LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước vừa là nguồn kinh phí được nhà nước sử dụng để tài trợ cho sự tồn tại và hoạt động của hệ thống bộ máy nhà nước, vừa là công cụ để nhà nước thực hiện các dịch vụ công, chi phối, điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Trong đó, việc hoà
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện ứng hòa - Tỉnh Hà tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thiện công tác quản lý thu - chi ngân sách nhà nước luôn được đảng và nhà nước coi là một nội dung quan trọng hàng đầu.
Ngân sách huyện là một bộ phận trong hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta, ngân sách huyện là nguồn tài chính chính chủ yếu đảm bảo cho cơ quan nhà nước cấp huyện thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Trong những năm vừa qua ngân sách huyện đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc thực hiên tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước. Để có thể tiếp tục phát huy vai trò của ngân sách huyện trong tiến trình đổi mới đất nước, đòi hỏi phải hoàn thiện công tác quản lý ngân sách tại cấp huyện. Từ khi luật ngân sách nhà nước năm 2002 ra đời, việc quản lý chi ngân sách ở huyện đã có những bước tiến đáng kể tuy nhiên vẫn không khỏi còn nhiều bất cập.
Huyện Ứng hoà là một huyện thuộc tỉnh hà tây, huyện có địa bàn rộng, nguồn thu trên địa bàn lại thấp, chủ yếu là dựa vào trợ cấp của ngân sách cấp trên, trình độ của một số cán bộ kế toán cơ sở còn hạn chế. Khắc phục những khó khăn trên huyện ứng hoà đã hoàn thành tốt công tác quản lý thu – chi ngân sách trên địa bàn, góp phần đưa tình hình kinh tế xã hội của huyện phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý cũng không tránh khỏi những vướng mắc, sai phạm, đặc biệt là trong vấn đề quản lý chi ngân sách trên địa bàn huyện. Nhận thức được vấn đề trên, đồng thời qua quá trình thực tập tại phòng tài chính – kế hoạch huyện Ứng hoà, em nhận thấy cần phải tìm hiểu về quá trình quản lý chi ngân sách tại huyện Ứng hoà do đó em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Ứng hoà - tỉnh Hà tây“. Để hoàn thành bản chuyên đề này trước hết em xin chân thành cảm ơn tới các cô chú và các anh chi cán bộ công nhân viên chức trong phòng tài chính kế hoạch đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập, đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS – TS Nguyễn Thị Bất đã tận tình hướng dẫn em để hoàn thành chuyên đề này.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em bao gồm những nội dung chính sau đây:
Chương 1: lý thuyết chung về chi ngân sách nhà nước và quản lý chi ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Ứng hoà tỉnh Hà tây.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Ứng hoà tỉnh Hà tây.
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm chi ngân sách nhà nước
1.1.1.1 Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Khái niệm chi tiêu công về cả lý thuyết lẫn thực tế, có quan hệ trực tiếp và không thể tách rời các hoạt động của nhà nước nhằm hai mục đích chính: cải thiện phân phối thu nhập trong xã hội, hoặc tạo điều kiện nâng cao hiệu quản của nền kinh tế.
Xét từ góc độ nền kinh tế nói chung (quan điểm kinh tế công cộng), chi tiêu công được xem là các khoản chi phí gắn liền với việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội về hàng hoá công cộng. Như vậy nó có thể bao gồm cả chi phí cung cấp hàng hóa dịch vụ từ ngân sách nhà nước lẫn từ khu vực tư nhân theo quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, chi tiêu công là các khoản chi tiêu của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước (khu vực nhà nước) và của toàn dân khi cùng tham gia vào các hoạt động do chính phủ quản lý. Đây là một khái niệm tương đối rộng và đang dần dần được đưa ra hiện nay.
Chi tiêu công cũng có thể hiểu là giá trị của hàng hoá và dịch vụ được nhà nước và các cơ quan nhà nước mua sắm. Theo quan điểm này, chi tiêu công không bao gồm chi tiêu của các doanh nghiệp nhà nước. Chi phí mua sắm này được trang trải từ nguồn thu thuế, vay nợ trong nước, vay nợ, viện trợ nước ngoài.
Xét từ góc độ hẹp hơn của chi tiêu công là các khoản chi tiêu của chính phủ nhằm đạt nhiều mục đích khác nhau: về kinh tế, xã hội lẫn cả mục đích chính trị. Hoặc đối với các nhà quản lý ngân sách, chi tiêu công có thể được coi là các khoản chi tiêu được trang trải từ ngân sách các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Trên thực tế, việc xem xét đánh giá chi tiêu công theo khái niệm bao gồm cả chi phí của toàn dân cho hàng hoá công cộng là rất khó thực hiện, đặc biệt đối với các nền kinh tế đang phát triển. Vì vậy thông thường (và ở Việt Nam) người ta hay xem xét vấn đề chi tiêu công từ góc độ chi tiêu của chính phủ, hay nói cách khác là chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy đứng trên quan điểm của các nhà quản lý ngân sách ta có thể hiểu Chi ngân sách nhà nước (hay chi tiêu công) là những khoản chi tiêu do chính phủ hoặc các pháp nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu công ích, chẳng hạn như: bảo vệ an ninh và trật tự, cứu trợ bảo hiểm, trợ giúp kinh tế, chống thất nghiệp… hay nói cách khác: “chi của ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.”
1.1.1.2 Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
Thực chất chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của ngân sách nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng:
- Thứ nhất: chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
- Thứ hai: tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính một yêu cầu đặt ra là: khi xem xét, đánh giá về các khoản chi ngân sách nhà nước caanf sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi ở tầm vĩ mô.
- Thứ ba: xét về mặt tính chất, phần lơn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
1.1.2 Bản chất và vai trò của chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1 Bản chất chi ngân sách nhà nước
Xét về mặt bản chất, chi ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ phân phối lại các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang các sự nghiệp văn hoá - xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và bảo đảm anh ninh quốc phòng.
Chi ngân sách nhà nước có quan hệ chặt chẽ với thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi ngân sách nhà nước, ngược lại sử dụng vốn ngân sách để chi tiêu cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế lại là điều kiện để tăng nhanh thu nhập của ngân sách. Do vậy, việc sử dụng vốn, chi tiêu ngân sách một cách có hiệu quả, tiết kiệm luôn luôn được nhà nước quan tâm.
Chi ngân sách nhà nước gắn liền với việc thực hiện các chính sách kinh tế chính trị, xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ. Điều này chứng tỏ các khoản chi của ngân sách nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia.
1.1.2.2 Vai trò của chi ngân sách nhà nước
* Mục tiêu phân phối lại thu nhập:
Phân phối lại thu nhập có lẽ là một động cơ quan trọng đứng đằng sau nhiều chính sách của chính phủ. Chính phủ có thể thực hiện mục tiêu này bằng nhiều cách như đánh thuế luỹ tiến và chi trợ cấp bằng tiền cho các đối tượng là công cụ phân phối lại trực tiếp nhất mà chính phủ thường dùng. Ngoài ra, nhiều chương trình khác cũng chủ động nhằm mục tiêu phân phối lại hoặc màng hàm ý phân phối. Việc chính phủ cung cấp các dịch vụ y tê, giáo dục, nhà ở và các dịch vụ xã hội khác đều là trọng tâm của các chính sách phân phối lại.
Ngoài ra, các hoạt động điều tiết của chính phủ như bảo vệ người tiêu dùng, chống độc quyền, an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm… cũng đều mang hàm ý phân phối. Cúng như việc can thiệp của chính phủ nhằm mục tiêu phân bổ nguồn lực, các chính sách phân phối lại đều hàm chứa những chi phí nhất định về tính hiệu quả.
