Lời nói đầu
T
ừ sản xuất đến tiêu dùng- đó là một con đường gian truân, một bài toán hóc búa cho các Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay nước ta đã bỏ hẳn chế độ hành chính quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và không còn thời của "Trăm người bán vạn người mua" nữa mà bây giờ "Khách hàng là Thượng đế". Do vậy, để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường các Doanh nghiệp phải có được những
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Doanh nghiệp sản xuất - Lấy ví dụ Minh hoạ tại Công ty Dệt kim Đông Xuân Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm đạt tiêu chuẩn về chất lượng và hài lòng về mặt tâm lý của khách hàng.
Đi đôi với sự đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế, sự đổi mới của hệ thống kế toán Doanh nghiệp đã tạo ra cho kế toán một bộ mặt mới, khẳng định được vị trí của kế toán trong các công cụ quản lý.
Đối với các Doanh nghiệp sản xuất hiện nay, việc quản lý thành phẩm và quá trình tiêu thụ được xem như là khâu trọng yếu của quá trình sản xuất kinh doanh cũng phải kịp thời đổi mới các bước, các biện pháp quản lý cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Công tác kế toán tiêu thụ thành phẩm phải đảm bảo quản lý được các loại thành phẩm, hàng hoá và xác định các chỉ tiêu khác của khâu tiêu thụ làm cơ sở đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp từ đó giúp Doanh nghiệp có những hướng đi mới trong tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm, em đã đi sâu tìm hiểu và lựa chọn đề tài "Hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Doanh nghiệp sản xuất - Lấy ví dụ minh hoạ tại Công ty Dệt kim Đông Xuân Hà Nội" để hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được trình bày với bố cục như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kế toán tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình thực tế về công tác tổ chức kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Chương III: Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Chương I
Cơ sở lý luận chung về kế toán tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp
1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường và vai trò của tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp.
1.1 Khái quát đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao khi sản xuất hàng hoá mang tính phổ biến, bản thân sức lao động cũng trở thành hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành hình thức nội tại của sản xuất xã hội. Nói một cách khác đó là nền kinh tế mà mọi quan hệ kinh tế - xã hội cơ bản được giải quyết thông qua thị trường và cơ chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường mang những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính tự chủ của các chủ thể trong nền kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Họ được tự do liên doanh, liên kết tự do tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường.
- Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường rất phong phú và đa dạng. Người ta tự do mua, bán hàng hoá, người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Khách hàng giữ một vai trò quan trọng, vì vậy người bán phải tìm cách khơi dậy nhu cầu của người mua.
- Cạnh tranh là quy luật vốn có của nền kinh tế này. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tồn tại dưới ba hình thức: Cạnh tranh giữa những người bán, Cạnh tranh giữa những người mua và Cạnh tranh giữa người mua với người bán. Hình thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng chính là lợi nhuận.
- Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ là thước đo hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Quan hệ hàng hoá trở thành quan hệ quan hệ thống trị tyệt đối.
- Giá cả thị trường là phạm trù trung tâm, là bàn tay vô hình điều tiết và kích thích nền sản xuất xã hội. Có thể nói rằng cơ chế giá là hệ thống thần kinh của nền kinh tế thị trường mà trong nó chứa đựng chức năng thông tin, khuyến khích và phân phối.
- Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế, các Doanh nghiệp, người tiêu dùng lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, lựa chọn hướng tiêu dùng và định hướng các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Có thể nói rằng nền kinh tế thị trường có khả năng tự động tập hợp được một loạt các hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người nhằm hướng tới lợi ích chung của xã hội đó là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Bên cạnh những mặt tích cực đó chúng ta cũng không thể phủ nhận được những mặt hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường như các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích của riêng mình nên các vấn đề môi trường sinh thái không được quan tâm, bảo vệ đúng mức. Hơn nữa, cạnh tranh khó tránh khỏi sự lừa gạt, phá sản và thất nghiệp...tất cả đã gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định về xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta, dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế - xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao.
Các Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật Cung - Cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả...được tự do lựa chọn ngành hàng kinh doanh, mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với khả năng của mình, song cũng không được vượt quá giới hạn cho phép của luật pháp. Do có sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, Doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, phải quan tâm tới nhu cầu của khách hàng để làm sao cung cấp cho họ những sản phẩm dịch vụ hoàn hảo nhất cả về mẫu mã, chất lượng, giá cả lẫn phong cách phục vụ, có như vậy Doanh nghiệp mới nâng cao được doanh số bán ra và đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1.2 Vai trò của hoạt động tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp sản xuất.
Tiêu thụ thành phẩm là việc đưa thành phẩm từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh vực lưu thông để thực hiện việc tiêu dùng theo những mục đích đã xác định khi bắt đầu sản xuất. Quá trình tiêu thụ thành phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của thành phẩm thông qua quan hệ trao đổi. Thực hiện quan hệ này Doanh nghiệp chuyển nhượng cho người mua thành phẩm của mình và thu lại ở người mua số tiền hàng tương ứng với giá trị cuả số thành phẩm đó hay nói cách khác Doanh nghiệp mất quyền sở hữu về hàng hoá và nắm quyền sở hữu về tiền tệ hoặc có quyền được đòi tiền ở khách hàng.
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất để thực hiện giá trị thành phẩm, hàng hoá, lao vụ cho khách hàng, được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Nó là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Sản phẩm làm ra được tiêu thụ thì tính chất hữu ích của nó mới được xác định. Nghĩa là khi đó giá trị và giá trị sử dụng mới được thực hiện, lao động của người sản xuất hàng hoá nói riêng của toàn xã hội nói chung mới được xã hội thừa nhận.
Hoạt động tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp sản xuất được thực hiện thông qua hoạt động bán hàng, nhờ đó hàng hoá được chuyển thành tiền thực hiện vòng chu chuyển vốn trong Doanh nghiệp và chu chuyển tiền tệ trong xã hội đảm bảo phục vụ cho nhu cầu xã hội. Hoạt động tiêu thụ có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà Doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy vòng quay của quá trình tái sản xuất xã hội, qua đó mở rộng quy mô kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cuả Doanh nghiệp. Hoạt động tiêu thụ là thước đo để đánh giá sức mạnh và tiềm năng trong sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi Doanh nghiệp sản xuất áp dụng những biện pháp tiêu thụ đúng đắn thì doanh số bán ra sẽ tăng lên từ đó mở rộng thị trường, khẳng định được uy tín và vị thế của mình trên thương trường đồng thời cũng là nguồn động viên lớn đối với người lao động giúp họ phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong công việc trên cơ sở đó tăng năng suất lao động của từng nhân viên.
Mặt khác có tiêu thụ sản phẩm Doanh nghiệp mới có điều kiện để bù đắp những chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh. Đồng thời thông qua tiêu thụ sản phẩm Doanh nghiệp mới có thể thực hiện được giá trị của lao động thặng dư, biểu hiện lợi nhuận thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các Doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Bởi vì thực hiện tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá là tiền đề cho cân đối sản xuất và tiêu dùng, cân đối tiền hàng trong lưu thông cũng như cân đối giữa các nghành, các khu vực trong nền kinh tế.
2. Đặc điểm của nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm
2.1. Đối tượng khách hàng và mặt hàng tiêu thụ
2.1.1. Mặt hàng tiêu thụ.
Các mặt hàng tiêu thụ trong Doanh nghiệp sản xuất có thể là thành phẩm, bán thành phẩm.
Thành phẩm là sản phẩm đã qua tất cả các giai đoạn chế biến trong Doanh nghiệp được kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn quy định được nhập kho hoặc giao cho khách hàng.
Thành phẩm là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất trong Doanh nghiệp nó là tài sản dự trữ cho lưu thông. Những sản phẩm mới qua một số bước chế biến trong Doanh nghiệp có thể bán ra thị trường hoặc có thể là đối tượng chế biến cho các giai đoạn khác thì gọi là bán thành phẩm. Thành phẩm và bán thành phẩm đã giao cho khách hàng và được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì được gọi là sản phẩm tiêu thụ.
Sản phẩm hàng hoá là sản phẩm đã được bày bán trên thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Khi sản phẩm hàng hoá được bán cho khách hàng và khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì lúc đó sản phẩm hàng hoá được coi là sản phẩm hàng hoá thực hiện.
Như vậy, sản phẩm tiêu thụ và sản phẩm hàng hoá thực hiện là những sản phẩm đã chuyển quyền sở hữu cho khách hàng, chênh lệch giữa giá bán và giá vốn của bộ phận sản phẩm tiêu thụ là cơ sở tạo ra kết quả của quá trình tiêu thụ sản phẩm.
2. 1.2 Đối tượng khách hàng.
Đối tượng khách hàng của Doanh nghiệp sản xuất rất phong phú và đa dạng. Đó có thể là các Doanh nghiệp sản xuất mua các sản phẩm về để tiếp tục sản xuất sau đó đem bán ra thị trường hoặc cũng có thể là các Doanh nghiệp thương mại mua về để chuyển bán cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Cũng có khi đối tượng khách hàng của Doanh nghiệp lại là các Doanh nghiệp hoặc các tổ chức cơ quan mua về để tiêu dùng nội bộ. Ngoài ra đối tượng khách hàng của Doanh nghiệp còn là các hộ sản xuất kinh doanh mua về để tiếp tục sản xuất và chuyển bán hoặc bán lẻ cho các đối tượng cá nhân người tiêu dùng có nhu cầu hoặc là các cá nhân trực tiếp mua về để tiêu dùng. Với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau Doanh nghiệp có thể áp dụng các phương thức, hình thức bán, phương thức hình thức thanh toán khác nhau.
Nói tóm lại đối tượng khách hàng của các Doanh nghiệp sản xuất là các đối tượng bán buôn, bán lẻ, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của Doanh nghiệp. Thông thường đối tượng bán chủ yếu của Doanh nghiệp là các Doanh nghiệp khác. Các Doanh nghiệp này thường mua với khối lượng lớn để làm nguyên liệu cho sản xuất hoặc sau đó chuyển bán lại cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu hoặc trực tiếp bán lẻ.
2.2 Các phương thức tiêu thụ thành phẩm
2.2.1 Phương thức bán buôn.
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị sản xuất hoặc các đơn vị thương mại để tiếp tục chuyển bán hay đưa vào quá trình sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm mới để bán. Đặc trưng của phương thức bán buôn là sản phẩm hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, khối lượng hàng luân chuyển nhiều, việc thanh toán tiền hàng được tiến hành thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Đối với Doanh nghiệp sản xuất do có những điểm khác biệt so với Doanh nghiệp thương mại nên phương thức bán buôn của Doanh nghiệp chỉ có hình thức bán buôn qua kho. Theo phương thức này sản phẩm được đưa từ kho của Doanh nghiệp bán cho khách hàng. Khi hoàn thành thủ tục giao nhận cho bên mua thì nghiệp vụ bán buôn coi như kết thúc.
Bán buôn qua kho có 2 hình thức: Bán buôn theo hình thức gửi hàng và Bán buôn theo hình thức nhận hàng trực tiếp.
Bán buôn theo hình thức gửi hàng: Theo hình thức này căn cứ vào hơp đồng đã ký kết, thành phẩm được xuất kho gửi đi cho bên mua theo địa điểm đã thoả thuận trong hợp đồng. Sản phẩm được chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp. Số sản phẩm này được xác nhận là tiêu thụ khi nhận được tiền do bên mua thanh toán hoặc nhận được giấy báo của bên mua đã nhận được hàng chấp nhận thanh toán hoặc thanh toán ngay.
Bán buôn theo hình thức nhận hàng trực tiếp: Theo hình thức này người mua căn cứ vào hợp đồng mua, bán mà hai bên đã ký kết cử đại diện tới nhận hàng trực tiếp taị kho của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại diện của bên mua. Sau khi bên mua nhận đủ hàng, đã thanh toán hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
2.2.2 Phương thức bán lẻ.
Bán lẻ là phương thức mà sản phẩm được cung cấp trực tiếp cho người tiêu dùng. Trong phương thức này khối lượng hàng hoá giao dịch nhỏ, sản phẩm hàng hoá tách khỏi lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị của sản phẩm hàng hoá được thực hiện hoàn toàn. Việc thanh toán tiền hàng thường được thanh toán ngay bằng tiền mặt. Thông thường các Doanh nghiệp tổ chức bán lẻ thông qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Doanh nghiệp.
Có 3 hình thức bán lẻ: Bán lẻ thu tiền tập trung, Bán lẻ thu tiền trực tiếp và Bán hàng tự phục vụ.
