Lời nói đầu
Trong những năm gần đây, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thì các đơn vị hành chính sự nghiệp dưới sự quản lý của nhà nước cũng từng bước đi vào phát triển ổn định và vững chắc góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội của đất nước.
Các đơn vị hành chính sự nghiệp là những đơn vị quản lý hành chính Nhà nước như đơn vị sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá, thông tin, sự nghiệp khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế … hoạt động bằng nguồn kinh phí của Nhà nướ
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Công tác Kế toán HCSN tại Trường Kỹ thuật thiết bị y tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c cấp, cấp trên cấp hoặc các nguồn kinh phí khác như thu sự nghiệp, phí, lệ phí, thu từ kết quả hoạt động kinh doanh hay nhận viện trợ biếu tặng theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp để thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho.
Trong quá trình hoạt động các đơn vị hành chính sự nghiệp dưới sự quản lý của Đảng và Nhà nước phải có nhiệm vụ chấp hành nghiêm chỉnh luật Ngân sách Nhà nước, các tiêu chuẩn định mức, các qui định về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp do Nhà nước ban hành. Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – tài chính tăng cường quản lý kiểm soát chi quỹ Ngân sách Nhà nước, quản lý tài sản công, nâng cao chất lượng công tác kế toán và hiệu quả quản lý các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Chính vì vậy, công việc của kế toán trong các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu là phải tổ chức hệ thống thông tin bằng số liệu để quản lý và kiểm soát nguồn kinh phí, tình hình sử dụng quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư tài sản công; tình hình chấp hành dự toán thu, chi và thực hiện các tiêu chuẩn định mức của Nhà nước ở đơn vị. Đồng thời, kế toán hành chính sự nghiệp với chức năng thông tin mọi hoạt động kinh tế phát sinh trong quá trình chấp hành Ngân sách Nhà nước tại đơn vị hành chính sự nghiệp được Nhà nước sử dụng như là một công cụ sắc bén trong việc quản lý Ngân sách Nhà nước, góp phần đắc lực vào việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả cao.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kế toán hành chính sự nghiệp trong các đơn vị hành chính sự nghiệp hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước nên em quyết tâm học hỏi, nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về vị trí vai trò của công tác quản lý tài chính – kế toán trong các đơn vị hành chính sự nghiệp. Đồng thời, qua đó em có thể củng cố thêm kiến thức mình đã được học ở trường để từ đó gắn lý luận với thực tế công tác của đơn vị. Chính vì vậy, trong khoá thực tập tại đơn vị “Trường Kỹ thuật thiết bị y tế ” nằm dưới sự quản lý của phòng GD - ĐT quận Đống Đa , em quyết tâm học hỏi tìm hiểu để củng cố những kiến thức đã được học ở trường. Mặt khác, thông qua khoá thực tập này em được bồi dưỡng thêm lòng say mê, nhiệt tình công tác; rèn luyện tác phong và phương pháp công tác của người cán bộ TC – KT.
Chương I: Các vấn đề chung về kế toán hành chính sự nghiệp.
Chương II: Thực tế công tác kế toán hành chính sự nghiệp tại Trường Kỹ thuật thiết bị y tế .
Chương III: Lý luận chung về tình hình thực hiện công tác kế toán tại Trường Kỹ thuật thiết bị y tế .
Chương I: Các vấn đề chung về kế toán HCSN
1.1. Khái niệm, nhiệm vụ kế toán hành chính sự nghiệp :
1.1.1. Khái niệm.
Kế toán HCSN là công việc tổ chức hệ thống thông tin bằng số liệu để quản lý và kiểm soát nguồn kinh phí, tình hình sử dụng, quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, tài sản công; tình hình chấp hành dự toán thu, chi và thực hiện các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước ở đơn vị.
1.1.2. Nhiệm vụ.
- Thu thập, phản ánh, xử lý và tổng hợp thông tin về nguồn kinh phí được cấp, được tài trợ, được hình thành và tình hình sử dụng các khoản kinh phí; sử dụng các khoản thu phát sinh ở đơn vị.
