Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế quản lý kinh tế có sự đổi mới sâu sắc đã tác động rất lớn tới các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được nhà nước giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập nghĩa là lấy thu bù chi để tăng tích lũy tái sản xuất mở rộng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao là một vấn đề phức tạp đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý phù hợp với sự thay đổi của thị
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường cũng như sự thay đổi của doanh nghiệp mình. Việc đảm bảo lợi ích của người lao động là một trong những động lực cơ bản trực tiếp khuyến khích mọi người đem hết khả năng của mình nỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất. Một trong những công cụ hiệu quả nhất nhằm đảm bảo các điều kiện trên đó là hình thức trả lương cho người lao động.
Tiền lương là một trong những khoản chi phí sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm, cho nên công tác tiền lương, BHXH là vấn đề cần được quan tâm. Công tác kế toán tiền lương và BHXH, cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho công tác hạch toán kinh tế.
Không những thế tiền lương còn là một vấn đề thiết thân đối với đời sống công nhân viên chức. Tổ chức tốt công tác phân phối tiền lương (tiền công) là yếu tố kích thích khuyến kích người lao động ra sức sản xuất, làm việc nâng cao trình độ tay nghề, tăng năng suất, từ đó giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tiền lương còn là một trong những công cụ kinh tế để phân phối sắp xếp lại lao động một cách có kế hoạch giữa các doanh nghiệp và các ngành sản xuất xã hội thích hợp với yêu cầu phát triển nhịp nhàng của nền kinh tế quốc dân.
Do nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tăng thu nhập cho người lao động theo nguyên tắc phân phối trong XHCN: làm theo năng lực hưởng theo lao động. Nên ý nghĩa trên, em đã chọn đề tài: "Công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu" để làm chuyên đề tốt nghiệp. Với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy Trần Trọng Kim cùng sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi của ban giám đốc, các cô chú anh chị trong Phòng Kế toán, phòng tài vụ của công ty em đã hoàn thành bản chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề gồm ba chương chính ngoài lợi mỏ bài và kết luận:
Chương 1: Giới thiệu khái quát về Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Chương 2: Thực trạng công tác tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Tuy nhiên do những hạn chế về thời gian cũng như trình độ hiểu biết của em nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
Giới thiệu khái quát về Công ty bánh kẹo Hải Châu.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
Được sự giúp đỡ của hai tỉnh Quảng Châu và Thượng Hải (Trung Quốc) ngày 02/09/1965 Nhà máy Bánh kẹo Hải Châu được thành lập. Theo Quyết định số 1335NN - TCCB/QĐ ngày 24/10/1994 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) về việc đổi tên thành Công ty bánh kẹo Hải Châu. Tên giao dịch quyết tế là HAI CHAU CONFECTIONERRY, trụ sở đặt tại số 5B - phố Mạc Thị Bưởi - quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau từ thời kỳ chiến tranh đến thời kỳ hòa bình lập lại, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường Hải Châu từng bước khẳng định mình bằng chính năng lực của mình qua các thời kỳ phát triển.
Thời kỳ đầu thành lập 1965 - 1975: Đây là thời kỳ đất nước chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ chủ yếu của nhà máy là sản xuất phục vụ dân sinh và quốc phòng.
Năm 1972 Nhà máy Bánh kẹo Hải Châu tách phân xưởng sản xuất kẹo sang Nhà máy Miến Tương Mai và sau này thành lập Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà (nay là Công ty bánh kẹo Hải Hà).
Mặc dù trang thiết bị ban đầu còn lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu song đây là cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu tạo điều kiện cho sự đi lên của nhà máy sau này.
Số công nhân viên bình quân: 850 người/ năm.
Thời kỳ 1975-1986, thời kỳ khôi phục năng lực sản xuất sau chiến tranh và đi vào hoạt động sản xuất bình thường.
Số công nhân viên bình quân: 1250 người/ năm.
Thời kỳ 1986 - 1990: Thời kỳ thích ứng với cơ chế kinh tế mới. Cùng với cả nước nhà máy bắt đầu chuyển sang kinh doanh tự bù đắp chi phí, không có sự bao cấp của Nhà nước. Sản phẩm của nhà máy ngày càng chịu sự cạnh tranh của thị trường trong khi công nghệ chưa kịp cải tiến. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của nhà máy.
Số công nhân viên bình quân: 950 người/ năm.