Bán lẻ thu tiền tập trung: Đây là hình thức bán hàng mà nghiệp vụ thu tiền và giao hàng tách rời nhau. Nhân viên thu ngân viết hoá đơn và thu tiền hàng. Nhân viên bán hàng giao hàng cho người mua. Cuối ca, cuối ngày nhân viên thu ngân phải nộp tiền cho thủ quỹ và nhân viên bán hàng lập báo cáo bán hàng nộp cho kế toán để tổng hợp xử lý.
Bán lẻ thu tiền trực tiếp: Đây là hình thức mà nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khác. Cuối ca, cuối ngày nhân viên bán hàng nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ đồng thời kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán ra trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng.
Bán hàng tự phục vụ: Đây là hình thức bán hàng phổ biến tại các quốc gia phát triển và tại Việt Nam thường biểu hiện dưới hình thức bán hàng tại các cửa hàng tự phục vụ hoặc siêu thị. Đối với Doanh nghiệp sản xuất chủ yếu là cửa hàng tự phục vụ. Khách hàng tự chọn những hàng hoá cần mua sau đó sẽ đến quầy thu tiền để thanh toán. Tại đây cửa hàng đã bố trí một nhân viên với hệ thống vi tính đã được cài đặt mã hàng hoá và số tiền cho nên việc thanh toán diễn ra rất nhanh vì được tự động hoá. Cuối ngày nhân viên bán hàng chỉ việc tập hợp số tiền cũng như số lượng hàng hoá bán ra đã có trên máy, lập báo cáo bán hàng và đem nộp tiền cho thủ quỹ.
2.2.2 Phương thức bán hàng trực tiếp.
Hình thức bán hàng giao đại lý: Theo hình thức này Doanh nghiệp giao hàng cho cơ sở nhận đại lý. Bên nhận đại lý sẽ trực tiếp bán hàng và phải thanh toán tiền hàng cho Doanh nghiệp và nhận được một khoản tiền công gọi là hoa hồng đại lý. Số hàng gửi đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp và được xác định là tiêu thụ khi Doanh nghiệp nhận được tiền do bên đaị lý thanh toán hoặc nhận được giấy báo chấp nhận thanh toán.
Hình thức bán hàng nhận đại lý: Theo hình thức này Doanh nghiệp sẽ nhận bán hàng đại lý cho một Doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý số hàng đã nhận, tổ chức bán hàng và thanh toán kịp thời, đầy đủ tiền hàng cho người giao đại lý khi hàng hoá đã được tiêu thụ. Về quyền lợi, Doanh nghiệp được hưởng một khoản tiền hoa hồng để bù đắp toàn bộ chi phí và lợi nhuận.
Ngoài các phương thức bán trên hiện nay để đáp ứng nhu cầu của một bộ phận khách hàng có thu nhập còn hạn chế nhưng muốn có được sản phẩm hàng hoá thoả mãn nhu cầu của mình, các Doanh nghiệp còn áp dụng hình thức bán hàng trả góp. Theo hình thức này người mua hàng chỉ phải trả một phần số tiền hàng lần đầu theo quy định. Số tiền còn lại người mua được phép trả chậm làm nhiều lần trong một thời hạn nhất định và người mua phải chịu một khoản lãi suất trên số tiền trả góp. Số tiền trả giữa các kỳ bằng nhau sẽ bao gồm cả tiền gốc và lãi.
2.3 Các hình thức và phương thức thanh toán tiền hàng
2.3.1 Các phương thức thanh toán tiền hàng
Có nhiều phương thức thanh toán tiền hàng. Thanh toán theo phương thức nào là tùy thuộc vào sự thoả thuận giữa người mua và người bán hoặc sự tín nhiệm giữa hai bên. Tuỳ từng trường hợp, từng mối quan hệ mà Doanh nghiệp áp dụng các phương thức thanh toán khác nhau. Căn cứ vào sự vận động của hàng hoá - tiền tệ và thời điểm phát sinh nghiệp vụ tiêu thụ trong các Doanh nghiệp có thể áp dụng 2 phương thức thanh toán sau:
Thanh toán trực tiếp (thanh toán ngay): Đây là phương thức thanh toán mà hoạt động bán hàng và thu tiền được diễn ra trong cùng một thời điểm. Sản phẩm hàng hoá được giao tại thời điểm nào thì số tiền bán hàng được thu ngay tại thời điểm đó. Thanh toán theo phương thức này đảm bảo khả năng thu tiền nhanh, tránh được rủi ro trong thanh toán nhưng đối tượng khách hàng dễ bị thu hẹp.
Thanh toán sau (thanh toán chậm trả): Theo phương thức này thực chất Doanh nghiệp đã cấp cho khách hàng một khoản tín dụng thương mại, hàng bán và quá trình thu tiền được diễn ra trong không gian và thời gian khác nhau. Khách hàng mua hàng và chấp nhận thanh toán sau thời điểm giao hàng một khoảng thời gian bao lâu là do bên bán và bên mua thoả thuận trong hợp đồng mua, bán. Trong điều kiện hiện nay thì phương thức thanh toán này được áp dụng một cách phổ biến bởi vì trên thực tế không một khách hàng nào cũng có một quỹ tiền đủ lớn để thanh toán ngay tại thời điểm mua hàng. Do đó để nhanh chóng thu hồi tiền hàng các Doanh nghiệp thường áp dụng nhiều khoản chiết khấu cho các khách hàng. Phương thức thanh toán này có lợi cho Doanh nghiệp vì thu hút được khách hàng đồng thời cũng có lợi cho ngưòi mua nhưng sẽ gây bất lợi cho Doanh nghiệp trong trường hợp nêú khách hàng không có thiện chí thanh toán hoặc đang gặp khó khăn về tài chính dẫn tới việc thu hồi tiền hàng rất chậm.
2.3.2 Các hình thức thanh toán
Trong quá trình thu hồi tiền bán hàng, tuỳ theo điều khoản đã ký kết trong hợp đồng hình thức thanh toán có thể khác nhau:
Thanh toán bằng tiền mặt, ngân phiếu: Là hình thức thanh toán trực tiếp giữa người mua và người bán. Khi bên bán chuyển giao hàng hoá, dịch vụ sau đó bên mua xuất tiền, ngân phiếu để trả trực tiếp tương ứng với giá cả mà hai bên đã thoả thuận.
Thanh toán bằng hàng đổi hàng: Theo hình thức này khi bên bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua thì bên mua xuất giao cho bên bán một lô hàng có giá trị tương ứng với giá trị lô hàng đã nhận được từ bên bán. Trong trường hợp này, người bán đồng thời là người mua, mục đích không phải là thu tiền mà mua một hàng khác tương đương. Việc giao hàng và thanh toán tiền hàng diễn ra đồng thời hoặc có một khoảng cách nhất định về thời gian. Nếu còn chênh lệch về giá trị trao đổi thì có thể dùng tiền để thanh toán nốt phần còn lại.
Thanh toán qua Ngân hàng: Là hình thức thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển ở tài khoản tiền gửi hoặc tiền vay của Doanh nghiệp, hoặc bù trừ giữa hai bên thông qua các tổ chức kinh tế trung gian thường là Ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức trung gian thanh toán, nó giúp cho việc thanh toán giữa người mua và người bán được thực hiện đầy đủ, nhanh chóng và đúng luật. Tuỳ vào từng thương vụ từng đối tượng khách hàng, khi thanh toán tiền bán hàng thu được có thể dưới những hình thức sau:
Thanh toán bằng séc: Séc là tờ lệnh trả tiền của người chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn do Ngân hàng Nhà nước quy định, yêu cầu Ngân hàng trích một số tiền từ tài khoản của mình (tài khoản tiền gửi hay tài khoản tiền vay) để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên tờ séc hay người cầm séc.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Thực chất là sử dụng giấy uỷ nhiệm của chủ tài khoản để yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản của mình một số tiền để thanh toán cho người thụ hưởng. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được thực hiện với tốc độ tương đối nhanh nhưng nếu người mua trả chậm thì sẽ gây thiệt hại cho người bán.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Là hình thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua thì sẽ lập uỷ thác thu, yêu cầu Ngân hàng thu hộ số tiền từ người mua.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi thường áp dụng đối với các Doanh nghiệp có quan hệ làm ăn thường xuyên và tín nhiệm lẫn nhau hay dưới hình thức liên doanh, giữa công ty mẹ và công ty con.
Thanh toán bằng thư tín dụng: Là hình thức thanh toán trong đó bên mua yêu cầu Ngân hàng của mình mở thư tín dụng tiến hành trả tiền cho bên bán nếu bên bán xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các nội dung đã ghi trong thư tín dụng. Đây là hình thức thanh toán được áp dụng rất phổ biến đặc biệt trong kinh doanh xuất nhập khẩu, trong trường hợp bên mua và bên bán chưa có mối quan hệ tín nhiệm lẫn nhau. Trong hình thức thanh toán này, Ngân hàng giữ vai trò quan trọng là người đứng ra cam kết thanh toán vì vậy khả năng thu hồi tiền bán hàng được đảm bảo, tránh rủi ro trong thanh toán.
Thanh toán bằng thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán do Ngân hàng phát hành bán cho đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hay các quầy trả tiền mặt tự động của Ngân hàng.
Hiện nay việc thanh toán không trực tiếp được áp dụng không phổ biến trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Phương thức thanh toán này có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì nó tiết kiệm chi phí trong việc in ấn, lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự an toàn về vốn bằng tiền của Doanh nghiệp, chống lạm phát, ổn định giá cả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy vậy việc phát huy thế mạnh của phương thức thanh toán này còn phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của hệ thống Ngân hàng, đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia.
2.4. Giá bán của thành phẩm.
Trong cơ chế thị trường hiện nay sự cạnh tranh ngày càng gay gắt do đó đòi hỏi các Doanh nghiệp sản xuất cần phải có những đổi mơí nhất định vơí những chiến lược kinh doanh phù hợp thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Trong chiến lược kinh doanh thì chiến lược giá cả là rất quan trọng bởi vì giá cả là một vũ khí cạnh tranh hữu hiệu đồng thời nó cũng có vai trò quyết định đến tốc độ tiêu thụ hàng hoá cuả mỗi Doanh nghiệp.
Việc xác định giá cả hàng bán phải thoả mãn yêu cầu bù đắp được các khoản chi phí và đem lại cho Doanh nghiệp một khoản lơị nhuận, nhưng đồng thời nó cũng phải được người mua chấp nhận. Trên thực tế giá bán của sản phẩm trên thị trường là sự thoả thuận giữa Doanh nghiệp với người bán nhưng dựa trên cơ sở giá bán chuẩn đã được xác định.
Các Doanh nghiệp khi định giá bán chuẩn có thể dựa trên cơ sở giá vốn và thặng số thương maị.
Giá vốn hàng bán là toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh cuả Doanh nghiệp bao gồm: giá vốn hàng xuất kho, chi phí bán hàng và chi phí quản lý Doanh nghiệp.
Thặng số thương mại là một khoản thu nhập dùng để bù đắp chi phí và đảm bảo có lãi cho Doanh nghiệp.
Khi đó giá bán thành phẩm được xác định bằng giá vốn hàng bán cộng với thặng số thương maị. Nó có thể được biểu diễn dưới công thức sau:
Giá bán = Giá vốn hàng bán + Thặng số thương mại
Trong đó:
Thặng số thương mại = Giá vốn hàng bán ´ Tỉ lệ % thặng số thương mại
Theo quy định tài chính hiện hành nếu Doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương thức trực tiếp thì giá bán trong công thức trên là giá đã bao gồm cả thuế GTGT. Còn đối với những Doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì giá bán trên không bao gồm thuế GTGT.
2.5 Một số trường hợp phát sinh trong quá trình tiêu thụ thành phẩm
Trường hợp giảm giá hàng bán.
Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho khách hàng tính trên giá bán sản phẩm để khuyến mại. Trên thực tế giảm giá hàng bán có 2 hình thức:
Bớt giá: Là khoản giảm trừ trên giá bán thông thường với mỗi một hợp đồng thực hiện khi khách hàng mua với khối lượng lớn trong một lần mua hàng.
Giảm giá đặc biệt: Là sự chấp nhận giảm giá với một tỉ lệ đặc biệt tính trên giá bán thông thường vì lý do sản phẩm của Doanh nghiệp sai quy cách hoặc chất lượng kém.
Chiết khấu bán hàng
Chiết khấu bán hàng được hiểu là số tiền chấp nhận giảm cho khách hàng tính cho số tiền mà họ trả nợ trước thời hạn quy định hoặc vì một lý do ưu đãi khác. Chiết khấu bán hàng được tính toán trên cơ sở tỷ lệ và các điều kiện chiết khấu ghi trên các hợp đồng mua, bán hoặc các cam kết thanh toán.