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình chấp hành dự toán thu, chi, tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, tài chính và các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước; kiểm tra việc quản lý, sử dụng các loại vật tư tài sản công ở đơn vị; kiểm tra tình hình chấp hành kỷ luật thu nộp ngân sách, chấp hành kỷ luật thanh toán và các chế độ, chính sách của Nhà nước.
- Theo dõi và kiểm soát tình hình phân phối kinh phí cho các đơn vị dự toán cấp dưới, tình hình chấp hành dự toán thu, chi và quyết toán của các đơn vị cấp dưới.
- Lập và nộp đúng hạn các báo cáo tài chính cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính theo quy định. Cung cấp thông tin và tài liệu cần thiết phục vụ cho việc xây dựng dự toán, xây dựng các định mức chi tiêu. Phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí, vốn, quỹ ở đơn vị.
1.1.3. Yêu cầu công tác kế toán trong các đơn vị HCSN.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác và toàn diện mọi khoản vốn, quĩ, kinh phí, tài sản và mọi hoạt động kinh tế, tài chính phát sinh ở đơn vị.
- Chỉ tiêu kinh tế phản ánh phải thống nhất với dự toán về nội dung và phương pháp tính toán.
- Số liệu trong báo cáo tài chính phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo cho các nhà quản lý có được những thông tin cần thiết về tình hình tài chính của đơn vị.
- Tổ chức công tác kế toán gọn nhẹ, tiết kiệm và có hiệu quả.
1.1.4. Nội dung công tác kế toán HCSN.
- Kế toán vốn bằng tiền.
- Kế toán vật tư, tài sản.
- Kế toán thanh toán.
- Kế toán nguồn kinh phí, vốn, quỹ.
- Kế toán các khoản thu ngân sách.
- Kế toán các khoản chi ngân sách.
- Lập báo cáo tài chính và phân tích quyết toán ở đơn vị.
1.2. Tổ chức công tác kế toán trong đơn vị HCSN:
1.2.1. Tổ chức công tác ghi chép ban đầu.
Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong việc sử dụng kinh phí và thu, chi ngân sách của mọi đơn vị kế toán hành chính sự nghiệp đều phải lập chứng từ kế toán đầy đủ, kịp thời, chính xác. Kế toán phải căn cứ vào chế độ chứng từ do nhà nước ban hành trong chế độ chứng từ kế toán hành chính sự nghiệp và nội dung hoạt động kinh tế tài chính cũng như yêu cầu quản lý các hoạt động đó để qui định cụ thể việc sử dụng các mẫu chứng từ phù hợp, qui định người chịu trách nhiệm ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào chứng từ cụ thể và xác định trình tự luân chuyển cho từng loại chứng từ một cách khoa học, hợp lý, phục vụ cho việc ghi sổ kế toán, tổng hợp số liệu thông tin kinh tế đáp ứng yêu cầu quản lý của đơn vị. Trình tự và thời gian luân chuyển chứng từ là do kế toán trưởng đơn vị qui định.
Trong quá trình vận dụng chế độ chứng từ kế toán hành chính sự nghiệp, các đơn vị không được sửa đổi biểu mẫu đã qui định. Mọi hành vi vi phạm chế độ chứng từ tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, được xử lý theo đúng qui định của Pháp lệnh kế toán thống kê, Pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản pháp qui khác của Nhà nước.
1.2.2. Tổ chức vận dụng hệ thống TK kế toán.
Ban hành theo Quyết định 999 TC/QĐ/CĐKT ngày 02/11/1996 và sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 184/1998/TT-BTC ngày 28/12/1998, Thông tư số 185/1998/TT-BTC ngày 28/12/1998, Thông tư số 109/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001 và Thông tư số 121/2002/TT-BTC ngày 31/12/2002 của Bộ Tài Chính.
Tài khoản kế toán là phương tiện dùng để tập hợp, hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế. Tài khoản kế toán được sử dụng trong đơn vị hành chính sự nghiệp dùng để phản ánh và kiểm soát thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình vận động của kinh phí và sử dụng kinh phí ở các đơn vị hành chính sự nghiệp. Nhà nước Việt Nam qui định thống nhất hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp trong cả nước bao gồm các tài khoản trong bảng cân đối tài khoản và các tài khoản ngoài bảng cân đối tài khoản.