Thời kỳ 1991-1995: Thời kỳ đầu tư chiều sâu, mở rộng thị trường. Nhà máy thực hiện lại việc sắp xếp theo chủ trương mới, hướng vào mục tiêu đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng truyền thống. Đầu tư mua sắp thêm một số máy móc thiết bị hiện đại của Đài Loan, CHLB Đức.
Đây là những dây chuyền hiện đại nhất cho ra các sản phẩm cao cấp nhất rong ngành bánh kẹo Việt Nam.
Số công nhân viên bình quân 705 người/ năm.
Từ năm 1996 đến nay: Công ty tiếp tục đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà công ty mở rộng được thị trường trong nước và quốc tế.
Số cán bộ công nhân viên bình quân 705 người/ năm.
Suốt chặng đường dài phát triển công ty đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào.
- Năm 1973, Huân chương kháng chiến hạng hai.
- Năm 1979, 1980, 1981. Huân chương lao động hạng ba.
- Năm 1994, tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng cờ đơn vị lao động xuất sắc nhất.
- Năm 1996 huân chương chiến công hạng ba.
- Năm 1997, huân chương lao động hạng ba.
Cho đến nay, vượt qua bao thăng trầm của nền kinh tế, với những khó khăn về vốn, về thị trường và những cơn lốc của hàng ngoại nhập. Công ty Bánh kẹo Hải Châu đã trở thành một doanh nghiệp nhà nước có uy tín, có chỗ đứng vững trên thương trường. Sản phẩm của công ty liên tục đạt danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao được tổ chức hàng năm.
1.2. Các nguồn lực của Công ty Bánh kẹo Hải Châu.
1.2.1. Vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty.
a. Đặc điểm về vốn và cơ cấu vốn.
Vốn kinh doanh là một trong năm yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của công ty, là vấn đề không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp.
Biểu 1: Bảng tổng hợp vốn kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu qua 2 năm.
Đơn vị: Triệu đồng.
Nội dung
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch (+/-)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tổng số vốn SXKD
44369
100
44684
100
+ 315
+0,71
+ VCĐ
23098
52,06
23235
52
+137
+0,59
+ VLĐ
21271
47,94
21449
48
+178
+0,83
Theo nguồn hình thành
- Vốn chủ sở hữu
22500
50,71
24000
53,71
+1500
+6,7
+ Ngân sách cấp
8000
18,03
8000
17,9
0
0
+ Tự bổ sung
14500
32,68
16000
35,81
+1500
+10,3
- Nợ phải trả
21869
49,29
20684
46,29
-1185
-5,41
+ Nợ ngắn hạn
13309
30
16469
36,86
+3160
+23,7
+ Nợ dài hạn
8560
19,29
4215
9,43
-4345
-50,7
Nguồn: Phòng kế toán của công ty.
Tương ứng với mỗi quy mô sản xuất kinh doanh nhất định đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn này thể hiện nhu cầu vốn thường xuyên của doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục. Tương ứng với lượng vốn đó tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp lại có nguồn hình thành khách nhau, với quy mô thích hợp để tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
Căn cứ vào số liệu của biểu 01 chúng ta có thể đánh giá khái quát tình hình tổ chức vốn sản xuất kinh doanh và nguồn hình thành vốn của công ty. Năm 2001 tổng số vốn sản xuất kinh doanh của cylà 44,684 tỷ đồng so với năm 2000 là 44,369 tỷ đồng. Như vậy tổng số vốn sản xuất kinh doanh tăng 315 triệu đồng (44,684 - 44,369) với tỷ lệ tăng tương ứng là 0,71%. Số vốn tăng phản ánh quy mô vốn của doanh nghiệp đã tăng, việc tăng quy mô vốn do mức tăng cả vốn cố định và vốn lưu động.
Trong năm 2001. VCĐ của công ty là 23,235 tỷ đồng chiếm 52% vốn sản xuất kinh doanh, đã tăng lên so với năm 2000 là 137 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 0,59%. Việc tăng VCĐ là do công ty đã chú trọng tới việc trang bị thêm TSCĐ để nâng cao năng lực sản xuất và năng lực sản xuất và năng lực quản lý. Cụ thể năm 2001 TSCĐ dùng cho nhà cửa, vật kiến trúc tăng 237,64 triệu đồng, tăng 4% chủ yếu là do công ty đầu tư xây dựng chi nhánh ở miền Nam và đầu tư cho sửa chữa nhà kho. Việc đầu tư đúng mức này là do công ty đã quan tâm với việc mở rộng thị trường, tăng khả năng tiêu thụ của công ty, TSCĐ dùng trong sản xuất như máy móc thiết bị tăng 353,662 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,8%, phương tiện vận tải tăng 179,116 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 8,5%. Số tăng này công ty dành cho việc mua sắm máy móc thiết bị như động cơ điện ba pha, máy bơm, nâng cấp một số dây truyền sản xuất hay phương tiện vận tải.