* Mục tiêu ổn định hoá nền kinh tế
Các chính sách chi tiêu của chính phủ có một vai trò thiết yếu đối với việc đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô như cải thiện cán cân thanh toán, nâng cao tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thong qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của Ngân sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu Ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ Nhà nước về hàng hoá tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên có cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng hoá và tiền, chính phủ có thể điều hoà cung - cầu hàng hoá, vật tư để bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lời người tiêu dùng và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp lãng phí trong chi tiêu.
1.1.3 Nội dung của chi ngân sách nhà nước
1.1.3.1 Cơ cấu chi ngân sách nhà nước
Chi về kinh tế: chi đầu tư vốn cố định và vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước; chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; chi cho quỹ bảo trợ phát triển đối với các chương trình dự án phát triển kinh tế, chi cho sự nghiệp kinh tế, chi cho dự trữ nhà nước.
Chi về văn hoá xã hội: chi ch các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học công nghệ và môi trường, các sự nghiệp khác; chi cho các chương trình quốc gia; chi hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội; tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp.
Chi cho bộ máy nhà nước: chi cho hoạt động của quốc hội, chính phủ, các bộ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính các cấp, toà án và viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Chi cho quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Chi trả nợ nước ngoài.
Chi viện trợ nước ngoài.
Chi bổ xung quỹ dự trữ tài chính.
Chi khác.
1.1.3.2 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích đánh giá và quản lý ngân sách trong từng thời kỳ người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta trước đây, nội dung các khoản chi ngân sách nhà nước được phân loại dựa trên các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Đây là cách phân loại chủ yếu thời kỳ này. Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi tiêu ngân sách nhà nước bao gồm:
Chi kiến thiết kinh tế.
Chi văn hoá - xã hội.
Chi quản lý hành chính.
Chi an ninh, quốc phòng.
Các khoản chi khác.
Trong các nền kinh tế thị trường và ở nước ta hiện nay, cách phân loại nội dung chi tiêu ngân sách nhà nước theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng phổ biến. Đây cũng là cách phân loại quan trọng nhất, nó trình bầy nội dung chi tiêu của chính phủ để qua đó người ta có thể nhận rõ và phân tích đánh giá những chính sách, chương trình của chính phủ thông qua các kinh phí để thực hiện các chương trình chính sách đó.
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra các nội dung sau đây:
Chi thường xuyên:
Là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm duy trì “ đời sống quốc gia”. Về nguyên tắc, các khoản chi này phải được tài trợ bằng các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của ngân sách nhà nước.
* Chi thường xuyên gồm có
- Chi về chủ quyền quốc gia: tức là các chi phí mà các cơ quan nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là trên các lĩnh vực quốc phòng an ninh, ngoại giao, thông tin đại chúng…
- Chi phí liên quan đên sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó.
- Chi phí do sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội để cải thiện đời sống nhân dân. Những chi phí này thuộc loại chi phí chuyển nhượng như: trợ cấp cho các cơ quan nhà nước để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trả lãi, nợ của chính phủ…
* Chi đầu tư phát triển : là tất cả các chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia, bao gồm
- Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ
- Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị.
- Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Các chi phí chuyển nhượng đầu tư.
- Những chi phí đầu tư liên quan đến sự tài trợ của nhà nước dưới hình thức cho vay ưu đãi hoặc trợ cấp cho những pháp nhân kinh tế công hay tư để thực hiện các nhiệm vụ đồng loại với các nhiệm vụ nêu trên, nhằm thực hiện chính sách phát triển kinh tế của nhà nước.
Ngoài ra còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế, theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội.
1.2 NGÂN SÁCH HUYỆN TRONG HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH HUYỆN
1.2.1 Hệ thống ngân sách nhà nước và Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.1.1 Hệ thống ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một hệ thống các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực phân
Phối giữa các thành viên xã hội. các quan hệ kinh tế thuộc phạm vi ngân sách nhà nước không hoạt động một cách riêng lẻ, rời rạc mà có mối quan hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành hệ thống ngân sách nhà nước. Như vậy “Hệ thống Ngân sách nhà nước là tổng hợp ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương và được thực hiện theo những quy luật, nguyên tắc nhất định”
Ở việt nam, theo điều 118 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định có 4 cấp hành chính là Trung ương, tỉnh, huyên, xã, tức là có chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương ( tỉnh, huyện, xã). ở mỗi cấp chính quyền địa phương vẫn tồn tại các uỷ ban nhân dân và hội đồng nhân dân, trong đó hội đồng nhân dân có nhiệm vụ ra nghị quyết về lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và ngân sách địa phương.
Về tổ chức hệ thống ngân sách ở nước ta qua nhiều lần cải tiến và sửa đổi, hiện nay theo điều 4 luật ngân sách nhà nước quy định: “ ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương ( ngân sách địa phương)”. Hệ thống ngân sách nhà nước Việt nam được thể hiện bằng sơ đồ sau
Sơ đồ: Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam
Ngân sách nhà nước
Ngân sách trung ương
Ngân sách địa phương
Ngân sách tỉnh,TP
Ngân sách quận ,huyện
Ngân sách xã, phường
Trong đó:
Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ ngân sách nhà nước.
Ngân sách địa phương cung ứng nguồn tài chính cho các nhiệm vụ của chính quyền nhà nước ở địa phương và hỗ trợ chuyển giao nguồn tài chính cho các chính quyền cấp dưới.
1.2.1.2 Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
* Khái niệm:
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc giải quyết các mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan nhà nước địa phương, giữa các cơ quan địa phương với nhau về tất cả các vấn đề liên quan tới quản lý và điều hành ngân sách nhà nước.
* Nguyên tắc:
- Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải phù hợp và đồng bộ với phân cấp quản lý kinh tế xã hội giữa các cấp cơ quan nhà nước.
- Phân cấp ngân sách phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và phát huy được tính độc lập của các địa phương.
- Những nguồn thu mà cấp nào quản lý có hiệu quả hơn thì nên cố gắng phân chia cho cấp đó.
- Những nhiệm vụ chi lớn và có tác động đến vùng rộng lớn hoặc là đến toàn bộ nền kinh tế thì sẽ giao cho trung ương đảm nhận.
- Những khoản chi thường xuyên liên quan trực tiếp tới người dân địa phương: giáo dục, cấp thoát nước… nên giao cho địa phương quản lý và thực hiện chi.
- Phân cấp nhiệm vụ quản lý ngân sách phải phụ thuộc nhiều vào năng lực quản lý của cấp chính quyền địa phương.
* Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách:
Phân cấp ngân sách nhà nước, về thực chất là giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương có liên quan tới hoạt động của ngân sách nhà nước. Nội dung phân cấp ngân sách nhà nước bao gồm việc giải quyết các quan hệ sau:
Thứ nhất: Quan hệ về chế độ, chính sách (kể cả chế độ kế toán và quyết toán ngân sách). Giải quyết mối quan hệ này cần làm rõ: mỗi cấp chính quyền nhà nước có quyền ban hành những loại chế độ, chính sách, định mức nào liên quan đến hoạt động ngân sách nhà nước. Giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ khắc phục được tình trạng rối loạn trong quản lý và điều hành ngân sách nhà nước.
Thứ hai: Quan hệ về vật chất, tức là quan hệ trong việc phân chia nhiệm vụ chi và nguồn thu cũng như trong cân đối ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước. Nói chung, giải quyết các quan hệ về vật chất luôn là những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp ngân sách. Đồng thời đây cũng là nội dung quan trọng nhất của phân cấp ngân sách nhà nước.
Theo chế độ phân cấp ngân sách nhà nước hiện nay được quy định tại các điều khoản trong chương III của luật ngân sách nhà nước, mỗi câp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100% và các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ % nhất định. Riêng ngân sách các địa phương (tỉnh, huyện, xã) còn được khoản thu trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cấp trên.