Trong hệ thống tài khoản kế toán thống nhất có qui định những tài khoản kế toán dùng chung cho mọi đơn vị thuộc mọi loại hình hành chính sự nghiệp và những tài khoản kế toán dùng riêng cho các đơn vị thuộc một số loại hình qui định rõ các tài khoản cấp 2 của một số tài khoản có tính chất phổ biến trong các loại hình đơn vị hành chính sự nghiệp.
Các đơn vị hành chính sự nghiệp phải căn cứ vào hệ thống tài khoản thống nhất qui định trong chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp, đồng thời phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động của đơn vị cũng như yêu cầu quản lý các hoạt động đó, các đơn vị qui định những tài khoản kế toán cấp 1, cấp 2, cấp 3 và có thể qui định thêm một số tài khoản cấp 2, cấp 3 có tính chất riêng của loại hình hành chính sự nghiệp của đơn vị mình. Việc xác định đầy đủ, đúng đắn, hợp lý số lượng tài khoản cấp 1, cấp 2, cấp 3,… để sử dụng đảm bảo phản ánh đầy đủ các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị, đáp ứng nhu cầu thông tin và kiểm tra, phục vụ công tác quản lý của Nhà nước và của đơn vị đối với các hoạt động kinh tế, tài chính trong đơn vị.
1.2.3. Tổ chức vận dụng hình thức kế toán.
Theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, các hình thức kế toán được áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp gồm:
Hình thức kế toán Nhật ký chung.
Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ.
Hình thức kế toán Nhật ký-Sổ cái.
Tuỳ thuộc vào qui mô, đặc điểm hoạt động, yêu cầu và trình độ quản lý, điều kiện trang bị kỹ thuật tính toán, mỗi đơn vị kế toán được phép lựa chọn một hình thức kế toán phù hợp với đơn vị mình nhằm đảm bảo cho kế toán có thể thực hiện tốt nhiệm vụ thu nhận, xử lý và cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác tài liệu, thông tin kinh tế phục vụ cho công tác lãnh đạo điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị.
1.2.3.1. Hình thức Nhật ký-Sổ cái :
* Trình tự và phương pháp ghi sổ:
Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ gốc (Bảng tổng hợp chứng từ gốc), kế toán tiến hành dịnh khoản rồi ghi vào Nhật ký-sổ cáI. Mỗi chứng từ (Bảng tổng hợp chứng từ) ghi vào Nhật ký-sổ cáI một dòng, đồng thời cả ở 2 phần: phầ Nhật ký (gày, tháng ghi sổ, số hiệu và ngày tháng chứng từ; diễn giảI và số phát sinh) và phần sổ cáI (ghi Nợ, ghi Có của các tàI khoản liên quan). Cuối kỳ (tháng, quí, năm), tiến hành khoá sổ các tài khoản, tính ra và đối chiếu số liệu bảo đảm các Tổng cộng số tiền ở phần Nhật ký
(cột SPS)
quan hệ cân đối sau:
Tổng số phát sinh Có của các tài khoản
(phần sổ cái)
Tổng số phát sinh Nợ của các tài khoản (phần sổ cái)
= = =
Tổng số dư Có cuối kỳ của tất cả các tài khoản
Tổng số dư Nợ cuối kỳ của tất cả các tài khoản
=
Ngoài ra, để có những thông tin chi tiết, cụ thể về tình hình tài sản, vật tư, tiền vốn, tình hình và kết quả hoạt động kinh tế tài chính, kế toán còn sử dụng cả sổ, thẻ kế toán chi tiết. Tuỳ theo yêu cầu quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp có thể mở và lựa chọn các mẫu sổ kế toán chi tiết cần thiết và phù hợp. Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ kế toán để ghi vào các sổ, thẻ chi tiết liên quan, cuối tháng (quí), phải tổng hợp số liệu, khoá sổ và thẻ chi tiết rồi lập các bảng tổng hợp chi tiết. Thông thường, kế toán có thể mở các sổ, thẻ chi tiết sau:
Sổ tài sản cố định.
Sổ chi tiết vật liệu, sản phẩm, hàng hoá.
Thẻ kho.
Sổ chi phí sản xuất, kinh doanh.