Về VLĐ, năm 2001 tăng 178 triệu đồng so với năm 2000 tỷ lệ tăng là 0,83%. Việc tăng VLĐ này là do doanh nghiệp đã huy động được tiền nhàn rỗi của công nhân viên làm tăng tiền mặt cho công ty, ngoài ra do có uy tín cao trên thị trường nên công ty đã tận dụng được uy tín của mình làm tăng nguồn vốn, đẩy nhanh vòng quanh của VLĐ. Điều đó chứng tỏ rằng công ty có mối quan hệ tốt với cả người mua và người bán.
Với cơ cấu vốn có sự thay đổi. Như vậy nguồn hình thành của công ty cũng có sự biến động. Đối với vốn CSH ta thấy năng lực tài chính của doanh nghiệp năm 2001 là khá cao so với số tiền là 24 tỷ đồng chiếm 53,71% trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh. Hơn nữa số vốn số vốn này tăng so với năm 2000 là 1500 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 6,7%. Việc tăng vốn CSH chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh của công ty rất có hiệu quả. Bên cạnh đó, năm 2001 tổng số nợ phải trả của công ty là 20,684 tỷ đồng chiếm 46,29% tổng nguồn vốn, giảm so với năm 2000 là 1185 triệu đồng với tỷ lệ giảm 5,41% (khoản nợ phải trả này là những khoản ngắn hạn, phải trả người bán, người mua trả tiền trước, các khoản phải trả công nhân viên, nộp ngân sách, các khoản phải trả khác). Trong đó nợ ngắn hạn trong năm 2001 tăng so với năm 2000 là 3160 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 23,7%. Đâylà những khoản mà công ty chiếm dụng được trong quá trình kinh doanh cho nên công ty cần thận trọng khi sử dụng nguồn vốn này. Bởi trong thời gian cho phép thì nguồn vốn trở nên hữu dụng công ty chỉ có thể sử dụng vào mục đích tạm thời, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả theo phát luật. Nợ dài hạn năm 2001 là 8560 giảm đáng kể trong năm 2001 mức giảm là 4345 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 50,7%.
Do đặc điểm của sản xuất nên công ty luôn cần một số lượng làm vốn lưu động, thường chiếm hơn 70% tổng vốn kinh doanh của công ty. Nhìn trên bảng ta thấy lượng vốn lưu động có xu hướng tăng lên. Điều này thể hiện công ty đang có sự mở rộng về quy mô sản xuất.
Mặc dù chi hàng năm công ty được Nhà nước cấp bổ sung vốn lưu động song với số lượng ít nên chưa đáp ứng được tính hình sản xuất kinh doanh của công ty. Do vậy, công ty phải đi vay thêm ngân hàng để tăng thêm nguồn vốn của mình.
Biểu 2: Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2000
2001
Hiệu quả sử dụng VCĐ
Tr. đồng
0,12
0,9
Hiệu quả sử dụng TSCĐ
Tr. đồng
0,32
0,25
Tốc đô luân chuyển VCĐ
Vòng
8,3
10,6
Số ngày 1 vòng luân chuyển
Ngày
43,3
33,9
Nguồn: Số liệu hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Trên bảng ta thấy tình hình sử dụng vốn là tốt, số vòng quay của vốn cao. Vì do tình hình thị trường không có sự biến động không gây ảnh hưởng đến hiện kế hoạch của công ty. Bộ máy quản lý hoạt động tốt phát huy được hết khả năng của mình.
Vậy để tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn, hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra và đảm bảo tốc độ tăng trưởng công ty đang hoàn thiện toàn bộ máy tổ chức, dự báo sự biến động của môi trường kinh doanh nhằm hạn chế tối đa, rủi ro và nguy cơ bất ngờ có thể xảy ra.
b. Đặc điểm về nguyên vật liệu.