Về chi tiêu, mỗi câp ngân sách đều có các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư tuỳ thuộc vào phạm vi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền nhà nước theo luật định.
Thứ ba: Quan hệ chu trình ngân sách, tức là quan hệ về quản lý trong chu trình vận động của ngân sách nhà nước, từ khâu lập dự toán ngân sách đến chấp hành và quyết toán ngân sách. Trong hệ thống các mối quan hệ này còn bao gồm cả quan hệ trong kiểm tra và thanh tra ngân sách nhà nước.
1.2.2 Ngân sách huyện trong hệ thống ngân sách nhà nước
1.2.2.1 Vai trò, vị trí của ngân sách huyện
Huyện là một cấp ngân sách nằm trong hệ thống ngân sách nhà nước, ngân sách huyện là một bộ phận trong hệ thống ngân sách nhà nước. Ngân sách huyện được hiểu là tất cả các khoản thu- chi (được quy định theo phân cấp quản lý ngân sách), trong dự toán được phòng tài chính lập ra gửi uỷ ban nhân dân huyện xem xét sau đó trình hội đồng nhân dân phê duyệt và giao cho uỷ ban nhân dân huyện tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền huyện.
Ngân sách huyện có một vai trò quan trọng đối với chính quyền huyện được thể hiện ở các mặt sau:
- Ngân sách huyện là nguồn tài chính quan trọng nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy chính quyền huyện trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Ngân sách huyện có vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn huyện, đảm bảo sự ổn định phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
- Ngân sách huyện còn đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa ngân sách tỉnh và ngân sách xã trong việc tạo dựng kết cấu hạ tầng nông thôn mới nhất là tiến trình cả nước thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ có tác dụng sâu sắc đến đời sống kinh tế – xã hội của từng đơn vị phụ thuộc trong huyện.
1.2.2.2 Chi ngân sách huyện theo nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.2.2.1 Nguyên tắc quản lý chi ngân sách huyện
Chi ngân sách huyện chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Phải căn cứ vào số phân bổ trong dự toán ngân sách nhà nước đã được duyệt của hội đồng nhân dân huyện và uỷ ban nhân dân huyện phân bổ cho các cơ quan đơn vị trong huyện. Trừ một số trường hợp đặc biệt.
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
- Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi.
- Các ngành, các cấp, các đơn vị không được đặt ra các khoản thu, chi trái với quy định của pháp luật.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng.
1.2.2.2.2 Nhiệm vụ chi của ngân sách huyện
* Chi đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội không có khả năng thu hồi vốn do huyện quản lý theo phân cấp của tỉnh.
- Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu do các cơ quan trên huyện thực hiện.
- Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật
* Chi thường xuyên bao gồm:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do các cơ quan trên huyện quản lý.
+ Giáo dục phổ thông, bổ túc văn hoá, nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông dân tộc nội trú và các hoạt động giáo dục khác.
+ Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề, đào tạo ngắn hạn và các hình thức đào tạo bồi dưỡng khác.
+ Phòng bệnh, chữa bệnh và các hoạt động y tế khác.
+ Các trại xã hội, cứu tế xã hội, cứu đói, phòng chống các tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác.
+ Phát thanh, truyền hình và các hoạt động thông tin khác
+ Bồi dưỡng, huấn luyện huấn luyện viên, vận động viên các đội tuyển cấp huyện; các giải thi đấu cấp huyện; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục thể thao và các hoạt động thể dục thể thao khác.
+ Nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, các hoạt động sự nghiệp khoa học công nghệ khác.
+ Các sự nghiệp khác do huyện quản lý.
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do huyện quản lý
+ Sự nghiệp giao thông: duy tu bảo dưỡng và sửa chữa cầu đường và các công trình giao thông khác; lập biển báo và các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường
+ Sự nghiệp nông nghiệp thuỷ lợi và lâm nghiệp: duy tu bảo dưỡng các tuyến đê, các công trình thuỷ lợi, chống bão lụt canh đê, các trạm trại nông nghiệp, lâm nghiệp, công tác khuyến lâm, khuyến nông, các chương trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hỗ trợ kinh tế mới , vệ sinh thú y, các chương trình phục vụ Nông nghiệp.
+ Sự nghiệp thị chính: duy tu, bảo dưỡng hệ thống đèn chiếu sáng, vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước, giao thông nội thị và các sự nghiệp thị chính khác.
+ Đo đạc lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính và các hoạt động sự nghiệp địa chính khác.
+ Điều tra cơ bản
+ Các hoạt động sự nghiệp về môi trường.
+ Các sự nghiệp kinh tế khác.
- Các nhiệm vụ về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội do ngân sách huyện bảo đảm theo quy định của tỉnh.
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan đảng cộng sản Việt nam ở huyện.
- Hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương như: uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt nam, hội cựu chiến binh Việt nam, hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, hội nông dân Việt nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở địa bàn huyện theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do huyện quản lý.
- Phần chi thường xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia do các cơ quan địa phương thực hiện.
- Trợ giá theo chính sách của nhà nước.
- Chi chuyển nguồn từ ngân sách địa phương năm trước sang ngân sách địa phương năm sau.
- Phần chi thường xuyên khác.
* Chi bổ xung cho ngân sách cấp dưới: đây là khoản chi bổ xung cho ngân sách xã hàng năm để xã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
1.2.3 Nội dung quản lý chi ngân sách huyện
1.2.3.1 Lập dự toán chi ngân sách huyện
1.2.3.1.1 Căn cứ để lập dự toán chi ngân sách huyện
Mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Chính sách, định mức phân bổ ngân sách và chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách.
Tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm hiện hành.
Nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao; dự toán ngân sách được tổng hợp từ báo cáo dự toán ngân sách của các cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình, của các địa phương cấp dưới trực tiếp.
1.2.3.1.2 Tổ chức lập dự toán chi ngân sách huyện
Hàng năm, quán triệt quyết định của chính phủ, hướng dẫn của bộ tài chính và chỉ thị của uỷ ban nhân dân tỉnh về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, Sở tài chính hướng dẫn cụ thể một số nội dung về xây dựng dự toán ngân sách đối với các huyện, thị xã.
Các đơn vị dự toán và các tổ chức thuộc uỷ ban nhân dân huyện căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, chế độ, định mức và tiêu chuẩn chi lập dự toán để dự trù cho nhu cầu chi.
Phòng tài chính huyện xem xét dự toán chi ngân sách của cơ quan đơn vị cùng cấp và dự toán chi ngân sách của của chính quyền cấp dưới tổng hợp, lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách huyện trình uỷ ban nhân dân huyện xem xét.
Uỷ ban nhân dân huyện có trách nhiệm xem xét dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương trình hội đồng nhân dân huyện quyết định. Căn cứ vào luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp ngày 21/6/1994, luật ngân sách nhà nước ngày 16/12/2002, trên cơ sở xem xét báo cáo của uỷ ban nhân dân huyện về dự toán thu chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp huyện, báo cáo thẩm tra của ban kinh tế xã hội hội đồng nhân dân huyện và ý kiến của đại biểu hội đồng nhân dân huyện, hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn dự toán thu chi ngân sách huyện, phương án phân bổ ngân sách huyện do uỷ ban nhân dân trình và báo cáo cho ủy ban nhân dân tỉnh và sở tài chính tỉnh.
Thời gian báo cáo dự toán ngân sách huyện do uỷ ban nhân dân tỉnh quy định.
Quyết định dự toán ngân sách huyện: sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách huyện( kèm theo các lĩnh vực), phòng tài chính trình HĐND huyện quyết định, uỷ ban nhân dân huyện báo cáo uỷ ban nhân dân tỉnh, sở tài chính vật giá, đồng thời thông báo cho các phòng hoặc các tổ chức thuộc huyện biết theo chế độ công khai tài chính về ngân sách nhà nước.