Sổ chi tiết thanh toán (với người bán, người mua, với ngân sách, với nội bộ).
Sổ chi tiết nguồn kinh phí.
Sổ chi tiết chi hoạt động…
Có thể khái quát trình tự ghi sổ theo hình thức Nhật ký-sổ cái qua sơ đồ:
Sơ đồ trình tự kế toán của hình thức nhật ký-sổ cái.Chứng từ gốc
1
Sổ, thẻ KT chi tiết
3
1
1
Bảng tổng hợp chứng từ gốc
4
Sổ quỹ
(
2
8
7
Bảng tổng hợp chi tiết
Nhật ký-sổ cái
5
6
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày.
Ghi cuối tháng.
Quan hệ đối chiếu.
1.2.3.2. Hình thức chứng từ ghi sổ :
Trình tự và phương pháp ghi sổ được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán của hình thức chứng từ ghi sổ.
2
1
1
Sổ, thẻ KT chi tiết
Chứng từ gốc
5
Chứng từ ghi sổ
Sổ quĩ
3
4
10
8
Bảng tổng hợp chi tiết
Sổ đăng ký CTGS
Sổ cái
9
6
Bảng cân đối TK
7
7
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
1.2.3.3. Hình thức nhật ký chung :
Trình từ và phương pháp ghi sổ được thể hiện qua sơ đồ sau:
1
Chứng từ gốc
Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán của hình thức kế toán nhật ký chung.
1
1
Sổ, thẻ KT chi tiết
5
7
Nhật ký chung
Nhật ký chuyên dùng
2
8
3
Bảng tổng hợp chi tiết
Sổ cái
4
9
Bảng cân đối TK
6
6
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Ghi định kỳ (5,7 ngày)
1.2.4. Lập và gửi báo cáo tài chính.
Việc lập các báo cáo tài chính là khâu công việc cuối cùng của một quá trình công tác kế toán. Số liệu trong Báo cáo tài chính mang tính tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, tình hình cấp phát, tiếp nhận kinh phí của Nhà nước, kinh phí viện trợ… và tình hình sử dụng từng loại kinh phí theo những chỉ tiêu kinh tế tài chính phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi, quản lý tài sản của Nhà nước, tổng hợp, phân tích, đánh giá các hoạt động của mỗi đơn vị. Việc lập Báo cáo tài chính đối với đơn vị hành chính sự nghiệp có tác dụng và ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí và quản lý ngân sách nhà nước của các cấp ngân sách. Vì vậy, đòi hỏi các đơn vị hành chính sự nghiệp phải lập và nộp đầy đủ, kịp thời các Báo cáo tài chính theo đúng mẫu biểu qui định thời hạn lập, nộp và nơi gửi báo cáo. Tuy nhiên, trong quá trình lập báo cáo, đối với một số đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc các lĩnh vực mang tính chất đặc thù có thể bổ sung, sửa đổi hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý nhưng phải được cơ quan chủ quản chấp thuận.
Kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị phải chịu trách nhiệm về các số liệu báo cáo. Vì vậy cần phải kiểm tra chặt chẽ các báo cáo tài chính trước khi ký, đóng dấu và gửi đi.
1.2.5. Tổ chức kiểm tra kế toán.
Kiểm tra kế toán là một biện pháp đảm bảo cho các nguyên tắc, qui định về kế toán được chấp hành nghiêm chỉnh, số liệu kế toán chính xác, trung thực khách quan.
Các đơn vị hành chính sự nghiệp không những chịu sự kiểm tra kế toán của đơn vị kế toán cấp trên và cơ quan tài chính mà bản thân đơn vị phải tự tổ chức kiểm tra công tác kế toán của mình.
Công việc kiểm tra kế toán phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Đơn vị kế toán cấp trên và cơ quan tài nhính, ít nhất mỗi năm một lần phải thực hiện kiểm tra kế toán khi xét duyệt quyết toán năm cho các đơn vị.
Nội dung kiểm tra kế toán là kiểm tra việc ghi chép trên chứng từ kế toán, sổ kế toán và Báo cáo tài chính, kiểm tra việc nhận và sử dụng các nguồn kinh phí, kiểm tra việc thực hiện các khoản thu, kiểm tra việc chấp hành các chế độ thể lệ tài chính, kế toán và thu nộp ngân sách.