Với đặc điểm của công ty sản xuất bánh kẹo là chủ yếu vì vậy nguyên liệu, thành phần chính để tạo nên sản phẩm rất đa dạng và phức tạp. Vật liệu của công ty vừa phải nhập khẩu vừa mua trong nước. Các loại vật liệu phải nhập khẩu như bột mỳ, bao bì, bao gói sản phẩm...
c. Đặc điẻm về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hiện nay công ty có 3 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng bột canh, phân xưởng bánh và phân xưởng kẹo.
Phân xưởng bột canh là phân xưởng với 2 dây chuyền sản xuất bột canh thường và bột canh Iot có đặc điểm sản xuất chủ yếu bằng thủ công máy móc thô sử dụng, nhưng hiệu quả đem lại khá cao.
Sơ đồ 1: Quy trình công nghệ của phân xưởng bột can.
- Bột canh Iot.
Nhập muối tinh
Bột Iot
Trộn phụ gia
Bột gói đóng hộp
- Bột canh thường.
Giang muối
Xay nghiền
Sàng lọc
Trộn phụ gia
Bao gói + đóng gói
Phân xưởng bánh: Có đặc điểm sản xuất tự động, chỉ ở công đoạn cuối (bao gói) là bằng thủ công đó là 2 dây chuyền sản xuất bánh kem xốp và bánh kem xốp phủ sôcôla.
Sơ đồ 2: quy trình công nghệ của phân xưởng bánh.
Trộn bột mỳ
Trộn bột nước bánh
Phiết kem
Làm lạnh
Chọn cốt
Bao gói
Bánh vụn
Trộn NL phụ
Bao phủ
Đun mỡ
Trộn NVL phụ
Giữ nhiệt
Làm lạnh
Bán thành phẩm
Định hình cắt
Bao gói
Phân xưởng kẹo là phân xưởng thay đổi hoàn toàn về máy móc thiết bị sản xuất, trước đây sản xuất chủ yếu bằng thủ công. Cuối năm 1996 công ty nhập 2 dây chuyền sản xuất kẹo cứng và kẹo mềm của Cộng hòa Liên Bang Đức. Đây là 2 dòng truyền hiện đại có công suất cao.
Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ sản xuất của phân xưởng kẹo.
Nhân kẹo
Phối trộn NL
Nấu kẹo
Bàn làm nguội
Quấn kẹo
Định nhiệt
Vuốt lăn côn
Vuốt dây kẹo
Trộn NL
Nấu kẹo
Nhân + hương liệu
Nhào bột
Vuốt thô dây kẹo
Dập viên kẹo
Cắt vỡ gói kẹo
Bao gói
Làm nguội
Bao gói
1.2.2. Lao động và cơ cấu tổ chức của công ty.
a. Đặcđiểm về lao động.
Lực lượng lao động là yếu tố cơ bản quyết định sự thành đạt hay thất bại của một doanh nghiệp. Công ty bánh kẹo Hải Châu có lực lượng lao động dồi dào, ổn định và có xu hướng tăng trong một số năm gần đây. Lực lượng lao động của công ty được chia làm 2 bộ phận là lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp chiếm phần lớn, khoảng 87%-88% so với tổng lao động của toàn công ty. Số lao động này tập trung chủ yếu ở 4 phân xưởng sản xuất chính và phân xưởng sản xuất phụ trợ.
Năm 2001 tổng lao động của công ty là 905 người, trong đó:
+ Lao động trực tiếp 796 người.
+ Lao động gián tiếp 109 người.
(Trong đó nhân viên quản lý: 40 người).
Tỷ lệ lao động gián tiếp chiếm 12-13% so với lực lượng lao động toàn công ty. Trong số đó, số lượng nhân viên quản lý thường chiếm từ 4-5% so với tổng số lao động của toàn công ty, tỷ lệ này có xu hướng giảm xuống. Lao động gián tiếp của công ty bao gồm ban giám đốc, phòng - ban chức năng, đội ngũ nhân viên phục vụ. Lực lượng lao động này của công ty có trình độ chuyên môn cao, mọi người đều có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Lao động gián tiếp bao gồm lao động công nhân và lực lượng lao động công nhân kỹ thuật. Tỷ lệ lao động nữ trực tiếp chiếm từ 70-73%. Tỷ lệ này tương đối cao nhưng phù hợp với sản xuất bánh kẹo ở các khâu bao gói thủ công, công nhân thường chịu khó, khéo tay và cần cù. Tuy nhiên công nhân nữ cũng có những mặt hạn chế, thai sản, nuôi con ốm... làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nói chung Công ty bánh kẹo Hải Châu có lực lượng lao động.