Hàng bán bị trả lại
Đây là trường hợp sản phẩm của Doanh nghiệp đã bán cho khách hàng nhưng kém phẩm chất, sai quy cách, không đúng chủng loại, mà vẫn trong thời hạn quy định thì khách hàng có thể trả lại hàng cho Doanh nghiệp.
Hàng thừa, thiếu trong quá trình tiêu thụ
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm khi áp dụng các phương thức bán khác nhau, Doanh nghiệp không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình vận chuyển. Số lượng hàng vận chuyển đến với khách hàng thừa so với hợp đồng thì sẽ xảy ra 2 khả năng: Thứ nhất, khách hàng chấp nhận mua số sản phẩm thừa thì coi như số lượng hàng đó được xác định là tiêu thụ và đồng thời ghi nhận doanh thu. Thứ hai, nếu khách hàng không chấp nhận mua số sản phẩm thừa thì lượng hàng đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp, hàng được coi là gửi bán hộ hoặc khách hàng có quyền chuyển trả số hàng thừa về cho Doanh nghiệp hoặc khi sản phẩm đưa đến khách hàng kiểm tra phát hiện bị thiếu và từ chối thanh toán, Doanh nghiệp cần phải tìm hiểu nguyên nhân để xử lý hàng thiếu. Doanh thu được ghi nhận là số hàng đúng với số lượng hàng mà khách hàng chấp nhận thanh toán.
3. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
3.1 Phạm vi và thời điểm xác định hàng bán
Phạm vi xác định hàng bán
Trong Doanh nghiệp sản xuất thành phẩm được coi là tiêu thụ khi nó đảm bảo được các điều kiện sau:
Phải thông qua một hình thức mua, bán và phương thức thanh toán nhất định.
Với tư cách là người bán sẽ bị mất quyền sở hữu về hàng hoá và được quyền sở hữu về tiền tệ hoặc được quyền đòi tiền.
Phải là những hàng hoá, thành phẩm sản xuất ra để bán hoặc gia công chế biến để bán ra.
Ngoài ra còn một số trường hợp khác thành phẩm cũng được coi là hàng bán:
+ Thành phẩm xuất dùng nội bộ hoặc để sửa chữa lớn tài sản cố định
+ Thành phẩm xuất để trả lương
+ Thành phẩm xuất để đổi lấy hàng khác hoặc để biếu tặng
+ Thành phẩm xuất dùng để thanh toán tiền mua hàng
+ Thành phẩm hao hụt, tổn thất trong khâu bán theo hợp đồng bên mua chịu.
Thời điểm xác định hàng bán
Với mỗi phương thức tiêu thụ thành phẩm thời điểm để xác định thành phẩm đã được tiêu thụ là khác nhau. Do đó thời điểm xác định hàng bán được quy định cụ thể theo từng phương thức như sau:
Đối với phương thức bán buôn qua kho theo hình thức gửi hàng thì thời điểm xác định hàng bán là khi thu được tiền của bên mua, hoặc bên mua xác nhận đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
Đối với phương thức bán buôn qua kho theo hình thức nhận hàng trực tiếp thì sau khi bên mua nhận đủ hàng đã thanh toán tiền, hoặc chấp nhận nợ hàng được xác định là tiêu thụ.
Đối với phương thức bán lẻ thời điểm xác định hàng bán là khi nhận được báo cáo bán hàng của nhân viên bán hàng.
Đối với phương thức gửi đại lý bán thời điểm xác định hàng bán là khi nhận được tiền do cơ sở đại lý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Việc xác định đúng đắn phạm vi, thời điểm ghi chép hàng bán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tiêu thụ thành phẩm. Đó chính là cơ sở để xác định chính xác số lượng thành phẩm bán ra, doanh số, số tiền thuế phải nộp cho ngân sách Nhà nước, xác định đúng các chỉ tiêu phản ánh sức mua của xã hội đồng thời đánh giá được khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Nó giúp cho các nhà Doanh nghiệp xác định được khoản đầu tư cho tương lai, xác định đúng hiệu quả kinh tế qua đó để tính chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được.
3.2. Các phương pháp xác định giá vốn thành phẩm tiêu thụ .
Thành phẩm trong các Doanh nghiệp sản xuất thường rất đa dạng và phong phú để tổ chức tốt công tác kế toán thành phẩm cần phân loại chúng theo những tiêu thức nhất định và phù hợp. Trong kỳ hạch toán, thành phẩm thường được nhập kho nhiều lần với số lượng và giá thành mỗi lần là khác nhau, nên khi xuất kho thành phẩm tiêu thụ Doanh nghiệp phải hạch toán trị giá hàng xuất theo một phương pháp thích hợp nhằm hạch toán được chính xác giá vốn của thành phẩm tiêu thụ. Để xác định giá vốn thực tế của khối lượng thành phẩm xuất kho, có thể áp dụng một trong những phương pháp sau đây:
3.2.1. Phương pháp tính giá theo giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp này hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nào thì sẽ được tính theo đơn giá thực tế của lô hàng đó. Chính vì vậy nó phản ánh rất chính xác giá của từng lô hàng xuất bán, nhưng công việc ghi sổ sách khá phức tạp và đòi hỏi người quản lý phải nắm được chi tiết từng lô hàng. Phương pháp này thường được áp dụng cho các loại hàng hoá có giá trị cao, được bảo quản riêng theo từng lô hàng của mỗi lần nhập.
3.2.2. Phương pháp tính theo giá thực tế nhập trước, xuất trước.
Theo phương pháp này những thành phẩm nhập trước sẽ được xuất trước, nhập theo giá nào thì sẽ xuất theo giá đó. Cách tính giá thành phẩm theo phương pháp này chính xác, song lại khó tính toán đòi hỏi người thủ kho phải phân loại rõ ràng các loại thành phẩm, tổ chức kho khoa học và hợp lý. Do vậy nó chỉ thích hợp với những Doanh nghiệp có chủng loại mặt hàng ít, các nghiệp vụ nhập - xuất không thường xuyên và liên tục.
3.2.3. Phương pháp tính theo giá thực tế nhập sau, xuất trước.
Theo phương p._.háp này thì lô thành phẩm nào nhập sau cùng thì sẽ được xuất trước. Nhập thành phẩm theo giá nào thì xuất theo giá đó. Cách đánh giá này phản ánh sự vận động chính xác của thành phẩm, phản ánh đúng thời giá của lần nhập sau nhưng có nhược điểm là công việc tính toán dồn vào cuối tháng, ảnh hưởng đến việc lập báo cáo.
3.2.4. Phương pháp tính theo giá thực tế bình quân gia quyền.
Giá thực tế thành phẩm xuất kho trong kỳ được tính theo đơn giá bình quân, với công thức sau:
Giá thực tế TP xuất trong kỳ
=
Số lượng TP
xuất trong kỳ
´
Đơn giá
bình quân
Trong đó đơn giá bình quân được tính theo các cách sau:
* Bình quân cả kỳ dự trữ: Phương pháp này thường được sử dụng nhiều hơn cả do phương pháp tính đơn giản, chính xác, nhưng không linh hoạt vì mọi công việc kế toán dồn vào cuối kỳ. Thành phẩm xuất kho trong kỳ chưa được ghi sổ ngay mà chờ đến cuối kỳ, sau khi tính giá xong mới ghi sổ kế toán. Công thức xác định như sau:
Đơn giá bình quân
=
Giá thực tế TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Số lượng TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
* Bình quân sau mỗi lần nhập (bình quân liên hoàn): Về bản chất thì tương tự phương pháp trên nhưng đơn giá bình quân được xác định trên cơ sở giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ và từng lần nhập trong kỳ. Sau mỗi lần nhập kho thành phẩm, kế toán phải tính lại giá đơn vị bình quân làm căn cứ xác định giá thực tế thành phẩm xuất trong kỳ. Ưu điểm của phương pháp này là sau mỗi lần nhập, kế toán xác định được ngay giá bình quân, song công việc kế toán lại vất vả vì phải tính toán lại nhiều lần
* Bình quân cuối kỳ trước: Giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính trên cơ sở lượng thành phẩm xuất kho và giá thực tế bình quân của một đơn vị thành phẩm cuối kỳ trước.
Đơn giá bình quân
=
Giá thực tế TP tồn cuối kỳ trước
Số lượng TP tồn cuối kỳ trước
Theo phương pháp này giá thực tế của thành phẩm xuất kho có thể được xác định ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ, tuy nhiên nếu giữa 2 kỳ giá cả có sự biến động thì cách tính này không chính xác.
3.2.5. Phương pháp tính theo giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá do Doanh nghiệp đặt ra, có thể là giá kế hoạch hoặc giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ. Để hạch toán được kịp thời, chính xác và đầy đủ tình hình nhập - xuất - tồn thành phẩm thì kế toán phải sử dụng phương pháp này cho hạch toán thành phẩm hàng ngày.
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
=
Số lượng TP xuất trong kỳ
´
Đơn giá
hạch toán
Đến cuối kỳ, Doanh nghiệp sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế bằng những phương pháp sau:
* Phương pháp hệ số giá:
Hệ số giá TP
=
Giá thực tế TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá hạch toán TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Trị giá thực tế TP xuất trong kỳ
=
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
´
Hệ số giá TP
* Phương pháp số chênh lệch:
Số chênh lệch TP luân chuyển trong kỳ
=
Giá thực tế TP
tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
´
Giá hạch toánTP
tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
- Xác định tỷ lệ chênh lệch (L)
L
=
Số chênh lệch
Giá hạch toánTP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
- Xác định số điều chỉnh:
Số điều chỉnh
=
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
´
L
Trị giá thực tế TP xuất trong kỳ
=
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
+
(-)
Số điều chỉnh
Ưu điểm của phương pháp giá hạch toán là cách tính toán đơn giản không mất nhiều thời gian, nhưng có nhược điểm là độ chính xác không cao. Vậy chỉ nên áp dụng cho những Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng, tình hình nhập - xuất - tồn thành phẩm thường xuyên và giá thành thực tế luôn biến động.
3.3. Yêu cầu quản lý nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
Tiêu thụ thành phẩm là nhu cầu thường xuyên, liên tục của xã hội, đồng thời là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì thành phẩm hàng hoá trên thị trường càng trở nên đa dạng và phong phú vô cùng. Có những thành phẩm mới ra đời thậm chí mới nhen nhóm xuất hiện thì đã có những thành phẩm khác ưu việt hơn, tiến bộ hơn thay thế làm cho nhu cầu tiêu dùng của con người cũng thay đổi theo xu hướng ngày càng tăng cho nên tiêu thụ sản phẩm trở nên hết sức khó khăn. Mặt khác tiêu thụ trong nền kinh tế thị trường không chỉ là hoạt động bán hàng đơn thuần mà nó là một chuỗi bao gồm các khâu: nghiên cứu đánh giá thị trường, tổ chức thực hiện sản xuất và dự trữ, thực hiện bán hàng cho đến các hoạt động sau bán. Vì vậy Doanh nghiệp muốn bán được nhiều sản phẩm đòi hỏi phải tổ chức quản lý công tác tiêu thụ thật tốt để mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Doanh nghiệp.
Công tác quản lý tiêu thụ thành phẩm phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Quản lý được sự vận động của từng loại thành phẩm, hàng hoá trong quá trình nhập, xuất và tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị.
- Quản lý theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán, từng loại thành phẩm tiêu thụ.
- Quản lý doanh thu theo từng loại thành phẩm. Việc quản lý này sẽ giúp cho Doanh nghiệp biết rõ được tình hình tiêu thụ của từng loại thành phẩm để từ đó đưa ra các quyết định nên tăng cường sản xuất mặt hàng nào hay hạn chế sản xuất mặt hàng nào hay nhanh chóng chuyển sang mặt hàng khác có hiệu quả hơn.
- Xác định đúng đắn phạm vi, thời điểm hàng tiêu thụ nhằm quản lý chính xác được lượng hàng tiêu thụ, tránh tình trạng thất thoát hàng bán cũng như giúp cho việc xác định kết quả kinh doanh chính xác.
- Quản lý công nợ phải thu tổng hợp và của từng nghiệp vụ cũng như của từng khách hàng. Việc quản lý tổng hợp các chi tiết này sẽ giúp cho Doanh nghiệp quản lý công nợ một cách chặt chẽ, tránh tình trạng thất thoát lượng hàng bán cũng như số tiền phải thu về, tránh được thiệt hại cho Doanh nghiệp.