Điều chỉnh dự toán ngân sách huyện hàng năm trong các trường hợp có yêu cầu của uỷ ban nhân dân cấp trên để đảm bảo phù hợp với định hướng chung và có sự biến động lớn về nguồn thu và nhiệm vụ chi.
Uỷ ban nhân dân huyện tiến hành lập dự toán điều chỉnh trình HĐND huyện quyết định và báo cáo uỷ ban nhân dân cấp trên. dự toán điều chỉnh sau khi được duyệt là dự toán ngân sách chính thức của huyện trong năm đó.
1.2.3.2 Chấp hành dự toán chi ngân sách huyện
Khái niệm: Chấp hành ngân sách nhà nước là việc tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước đã được quốc hội quyết định.
Căn cứ vào dự toán ngân sách huyện cả năm được hội đồng nhân dân quyết định, uỷ ban nhân dân huyện giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc bảo đảm đúng với dự toán ngân sách được phân bổ, đồng thời thông báo cho phòng tài chính và kho bạc nhà nước huyện để theo dõi, cấp phát và quản lý. Ngoài uỷ ban nhân dân huyện, không một tổ chức hoặc cá nhân nào được thay đổi nhiệm vụ ngân sách đã được phân bổ.
Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phòng tài chính được phép cấp tạm kinh phí cho các nhu cầu chi không thể trì hoãn được cho tới khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách được quyết định.
Chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện hoặc người được uỷ quyền là chủ tài khoản thu – chi ngân sách huyện.
Chi ngân sách huyện phải đảm bảo đầy đủ kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho bộ máy chính quyền và thực hiện chương trình kinh tế – xã hội được hoạch định trong năm kế hoạch đảm bảo tính mục tiêu và hiệu quả chi ngân sách huyện.
Trường hợp đột xuất cấp phát bằng lệnh của thường trực uỷ ban nhân dân huyện duyệt trong các trường hợp thiên tai bão lụt, phòng cháy, chữa cháy, dịch họa. đối với các khoản chi từ nguồn thu để lại uỷ ban nhân dân huyện và phòng tài chính phối hợp với KBNN định kỳ làm thủ tục ghi thu, chi vào ngân sách huyện.
Kiểm tra giám sát hoạt động ngân sách huyên
- Thường trực hội đồng nhân dân, các ban hội đồng nhân dân, các đại biểu hội đồng nhân dân huyện tăng cường kiểm tra, giải quyết kiến nghị, kịp thời đối với uỷ ban nhân dân huyện chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp tích cực đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chi ngân sách năm đó.
- Cơ quan cấp trên, sở tài chính và uỷ ban nhân dân tỉnh phải thường xuyên kiểm tra hướng dẫn công tác quản lý ngân sách huyện.
1.2.3.3 Kế toán và quyết toán chi ngân sách huyện
Khái niệm: Quyết toán ngân sách là bảng tổng hợp toàn bộ số thực thu và thực chi trong năm ngân sách vào cuối năm ngân sách.
Hàng năm phòng tài chính huyện lập báo cáo quyết toán chi ngân sách của các đơn vị dự toán, thẩm tra quyết toán ngân sách xã, tổng hợp lập quyết toán ngân sách huyện đối chiếu với kho bạc, trình uỷ ban nhân dân huyện xem xét, trình hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho sở tài chính chậm nhất ngày 15 tháng 2 năm sau. Sau khi hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn, báo cáo quyết toán được lập thành 4 bản: 01 bản gửi sở tài chinh, 01 bản gửi uỷ ban nhân dân huyện và 01 bản gửi hội đồng nhân dân huyện, 01 bản gửi phòng tài chính.
Trong quá trình lập báo cáo quyết toán Ngân sách nhà nước, Phòng Tài chính huyện phải tuân theo nguyên tắc sau:
- Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước.
- Báo cá._.o quyết toán năm của Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện phải gửi kèm theo các báo cáo sau:
+ Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31/12.
+ Báo cáo thuyết minh quyết toán năm, giải trình phải nói rõ nguyên nhân đạt, không đạt hoặc vượt dự toán được giao.
Báo cáo quyết toán năm, trước khi gửi cho cấp có thẩm quyền xét duyệt phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước huyện.
Báo cáo quyết toán ngân sách của các trường không được quyết toán chi lớn hơn thu.
Ban kinh tế hội đồng nhân dân huyện có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán chi ngân sách huyện, trường hợp có sai sót uỷ ban nhân dân huyện yêu cầu điều chỉnh.
Kế toán ngân sách thực hiện việc ghi chép, phản ánh và giám đốc khoản thu, chi ngân sách phục vụ đắc lực cho công tác quản lý ngân sách ở từng cấp, do đó kế toán ngân sách cấp nào thì phục thuộc cơ quan tài chính cấp đó, bộ phận kế toán ngân sách trực thuộc tổ ngân sách kế hoạch của phòng tài chính kế hoạch có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh và giám đốc một cách tổng hợp số thu, chi ngân sách nhà nước phát sinh trên địa bàn huyện ( quận, thị xã). căn cứ vào các chứng từ do kho bạc nhà nước huyện gửi đến.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI HUYỆN ỨNG HOÀ - TỈNH HÀ TÂY
2.1 ĐÔI NÉT VỀ HUYỆN ỨNG HOÀ VÀ PHÒNG TÀI CHÍNH- KẾ HOẠCH HUYỆN ỨNG HOÀ
2.1.1 Đôi nét về huyện Ứng Hoà
2.1.1.1 Đặc điểm địa bàn
Huyện Ứng hoà nằm ở phía đông nam tỉnh Hà tây tiếp giáp với các huyện trong và ngoài tỉnh, phía bắc giáp với huyện Chương mỹ, Thanh oai, phía đông giáp với huyện Phú xuyên, phía tây giáp với huyện Mỹ đức, phía nam giáp với huyện Kim bảng tỉnh Hà nam. Huyện Ứng hoà 30 xã, có địa bàn rất rộng,trong huyện có một quốc lộ 21B chạy qua, cùng hệ thống giao thông rất thuận lợi cho việc đi lại cũng như giao lưu kinh tế của huyện.
Huyện Ứng hoà thuộc vùng đồng bằng sông hồng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Toàn huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 18372,78 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm72,29% ( tương ứng 13207,64 ha) đây là những điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp phát triển ở huyện.
2.1.1.2 Tình hình kinh tế xã hội
BẢNG 1: KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ – XÃ HỘI CHỦ YẾU CỦA HUYỆN ỨNG HOÀ
(Giai đoạn 2002 – 2005)
Số TT
Các chỉ tiêu
ĐVT
2002
2003
2004
2005
So sánh2005/2002 (%)
A
B
C
3
4
5
6
8
1
Dân số trung bình
Người
192220
193021
194500
195940
102
2
Số người có việc làm
Ngươì
98030
98540
99200
99930
102
Tỷ trọng lao động nông nghiệp
%
80,7
77,4
75,5
69,4
3
Tổng sản phẩm (GDP) (giá thực tế)
Tỷ đồng
628,3
693,4
771,5
857,3
136
4
Cơ cấu GDP theo giá thực tế
%
100
100
100
100
Nông nghiệp, thuỷ sản
%
66,1
62,7
61,2
60,0
Công nghiệp - xây dựng
%
18,6
20,3
21,1
21,7
Dịch vụ
%
15,3
17,1
17,7
18,3
5
Tổng vốn đầu tư phát triển
Tỷ đồng
90,727
102,329
104,93
125,078
138
6
Trờng đạt chuẩn quốc gia
Trường
5
6
9
10
7
Tổng số cơ sở khám chữa bệnh
Cơ sở
33
33
33
31
8
Tỷ lệ hộ nghèo (tiêu chí cũ)
%
5,21
4,34
3,72
3,25
Số hộ hộ nghèo
Hộ
2,420
2,033
1,767
1,490
9
GDP bình quân/ người
Triệu đồng
3,19
3,55
3,96
4,37
137
Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch huyện ứng hoà tỉnh Hà Tây
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong giai đoạn 2002-2005, tình hình kinh tế xã hội của huyện đã đạt được những kết quả khả quan nhìn chung tình kinh tế xã hội ở huyện hàng năm đều ổn định và kinh tế phát triển tốt thể hiện:
Dân số của huyện ổn định qua các năm( dân số năm 2005 so với năm 2002 tăng 102%), số người trong độ tuổi lao động có việc làm lớn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng có lợi, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ biểu hiện số lao động trong nông nghiệp giảm dần qua các năm, và tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng dần qua các năm, cơ sở hạ tầng ngày càng được nâng cấp, đời sống nhân dân được cải thiện, sản xuất phát triển rất khả quan. Đây là một nỗ lực rất lớn của huyện khi mà xuất phát ban đầu của huyện còn khó khăn, sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, huyện còn nằm trong vùng phân lũ của trung ương, ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, y tế… vì thế ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn đặc biệt trong lĩnh vực khai thác nhiệm vụ thu ( huyện nhiều năm mất cân đối thu chi, 70 – 80% thu ngân sách huyện do ngân sách tỉnh bổ xung ) vì vậy vấn đề quản lý chi ngân sách huyện một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế là một việc quan trọng và rất cần thiết.