Biểu 3: Cơ cấu lao động của công ty qua một số năm từ 1999-2001
Đơn vị: Người
Năm
Chỉ tiêu
Năm 1999
2000
2001
SL (người)
Tỷ trọng %
SL (người)
Tỷ trọng %
SL (người)
Tỷ trọng %
Tổng số CNV
639
100
745
100
848
100
Công nhân SXTT
477
74,7
609
81,7
0
82,5
Công nhân SXGT
162
25,3
136
18,25
130
15,3
Nhân viên quản lý
105
16,4
86
11,5
80
9,4
Nhân viên phục vụ
37
8,9
50
6,7
48
5,6
Nguồn: Số liệu phòng tổ chức lao động của công ty.
Biểu 4: Trình độ tay nghề của công nhân.
Loại hình
Tổng số
Bậc thợ
Bình quân
Từ 1-3
Từ 4-5
Bậc 6
Bậc 7
Cơ khí
78
4,7
17
49
10
2
Điện
6
5,2
1
2
2
1
Công nghệ thực phẩm
386
4,7
46
247
73
Tổng cộng
470
4,71
Nguồn: Số liệu phòng kỹ thuật của công ty.
Khá mạnh, cả lực lượng lao động gián tiếp và trực tiếp. Nếu lực lượng tốt sẽ nâng cao được hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất sản phẩm đưa ra sản phẩm mới ra thị trường.
b. Đặc điểm về cơ cấutổ chức bộ máy của công ty.
Hiện nay Công ty bánh kẹo Hải Châu tổ chức mô hình quản lý theo phương pháp kết hợp giữa trực tuyến và chức năng. Do công ty sử dụng cả 2 hình thức quản lý kết hợp nên thể hiện được cả tỉnh tập trung hóa và phi tập trung hóa, tận dụng được ưu điểm cũng như hạn chế được nhược điểm của 2 phương pháp quản lý này. Bộ máy quản lý của công ty gồm có: 1 giám đốc, 2 phó giám đóc, một kế toán trưởng, 5 phòng và 2 ban. Chức năng và nhiệm vụ được xác định như sau:
* Ban giám đốc, phụ trách chung và phụ trách các mặt công tác cụ thể sau:
+ Công tác tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương...
+ Công tác kế hoạch vật tư và tiêu thụ.
+ Công tác tài chính thống kê kế toán.
+ Tiến bộ kỹ thuật và đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất: giúp việc cho giám đốc các công tác về kỹ thuật, công tác nâng cao bồi dưỡng trình độ công nhân, công tác BHLĐ, điều hành kế hoạch tác nghiệp của các phân xưởng.
- Phó giám đốc kinh doanh, giúp việc cho giám đốc các công tác về kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, công tác hành chính quản trị và bảo vệ.
- Kế toán trưởng: phụ trách vấn đề tài chính của công ty.
* Các phòng ban:
- Phòng tổ chức lao động: Tổ chức bộ máy điều độ tiến độ sản xuất, tổ chức cán bộ, lao động tiền lương, soạn thảo các nội quy, quy chế quản lý các quyết định công văn, chỉ thị về lao động, tuyển dụng đào tạo, BHLĐ, giải quyết các chế độ chính sách.
- Phòng kỹ thuật: Theo dõi thực hiện các quy trình công nghệ đảm bảo chất lượng sản phẩm, nghiên cứu tạo sản phẩm mới, theo dõi lắp đặt, sửa chữa thiết bị đưa ra dự án mua sắm thiết bị mới.
- Phòng kế hoạch vật tư: Xác định kế hoạch chiến lược ngắn hạn, dài hạn, kế hoạch tác nghiệp, điều độ sản xuất hàng ngày, cung ứng vật tư tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng hành chính: Theo dõi thực hiện các mặt hành chính, quản trị đời sống, y tế sức khỏe.
- Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho giám đốc về công tác kế toán tài chính. Góp phần quan trọng vào việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm trước công ty về hoạt động kế toán tài chính.
- Ban bảo vệ: Tổ chức công tác nội bộ, công tác tự vệ và nghĩa vụ dân sự.