Thủ trưởng đơn vị và kế toán trưởng hay người phụ trách kế toán phải chấp hành lệnh kiểm tra kế toán của đơn vị kế toán cấp trên và có trách nhiệm cung cấp đầy đủ số liệu cần thiết cho công tác kiểm tra kế toán được thuận lợi.
1.2.6. Tổ chức công tác kiểm kê tài sản.
Kiểm kê tài sản là một phương pháp xác định tại chỗ thực có về tài sản, vật tư, tiền quĩ, công nợ của đơn vị tài một thời điểm nhất định.
Cuối niên độ kế toán trước khi khoá sổ kế toán, các đơn vị phải thực hiện kiểm kê tài sản, vật tư, hàng hoá, tiền quĩ, đối chiếu và xác nhận công nợ hiện có để đảm bảo cho số liệu trên sổ kế toán khớp đúng với thực tế.
Ngoài ra các đơn vị cần phải tiến hành kiểm kê bất thường khi cần thiết (trong trường hợp bàn giao, sát nhập, giải thể đơn vị…).
1.3. Tổ chức bộ máy kế toán :
Tổ chức bộ máy kế toán bao gồm nhiều công việc khác nhau như lựa chọn loại hình tổ chức bộ máy kế toán (loại hình tập trung, phân tán hay nửa tập trung nửa phân tán), xác định các phần hành kế toán và phân công lao động kế toán … Việc tổ chức bộ máy kế toán phải lấy hiệu quả công việc làm tiêu chuẩn sao cho thu thập thông tin vừa chính xác, kịp thời, vừa tiết kiệm chi phí.
Việc tổ chức bộ máy kế toán trong các đơn vị có thể thực hiện theo những loại hình tổ chức công tác kế toán khác nhau mà đơn vị đã lựa chọn.
ở các đơn vị HCSN bộ máy hoạt động được tổ chức theo ngành phù hợp với từng cấp chính quyền, từng cấp ngân sách. Trong từng ngành, các đơn vị HCSN được chia thành 3 cấp: đơn vị dự toán cấp I, cấp II, cấp III. Nguồn kinh phí hoạt động của các đơn vị HCSN là do ngân sách nhà nước cấp và được phân phối và quyết toán theo từng ngành. Dự toán thu, chi và mọi khoản thu, chi phát sinh ở đơn vị dự toán cấp dưới phải tuân thủ theo các định mức, tiêu chuẩn của chế độ tài chính hiện hành và phải được kiểm tra, xét duyệt của đơn vị dự toán cấp trên và của cơ quan tài chính. Để phù hợp với chế độ phân cấp quản lý ngân sách, phân cấp quản lý tài chính, tổ chức bộ máy kế toán của đơn vị HCSN cũng được tổ chức theo ngành phù hợp với từng cấp ngân sách, cụ thể: Đơn vị dự toán cấp I là kế toán cấp I, đơn vị dự toán cấp II là kế toán cấp II, đơn vị dự toán cấp III là kế toán cấp III.
Sơ đồ bộ máy kế toán của các đơn vị dự toán:
Trưởng phòng kế toán
Kế toán CK chi
KT NKP, vốn quĩ
KT tổng hợp BCTC
Kế toán thanh toán
Kế toán VBT
Kế toán VT, TSCĐ
Nhân viên kế toán ở các bộ phận trực thuộc
Phụ trách kế toán đơn vị cấp dưới
hoặc
Phân chia các phần hành kế toán
1.4. Nội dung các phần hành kế toán :
1.4.1. Kế toán vốn bằng tiền.
1.4.1.1. Kế toán quỹ tiền mặt.
* Vốn bằng tiền ở đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm các loại: Tiền mặt (kể cả tiền Việt Nam và các loại ngoại tệ khác); vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, các loại chứng chỉ có giá; tiền gửi ở Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
* Nguyên tắc quản lý và hạch toán quỹ tiền mặt:
Trong các đơn vị HCSN đều có một số tiền mặt nhất định tại quỹ để phục vụ cho hoạt động thường xuyên của đơn vị.