- Quản lý việc thu hồi tiền bán hàng: Quản lý việc thu hồi tiền bán hàng chính là việc xem xét số tiền thu được sau khi tiêu thụ sản phẩm, tiền được chuyển về Doanh nghiệp dưới hình thức nào? số lượng bao nhiêu? Quản lý mặt hàng này băt đầu từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi người mua thực sự nhận được hàng và tiền được đưa về Doanh nghiệp. Nó bao gồm cả nghiệp vụ kinh tế trong quá trình bán hàng như nhận tiền trước của khách hàng, chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Quản lý tốt việc thu hồi tiền hàng sẽ giúp Doanh nghiệp tránh được những rủi ro thất thoát tiền vốn trong quá trình bán hàng, tăng hiệu quả kinh doanh.
- Quản lý tốt chi phí bán hàng vì đó là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Ngoài ra Doanh nghiệp còn phải xác định đúng đắn kết quả từng loại hoạt động và thực hiện nghiêm túc cơ chế phân phối lợi nhuận đồng thời tổ chức công tác hạch toán thành phẩm một các khoa học, hợp lý có như thế mới hoàn thành tốt khâu bán hàng.
3.4. Nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
Để hoạt động tiêu thụ thành phẩm ở Doanh nghiệp có hiệu quả đem lại doanh lợi ngày càng cao cho Doanh nghiệp, các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải xây dựng cho mình một kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó có kế hoạch tiêu thụ thành phẩm một cách lôgíc và hợp lý nhằm đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động tiêu thụ thành phẩm của đơn vị, từ đó có biện pháp, quyết định kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ thành phẩm. Với chức năng là công cụ quản lý, kế toán tiêu thụ thành phẩm phải thực hiện tốt những nhiệm vụ sau, cụ thể là:
- Phản ánh đầy đủ kịp thời và chi tiết về sự biến động của từng loại thành phẩm trên các mặt hiện vật cũng như giá trị.
- Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ, ghi chép kịp thời, đầy đủ các khoản chi phí bán hàng, thu nhập bán hàng cũng như chi phí và thu nhập của hoạt động khác.
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong Doanh nghiệp, phản ánh và giám đốc tình hình phân phối kết quả, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
- Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan. Định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng, thu nhập và phân phối kết quả.
4. Nội dung và phương pháp kế toán tiêu thụ thành phẩm.
4.1. Nội dung kế toán tiêu thụ thành phẩm.
Nếu xét từ góc độ kinh tế, tiêu thụ là quá trình chuyển giao thành phẩm cho khách hàng và nhận được từ họ một khoản tiền tương ứng với giá bán của thành phẩm hàng hoá theo giá thoả thuận hoặc giá quy định của Nhà nước (đối với một số mặt hàng quan trọng).
Theo nghĩa đó quá trình tiêu thụ thành phẩm chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Xuất giao thành phẩm cho khách hàng. Doanh nghiệp tiến hành xuất kho giao thành phẩm cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. Giai đoạn này phản ánh một mặt quá trình vận động của thành phẩm. Tuy nhiên nó chưa đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được thực hiện vì thành phẩm gửi đi có thể không được chấp nhận thanh toán.
Như vậy giai đoạn này hàng gửi đi nhưng vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp. Chỉ khi nào khách hàng chấp nhận thanh toán về số thành phẩm ấy thì số thành phẩm đó mới được coi là tiêu thụ và lúc này nó thuộc quyền sở hữu của khách hàng.
Giai đoạn 2: Khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.Đây là giai đoạn Doanh nghiệp đã bán được thành phẩm và thu tiền về. Kết thúc giai đoạn này cũng là quá trình tiêu thụ sản phẩm đã hoàn tất. Kết quả của nghiệp vụ tiêu thụ là Doanh nghiệp có thể thu hồi vốn để trang trải mọi chi phí trong quá trình sản xuất đồng thời thực hiện tái sản xuất. Tuy nhiên thành phẩm xuất gửi cho khách hàng không phải trường hợp nào cũng được trả tiền ngay. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
Thành phẩm hàng hoá không đúng quy cách, phẩm chất và thời gian quy định.
Do áp dụng thể thức thanh toán qua Ngân hàng nên sau khi xuất thành phẩm phải có một thời gian nhất định để làm thủ tục thanh toán.
Do thời điểm quy định thanh toán của phương pháp thanh toán.
Do bên bán làm thủ tục thanh toán không kịp thời hoặc không chính xác theo hợp đồng.
Do bên mua gặp khó khăn về tài chính, không có khả năng thanh toán ngay hoặc đơn vị mua cố tình vi phạm hợp đồng không chịu thanh toán.
Trên thực tế, ít khi giai đoạn chuyển giao hàng và thu tiền hàng xảy ra cùng một không gian và thời gian. Tuỳ theo các quy định trong hợp đồng kinh tế và phương thức thanh toán mà hai giai đoạn này có thể tách rời nhau. Nhưng sản phẩm chỉ được xác định là tiêu thụ khi việc giao hàng và nhận tiền đã hoàn thành.
Do tính phức tạp của nội dung công tác tiêu thụ thành phẩm như vậy để phản ánh và giám đốc hoạt động tiêu thụ được chính xác, kế toán tiêu thụ thành phẩm phải được tổ chức quản lý chặt chẽ khoa học từ khâu hạch toán ban đầu đến ghi sổ kế toán.
4.2. Phương pháp kế toán tiêu thụ thành phẩm.
4.2.1. Tổ chức hạch toán ban đầu.
Hạch toán ban đầu là quá trình theo dõi ghi chép, hệ thống hoá các ngiệp vụ kinh tế phát sinh vào các chứng từ kế toán để làm cơ sở cho việc hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết. Nó bao gồm việc tổ chức xây dựng những hoá đơn, chứng từ một các đồng bộ, phải được quy định thống nhất về nội dung và hình thức, phải do một cơ quan ban hành.
Hệ thống chứng từ bao gồm:
- Hệ thống chứng từ bắt buộc: Là các chứng từ có tính pháp lý cao được phổ biến rộng rãi. Loại chứng từ này được Nhà nước áp dụng cho tất cả các loại hình Doanh nghiệp.
- Hệ thống chứng từ hướng dẫn: Chủ yếu là những chứng từ sử dụng trong nội bộ Doanh nghiệp, thích hợp với điều kiện thực tế của Doanh nghiệp nhưng nó vẫn phải đảm bảo tính hợp pháp. Đối với nghiệp vụ tiêu thụ các chứng từ phải đảm bảo cung cấp các thông tin về lượng hàng bán, số tiền bán hàng, công nợ của khách hàng, chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng, để từ đó dựa vào các chứng từ này kế toán tổ chức ghi sổ kế toán liên quan đến nghiệp vụ tiêu thụ cũng như xác định kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Chứng từ sử dụng trong hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ gồm có:
- Hoá đơn bán hàng
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho
- Hoá đơn GTGT
- Bảng thanh toán hàng đại lý
- Phiếu thu, phiếu chi
Ngoài ra tuỳ theo phương thức bán hàng của Doanh nghiệp mà kế toán nghiệp vụ tiêu thụ sử dụng một số các chứng từ khác có liên quan.
4.2.2. Vận dụng hệ thống tài khoản trong kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
Hệ thống tài khoản kế toán là bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong chế độ kế toán Doanh nghiệp. Bắt đầu từ ngày 01/01/1996 tất cả các Doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế quy định đều phải thực hiện việc áp dụng hệ thống tài khoản kế toán Doanh nghiệp ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐCĐKT ngày 01/01/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Đối với nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm vận dụng tài khoản kế toán cần phải cung cấp được các thông tin tổng hợp về tình hình tiêu thụ thành phẩm, tổng hợp về công nợ khách hàng, tổng hợp về thu hồi tiền hàng, tổng hợp về chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng, tổng hợp về giá vốn hàng bán và các thông tin chi tiết về chủng loại hàng bán, về doanh thu bán hàng của từng loại thành phẩm, về từng loại chi phí bán hàng phát sinh và chi tiết công nợ của khách hàng.
Các tài khoản kế toán được sử dụng trong kế toán tiêu thụ thành phẩm bao gồm:
* Tài khoản 511: Doanh thu bán hàng
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của Doanh nghiệp, các khoản giảm trừ doanh thu và xác định doanh thu thuần thực hiện được trong một kỳ sản xuất kinh doanh.
- Kết cấu tài khoản 511:
TK 511
- Số thuế tiêu thụ, thuế xuất khẩu phải nộp tính trên doanh số bán ra.
- Các khoản chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
- Kết chuyển doanh thu thuần để xác định kết quả kinh doanh.
***
- Doanh thu bán hàng thực tế trong kỳ
***
- Tài khoản 511 gồm 4 tài khoản cấp 2:
+ Tài khoản 5111: Doanh thu bán hàng hoá
+ Tài khoản 5112: Doanh thu bán các thành phẩm
+ Tài khoản 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ
+ Tài khoản 5114: Doanh thu trợ cấp trợ giá.
* Tài khoản 531: Hàng bán bị trả lại
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh số tiền theo giá bán thành phẩm đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do không đúng quy cách, phẩm chất hoặc do vi phạm các cam kết trong hợp đồng.
- Kết cấu tài khoản 531:
TK 531
- Trị giá của hàng bán bị trả lại đã trả lại tiền cho người mua hoặc tính trừ vào nợ phải thu của khách hàng vế số thành phẩm đã bán ra.
- Kết chuyển trị giá của hàng bán bị trả lại vào tài khoản có liên quan để xác định doanh thu thuần.
***
***
* Tài khoản 532: Giảm giá hàng bán.
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu cho khách hàng theo giá thoả thuận.
- Kết cấu tài khoản 532:
TK 532
- Các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu đã chấp thuận cho người mua.
- Kết chuyển các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu sang tài khoản liên quan để xác định doanh thu thuần
***
***
* Tài khoản 131: Phải thu của khách hàng
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản nợ phải thu và
tình hình các khoản nợ phải thu về tiền bán thành phẩm, hàng hoá.
- Kết cấu tài khoản 131:
TK 131
- Số tiền phải thu của khách hàng về bán thành phẩm, hàng hoá.
- Số tiền thu được ở khách hàng.
- Số tiền giảm trừ cho người mua về chiết khấu và hàng bán bị trả lại.
Dư nợ: Số tiền còn phải thu của khách hàng
Dư có: Số tiền thu trước hoặc thu thừa của khách hàng
* Tài khoản 157:
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh trị giá thành phẩm chuyển bán, gửi bán đại lý, ký gửi đã hoàn thành bàn giao cho khách hàng nhưng chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán. Như vậy thành phẩm phản ánh trên tài khoản này vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, kế toán phải mở sổ chi tiết cho từng loại thành phẩm, từng lần gửi hàng từ khi gửi đi cho đến khi được chấp nhận thanh toán.
- Kết cấu tài khoản 157:
TK 157
-Trị giá thực tế thành phẩm đã chuyển bán hoặc giao cho bên nhận đại lý, ký gửi.
- Giá dịch vụ đã hoàn thành nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.
-Trị giá thực tế thành phẩm chuyển bán gửi đại lý, ký gửi đã được khách hàng chấp nhận thanh toán .
-Trị giá thực tế thành phẩm bị khách hàng gửi trả lại
Dư nợ: Trị giá thực tế thành phẩm đã gửi đi nhưng chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán.
* Tài khoản 632: Giá vốn hàng bán
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh trị giá vốn của thành phẩm đã tiêu thụ trong kỳ.
- Kết cấu tài khoản 632:
TK 632
- Trị giá vốn của thành phẩm đã được xác định là tiêu thụ.
- Kết chuyển giá vốn thành phẩm đã tiêu thụ vào tài khoản xác định kết quả.
***
***
* Tài khoản 3331: Thuế GTGT phải nộp.
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
- Kết cấu tài khoản 3331:
TK 3331
- Số thuế GTGT đầu ra đã khấu trừ .
- Số thuế GTGT được khấu trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
- Số thuế GTGT đã nộp vào Ngân sách Nhà nước.
- Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại.
- Số thuế GTGT phải nộp của hàng hoá, dịch vụ bán hoặc dùng trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ.
- Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường của hàng hoá nhập khẩu.
Dư nợ: Số thuế GTGT nộp thuế
Dư có: Số thuế GTGT còn phải nộp.
Ngoài ra kế toán tiêu thụ thành phẩm còn sử dụng một số tài khoản liên quan khác như:
- Tài khoản 111 : Tiền mặt
- Tài khoản 112 : Tiền gửi Ngân hàng
- Tài khoản 155 : Thành phẩm
- Tài khoản 138 : Phải thu khác
- Tài khoản 141 : Tạm ứng
- Tài khoản 641 : Chi phí bán hàng
- Tài khoản 642 : Chi phí quản lý Doanh nghiệp
Trình tự kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm được khái quát bằng sơ đồ sau:
4.3. Tổ chức sổ kế toán.
Tất cả mọi Doanh nghiệp thuộc các loại hình, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều phải sử dụng hệ thống sổ kế toán để ghi chép và tổng hợp số liệu, chứng từ kế toán theo một trình tự và phương pháp ghi chép nhất định do Nhà nước quy định.
