về thu nhập tăng mạnh như doanh thu và lợi nhuấnau thuế. Đồng thời một số chỉ tiêu như giá vốn hàng bán, chi phí quản lý doanh nghiệp và thuế thu nhập tăng rất mạnh, chỉ tiêu chi phí bán hàng lại tăng rất ít (+4.4%). Nói chung khi doanh thu tăng thì các chi phí liên quan cũng thường tăng tương ứng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế này cũng không giống nhau nếu so sánh từng thời kỳ trong các năm. Chẳng hạn, so sánh quý III năm 2000 với cùng kỳ năm trước. Tất cả các chỉ tiêu đều tăng khá cao như doanh thu tăng +34,5%, gái vốn hàng bán tăng 39,5%, chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 36,3%, thuế thu nhập tăng 120% và lợi nhuận sau thuế tăng120,4%. Trong khi đó chi phí quản lý doanh nghiệp giảm tới -28%. Nhưng chi phí này nếu so sánh cùng quý IV trong hai năm lại tăng lên. Các chỉ tiêu khác như doanh thu tăng 117%, giá vốn hàng bán tăng 9,8%, chi phí bán hàng tăng 57,4%, chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 67,4%, thuế thu nhập phải nộp tăng 1,5% và lợi nhuận sau thuế tăng 1,5%. Như vậy mức tăng trưởng của kết quả kinh doanh không chỉ thể hiện trong từng năm mà còn ở ngay trong từng quý. Ngoài ra, mức tăng trưởng còn thể hiện ngay giữa các quý trong từng năm. Ví dụ như các chỉ tiêu trong quý IV đều tăng so với quý III. Ví dụ như, năm 1999, lợi tức quý VI tăng gấp 4 lần so với quý III. Đặc điểm này thể hiện tính mùa vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty. Thông thường vào quý IV, tốc độ tiêu thụ hàng hoá tăng rất mạnh do nhu cầu xây dựng của dân cư tăng lên cũng như các đơn vị xây dựng tăng cường thúc đẩy hoàn thành các công trình xây dựng dở dang. Giá cả của các loại vật liệu xây dựng có xu hướng tăng lên vào thời điểm này trong đó các sản phẩm của công ty cũng vậy. Nói tóm lại, các chỉ tiêu kinh tế đã phân tích ở trên của công ty Hữu Hưng trong hai năm qua có tăng khá mạnh (doanh thu và lợi nhuận) chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh khả quan của công ty hiện nay. Một phần nó cho thấy mức độ tăng trrưởng chung trong quy mô sản xuất kinh doanh, mặt khác nó chứng tỏ một giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của công ty. Có thể thấy rõ ràng hơn bằng các chỉ tiêu khác. Doanh lợi của năm 2000 là 0,95% cao hơn mức doanh lợi năm 11999. Tỉ trọng chi phí bán hàng năm 2000 trên doanh thu là 5,6% nhỏ hơn 6,8% năm 1999 và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng giảm từ 11,7% năm 1999 xuống 11,4% năm 2000. Như vậy có thể nói hiệu quả hoạt động của công ty đã tốt lên. Tình hình sản xuất kinh doanh phát triển có tác động lớn đến đời sống và thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Ta xét tình hình thu nhập của công nhân viên qua báo cáo quý IV năm 2000 như sau: Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So với kế hoạch (%) So với kỳ trước (%) Kỳ này Kỳ trước 1. Tổng quỹ lương 6.810.000.000 6.591.687.376 4.766.079.567 96,7 138,3 2. Tiền thưởng 3. Tổng thu nhập 6.870.000.000 6.651.687.376 4.821.832.567 96,8 137,9 4. Tiền lương BQ 816.000 778.056 632.506 95,35 123 5. Thu nhập BQ 823.000 785.138 630.800 95,39 124 Như vậy, mặc dù Công ty chưa hoàn thành kế hoạch thu nhập cho người lao động đã đề ra trong quí nhưng các chỉ tiêu đều vượt mức so với quí trước. Tổng quý lương thực tế quí 4 năm 2000 chỉ đạt 96,7% so với kế hoạch nhưng lại tăng 138,3% so với kỳ trước. Cũng như vậy, các chỉ tiêu khác như tổng thu nhập, tiền lương bình quân và thu nhập bình quân đều chưa hoàn thành kế hoạch nhưng không đáng kể nhưng đều vượt mức cao so với quí trước. Tổng thu nhập của công nhân viên chức trong công ty so với kế hoạch chỉ đạt 96,8% nhưng so với kỳ trước đã vượt 137,9%. Tiền lương bình quân một công nhân viên đạt 778.056 đồng, mức lương khá cao trong các ngành sản xuất vật liêu xây dựng, đạt 95,35% kế hoạch nhưng tăng so với năm trước 123%. Thu nhập bình quân gồm tiền lương và các khoản phụ thêm đạt 785.138 đồng/người/tháng. Đời sống của người lao động tương đối thoải mái. Người lao động cảm thấy gắn bó với công ty, hăng say làm việc. Một số chỉ tiêu tài chính đánh giá khái quát tình hình hoạt động doanh nghiệp. Chỉ tiêu Năm 2000 Đầu năm Cuối năm - Hệ số về khả năng thanh toán + Hệ số thanh toán tổng quát 1.6 1.7 + Hệ só khả năng thanh toán tạm thời 0.9 0.7 + Hệ số khả năng thanh toán nhanh 0.6 0.3 - Hệ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư + Hệ số nợ 0.6 0.5 + Tỉ suất đầu tư 0.6 0.6 + Tỉ suất tự tài trợ 0.57 0.65 - Các chỉ số về hoạt động Năm 1999 Năm 2000 + Số vòng quay hàng tồn kho (vòng) 4.5 3.9 + Số ngày một vòng quay hàng tồn kho (ngày) 80 92 + Số vòng quay các khoản phải thu (vòng) 4.5 9.2 + Kỳ thu tiền bình quân (ngày) 80 39 + Vòng quay vốn lưu động (vòng) 1.8 2.2 + Số ngày một vòng quay vốn lưu động (ngày) 200 163 + Hiệu suất sử dụng vốn cô định 0.8 1.168 + Vòng quay toàn bộ vốn (vòng) 0.56 0.7 - Các chỉ số sinh lời + Tỉ suất doanh lợi doanh thu 0.88% 0.95% + Tỉ suất doanh lợi trên tổng vốn 0.49% 0.73% Các thông tin qua các chỉ tiêu trên đây cho biết thêm rõ hơn về tình hình tài chính của công ty biểu hiên trên các báo cáo tài chính. Chỉ tiêu về khả năng thanh toán chưa được tốt và sụt giảm trong năm 2000. Khả năng thanh toán tạm thời giảm từ 0,9 xuống 0,7 và khả năng thanh toán nhanh giảm từ 0,6 xuống 0,3 nghĩa là khả năng trả nợ bằng tổng tài sản lưu động cũng như bằng các tài sản tương đương tiền bị giảm sút. Cán cân thanh toán của công ty đang cần phải được theo dõi và kiểm soát chặt chẽ hơn. Các chỉ tiêu hệ só về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư có chuyển biến tích cực. Hệ số cợ giả xuống -16%, giữ nguyên được tỉ suất đầu tư đồng thời tăng khả năng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu. Các chỉ tiêu hoạt động cũng chuyển biến tốt trong năm 2000 so với năm 1999, trừ chỉ tiêu vòng quay vốn hàng tồn kho. Năm 2000, tốc độ tiêu thụ hàng quay vòng hàng hoá có phần chậm hơn năm trước, chỉ 3,9 vòng so với 4,5 vòng của năm trước. Do đó số ngày một vòng quay hàng tòn kho lên tới 92 ngày, tăng tới 12 ngày/vòng so với năm trước. có chỉ tiêu tăng rất mạnh như số vòng quay các khoản phải thu (tăng gần gấp đôi). Hai chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời cũng biến động tích cực. Một đồng vốn bỏ ra đã mang lại nhiều lợi nhuận hơn và lượng lợi nhuậ trong doanh thu thu được cũng tăng lên. Có thể nói, tất cả các chỉ tiêu phản ánh trên đều cho ta thấy kết quả khả quan trong hoạt động snả xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của công ty. Điều đó cho thấy công ty đã sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của mình. tuy nhiên trong giai đoạn tới công ty vẫn cần phải quan tâm tới khả năng thanh toán của mình. III- Tình hình quản lý chi phí và giá thành sản phẩm tại Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng. 1. Đặc điểm chi phí sản xuất kinh doanh của Công ty. Mỗi ngành nghề, mỗi loại sản phẩm với trình độ công nghệ khác nhau mang đến cho chúng những đặc điểm riêng về chi phí sản xuất kinh doanh. Với Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng, đặc thù sản phẩm quyết định rất nhiều đến chi phí. Sản phẩm của Công ty là các loại gạch ngói xây dựng. Gạch 2 lỗ xây, gạch 4 lỗ, 6 lỗ, gạch chống nóng, gạch ốp tường, gạch lát nền… với dây chuyền công nghệ bán khép kín của Italia dã tạo nên đặc thù riêng về chi phí và giá thành sản phẩm, với đặc thù dây chuyền công nghệ như trên có thể thấy những chi phí về nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất chỉ phát sinh một lần đến khi sản xuất ra bán thành phẩm (gạch mộc). Các chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung còn tiếp tục phát sinh ở các bước tiếp theo. Do đó, Công ty đã tiến hành tập hợp các chi phí ở từng phân xưởng, bộ phận theo từng khoản mục và theo các yếu tố chi phí. Để phục vụ cho yêu cầu quản lý, Công ty tổ chức phân loại chi phí theo hai tiêu thức: khoản mục chi phí và theo yếu tố chi phí. Các phân loại theo từng tiêu thức giúp cho việc quản lý các yếu tố chi phí và để tính giá thành sản phẩm. 1.1. Phân loại theo khoản mục chi phí. - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Các sản phẩm gạch ngói hoàn toàn sản xuất từ hỗn hợp đất và than. Trong đó, đất là nguyên liệu chính và than là nhiên liệu. Đất được mua từ nhiều khu vực sao cho đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ sét và màu đất phù hợp. Than được nghiền mịn rồi trộn lẫn với đất (đã được sơ chế). Hỗn hợp đó tiếp tục được chế biến trên dây chuyền để ra gạch mộc. Các loại nguyên vật liệu này dễ bảo quản nhưng để đạt được yêu cầu kỹ thuật, chúng được bảo quản trong các nhà chứa đất và các kho than. Kể cả đến khi sản xuất ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0665.doc
Tài liệu liên quan