2.1.2 Đôi nét về phòng Tài chính- Kế hoạch huyện Ứng hoà
Phòng Tài chính- Kế hoạch trước năm 2001 là phòng Tài chính và phòng Kế hoạch đầu tư riêng rẽ sau khi có quyết định số : 160/QĐ-UB ngày 12/7/ 2001 của uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây, uỷ ban nhân dân huyện Ứng hoà tiến hành sát nhập phòng Tài chính và phòng Kế hoạch đầu tư trước đây và nay đổi tên là phòng Tài chính- Kế hoạch.
Phòng Tài chính Kế hoạch là cơ quan chuyên môn trực thuộc uỷ ban nhân dân huyện Ứng hoà, là cơ quan tham mưu cho huyện uỷ uỷ ban nhân dân huyện Ứng hoà về xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán thu chi ngân sách dài hạn (5 năm), ngắn hạn (1 năm) trên cơ sở nghị quyết, chế độ chính sách của cấp trên và tình hình thực tế địa phương.
Phòng Tài chính- Kế hoạch Ứng hoà là cơ quan trực thuộc huyện. Phòng có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân sách trên địa bàn huyện theo luật ngân sách và sự phân cấp quản lý của nhà nước.
Thông qua chức năng nhiệm vụ công tác quản lý về mặt tài chính còn thực hiện chức năng làm tham mưu giúp huyện uỷ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân huyện tham gia xây dựng các chương trình, các đề án phát triển kinh tế – xã hội quản lý nhà nước về tài chính ngân sách và điều hành ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện.
Quản lý thu, chi ngân sách huyện , quản lý các đơn vị dự toán sử dụng kinh phí của NSNN.
Quản lý nhà nước về tài chính, các loại hình kinh tế theo sự phân cấp quản lý của tỉnh.
Nhiệm vụ chủ yếu của phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Ứng hoà là:
- Lập dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách. Sau khi ngân sách được duyệt có trách nhiệm giúp UBND huyện tổ chức thực hiện.
- Thông qua theo dõi, nghiên cứu, phân tích kinh tế, tham gia ý kiến với các phòng ngành ở huyện hoặc ở cơ sở về tính toán nhu cầu đầu tư, phương hướng đầu tư, biện pháp và nguồn vốn đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Hướng dẫn các xã, thị trấn, các đơn vị thụ hưởng ngân sách lập dự toán ngân sách, quyết toán theo luật ngân sách.
- Tổ chức kiểm tra hoặc phối hợp kiểm tra tài chính, kiểm tra việc bảo vệ và sử dụng tài sản của xã, hợp tác xã, cơ quan, doanh nghiệp do huyện quản lý.
- Hướng dẫn xây dựng và tổng hợp kế hoạch KT-XH 5 năm, hàng năm.
- Hướng dẫn UBND các xã, thị trấn, các cơ quan xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm.
- Thẩm định, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản của các cơ sở do UBND huyện phê duyệt dự toán theo quy định của pháp luật.
- Thẩm định đăng ký kinh doanh các HTX trên địa bàn, xét đăng ký kinh doanh cho các hộ sản xuất kinh doanh theo nghị định 02/CP và hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH thành lập theo nghị định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND huyện giao cho.
Phòng tài chính- kế hoạch có tất cả 13 đồng chí có trình độ thấp nhất là trung cấp chuyên ngành trở lên, có nhiều kinh nghiệm trong công tác tài chính – kế hoạch.
Trong những năm vừa qua tuy phòng tài chinh – kế hoạch đã gặp phải rất nhiều khó khăn như nguồn thu trên địa bàn thấp chủ yếu là dựa vào trợ cấp của ngân sách cấp trên địa bàn lại rộng, trình độ chuyên môn của một số cán bộ kế toán cơ sở lại chưa đồng đều, công tác quản lý theo nề nếp cũ vẫn còn tồn tại, nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Tuy nhiên, phòng đã hoàn thành xuất sắc công tác quản lý tài chính ngân sách huyện, xã mà huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện giao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà.
Từ những thuận lợi và khó khăn phòng tài chính kế hoạch luôn xác định được vai trò của mình, không ngừng học hỏi, đoàn kết nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI HUYỆN ỨNG HOÀ
2.2.1 Thực trạng công tác lập dự toán chi ngân sách tại huyện Ứng hoà
Lập dự toán chi ngân sách là công việc trước tiên có ý nghĩa quan trọng quyết định đến chất lượng toàn bộ các khâu tiếp theo của quá trình quản lý chi ngân sách. Nhận thức được điều này, trong những năm vừa qua, công tác xây dựng dự toán, quản lý theo dự toán đã được phòng tài chính kế hoạch huyện ứng hoà đã phối hợp cùng uỷ ban nhân dân huyện và các đơn vị dự toán trên địa bàn huyện quan tâm coi trọng, thực hiện đúng theo quy định của luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Công tác lập dự toán chi ngân sách đã góp phần giúp các đơn vị chủ động hơn trong nhiệm vụ chi của mình.
Hàng năm, căn cứ vào thông tư số 5/2004/TT-BTC ngày 10/6/2004 của bộ tài chính hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước và sự hướng dẫn cụ thể của sở tài chính Hà tây về một số nội dung về xây dựng dự toán ngân sách đối với uỷ ban nhân dân huyện và phòng tài chính – kế hoạch huyện ứng hoà, sau đó phòng tài chính – kế hoạch huyện tiến hành hướng dẫn các đơn vị lập dự toán theo biểu mẫu. Trên cơ sở các dự toán đó phòng tài chính – kế hoạch huyện tiến hành xây dựng dự toán chi ngân sách của huyện. Trong thời kỳ ổn định ngân sách (2004 – 2006) việc xây dựng dự toán ngân sách huyện cơ bản đã đảm bảo thực hiện đúng theo các nguyên tắc đặt ra là
- Cơ bản giữ ổn định các lĩnh vực chi, mức khoán chi cho các đơn vị, các cấp ngân sách theo dự toán chi được giao.
- Đảm bảo ổn định số bổ xung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới như dự toán được giao.
- Dự toán chi ngân sách phải dự kiến đầy đủ những nhiệm vụ phát sinh trong năm dự toán, đảm bảo các nhiệm vụ được giao.