Hình thức kế toán thực chất là hình thức tổ chức hệ thống sổ kế toán bao gồm số lượng các sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp, kết cấu sổ, mối quan hệ kiểm tra đối chiếu giữa các sổ kế toán, trình tự và phương pháp ghi chép cũng như việc tổng hợp số liệu để lập báo cáo kế toán. Do vậy Doanh nghiệp cần phải căn cứ vào hệ thống tài khoản thống nhất chế độ kế toán của Nhà nước, căn cứ vào quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán cũng như điều kiện trang thiết bị tính toán xử lý thông tin mà vận dụng hình thức kế toán và tổ chức sổ kế toán cho phù hợp, nhằm cung cấp thông tin kế toán kịp thời, đầy đủ, chính xác, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
Kế toán Doanh nghiệp có thể vận dụng một trong những hình thức sổ kế toán sau:
- Hình thức Nhật ký sổ cái
- Hình thức Chứng từ ghi sổ
- Hình thức Nhật ký - chứng từ
- Hình thức Nhật ký chung
Tuỳ theo hình thức sổ sách kế toán mà đơn vị sử dụng là hình thức Nhật ký sổ cái, hình thức Nhật ký chung, hình thức Chứng từ ghi sổ hay hình thức Nhật ký chứng từ mà hệ thống sổ sách kế toán tổng hợp phản ánh các nghiệp vụ nhập, xuất kho thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm có kết cấu, đặc điểm và phương pháp lập khác nhau.
* Nếu đơn vị áp dụng hình thức Nhật ký sổ cái.
Đặc trưng cơ bản của hình thức Nhật ký sổ cái là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được kết hợp ghi chép theo trình tự thời gian và nội dung kinh tế trên cùng một quyển sổ kế toán tổng hợp duy nhất là sổ Nhật ký- sổ cái. Do đó các nghiệp vụ nhập xuất kho và tiêu thụ thành phẩm được ghi hàng ngày vào sổ Nhật ký - sổ cái theo hai phần: Phần Nhật ký ghi ngày tháng phát sinh của nghiệp vụ nhập, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm, số hiệu chứng từ nhập kho, chứng từ xuất kho... diễn giải, số phát sinh. Phần sổ cái phản ánh các nghiệp vụ nhập, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm theo tài khoản kế toán. Sổ cái là cơ sở duy nhất để lập các báo cáo Tài chính về tình hình biến động thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
Chứng từ gốc
Nhật ký - Sổ cái TK632
TK511,TK641,TK642,TK911
Sổ quỹ
Sổ chi tiết TK632,511,...
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo Tài chính
Chú thích:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
* Nếu đơn vị áp dụng hình thức Nhật ký chung:
Sử dụng hình thức kế toán Nhật ký chung để phản ánh tình hình biến động thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm, hệ thống sổ tổng hợp bao gồm các loại sổ kế toán chủ yếu sau: sổ Nhật ký chung, sổ Cái và sổ Nhật ký đặc biệt (nếu có).
- Sổ Nhật ký chung: là sổ tổng hợp ghi chép toàn bộ các nghiệp vụ nhập, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm theo thứ tự thời gian và theo quan hệ đối ứng tài khoản.
- Sổ nhật ký đặc biệt (nếu có) gồm : Nhật ký nhập kho thành phẩm, Nhật ký xuất kho thành phẩm, Nhật ký bán hàng.
- Sổ cái TK 155,157,131,511,512,521,531,532,632 được ghi vào ngày cuối kỳ và lấy số liệu từ Nhật ký chung và Nhật ký đặc biệt. Số liệu ở sổ Cái là cơ sở để lập báo cáo Tài chính về tình hình biến động thành phẩm và tình hình tiêu thụ thành phẩm .
Chứng từ gốc
Nhật ký chung
Sổ cái TK632, 511
641, 642,911
642, 911
Bảng cân đối FS
Báo cáo tài chính
Sổ chi tiết
TK 632,511,641,...
Bảng tổng hợp chi tiết
Nhật ký bán hàng
Chú thích:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
* Nếu đơn vị áp dụng hình thức Chứng từ ghi sổ.
Tổ chức hệ thống sổ kế toán theo hình thức “ Chứng từ ghi sổ” thì phần hạch toán tiêu thụ thành phẩm của đơn vị gồm có các loại sổ tổng hợp sau:
- Chứng từ ghi sổ: Chứng từ ghi sổ được lập từ chứng từ nhập kho thành phẩm, chứng từ xuất kho thành phẩm, hoá đơn GTGT, chứng từ bán hàng theo định kỳ.
- Số đăng ký Chứng từ ghi sổ: dùng để quản lý số hiệu Chứng từ ghi sổ phần nhập, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm, để đối chiếu với bảng cân đối số phát sinh.
- Sổ cái TK 155,157,131,511,512,521,531,532,632 được ghi từ Chứng từ ghi sổ phần nhập, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm và ghi theo định kỳ lập Chứng từ ghi sổ.
Chứng từ gốc
Chứng từ-ghi sổ
Sổ cái TK 511,632, 641,642,...
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo tài chính
Sổ chi tiết TK 511,632,641,642,...
Bảng tổng hợp
chi tiết
Sổ quỹ
Sổ đăng ký Chứng từ - ghi sổ
Chú thích:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
* Nếu đơn vị áp dụng hình thức Nhật ký - chứng từ:
áp dụng hình thức này kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm sử dụng các loại sổ tổng hợp sau:
- Bảng kê số 8 - Nhập xuất tồn kho thành phẩm: Dùng để tổng hợp tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm theo giá thực tế và giá hạch toán căn cứ theo các chứng từ nhập, xuất kho thành phẩm. Số dư đầu tháng phản ánh số tồn kho đầu tháng được lấy từ số dư đầu tháng của TK 155. Bảng kê số 8 gồm 2 phần: Phần ghi “Nợ” TK155 đối ứng với “Có” các tài khoản phản ánh số thành phẩm nhập trong tháng. Phần ghi “Nợ” các tài khoản khác đối ứng với “Có” TK 155 phản ánh số xuất kho trong tháng của thành phẩm.
- Bảng kê số 9: Dùng để tính giá thực tế thành phẩm
- Bảng kê số 10- Hàng gửi bán: Dùng để phản ánh các loại thành phẩm gửi đại lý nhờ bán hộ và chuyển đến cho người mua nhưng chưa được chấp nhận thanh toán theo từng hoá đơn bán hàng.
- Bảng kê số 11: Dùng để phản ánh tình hình thanh toán tiền hàng của khách hàng
- Nhật ký chứng từ số 8: Phản ánh số phát sinh bên Có TK 155,157,131,511,512,521,531,532,632 căn cứ vào bảng kê số 8,9,10,11.
- Sổ cái TK 155,157,131,511,512,521,531,532,632 được ghi vào ngày cuối quý, số phát sinh bên Có theo tổng số được lấy từ Nhật ký chứng từ số 8, số phát sinh bên Nợ được phản ánh chi tiết theo từng tài khoản đối ứng Có lấy từ các Nhật ký chứng từ có liên quan.
Mỗi hình thức tổ chức hệ thống sổ sách kế toán đều có những điều kiện áp dụng nhất định kèm theo, vì vậy người làm công tác kế toán trong đơn vị phải căn cứ vào tình hình thực tế và đặc điểm cụ thể của đơn vị mình để lựa chọn hình thức sổ kế toán cho phù hợp. Một mặt vẫn đảm bảo cung cấp thông tin rõ ràng, đầy đủ, mặt khác có khả năng đơn giản hoá, giảm nhẹ việc ghi chép, đối chiếu, nâng cao hiệu suất công tác kế toán.
Bảng tổng hợp chi tiết
Chứng từ gốc và các bảng phân bố
Nhật ký chứng từ
số 8
Sổ cái TK 511, 632, 641, 642,...
Báo cáo tài chính
Bảng kê số
8,9,10,11
Sổ chi tiết TK 511, 632,131,...
Chú thích:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
Chương II
Tình hình thực tế về công tác tổ chức kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại công ty dệt kim đông xuân Hà nội
1. đặc điểm chung của công ty.
1.1. Quá trình hình thành và cơ sở vật chất của Công ty.
Công ty dệt Kim Đông Xuân Hà Nội, địa chỉ 67 Ngô Thì Nhậm - Hà Nội là một Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Công nghiệp. Là một thành viên của Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam, Công ty Dệt kim Đông Xuân có nhiệm vụ sản xuất, xuất nhập khẩu trực tiếp các sản phẩm dệt kim hoặc gia công sản phẩm tuỳ theo yêu cầu của khách hàng.
Được thành lập ngày 13/4/1959 với tên ban đầu là Nhà máy Dệt kim Đông Xuân và là nhà máy dệt kim tròn đầu tiên ở nước ta, nhiệm vụ ban đầu của nhà máy là sản xuất các sản phẩm dệt kim đáp ứng nhu cầu nội địa. Lúc đó cơ sở vật chất của nhà máy còn nghèo nàn, địa chỉ chật hẹp, trang thiết bị dây chuyền sản xuất từ khâu dệt, xử lý vải đến cắt may chỉ gồm 37 loại với 180 máy móc được chế tạo tại Trung Quốc, Anh, Tiệp Khắc. Từ năm 1963 Nhà máy được giao thêm nhiệm vụ làm hàng xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực I như: Liên xô (cũ), Hungari, Ba Lan, Mông cổ, Lào ... nhưng với số lượng còn hạn chế. Đến năm 1970 - 1980, trang thiết bị già cỗi lại cộng thêm nhu cầu mở rộng xuất khẩu, Nhà nước quyết định đầu tư mở rộng nhà máy, cải tạo qui trình công nghệ - dệt - nhuộm may với số tiền 5 triệu Rúp. Năm 1980, một số lớn thiết bị của Nhà máy được đổi mới theo phương án đầu tư mở rộng tại quyết định 213 ngày 01/7/1980 . Lúc này thị trường tiêu thụ sản phẩm của nhà máy đã thay đổi về cơ bản, từ chủ yếu tiêu thụ nội địa sang lấy thị trường nước ngoài làm thị trường chính. Năm 1975 sản lượng xuất khẩu chiếm 30% giá trị tổng sản lượng của nhà máy, hiện nay là trên 90%, sản phẩm tiêu thụ nội địa chủ yếu là sản phẩm xuống loại không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc theo những đơn đặt hàng nhỏ, đơn lẻ. Từ năm 1987 trở lại đây việc cải tạo và mở rộng nhà máy được tiến hành với tốc độ nhanh và trên quy mô rộng lớn. Từ
chỗ chỉ có 5.620m2 đến nay tổng diện tích đất xây dựng đã lên tới 21.740 m2 với trên 30.000 m2 nhà xưởng tại cơ sở 1 - số 67 Ngô Thì Nhậm, cơ sở 2 - số 250 Minh Khai và cơ sở 3 - số 524 Minh Khai. Hệ thống máy móc, thiết bị được nâng cấp và cải tạo cùng với đầu tư đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, đầu tư thêm khu vực xử lý vải, lắp đặt mới hệ thống lò hơi dầu Nhật bản, hệ thống điện lạnh khu vực dệt và may, nâng cao công suất trạm biến áp điện, bổ sung, nâng cấp trên 600 máy móc các loại trên các dây chuyền. So sánh trong toàn nghành dệt - may Việt Nam trình độ công nghệ và tính đồng bộ của máy móc, trang thiết bị của nhà máy thuộc loại trung bình khá.
Thực hiện quyết định 338/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng về việc đăng ký lại Doanh nghiệp. Ngày 19/8/1992, Nhà máy Dệt kim Đông xuân được đổi tên thành Công ty Dệt kim Đông xuân với tên giao dịch là DOXIMEX.
1.2. Sản phẩm, qui trình công nghệ sản xuất và thị trường tiêu thụ.
ở buổi ban đầu sản phẩm của Công ty là các loại áo vệ sinh, áo xuân thu, may ô, dây đai thắt lưng, dây chun, màn tuyn, bít tất... tiêu thụ trong nước. Đến nay, Công ty đã có đủ khả năng để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với các loại sản phẩm như áo may ô, áo T-shirt, Polo- shirt, quần áo lót các loại, phong phú về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, chất lượng tốt. Trên 80% giá trị hàng xuất khẩu của Công ty được xuất sang thị trường Nhật bản, phần còn lai xuất sang thị trường EU ... theo đơn đặt hàng. Cho đến nay, Công ty đã thiết lập được quan hệ buôn bán truyền thống với các hãng Sanshin/Katakura, Ryo/Marubeni, Daiei/Sanyo (Nhật Bản), Stummer/Beau (áo / Đức). Đặc biệt với Sanshin/Katakura Công ty đã ký hợp đồng hợp tác sản xuất trong vòng 20 năm (1989 - 2009). Các loại sản phẩm tiêu thụ nội địa của Công ty được phân phối qua mạng lưới đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, cửa hàng thời trang.