- Ban xây dựng cơ bản: Lập kế hoạch xây dựng thực hiện sửa chữa nhỏ trong công ty.
Giám đốc công ty
Kế toán trưởng
Phó giám đốc KD
Phó GD kỹ thuật
Phòng KHVT
Phòng tài vụ
Phòng kỹ thuật
Ban
bảo vệ
Ban KTCB
Phòng
tổ chức
Phòng
tổ chức
Phân xưởng bánh I
Phân xưởng bánh II
Phân xưởng bánh III
Phân xưởng kẹo
Phân xưởng bột canh
Phân xưởng cơ điện
Bộ phận in phun
1.3. Các sản phẩm kinh doanh của công ty.
Hiện nay Công ty bánh kẹo Hải Châu có nhiệm vụ chủ yếu sản xuất kinh doanh các mặt hàng chủ yếu sau:
- Kinh doanh các sản phẩm bánh kẹo.
- Kinh doanh sản phẩm mì ăn liền.
- Kinh doanh bột gia vị.
Công ty bánh kẹo Hải Châu là một công ty lớn trong tổng công ty và là một trong số ít các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi. Công ty đã tạo được uy tín với người tiêu dùng nhất là khu vực miền Bắ và miền Trung với sản phẩm truyền thống như bánh kem xốp, bột canh. Hiện nay công ty có hệ thống đại lý với hơn 150 đầu mối chiếm 61 tỉnh trong cả nước.
Chương 2
Thực trạng công tác tiền lương và các khoản trích theo lương của Công ty bánh kẹo Hải Châu
2.1. Bản chất của tiền lương và các hình thức trong doanh nghiệp nói chung.
2.1.1. Bản chất của tiền lương.
a. Khái niệm.
Theo từ điển thống kê của nước ta năm 1977 tiền lương được định nghĩa như sau: "Tiền lương là số tiền rả cho người công nhân viên chức theo số lượng và chất lượng lao động của họ đã đóng góp" hay nói cách khác: "Tiền lương là giá cả của sức lao động. Giá trị của sức lao động thể hiện ở khả năng lao động của con người về thể chất và trí tuệ".
Khái niệm tiền công hay tiền lương chỉ mang tính quy ước, do đó nó là giá cả sức lao động mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo thỏa thuận để hoàn thành một công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định thông qua hoạt động lao động. Như vậy tiền lương là nguồn sống chủ yếu của người lao động và gia đình họ.
Việc xác định chính xác tiền lương là một công việc phức tạp đòi hỏi những số liệu chi tiết và chính xác thông qua quá trình quan sát đo lường tính toán và ghi chép các hoạt động nhằm thực hiện chức năng giám sát, phản ánh các hoạt động kinh tế.
b. Bản chất của tiền lương.
Về bản chất tiền lương chính là giá cả của hàng hóa đặc biệt đó là hàng hóa sức lao động. Nghĩa là người lao động bỏ sức của mình ra để hoàn thành một sản phẩm hàng hóa nào đó và được trả một số tiền nhất định.
Trong cơ chế thị trường bản chất của tiền lương chính là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thỏa thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Tiền lương là một vấn đề thiết thân đối với đời sống cán bộ công nhân viên chức. Tiền lương được quy định một cách đúng đắn là một yếu tố kích thích sản xuất mạnh mẽ đẩy mạnh công cuộc xây dựng XHCN. Nó khuyến khích mỗi người ra sức sản xuất làm việc nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất tăng nhanh năng suất lao động.
c. Chức năng của tiền lương.
Hiện nay nền kinh tế thị trường để phát huy hết hiệu quả kinh tế của tiền lương tác động lên người lao động thì tiền lương phải đảm bảo các chức năng sau.
Chức năng tái sản xuất sức lao động: lao động là một trong ba yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Sức lao động là một dạng công nằm tồn tại trong cơ thể con người. Trong quá trình tạo ra sản phẩm con người phải hao phí sức lao động của mình và do vậy tiền lương phải đảm bảo bù đắp khoản hao phí này để tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu tất yếu, là cơ sở tối thiểu để đảm bảo sự tác động trở lại của phân phối tới sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất tiền lương cần thiết phải đủ để nuôi sống người lao động và gia đình họ mới đảm bảo tái sản xuất ra lực lượng sản xuất xã hội. Như vậy quá trình tái sản xuất xã hội sẽ không được đảm bảo cho quá trình tái sản xuất sức lao động cả về thể lực lẫn tinh thần. Đây là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho quá trình tái sản xuất xã hội được phát triển.