Nhìn chung, từ khi thực hiện theo tinh thần của luật ngân sách năm 2002, công tác lập dự toán ngân sách tại huyện đã được đi vào nề nếp và có nhiều thuận lợi trong công tác quản lý. Các đơn vị dự toán trực thuộc đã tiến hành lập dự toán chi của đơn vị đúng thời hạn, dự toán không chỉ dừng lại ở những mục lớn mà đã phân loại cụ thể, dự toán được lập ra cơ bản đã dần sát hơn với tình hình thực tế trên địa bàn huyện, đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu chi. Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị dự toán đều đã thực hiện được, một số đơn vị lập dự toán còn chưa đúng thời hạn, chưa đạt yêu cầu, gây ảnh hưởng đến công tác lập dự toán chung của huyện. Nguyên nhân là do trình độ của cán bộ cơ sở còn hạn chế, ở một số đơn vị cơ sở công tác lập dự toán chưa thật được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Lập dự toán là khâu đầu tiên trong quá trình quản lý ngân sách vì vậy chúng ta cần thấy được tầm quan trọng của nó và những tồn tại trên cần được chấn chỉnh trong thời gian tới.
2.2.2 Thực trạng công tác chấp hành chi ngân sách tại huyện Ứng hoà
2.2.2.1 Kết quả tình hình chi ngân sách tại huyện Ứng hoà tỉnh Hà tây
Trong những năm vừa qua tình hình chi ngân sách ở huyện ứng hoà về cơ bản đã thực hiện đúng nguyên tắc và nhiệm vụ chi đã được phân cấp: Căn cứ vào chỉ tiêu ngân sách tỉnh giao kế hoạch, huyện Ứng hoà đã căn cứ vào tình hình cụ thể để bố trí phân bổ kinh phí cho các ban ngành,các trường học,các cơ quan thụ hưởng ngân sách trên sơ sở tiết kiệm theo định mức chi tiêu đạt hiệu quả cao. Trong công tác chi ngân sách do việc giao dự toán cho các đơn vị kịp thời và chi tiết , đã tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động được nguồn lên kế hoạch điều hành chi phục vụ hoàn thành các nhiệm vụ.
Trong kế hoạch giao huyện dùng tiết kiệm giành để bổ sung cho các nhu cầu đột xuất ngoài dự toán giao, các khoản phát sinh trong năm, chủ yếu bổ xung cho đầu tư phát triển trên địa bàn huyện và các khoản phát sinh đột xuất khác. Từ năm 2002, tất cả các ban ngành, cơ quan đoàn thể, tổ chức đảng đều mở tài khoản tại kho bạc nhà nước, thực hiện chi theo tiêu chuẩn định mức đã ghi trong dự toán, luật ngân sách nhà nước năm 2002 ra đời đã cơ bản giúp cho công tác quản lý ngân sách có nhiều thuận lợi.
Bảng tình hình chi ngân sách tại huyện ứng hoà (từ năm 2003-2005)
Đơn vị: triệu đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So sánh
KH
TH
TH/KH
KH
TH
TH/KH
KH
TH
TH/KH
2004/2003
2005/2004
Bình quân
Tổng chi NS
57819
76169
132
63026
74685
118
67532
90738
134
98
121
110
Chi thường xuyên
39662
56012
141
51985
57110
110
57285
72948
127
102
128
115
- Chi SN kinh tế
1669
2259
135
2466
3136
127
2619
4014
153
139
128
133
- Chi SN GDĐT
29708
42056
142
31297
33384
107
33829
41319
122
79
124
102
- Chi SN y tế
1025
1215
119
280
283
101
1467
1806
123
23
638
331
- Chi SN VHTT, TDTT
564
1215
150
962
905
94
868
1333
154
74
147
111
- Chi đảm bảo xã hội
870
1022
93
2752
2682
97
2819
3002
106
262
112
187
- Chi quản lý hành chính
3591
6817
150
11783
13639
116
13917
18246
131
200
134
167
- Chi an ninh quốc phòng
500
859
135
2020
2467
122
1616
2654
164
287
108
197
- Chi trợ giá mặt hàng CS
190
- Chi khác ngân sách
200
570
224
425
614
144
150
384
256
108
63
85
Chi đầu tư phát triển
3102
7600
245
2146
8315
387
2105
5855
278
109
70
90
- Chi đầu tư XDCB
3102
7600
245
2146
8315
387
2105
5855
278
109
70
90
- Đầu tư, hỗ trợ vốn DN
Bổ xung cho NS cấp dưới
9126
10432
11
8895
9260
104
8142
11935
147
89
129
109
Chi từ nguồn thu đề lại
2090
2125
80
0
Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch huyện Ứng Hoà
Tổng hợp tình hình chi ngân sách huyện qua 3 năm (từ 2003-2005) được thể hiện trong bảng trên cho thấy chi ngân sách huyện qua 3 năm đang có chiều hướng tăng cụ thể năm 2004 so với năm 2003 thì mức thay đổi ko đáng kể tuy nhiên sang đến năm 2005 đã tăng lên 121% so với năm 2004 và bình quân 3 năm tăng là 110%, mức chi của huyện trong ba năm đều vượt kế hoạch đề ra từ 132% năm 2003, 118% năm 2004 và 134% năm 2005 trong đó cụ thể là
Chi thường xuyên: Tăng tăng bình quân 115% và cả trong ba năm đều vượt kế hoạch lần lượt là 141 %, 110% và 127%. Trong chi thường xuyên có các mục chi nhỏ là:
- Chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo là khoản chi phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo và dạy nghề và đào tạo lại cho cán bộ, công nhân viên tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện. Huyện Ứng hoà luôn coi công tác giáo dục là chiến lược hàng đầu trong việc phát triển kinh tế xã hội của huyện. chính vì vậy, huyện luôn đầu tư rất lớn cho công tác giáo dục và đào tạo thể hiện trong các năm vừa qua đây luôn là khoản chi lớn nhất trong tổng chi thường xuyên ở huyện ứng hoà. Trong năm 2005 khoản chi này đã tăng lên đáng kể ( 124% so với năm 2004) nguyên nhân là do chính sách tăng lương trong năm 2005 của nhà nước, chi phí sửa chữa nâng cấp trường học, trong năm 2004 đã xây dựng mới hai trường mầm non tại thị trấn vân đình và xã tảo dương văn, thực hiện kiên cố hoá trường học theo chủ trương của đảng và nhà nước. Hiện nay, dưới sự quan tâm và chỉ đạo của đàng uỷ và chính quyền huyện thì công tác giáo dục ở huyện đã và đang tiếp tục phát triển, trong thời gian tới công tác giáo dục đào tạo cần được quan tâm hơn nữa tuy nhiên cần phải quản lý tốt hơn việc chi ngân sách cho giáo dục để khoản chi này thực sự được đầu tư một cách hợp lý để đào tạo thêm nguồn nhân lực cho huyện, đồng thời nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên cũng như người dân trong huyện.