Quá trình sản xuất của Công ty Dệt kim Đông xuân được tổ chức theo quy trình công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục, sản phẩm cho đến khi được hoàn thành phải trải qua 3 giai đoạn chế biến ở 5 xí nghiệp khác nhau, đó là:
- Xí nghiệp dệt.
- Xí nghiệp xử lý hoàn tất
- Các xí nghiệp may: 1, 2, 3.
* Xí nghiệp dệt: Là đơn vị đầu tiên trong dây chuyền sản xuất, có nhiệm vụ dệt ra các loại vải phù hợp với yêu cầu thị trường hoặc của người đặt hàng về số lượng, chủng loại. Sản phẩm của xí nghiệp dệt là nguyên liệu của xí nghiệp xử lý hoàn tất.
* Xí nghiệp xử lý hoàn tất: Là đơn vị kế tiếp trong dây chuyền, có nhiệm vụ xử lý vải như tẩy trắng, nhuộm màu, in hoa ... theo các yêu cầu khác nhau của khách hàng. Giữ vai trò trọng yếu trong toàn bộ dây chuyền.
* Ba xí nghiệp may: Là khâu cuối cùng của dây chuyền có nhiệm vụ cắt, may các loại sản phẩm, đóng gói sản phẩm theo đúng quy cách cũng như chất lượng mà khách hàng yêu cầu.
Tuy sản phẩm của Công ty được chế biến chủ yếu tại các xí nghiệp trên nhưng để duy trì được tính hiệu quả và liên tục được quá trình sản xuất có sự đóng góp không thể thiếu của xí nghiệp cơ khí sửa chữa. Là xí nghiệp phụ trợ nhưng nó đóng góp phần đảm bảo các điều kiện sản xuất cho các xí nghiệp sản xuất chính bao gồm các bộ phận: Lò hơi, cấp nước, làm lạnh, nén khí, tổ nguội - tiện - phay- bào... để sửa chữa, gia công chế tạo các phụ tùng cho dây chuyền.
Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty được khái quát theo sơ đồ sau:
1. 3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý.
Bộ máy quản lý của Công ty được áp dụng theo hình thức trực tuyến chức năng nhằm đáp ứng kịp thời thông tin, số liệu cho các cấp lãnh đạo và ngược lại các chỉ thị mệnh lệnh từ lãnh đạo sẽ được truyền đạt trực tiếp và nhanh chóng đến những người tổ chức thực hiện.
Đứng đầu bộ máy là Ban lãnh đạo gồm 3 người, Tổng giám đốc và 2 Phó tổng giám đốc.
- Tổng giám đốc: Là người có quyền cao nhất, quyết định và chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty và trực tiếp chịu trách nhiệm trước Công ty, Bộ công nghiệp và Nhà nước.
- Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật - thương mại: Phụ trách kỹ thuật công nghệ sản xuất và thị trường tiêu thụ, đàm phán với khách hàng và nắm bắt mọi diễn biến xảy ra trong quá trình hoạt động của Công ty.
- Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật - sản xuất: phụ trách về vấn đề thực hiện sản x._. chế quản lý mới. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và hoàn thiện dần để đạt tới sự hoàn chỉnh cho phù hợp với nền kinh tế thị trường song vẫn thấy được những nét khác nhau cơ bản giữa cơ chế quản lý mới với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp đó là:
- Thay bằng kiểu quản lý chủ quan duy ý chí, cơ chế thị trường thực hiện việc quản lý bằng các quy luật khách quan vốn có của nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
- Cơ chế thị trường tạo nên sự chủ động thực sự cho Doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc sản xuất kinh doanh, tự trang trải bù đắp chi phí, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Cơ chế thị trường đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như sự quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của từng Doanh nghiệp phải tuân theo các quy luật khách quan, phải chú ý đến quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quy luật giá trị và phải đề cao, coi trọng hiệu quả kinh tế.
- Cơ chế thị trường tạo nên sự thay đổi lớn trong việc tổ chức bộ máy quản lý, đảm bảo sự tinh giảm, gọn nhẹ và hiệu quả của bộ máy quản lý, tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý, tránh được tác phong quan liêu cửa quyền.
Để phù hợp và đáp ứng các yêu cầu của cơ chế quản lý mới, trong những năm qua Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp quan trọng để cải cách và hoàn thiện hệ thống kế toán. Ngày 1/1/1995 được phép của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 1141-TC/QĐ/CĐKT ban hành hệ thống chế độ kế toán Doanh nghiệp và áp dụng thống nhất trong cả nước từ 1/1/1996. Ngày 15/10/1997 tại kỳ họp Quốc hội khoá IX, Quốc hội đã thông qua luật thuế giá trị gia tăng thay thế cho luật thuế doanh thu hiện hành và chính thức áp dụng từ ngày 1/1/1999.
Kế toán tiêu thụ thành phẩm là một bộ phận trong hệ thống kế toán Doanh nghiệp, trong việc đổi mới cơ chế quản lý thì đòi hỏi các công cụ của nó cũng không ngừng hoàn thiện. Do đó hoàn thiện kế toán tiêu thụ thành phẩm là góp hoàn thiện hệ thống kế toán Doanh nghiệp. Vì vậy hoàn thiện quá trình hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm là một vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng.
* Về mặt chủ quan.
Trên thực tế kế toán tại các Doanh nghiệp ở nước ta hiện nay hấu hết chưa thể hiện hết nhiệm vụ của mình trong công tác kế toán nói chung và kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm nói riêng còn thụ động, chỉ dừng lại ở mức ghi chép, cung cấp thông tin mà chưa có sự tác động tích cực đối với quá trình tiêu thụ sản phẩm. Trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, công việc của những người làm kế toán Doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc phản ánh, ghi chép, tổng hợp số liệu từ các chứng từ kế toán vào sổ kế toán và trình bày các thông tin trên báo cáo kế toán mà còn đòi hỏi phải biết phân tích các báo cáo kế toán. Thông qua phân tích các báo cáo kế toán để có những kiến nghị đề xuất cho lãnh đạo Doanh nghiệp đưa ra các giải pháp hữu hiệu cho việc ra quyết định điều hành quản lý và định hướng phát triển của Doanh nghiệp trong thời gian trước mắt cũng như chiến lược phát triển lâu dài.
Do vậy, việc không ngừng hoàn thiện nâng cao chất lượng công tác kế toán nói chung và công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm nói riêng cũng xuất phát từ yêu cầu quản lý nghiệp vụ tiêu thụ nhằm mục đích duy nhất là ngày càng hoàn thiện tốt chức năng phản ánh và giám đốc các hoạt động cung cấp thông tin cho lãnh đạo để quản lý hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả.
1.2 Yêu cầu của việc hoàn thiện.
Hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được đổi mới cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, với sự đổi mới sâu sắc của cơ chế kinh tế, nhưng do tính chất công việc cải cách hệ thống kế toán rất phức tạp lại diễn ra rất khẩn trương nên chắc chắn còn có nhiều khiếm khuyết và có những quy trình chưa hoàn toàn phù hợp. Mặc dù hệ thống kế toán Doanh nghiệp được xây dựng thích ứng, phù hợp với đặc điểm kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế tài chính của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nhưng trong quá trình nền kinh tế vận động, đổi mới có rất nhiều nghiệp vụ mới nảy sinh mà khi xây dựng chế độ kế toán các nhà kinh tế đã không lường hết được. Thêm nữa khi áp dụng vào từng mô hình Doanh nghiệp cụ thể lại phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải hoàn thiện dần hệ thống kế toán cho phù hợp với yêu cầu quản lý của Doanh nghiệp, có như thế thì hệ thống kế toán mới phát huy tốt vai trò của mình trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế Doanh nghiệp.
Do đặc thù của các loại hình Doanh nghiệp sản xuất là sản xuất và kinh doanh của mặt hàng tiêu dùng không những chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cho xuất khẩu cho nên vấn đề tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Khi đẩy mạnh được quá trình tiêu thụ thì đồng nghĩa với việc doanh số bán ra tăng, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện có nghĩa là Doanh nghiệp đang trên đà phát triển và ngược lại. Để thực hiện được mục tiêu cuối cùng của Doanh nghiệp là có lãi và đạt được những yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra thì đòi hỏi công tác hạch toán kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm phải được tổ chức một cách khoa học và hợp lý, luôn đổi mới và ngày càng hoàn thiện.
Để việc đổi mới và hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm đạt hiệu quả thì phải đảm bảo được những yêu cầu cơ bản sau:
* Yêu cầu phù hợp.
Do mỗi Doanh nghiệp có các loại hình hoạt động đặc điểm tổ chức quản lý tổ chức kinh doanh riêng cũng như yêu cầu quản lý riêng nên mỗi Doanh nghiệp cần vận dụng chế độ kế toán sao cho phù hợp với chế độ hiện hành, với đặc điểm của Doanh nghiệp.
Yêu cầu phù hợp còn đòi hỏi phải phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Vì thế khi hoàn thiện chúng ta cần đảm bảo cho doanh thu nào, chi phí đó...
* Yêu cầu thống nhất.
Yêu cầu thống nhất là một yêu cầu cơ bản nhằm tạo ra sự thống nhất về chế độ kế toán trong toàn bộ nền kế toán quốc dân cũng như trong Doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Sự thống nhất nhằm đảm bảo cho các quy định về thể lệ, chế độ kế toán được thực hiện đầy đủ và đứng đắn trong Doanh nghiệp.
Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm phải đảm bảo sự tập trung quản lý từ lãnh đạo Công ty đến cơ sở, Doanh nghiệp phải vận dụng chế độ kế toán một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sự tuân thủ những chính sách, chế độ, thể lệ về tài chính kế toán do Nhà nước ban hành, vừa phù hợp với yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Như vậy, yêu cầu thống nhất đòi hỏi trong công tác kế toán phải thực hiện thống nhất về nhiều mặt như: về đánh giá hàng tồn kho, trích khấu hao TSCĐ, thống nhất về sử dụng tài khoản, về nội dung, tên gọi và mẫu sổ.... Trong Doanh nghiệp còn có chú ý đến sự thống nhất về việc sử dụng tài khoản, sổ kế toán giữa đơn vị chính và các đơn vị trực thuộc.
* Yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
Doanh nghiệp nào bỏ vốn ra kinh doanh đều mong muốn đồng vốn của mình được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao. Mục đích cuối cùng của mọi hoạt động kinh doanh là lợi nhuận thu về cao nhất với chi phí bỏ ra là thấp nhất mà việc hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm cũng không nằm ngoài mục đích đó. Một mặt hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm giúp kế toán giảm nhẹ công việc tổ chức, xử lý, ghi chép, lưu trữ bảo quản chứng từ, sổ kế toán mà vẫn đảm bảo tính kịp thời, độ chính xác cao của thông tin kế toán. Mặt khác nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kế toán trong giám đốc, quản lý việc sử dụng tài sản tiền vốn của Doanh nghiệp.
* Yêu cầu chính xác và kịp thời.
Xuất phát từ nhiệm vụ của kế toán là cung cấp thông tin một cách kịp thời và chính xác cho ban lãnh đạo phục vụ công tác quản lý Doanh nghiệp. Do vậy kế toán tiêu thụ cần phải được tổ chức, trang bị và ứng dụng các phương tiện kỹ thuật tính toán hiện đại, ghi chép và xử lý thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác để từng bước cơ giới hoá, nâng cao hiệu quả công tác kế toán.
1.3 Nội dung của việc hoàn thiện
1.3.1 Hoàn thiện hạch toán ban đầu
Doanh nghiệp phải tổ chức hạch toán ban đầu, lập và luân chuyển, xử lý chứng từ khoa học, hợp lý. Mọi nghiệp vụ kinh tế - tài chính phát sinh và thực sự hoàn thành trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp đều phải được lập chứng từ làm cơ sở pháp lý cho mọi đối tượng ghi chép trên các tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán. Chứng từ kế toán phải được lập kịp thời, đúng theo quy định về nội dung và phương pháp lập.