Vai trò kích thích sản xuất: Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội nhất định, nó là động cơ thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người.
Lợi ích kinh tế tạo ra động lực mạnh mẽ kích thích sự hoạt động của con người. Đồng thời lợi ích kinh tế như một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kinh tế - xã hội. Nhu cầu của con người tạo ra động cơ thúc đẩy họ tham gia lao động song chính lợi ích của họ mới là động lực trực tiếp thúc đẩy họ làm việc với hiệu quả cao. Do đó chính sách tiền lương đúng đắn sẽ là động lực to lớn phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc chi trả lương phải nhằm mục đích thúc đẩy mà khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động.
d. Nguyên tắc trả lương.
Như đã nói ở trên tiền lương lao động biểu hiện rõ ràng nhất lợi ích kinh tế của người lao động và trở thành đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ nhất để khích thích người lao động. Tuy nhiên để có thể phát huy được những chức năng cơ bản của tiền công thì việc trả công phải dựa trên nguyên tắc cơ bản sau:
Tiền lương phải đảm bảo tài sản xuất sắc lao động: tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Bởi vậy độ lớn của tiền lương không những phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng về số lượng và chất lượng lao động mà còn phải đảm bảo nuôi sống gia đình họ.
Tiền lương phải chịu trên cơ sở thỏa thuạn giữa người có sức lao động và người sử dụng sức lao động: Nguyên tắc này bắt nguồn từ pháp lệnh hợp đồng lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Song mức độ tiền lương phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu (tức là số tiền trả cho loại lao động giản đơn nhất trong xã hội).
Tiền lương trả cho người lao động phải phụ thuộc vào hiệu quả lao động của người lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Nguyên tắc này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa tái sản xuất và tiền dùng trong đó sản xuất đóng vai trò quan trọng.
e. Các chính sách tiền lương của nhà nước ta hiện nay.
Tiền lương giữ vai trò quan trọng to lớn trong vấn đề kích thích sản xuất. Chính vì vậy trong nhiều năm Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu, xây dựng và nhiều lần sửa đổi chế độ tiền lương, thu nhập các bộ công nhân viên sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cơ chế quản lý của từng thời kỳ: Từ sau Đại hội VI của Đảng do Nhà nước chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì chế độ tiền lương cũng thay đổi. Tháng 05 năm 1993 Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã ban hành các Quyết định số 69/QĐ-TW và Ban Bí thư TW Đảng, số 35/UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Quyết định số 28/CP của Hội đồng Chính phủ về việc ban hành chế độ tiền lương cho người lao động.
Nhà nước ban hành các chính sách chế độ tiền lương để giúp cho các doanh nghiệp có thể dựa vào đó để có chế độ trả lương đúng đắn. Tuy nhien người chủ sử dụng lao động phải dựa vào đặc điểm của quá trình lao động, yêu cầu của quá trình lao động về tính chất của sản phẩm để lựa chọn hình thức trả lương cho phù hợp. Hình thức trả lương phải được áp dụng sao cho đảm bảo việc tuân thủ theo quy định phân phối lao động theo hoạt động một cách nghiêm ngặt và kích thích người lao động tích cực làm việc.
Mức lương tối thiểu.
Năm 1994 quy định mức lương tối thiểu ở nước ta là 120.000 đồng/ tháng. Năm 1997 là 144.000đ/ tháng. Năm 2000 là 180.000đ/ tháng. Mức lương tối thiểu của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay được điều chỉnh theo ngành, vùng nhưng phần phát triển thêm không được quá tối đa 1,5 lần so với mức tối thiểu chung do Nhà nước quy định (NĐ số 77/2000/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2000 quy định mức lương tối thiểu là 210.000đồng/ ngày/ tháng Nhà nước khống chế mức lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương tối đa mà điều tiết bằng thu nhập. Việc khống chế mức lương tối thiểu có nghĩa là: Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích tối thiểu cho người lao động. Nếu doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh thua lỗ để người lao động có thu nhập dưới mức lương tối thiểu thì Nhà nước can thiệp, kiểm tra xem xét thay đổi cán bộ lãnh đạo giúp đỡ doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất, sát nhập với xí nghiệp khác hoặc thậm chí cho phá sản. Đối với người lao động có thu nhập quá cao sẽ được điều tiết bằng thuế thu nhập.