- Chi quản lý hành chính đây là khoản chi lớn thứ hai sau chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoản chi này nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, đảng và các đoàn thể trên địa bàn huyện quản lý. Khoản chi này bao gồm chi cho công tác đảng, quản lý nhà nước, chi cho các đoàn thể, hội …khoản chi này tăng rất nhanh trong vòng ba năm qua , bình quân trong ba năm qua tăng 167 %, đặc biệt năm 2004 tăng gần gấp đôi so với năm 2003 ( tăng 200 %) và vẫn tiếp tuc tăng trong năm 2005 ( tăng 134 %) nguyên nhân tăng chủ yếu của khoản chi này là phục vụ cho hoạt động của bộ máy chính quyền như Mua máy điều hoà, nâng cấp nhà làm việc, sửa chữa ô tô, chi tiếp khách hội nghị, bầu cử, chi cho hoạt động của huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện, các xã …Có thể nói đây là một vấn đề rất đáng quan tâm vì trong khi kinh phí của huyện là không lớn, nhiệm vụ chi của huyện là rất nhiều, nguồn thu trên địa bàn huyện lại rất eo hẹp chủ yếu dựa vào nguồn bổ xung ngân sách từ cấp trên thì việc chi cho hoạt động hành chính lại tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên. Do đó, trong thời gian tới khoản chi này cần được giảm bớt để có thể dùng cho các nhiệm vụ chi khác của huyện và đồng thời thực hiện tốt chủ trương của đảng và nhà nước trong việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí
- Chi sự nghiệp kinh tế đây là khoản chi phục vụ cho lĩnh vực sản xuất và các sự nghiệp kinh tế khác như chi duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng. Khoản chi này bao gồm chi cho sự nghiệp nông nghiệp như ông tác khuyến nông, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phụ cấp khuyến nông, các chương trình cấp các chương trình phục vụ Nông nghiệp…, sự nghiệp thuỷ lợi mà chủ yếu là chi cho công tác phòng chống lụt bão, duy tu đê điều…, sự nghiệp giao thông như nâng cấp, duy tu bảo dưỡng đường xá, các công trình giao thông…kiến thiết thị chính như xây dựng các công trình của các cơ quan đoàn thể…, chi sự nghiệp kinh tế khác mà chủ yếu là chi đào tạo nghề, thăm quan học hỏi kinh nghiệm. Chi cho sự nghiệp kinh tế cũng liên tục tăng trong ba năm qua bình quân tăng 133% nguyên nhân tăng chủ yếu là do nhiệm vụ chi năm sau lớn hơn năm trước. Bầng khoản chi này huyện đã sử dụng để nâng cấp, duy tu các tuyến đường như đường Minh đức ngăm, đường Cần thơ Xuân quang, xây dựng mới nhà làm việc phòng thống kê, đài truyền thanh, nhà làm việc phòng thanh tra tư pháp, phục vụ tốt công tác khuyến nông, hỗ trợ nông nghiệp, chi cho công tác giải phóng mặt bằng các công trình xây dựng nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công như công trình cầu Phùng xá, cầu Tế tiêu…, thực hiên chương trình kiên cố hoá kênh mương. Như vậy là khoản chi này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho quá trình phát triển kinh tế trên địa bàn huyện, phục vụ tốt cho việc phát triển nông nghiệp, tuy nhiên trong thời gian tới huyện cần quản lý chặt hơn đối với các khoản chi này nhằm phục vụ tốt hơn cho việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
- Chi đảm bảo xã hội đây là khoản chi huyện dùng để đảm bảo cho cán bộ nghỉ hưu, thực hiện các chương trình hỗ trợ cho người có công với cách mạng, bà mẹ việt nam anh hùng, xây dựng nhà tình nghĩa, giúp đỡ nạn nhân chất độc mầu da cam… đây là những khoản chi thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, tinh thần tương thân tương ái của đảng và nhà nước, là khoản chi phục vụ cho công tác xã hội ở huyện. Trong ba năm khoản chi này cũng tăng nhanh bình quân đạt 187% vì vậy huyện cần chú ý quản lý khoản chi này để có thể chi đúng người, đúng đối tượng phát huy tốt ý nghĩa của khoản chi này.
- Chi an ninh – quốc phòng đây là khoản chi phục vụ cho công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn huyện, công tác quân sự, tuyển quân, huấn luyện, tập luyện dân quân tự vệ…qua ba năm khoản chi này cũng tăng khá nhanh trung bình là 187% nguyên nhân tăng là do huyện hỗ trợ hoạt động của ban chỉ huy quân sự huyện trong việc xây dựng trụ sở, hỗ trợ trong công tác tuyển quân.
- Chi sự nghiệp văn hoá thông tin, phát thanh, thể dục thể thao đây là khoản chi phục vụ cho công tác văn hoá văn nghệ, đài phát thanh của huyện, hỗ trọ các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn huyện. Khoản chi này trong 3 năm tăng chậm bình quân là 111%. Chi cho sư nghiệp văn hoá thông tin là khoản chi mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác tuyên truyền chính sách của đảng và nhà nước tới người dân trên địa bàn huyện, nâng cao trình độ hiểu biết, sức khoẻ cũng như nếp sống văn hoá cho người dân trên địa bàn huyện.
- Chi cho sự nghiệp y tế khoản chi này ở huyện chủ yếu chỉ là chi cho việc khám chữa bệnh của các trung tâm y tế xã, thị trấn trên địa bàn huyện, còn hầu hết là do tỉnh chi, do đó khoản chi này thường chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng chi thường xuyên của huyện.
- Chi khác ngân sách khoản chi này chủ yếu thực hiện để hỗ trợ các địa phương, khắc phục hậu quả thiên tai cho các đơn vị dự toán, hỗ trợ các ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ…khoản chi này cũng có một tỷ trọng khá nhỏ trong tổng chi thường xuyên ở huyện.
Chi đầu tư phát triển: Đây là những khoản chi nhằm hoàn thiện và mở rộng sản xuất trên địa bàn huyện, khoản chi này được dùng để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội mà huyện luôn chú trọng nhằm mục tiêu phục vụ tốt cho việc phục vụ sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá của đảng và nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
Nhìn vào bảng tổng hợp chi ngân sách huyện ta thấy chi cho đầu tư phát triển ở huyện trong ba năm qua thường xuyên vượt kế hoạch đề ra ( cụ thể là năm 2003 là 245% so với kế hoạch, năm 2004 là 387% so với kế hoạch, năm 2005 là 278%) đây là một nỗ lực của huyện nhằm cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn khi mà các nhiệm vụ chi khác còn rất lớn, chứng tỏ huyện đã luôn chú trọng vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng trên địa bàn mình, cụ thể là trong những năm vừa qua cùng với sự hỗ trợ của trung ương và tỉnh, huyện ứng hoà đã thực hiện xây dựng được nhiều công trình giao thông trọng điểm trong huyện như đường Ngăm – Minh đức, đường 428 phương tú, đầu tư xây dựng mới các tiểu học, trung học cơ sở tại các xã nghèo như Viên an, Viên nội, Đồng tiến… Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng trong ba năm qua khoản chi này đang có xu hướng giảm bình quân là 90% như vậy trong thời gian tới huyện cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý chi cho đầu tư phát triển, thực hiện tốt các chương trình, dự án mà trung ương và tỉnh giao cho nhằm đảm bảo tốt yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn, đồng thời cần cố gằng huy động nguồn nội lực từ trong dân cư , thực hiện chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm phát huy nội lực phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
Chi bổ xung cho ngân sách cấp dưới: đây là khoản chi của huyện nhằm hỗ trợ cho ngân sách xã thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, khoản chi này bao gồm: chi bổ xung cân đối ngân sách là khoản chi của huyện bổ xung cho ngân sách xã để giúp cho các xã nghèo cân đối ngân sách, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu ổn định thường xuyên. Chi bổ xung có mục tiêu là khoản chi mà ngân sách huyện bổ xung cho ngân sách xã để thực hiện các chương trình dự án, các chế độ chính sách, các nhiệm vụ cần thiết cấp bách. Trong ba năm qua khoản chi này tăng rất ít trung bình là 109% nhưng lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi (chỉ sau chi thường xuyên) và chủ yếu là chi bổ xung cân đối giúp cho các xã nghèo ỏ huyện. Do huyện còn rất nhiều xã nghèo do đó trong thời gian tới khoản chi này sẽ tiép tục chiém tỷ trong cao trong tổng chi. Tuy nhiên cũng đặt ra cho huyện cần phải quản lý chặt hơn công tác chi tiêu ngân sách xã nhằm chánh tình trạng chi sai, chi vượt dự toán tại xã.