Hoàn thiện hạch toán ban đầu đối với quá trình tiêu thụ thành phẩm bao gồm việc hoàn thiện từ các chứng từ bán hàng cho đến các chứng từ thanh toán với khách hàng. Chứng từ bán hàng bao gồm: Hoá đơn GTGT (đối với đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ), Hoá đơn bán hàng (đối với đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp), Phiếu xuất kho, Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, Phiếu xuất kho hàng gửi bán đại lý.... Chứng từ thanh toán với khách hàng bao gồm: Phiếu thu tiền mặt, Giấy báo có của Ngân hàng và một số các chứng từ khác có liên quan đến nghiệp vụ tiêu thụ. Với mỗi một nghiệp vụ bán buôn hay bán lẻ thì kế toán tiêu thụ cần phải viết ngay hoá đơn GTGT kèm theo vì đây chính là căn cứ dùng để xuất hàng giao cho khách hàng, thanh toán với khách hàng và ghi sổ kế toán. Tại các Doanh nghiệp sản xuất do tính phức tạp của công tác kế toán cũng như số lượng các loại thành phẩm, hàng hoá xuất bán là rất nhiều nên chăng khi xuất hàng ngoài phiếu xuất kho thì kế toán tiêu thụ cũng nên viết hoá đơn GTGT đính kèm theo có như vậy mới theo dõi được sự biến động của từng chủng loại hàng hoá cũng như doanh số bán ra.
Đối với mỗi nghiệp vụ kế toán tiêu thụ xảy ra chứng từ kế toán phải được lập đầy đủ số liên theo quy định. Ghi chép chứng từ phải rõ ràng, trung thực, đầy đủ các nội dung, gạch bỏ phần để trống, không được tẩy xoá, sửa chữa trên chứng từ. Khi lập các chứng từ thanh toán thì bộ phận kế toán phải kiểm tra kỹ chứng từ gốc (hoá đơn GTGT, phiếu xuất kho...) và ghi rõ trên chứng từ thanh toán số hoá đơn hay số phiếu của chứng từ gốc. ở các Doanh nghiệp sản xuất khi có hình thức bán hàng đại lý hay bán lẻ tại các cửa hàng bán lẻ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm...thì chứng từ ban đầu là bảng kê bán lẻ, bảng thanh toán hàng đại lý phải phản ánh được đầy đủ các nội dung: Số lượng hàng bán, đơn giá bán và tổng cộng số tiền thu được. Trong trường hợp có những mặt hàng tiêu thụ đặc biệt thì trên các bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, bảng thanh toán hàng đại lý có thể thêm, bớt một số chỉ tiêu đặc thù hoặc thay đổi thiết kế mẫu biểu cho thích hợp với việc ghi chép và yêu cầu nội dung cần phản ánh nhưng vẫn phải đảm bảo tính pháp lý cần thiết của chứng từ.
Mỗi Doanh nghiệp tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh cũng như tình hình thực tế về nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm mà lựa chọn và sử dụng chứng từ ban đầu cho phù hợp. Đây cũng là lý do mà biện pháp hoàn thiện tại mỗi Doanh nghiệp là khác nhau. Nhưng dù có hoàn thiện như thế nào thì vẫn phải căn cứ vào hệ thống chứng từ kế toán ban đầu do Bộ Tài chính ban hành, căn cứ vào nội dung kinh tế của các hoạt động và yêu cầu quản lý của đơn vị mà Doanh nghiệp chọn mẫu chứng từ cho thích hợp. Doanh nghiệp phải xây dựng con đường vận động của chứng từ một cách khoa học, hợp lý tạo điều kiện cho việc tổng hợp số liệu và ghi sổ kế toán, hướng dẫn quy định việc ghi chép vào các mẫu chứng từ rõ ràng, đầy đủ đúng theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
1.3.2 Hoàn thiện việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất vào quá trình hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
Hệ thống tài khoản kế toán Doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 1141/TC/CĐKT ngày 01/01/1995 áp dụng thống nhất cho tất cả các Doanh nghiệp thuộc mọi lính vực, mọi thành phần kinh tế.
Hệ thống tài khoản kế toán Doanh nghiệp hiện hành bao gồm 74 tài khoản được chia làm 9 loại và 7 tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán. Nhà nước quy định việc mở cũng như nội dung phản ánh kết cấu và phương pháp ghi chép của từng tài khoản nhằm đảm baỏ tính thống nhất của việc ghi chép sổ kế toán cũng như cho việc tổng hợp số liệu để lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên các Doanh nghiệp tuỳ thuộc vào tình hình thực tế, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, các phương thức tiêu thụ mà Doanh nghiệp đang sử dụng để nghiên cứu, vận dụng các tài khoản cần thiết vào hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm cho phù hợp, sao cho việc hạch toán luôn bám sát tình hình thực tế, đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế của Nhà nước và của đơn vị đề ra.
Trong kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm các tài khoản được sử dụng phải đảm bảo cung cấp được những thông tin tổng hợp và chi tiết về các chỉ tiêu doanh thu, giá vốn, công nợ và thanh toán, thuế nộp Ngân sách Nhà nước.... Mỗi Doanh nghiệp tuỳ thuộc vào sự vận động và yêu cầu quản lý của nghiệp vụ kế toán tiêu thụ thành phẩm mà mở thêm các tài khoản chi tiết (cấp 3, cấp 4...) cho từng đối tượng thành phẩm. Cụ thể kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm có thể mở thêm các tài khoản chi tiết cho các tài khoản sau:
- Tài khoản 511: Doanh thu bán hàng
Trong đó chi tiết cho tài khoản 511:
+ Tài khoản 5111: Doanh thu bán thành phẩm
+ Tài khoản 5112: Doanh thu bán phế liệu
+ Tài khoản 5113: Doanh thu bán đại lý
...
- Tài khoản 155: Thành phẩm
Trong đó chi tiết cho tài khoản 155:
+ Tài khoản 1551: Thành phẩm
+ Tài khoản 1552: Thành phẩm - cửa hàng bán lẻ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm
+ Tài khoản 1553: Thành phẩm - cửa hàng gửi đại lý bán
- Tài khoản 641: Chi phí bán hàng
Trong đó chi tiết cho tài khoản 641
+ Tài khoản 6411: Chi phí bán hàng
+ Tài khoản 6412: Chi phí bán hàng - cửa hàng gửi đại lý bán
Ngoài ra có thể mở chi tiết cho các tài khoản: 111, 131...
1.3.3 Hoàn thiện hệ thống sổ kế toán
Hệ thống sổ kế toán sử dụng để ghi chép, hệ thống hoá và tổng hợp số liệu từ chứng từ kế toán theo một trình tự và phương pháp ghi chép nhất định.
Hoàn thiện hệ thống sổ kế toán nói chung và hệ thống sổ kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm nói riêng đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện từ sổ kế toán chi tiết cho đến sổ kế toán tổng hợp.
Sổ kế toán tổng hợp bao gồm các loại sổ: Sổ nhật ký, sổ cái và các sổ tổng hợp khác. Các loại sổ kế toán tổng hợp khác được mở tuỳ theo đặc điểm, điều kiện sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
Bên cạnh việc hoàn thiện sổ kế toán tổng hợp thì còn phải hoàn thiện sổ kế toán chi tiết vì có hoàn thiện được như vậy mới giúp cho việc hạch toán kết hợp giữa sổ tổng hợp và sổ chi tiết có hiệu quả. Đối với nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm, kế toán có thể mở sổ chi tiết cho từng loại thành phẩm, từng đối tượng khách hàng, từng địa điểm kinh doanh...để theo dõi sát sao tình hình bán hàng cũng như doanh số thu về.
Cụ thể kế toán tiêu thụ thành phẩm nên mở các loại sổ chi tiết sau: Sổ chi tiết tài khoản 511 - “Doanh thu bán hàng”, Sổ chi tiết tài khoản 632 - “Giá vốn hàng bán” mở chi tiết cho từng loại thành phẩm, bán thành phẩm và nội dung trên sổ chi tiết TK 632 phải phản ánh được đầy đủ 2 cột giá hạch toán, giá thực tế một cách rõ ràng. Sổ chi tiết tài khoản 131 - “Phải thu của khách hàng” nên mở riêng biệt cho từng đối tượng khách hàng để đáp ứng cho việc theo dõi tình hình công nợ của mỗi khách hàng trong kỳ kế toán. Ngoài hệ thống sổ chi tiết thì hệ thống sổ cái cũng cần mở cụ thể cho từng đối tượng theo sổ chi tiết như: Sổ cái TK 5111, 5112, 5113, 131, 632, 3331. Việc ghi chép, trình tự kế toán, số liệu giữa sổ kế toán chi tiết và sổ cái hay sổ tổng hợp phải khớp với nhau, phải phản ánh được đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Có làm như vậy mới đáp ứng được cho việc theo dõi hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì vậy có thể nói rằng hoàn thiện và tổ chức hợp lý hệ thống sổ kế toán là việc làm hết sức cần thiết. Một hệ thống sổ kế toán khoa học là một hệ thống sổ kế toán đơn giản, gọn nhẹ, tiện lợi cho công việc ghi chép, giảm tới mức thấp nhất công việc ghi chép của kế toán nhưng vẫn đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ về các mặt đáp ứng tốt nhất yêu cầu quản lý.
1.3.4 ý nghĩa của việc hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm.
Việc hoàn thiện quá trình hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ trong Doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý và công tác kế toán.
Đối với công tác quản lý, hoàn thiện quá trình này sẽ giúp đơn vị quản lý chặt chẽ hơn hoạt động tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá, quản lý hàng hoá và tiền hàng tốt hơn, tránh thất thoát và thiếu hụt tiền hàng. Từ việc quản lý tốt, Doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí, xác định đúng đắn kết quả kinh doanh, phân phối thu nhập một cách chính xác, thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đối với công tác kế toán, quá trình hoàn thiện công tác hạch toán kế toán nghiệp vụ tiêu thụ sẽ tạo điều kiện giúp kế toán dễ dàng trong việc hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nâng cao được tính pháp lý, tính chính xác của thông tin kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra đối chiếu, theo dõi kịp thời tình hình tiêu thụ thành phẩm. Đồng thời nó đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin có độ chính xác, tin cậy cao cho các nhà quản lý. giúp các nhà quản lý phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định, điều chỉnh cần thiết điều hành hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Tóm lại, hoàn thiện kế toán tiêu thụ sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác kế toán Doanh nghiệp, giúp cho kế toán thực hiện tốt chức năng vốn có của mình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ thành phẩm ở Công ty
* ý kiến thứ nhất: Về việc lập các khoản dự phòng phải thu khó đòi.
Để dự phòng những tổn thất về khoản thu khó đòi có thể xảy ra, đảm bảo phù hợp giữa doanh thu và chi phí trong kỳ, cuối mỗi niên độ kế toán Công ty nên dự tính số nợ có khả năng khó đòi để lập dự phòng.
Điều kiện lập dự phòng là:
Các khoản nợ phải thu khó đòi phải có tên, địa chỉ, nội dung từng khoản nợ, số tiền phải thu của từng con nợ trong đó ghi rõ số nợ phải thu khó đòi.
Để có căn cứ lập dự phòng nợ phải thu khó đòi, Công ty phải có chứng từ gốc hoặc xác nhận của con nợ về số tiền còn nợ chưa trả bao gồm: Hợp đồng kinh tế, khế ước vay, bản thanh lý hợp đồng, cam kết nợ, bản đối chiếu công nợ...
Căn cứ để ghi nhận là khoản nợ phải thu khó đòi:
Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ 2 năm trở lên, kể từ ngày đến hạn thu nợ được ghi trong hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ, Công ty đã đòi nhiều lần nhưng vẫn chưa thu được.
Trong trường hợp đặc biệt, tuy thời gian quá hạn chưa tới 2 năm nhưng con nợ đang trong thời gian xem xét giải thể, phá sản hoặc có dấu hiệu khác như bỏ trốn hoặc đang bị các cơ quan pháp luật giam giữ, xét xử...thì cũng được ghi nhận là khoản nợ khó đòi.
Phương pháp lập dự phòng.
Trên cơ sở những đối tượng và điều kiện lập dự phòng về nợ phải thu khó đòi, Công ty phải lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra trong năm kế hoạch kèm theo các chứng cứ chứng minh các khoản nợ khó đòi.
Sau khi lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, Công ty tổng hợp toàn bộ khoản dự phòng vào bảng kê chi tiết làm căn cứ để hạch toán vào chi phí quản lý Doanh nghiệp.
Mức lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi tối đa không quá 20% tổng số dư nợ phải thu của Công ty tại thời điểm 31/12 hàng năm và đảm bảo Công ty không bị lỗ.
Đối với các khoản nợ khó đòi sau khi xoá khỏi bảng cân đối kế toán, kế toán vẫn phải một mặt tiến hành mọi biện pháp đòi nợ, mặt khác vẫn phải theo dõi ở TK 004 - “Nợ khó đòi đã xử lý” trong thời gian 15 năm.