Chế độ phụ cấp.
Các chế độ phụ cấp thực chất là phần tiền lương bổ sung cho lương cơ bản mà trong khi xác định tiền lương cơ bản có những yếu tố người ta chưa tính đến hoặc đã tính đến nhưng chưa đầy đủ. Chế độ phụ cấp nhằm đãi ngộ điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt không ổn định thường xuyên của người lao động. Tổng các khoản phụ cấp chỉ được tính bằng 18% lương cơ bản.
Tiền phụ cấp = lương cơ bản x mức % phụ cấp.
Hiện nay ở nước ta đang áp dụng một số hình thức phụ cấp sau:
Phụ cấp khu vực: Là phụ cấp nhằm đãi ngộ hợp lý và khuyến khích cán bộ công nhân viên công tác ở các vùng được hưởng chế độ phụ cấp khu vực như: Hải Đảo, vùng sâu, vùng xa... Đồng thời góp phần điều chỉnh lao động giữa các vùng trong xã hội lẫn nhau. Chế độ phụ cấp khu vực có 5 cấp độ: 5%, 10%, 15%, 20%, 25%.
Phụ cấp độc hại: Là số tiền trả thêm cho những người làm việc trong môi trường độc hại vượt quá mức cho phép.
Tiền phụ cấp = x mức % phụ cấp x thời gian.
Phụ cấp làm thêm, làm đêm: Đây là số tiền để bồi dưỡng động viên cán bộ công nhân viên khi cần thiết phải làm thêm giờ, làm đêm.
Tiền phụ cấp =
Chế độ tiền thưởng.
Tiền thưởng là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động đồng thời nó cũng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Mỗi hình thức, mỗi chế độ tiền thưởng đến phản ánh một nội dung kinh tế nhất định. Căn cứ vào trình độ tổ chức sản xuất tổ chức lao động và trình độ kỹ thuật cụ thể để vận dụng thích hợp các hình thức và chế độ tiền thưởng. Khi xét các chỉ tiêu xét thưởng cũng như các chỉ tiêu đánh giá thành tích nhất thiết phải coi trọng chỉ tiêu chất lượng và chỉ tiêu số lượng không được coi nhẹ bất kỳ chỉ tiêu nào. Khi xét mức thưởng của mỗi cán bộ công nhân viên được hưởng cao hay thấp là phụ thuộc vào mức độ thành tích hiệu quả làm việc của công nhân. Tuy nhiên tổng tiền lương bao giờ cũng nhỏ hơn tổng giá trị làm lợi. Hiện nay theo quy định của nhà nước quỹ tiền thưởng không được quá 50% tổng quỹ lương thực hiện của đơn vị (trích điều 3 Quyết định 317-CP ngày 01/09/1990 của CTHĐBT). Quỹ tiền thưởng hiện nay được hình thành từ 2 nguồn thuộc quỹ tiền lương và quỹ khuyến khích vật chất. Nói chung quỹ tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền thưởng là lợi ích vật chất khuyến khích người công nhân quan tâm đen\én kết quả công việc và trách nhiệm của mình hơn nữa. Nếu biết áp dụng tốt chế độ thưởng các doanh nghiệp có thể đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
2.1.2. Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
Hoạt động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân bao gồm sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, vận tải, bưu điện, thương nghiệp xây dựng cơ bản... hoạt động kinh doanh của các đơn vị thuộc các lĩnh vực này cũng có những đặc thù khác nhau. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải dựa vào đặc điểm về điều kiện sản xuất cụ thể của mình để áp dụng các hình thức trả lương cho thích hợp. Hiện nay có 2 hình thức trả lương cơ bản sau:
a. Hình thức trả lương theo thời gian.
Tiền lương trả theo thời gian chỉ áp dụng đối với những người làm công tác quản lý còn đối với công nhân sản xuất chỉ áp dụng ở những bộ phận không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất của sản xuất hạn chế nên thực hiện trả công theo sản phẩm thì sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực.
- Hình thức này có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức tiền lương trả theo sản phẩm, bởi vì nó chưa gắn thu nhập của mỗi người với kết quả lao động mà họ đã đạt được trong thời gian làm việc. Hình thức trả lương theo thời gian gần 2 chế độ.
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn, chế độ này là ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32249.doc