Chi từ nguồn thu để lại: Đây là khoản chi lấy từ nguồn thu do chênh lệch thu lớn hơn chi từ năm trước để lại. khoản chi này thông thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
2.2.2.2 Phương thức cấp phát các khoản chi ngân sách nhà nước tại huyện Ứng hoà tỉnh Hà tây
- Hiện nay, phương thức cấp phát ngân sách ngân sách huyện đã được vận hành theo cơ chế mới, theo đó phương thức quản lý theo hạn mức đã được thay thế bằng phương thức cấp phát theo dự toán. Theo đó, phòng tài chính – kế hoạch huyện tiến hành giao dự toán đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách thuộc quyền quản lý của huyện. Đồng thời cùng kho bạc nhà nước huyện tiến hành kiểm tra kiểm soát chi để đảm bảo chi đúng dự toán, đúng chế độ hiện hành.
Giao bổ xung dự toán đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách thuộc quyền quản lý của huyện trong trường hợp có nhiệm vụ phát sinh đột xuất ngoài dự toán được giao.
Ngoài ra, hiện nay ở huyện còn dùng phương thức cấp phát bằng lệnh chi
+ Đối tượng cấp phát là áp dụng để trợ cấp cho ngân sách cấp dưới hoặc đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách không thuộc quyền quản lý của huyện nhưng nằm trên địa bàn huyện ( thuế, kho bạc nhà nước ).
+ Hình thức: căn cứ vào nhu cầu (tờ trình xin kinh phí ) của các đơn vị được uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt phòng tài chính kế hoạch huyện viết lệnh chi tiền gửi kho bạc nhà nước xuất quỹ ngân sách huyện cấp phát cho đơn vị hạch toán theo mục lục ngân sách nhà nước.
2.2.3 Thực trạng công tác quyết toán chi ngân sách tại huyện Ứng hoà
Nhìn chung công tác quyết toán chi ngân sách tại huỵên ứng hoà được thực hiện theo quy trình đúng theo đúng theo quy định của luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành luật theo quy trình thực hiện như sau:
Công tác quyết toán chi ngân sách được thực hiện vào cuối năm các đơn vị dự toán lập báo cáo chi ngân sách của đơn vị mình quản lý gửi phòng tài chính huyện. Căn cứ vào báo cáo của đơn vị, phòng tài chính tiến hành xét duyệt đối với số chi, thu thực tế tại kho bạc huyện để xác minh tính đúng đắn của số liệu. Kết hợp với việc thẩm tra quyết toán của các xã trong huyện phòng tài chính tiến hành tổng hợp lập báo cáo quyết toán chi trình uỷ ban nhân dân huyện xem xét. Sau khi được chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện phê chuẩn, phòng tài chính báo cáo lên sở tài chính tỉnh
Công tác quyết toán ngân sách ở huyện được lập một cách rất chi tiết, mọi khoản chênh lệch các chỉ tiêu ngân sách so với dự toán đều được giải trình rất cụ thể, công tác quyết toán ngân sách huyện cơ bản đã đảm bảo đúng thực tế phát sinh, đảm bảo được tính hợp pháp, hợp lệ và hạch toán đúng mục lục ngân sách nhà nước. Tuy nhiên công tác kế toán và quyết toán ngân sách huyện vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới .
2.3 ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH HUYỆN ỨNG HOÀ
2.3.1 Những kết quả đạt được trong những năm qua
Trước hết về công tác xây dựng dự toán quản lý theo dự toán đã được huyện quan tâm coi trọng hơn những năm trước, việc phân bổ ngân sách ở huyện đựơc thảo luận dân chủ. Huyện đã điều hành ngân sách chủ động hơn, hạn chế một cách tích cực việc “ xin cho “ giữa huyện và các ban ngành đoàn thể. Huyện đã chỉ đạo sát sao, hướng dẫn giao dự toán cho từng xã, nhằm định hướng giúp xã khai thác tốt mọi nguồn thu, bố trí hợp lý các khoản chi, đặc biệt ưu tiên nguồn đảm bảo chi sinh hoạt phí và phụ cấp cho cán bộ xã. Dự toán huyện lập ra đã thực sự giúp cho việc điều hành chi ngân sách được thực hiện một cách có hiệu quả và giúp cho các đơn vị có thể chủ động hơn trong nhiệm vu chi của mình.
Công tác lập, duyệt và phân bổ dự toán chi ngân sách đã dần đi vào nề nếp, cụ thể: thời hạn gửi dự toán chi thường xuyên của các đơn vị đến kho bạc nhà nước sớm hơn so với năm 2003 và dự toán năm 2005 hầu hết các đơn vị dã gửi dự toán chi tiết đến kho bạc nhà nước trong tháng 1/2005. Về chất lượng phân bổ và giao dự toán của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước đã được đơn vị chủ quản chú trọng, đặc biệt dự toán chi thường xuyên được giao chi tiết đến mục, có cộng theo 4 nhóm mục chi ( chi thanh toán các nhân; chi nghiệp vụ chuyên môn; chi mua sắm sửa chữa lớn và chi khác) điều này đã thể hiện tính chặt chẽ trong khâu quản lý của cơ quan tài chính đối với các đơn vị dự toán trong việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cấp, đã hạn chế phần nào được tình trạng bổ sung, điều chỉnh dự toán như những năm trước.
Công khai ngân sách huyện đã được thực hiện theo quy định và đạt được sự đồng tình ủng hộ cao của cán bộ, nhân dân, góp phần tích cực vào sự ổn định, đoàn kết ở xã. Đặc biệt việc công khai dự toán ngân sách huyện, công khai các khoản đóng góp, công khai xây dựng các công trình xây dựng cơ bản… là những việc làm cụ thể và hiệu quả, thể hiện đúng quan điểm “ Dân biết , dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đã công khai ngân sách theo qui trình hoạt động của hội đồng nhân dân huyện, để chuẩn bị nội dung báo cáo trình tại kỳ họp, uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo cho các ngành tài chính lập báo cáo dự toán, quyết toán thu chi ngân sách. Tất cả các loại báo cáo đều được ban kinh tế hội đồng nhân dân huyện thẩm định giám sát trước khi đưa ra trình hội đồng nhân dân phê chuẩn sau đó giao cho ngành Tài chính thông báo chi tiết tới từng đơn vị.Chất lượng công tác kế toán cũng được thể hiện qua việc thực hiện quy chế dân chủ, công khai ngân sách huyện, số liệu, tài liệu kế toán được phản ánh đầy đủ vào ngân sách nhà nước, được kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, kịp thời của cán bộ phòng tài chính,kho bạc nhà nước cấp huyện, từ đó kịp thời uốn nắn, bổ khuyết những sai sót, vi phạm trong lĩnh vực chi ngân sách, từng bước thực hiện lành mạnh tài chính ở huyện.
Qua đánh giá về tình hình chi ngân sách nhà nước trong những năm qua tại huyện ứng hoà cho thấy những nỗ lực đáng khích lệ. Ngân sách huyện đã đảm bảo tốt nhiệm vụ chi thường xuyên và đã dành một phần không nhỏ ngân sách để chi cho đầu tư phát triển, đặc biệt công tác chi cho giáo dục và đào tạo luôn được chú trọng. Ngân sách huyện đã và đang là nguồn lực, là điều kiện vật chất quan trọng cho sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trên địa bàn xã, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện phát triển. Nhìn chung, năm 2005 chi ngân sách đã cơ bản đáp ứng được cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của huyện, đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên, tăng lương, đại hội Đảng, công tác lập dự toán và phân bổ dự toán thực hiện ngay từ đầu năm, nhiều đơn vị đã bám sát vào nhiệm vụ và định mức khoán của mình chủ động bố trí kinh phí chi hợp lý đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Về công tác chỉ đạo thực hành tiết kiệm chống lãng phí:
- Sau khi dự toán được hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn, huyện ứng hoà đã căn cứ vào tình hình cụ thể để bố trí phân bổ kinh ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9713.doc