Các khoản phải thu khó đòi được kế toán theo dõi trên TK 139 - “Dự phòng phải thu khó đòi”. TK 139 có kết cấu như sau:
Bên Nợ: - Xử lý nợ phải thu thực tế thất thu
- Hoàn nhập số dự phòng đã lập vào TK 721
Bên Có: - Trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi vào cuối niên độ
- Tính bổ sung vào chi phí phần chênh lệch giữa nợ khó đòi đã xử lý lớn hơn số đã trích lập dự phòng.
Số dư Có: - Số dự phòng đã lập hiện còn
Trình tự hạch toán:
- Cuối niên độ kế toán, Công ty căn cứ vào các khoản phải thu khó đòi, dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra trong năm kế hoạch, kế toán tính, xác định mức trích lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi:
Nợ TK 642
Có TK 139
- Trong niên độ kế toán tiếp theo:
+ Hoàn nhập dự phòng của những khoản phải thu khó đòi đã thu được:
Nợ TK 139
Có TK 137
+ Nếu xác định số nợ khó đòi không đòi được, xử lý xoá sổ:
Nợ TK 642
Có TK 131, 138
Đồng thời ghi:
Nợ TK 004: Nợ khó đòi đã xử lý
+ Tổng hợp những khoản phải thu khó đòi đã xử lý xoá nợ trước đây nhưng nay thu hồi lại được:
Nợ TK 111, 112
Có TK 721
Đồng thời ghi: Có TK 004
- Cuối niên độ kế toán sau, kế toán hoàn nhập các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi đã lập cuối niên độ kế toán trước vào thu nhập bất thường:
Nợ TK 139
Có TK 721
Đồng thời tính, xác định mức trích lập dự phòng mới các khoản nợ phải thu khó đòi cho niên độ kế toán sau:
Nợ TK 642
Có TK K139
* ý kiến thứ hai: áp dụng thêm hình thức chiết khấu bán hàng
Chiết khấu bán hàng (chiết khấu thanh toán) là số tiền giảm trừ cho bên mua vì đã trả tiền sớm trước thời hạn ghi trong hợp đồng hoặc cam kết thanh toán. Số tiền chiết khấu bán hàng chỉ được thực hiện sau khi người mua thực sự thanh toán tiền hàng. Đây thực chất cũng là một trong những biện pháp đẩy mạnh quá trình tiêu thụ, tăng khối lượng hàng bán ra ngoài ra còn thể hiện sự ưu đãi của Công ty với khách hàng đồng thời khẳng định uy tín của Doanh nghiệp trong mối quan hệ với các chủ thể khác. Vì vậy ngoài hình thức giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại Công ty nên áp dụng thêm hình thức chiết khấu bán hàng với cách hạch toán như sau:
Số tiền chiết khấu bán hàng
Nợ TK 811
Có TK 111, 112, 131
* ý kiến thứ ba: Về việc ghi chép trên sổ chi tiết thành phẩm.
Hiện nay việc ghi chép trên sổ chi tiết thành phẩm tại Công ty mới chỉ đáp ứng được cho việc theo dõi về mặt số lượng nhập - xuất - tồn kho thành phẩm hàng ngày mà chưa đáp ứng được cho việc theo dõi về mặt giá trị. Vì vậy thay cho mẫu sổ chi tiết thành phẩm đang dùng Công ty nên mở sổ chi tiết thành phẩm theo mẫu sau và trên cơ sở mẫu sổ mới này kế toán Công ty phải ghi đầy đủ trong cột đơn giá cả giá hạch toán và giá thực tế của thành phẩm nhập - xuất kho.
- Nghiệp vụ nhập:
+ Giá hạch toán: Là giá kế hoạch được xây dựng trong quý
+ Giá thực tế: Là giá thành công xưởng của thành phẩm sản xuất ra
Nghiệp vụ xuất:
+ Giá hạch toán: Là giá kế hoạch được xây dựng trong quý
+ Giá thực tế: Là giá thực tế được thể hiện trên các hoá đơn kiêm phiếu xuất kho trong quý
Việc ghi chép như vậy sẽ giúp cho kế toán tiêu thụ có thể nắm bắt ngay được giá hạch toán cũng như giá thực tế của mỗi thành phẩm từ đó có các điều chỉnh giá bán của thành phẩm cho phù hợp.
* ý kiến thứ tư: Về việc mở sổ chi tiết tiêu thụ.
Thực tế Công ty đang sử dụng sổ chi tiết doanh thu để theo dõi doanh số bán ra đối với từng khách hàng và sổ chi tiết tài khoản 131 - “ Phải thu của khách hàng” để theo dõi tình hình công nợ đối với từng khách hàng. Việc ghi chép trên 2 sổ chi tiết như vậy sẽ mất rất nhiều thời gian hơn nữa sẽ gặp khó khăn trong việc theo dõi đối ứng từng đối tượng khách hàng trên 2 sổ.
Nên chăng Công ty nên thay 2 sổ chi tiết trên bằng sổ chi tiết tiêu thụ (Biểu số 25) theo mẫu sau để tiện cho việc theo dõi doanh thu bán hàng, số tiền hàng thu về cũng như tình hình thanh toán công nợ của khách hàng.
* ý kiến thứ năm: Về việc tính giá thành phẩm xuất kho
l Trường hợp 1: Nếu Công ty vẫn áp dụng phương pháp tính giá bình quân gia quyền thì kế toán phải tiến hành ghi sổ kế toán chi tiết TK 632 hàng ngày (ghi theo giá hạch toán) và đến cuối tháng tại dòng cuối cùng trên sổ chi tiết TK 632 kế toán phải có một bút toán điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế.
l Trường hợp 2: Thay cho việc tính giá thành phẩm xuất kho bằng phương pháp bình quân gia quyền thì Công ty nên sử dụng phương pháp giá hạch toán để tính gía thành phẩm xuất kho như thế sẽ thuận tiện hơn cho công tác kế toán.
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
=
Số lượng TP xuất trong kỳ
´
Đơn giá hạch toán
(1)
Đến cuối kỳ kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế bằng phương pháp hệ số giá.
Hệ số giá TP (H)
=
Giá thực tế TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
(2)
Giá hạch toán TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Trị giá thực tế TP xuất trong kỳ
=
Trị giá hạch toán TP xuất trong kỳ
´
H
(3)
Khi sử dụng giá hạch toán thì kế toán Công ty cần phải lập “Bảng kê số 9 - Tính giá thực tế thành phẩm xuất kho”
Cách lập bảng kê số 9 như sau:
Chỉ tiêu “Số dư đầu quý”: Căn cứ vào chỉ tiêu số dư cuối quý trên bảng kế số 9 quý trước chuyển sang.
Chỉ tiêu “Số phát sinh trong quý”
+ Cột giá hạch toán: Căn cứ vào số liệu phần nhập trong quý trên sổ chi tiết thành phẩm và giá thực tế của thành phẩm tiêu thụ quý trước.
+ Cột giá thực tế: Căn cứ vào số liệu phần nhập trong quý trên sổ chi tiết thành phẩm và giá thực tế của thành phẩm tiêu thụ trong quý này.
Chỉ tiêu “Hệ số giá”: Được xác định bằng công thức (2)
Chỉ tiêu “Xuất trong quý”
+ Cột giá hạch toán: Căn cứ vào số thành phẩm xuất kho trong quý trên sổ chi tiết thành phẩm quý này và giá thực tế của thành phẩm quý trước.
+ Cột giá thực tế: Được xác định bằng công thức (3)
Chỉ tiêu “Tồn kho cuối quý” được theo dõi bằng công thức:
Tồn kho cuối quý
=
Số dư đầu quý
+
Nhập trong quý
-
Xuất trong quý
Mẫu bảng kê số 9 như sau:
Đơn vị................
bảng kê số 9
Tính giá thực tế thành phẩm
Quý...... năm..........
STT
Chỉ tiêu
TK 155 - Thành phẩm
Hạch toán
Thực tế
1.
Số dư đầu quý
2.
Phát sinh trong quý
3.
Cộng số dư đầu quý và phát sinh trong quý
4.
Hệ số giá
5.
Xuất trong quý
6.
Tồn kho cuối quý
Kế toán ghi sổ
(Ký, họ tên)
Ngày..... tháng..... năm..........
Kế toán trưởng
(Ký, họ tên)
* ý kiến thứ 6: Về việc áp dụng kế toán quản trị
Trong điều kiện thực hiện cơ chế quản lý tài chính và hệ thống kế toán mới, kế toán quản trị giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều hành và chỉ đạo quá trình sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp. Công tác kế toán quản trị là phương tiện để các nhà lãnh đạo Doanh nghiệp kiểm soát một cách có hiệu quả tình hình hoạt động của Doanh nghiệp mình. Nếu công tác kế toán quản trị được tổ chức một cách khoa học và hợp lý sẽ tạo điều kiện tốt trong kế toán hoạt động tiêu thụ thành phẩm ở Công ty, giúp các nhà quản trị quản lý tốt Doanh nghiệp và cung cấp được các tài liệu cần thiết cho quá trình điều hành sản xuất kinh doanh.
Hiện nay ở Công ty Dệt kim Đông Xuân cũng như nhiều Doanh nghiệp khác ở Việt Nam chưa áp dụng kế toán quản trị vào công việc quản lý của Doanh nghiệp mình. Như vậy Công ty cần nghiên cứu đưa hình thức kế toán này vào áp dụng trong Doanh nghiệp.
* ý kiến thứ 7: Đẩy mạnh công tác tiêu thụ thành phẩm.
Trên thực tế sản phẩm của Công ty còn chưa được người tiêu dùng ưa thích và biết đến. Do đó một trong những biện pháp để đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm không thể thiếu được trong cơ chế thị trường hiện nay là quảng cáo, chào hàng trên báo, trên tivi, marketting ... để khách hàng có thể biết đến nhiều hơn sản phẩm của Công ty.
Hơn nữa ngay như trên địa bàn Hà nội số lượng đại lý của Công ty còn rất ít, đây cũng là một hạn chế của Công ty. Do vậy mà bộ phận marketting của Công ty phải nghiên cứu, xem xét đến việc mở thêm các đại lý tiêu thụ không những chỉ trên địa bàn Hà nội mà còn ra các tỉnh, thành phố khác vì đây cũng là cơ hội để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn nữa và người tiêu dùng biết đến sản phẩm của Công ty ngày một nhiều hơn.
3. Hiệu quả của những ý kiến đề xuất.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận đã được học cùng với thời gian tìm hiểu thực tế công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty và với vốn kiến thức nhỏ của mình em đã nêu lên một số giải pháp, kiến nghị không nằm ngoài mục đích là hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty. Có như vậy kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm sẽ thực hiện tốt hơn chức năng thu thập, xử lý, cung cấp thông tin cho mục tiêu quản trị, giúp Doanh nghiệp quản lý chặt chẽ quá trình tiêu thụ thành phẩm cũng như chi phí phát sinh và tránh được những lãng phí không cần thiết trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phản ánh đúng đắn kịp thời doanh thu bán hàng, tình hình thanh toán với khách hàng để từ đó đánh giá và xác định đúng đắn hiệu quả kinh doanh giúp Doanh nghiệp phân phối thu thập một cách chính xác và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Với quy mô, đặc điểm sản xuất kinh doanh và trình độ vững vàng của nhân viên kế toán Công ty như hiện nay thì những đề xuất trên là hoàn toàn có tính khả thi. Hy vọng là Công ty sẽ xem xét đưa vào thực tế và sẽ đem lại hiệu quả cao trong tương lai gần.
Kết luận
Để trở thành một công cụ có hiệu lực, kế toán nói chung và đặc biệt là kế toán tiêu thụ thành phẩm nói riêng phải luôn luôn được đổi mới và hoàn thiện để phản ánh một cách đầy đủ và chính xác tình hình tiêu thụ của Công ty giúp lãnh đạo Công ty đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn và kịp thời.
Cùng với sự lớn mạnh của Công ty dệt kim Đông xuân, hệ thống quản lý nói chung và bộ phận kế toán nói riêng đặc biệt là kế toán tiêu thụ thành phẩm đã không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh phục vụ tốt cho công tác quản lý nhằm thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá nhanh hơn.
Trong thời gian thực tập em đã cố gắng tập trung nghiên cứu tìm hiểu công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm tại Công ty Dệt kim Đông xuân và đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ tại Công ty.
Tuy nhiên do thời gian hạn hẹp và những hạn chế về kiến thức của bản thân nên bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong các thầy cô giáo cũng như các bạn quan tâm đến đề tài này góp ý kiến để kiến thức về nghiệp vụ tiêu thụ của em được củng cố khi ra trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - Tiến sỹ Nguyễn Tuấn Duy cùng toàn thể cán bộ nhân viên phòng kế toán Công ty Dệt kim Đông xuân đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này.
Hà nội, Tháng 5/2001
Sinh viên
Hoàng Song Hương
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1393.doc