Số tiền thường xuyên có tại quỹ được ấn định một mức hợp lý nhất định, mức này tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất hoạt động của từng đơn vị và được ngân hàng, Kho bạc Nhà nước thoả thuận, đơn vị phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ quản lý tiền mặt hiện hành.
Hàng quý, căn cứ vào nhhiệm vụ thực hiện dự toán, nhu cầu chi tiền nặt, đơn vị lập kế hoạch tiền mặt gửi Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước thoả thuận số tiền được rút hoặc được để lại từ các khoản thu (nếu có) để chi tiêu.
Để quản lý và hạch toán chính xác tiền mặt, tiền mặt của đơn vị được tập trung bảo quản tại quỹ của đơn vị, mọi nghiệp vụ có liên quan đến thu, chi tiền mặt do thủ quỹ chịu trách nhiệm thực hiện.
Thủ quỹ do thủ trưởng đơn vị chỉ định và chịu trách nhiệm giữ quỹ, không được nhờ người làm thay mình. Nghiêm cấm thủ quỹ trực tiếp mua, bán hàng hoá, vật tư hay kiêm nhiệm công việc tiếp liệu, công việc kế toán.
Kế toán phải thường xuyên kiểm tra quỹ tiền mặt.
Tất cả các khoản thu, chi tiền mặt phải có chứng từ hợp lệ. Cuối ngày, căn cứ vào chứng từ thu, chi tiền mặt để ghi vào sổ quỹ tiền mặt.
Kế toán quỹ tiền mặt phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác số hiện có, tình hình biến động các loại tiền phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị, luôn đảm bảo khớp đúng giữa giá trị trên sổ kế toán và sổ quỹ tiền mặt. Mọi chênh lệch phát sinh phải tìm hiểu, xác định nguyên nhân, báo cáo lãnh đạo kiến nghị biện pháp xử lý chênh lệch.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
Để phản ánh tình hình thu, chi và tồn quỹ tiền mặt, kế toán quỹ tiền mặt sử dụng:
Tài khoản 111- Tiền mặt.
* Số kế toán liên quan:
- Sổ quỹ tiền mặt;
- Sổ cái;
1.4.1.2. Kế toán tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc:
* Tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc của các đơn vị HCSN bao gồm: tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, kim khí quý, đá quý.
* Kế toán tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc cần tôn trọng một số quy định sau:
- Kế toán phải tổ chức thực hiện việc theo dõi từng loại nghiệp vụ tiền gửi (tiền gửi về kinh phí hoạt động, kinh phí dự án, tiền gửi vè vốn đầu tư XDCB và các loại tiền gửi khác theo từng Ngân hàng, Kho bạc). Định kỳ phải kiểm tra, đối chiếu nhằm đảm bảo số liệu gửi vào, rút ra và tồn cuối kỳ khớp đúng với số liệu của Ngân hàng, Kho bạc quản lý. Nếu có chênh lệch phải báo ngay cho Ngân hàng, Kho bạc để điều chỉnh kịp thời.
- Kế toán tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý, lưu thông tiền tệ và những quy định có liên quan đến Luật ngân sách hiện hành của Nhà nước.
* Tài khoản kế toán sử dụng:
Kế toán tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc sử dụng:
Tài khoản 112-Tiền gửi Ngân hàng, Kho bạc.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ tiền gửi.
- Sổ cái.
1.4.2. Kế toán vật tư, TSCĐ.
1.4.2.1. Kế toán vật tư.
* Vật liệu, dụng cụ là một bộ phận của đối tượng lao động mà đơn vị sử dụng để phục vụ cho hoạt động của đơn vị. Khác với các đơn vị sản xuất-kinh doanh, vật liệu, dụng cụ ở các đơn vị hành chính sự nghiệp là một yếu tố vật chất cần thiết phục vụ cho các hoạt động hành chính sự nghiệp theo chức năng nhiệm vụ được giao.
* Nhiệm vụ của kế toán vật liệu, dụng cụ.
Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu quản lý vật liệu và dụng cụ, với vai trò là công cụ quản lý các hoạt động kinh tế, kế toán vật liệu và dụng cụ phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Ghi chép phản ánh tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vân chuyển, bảo quản, tình hình nhập, xuất, tồn về số lượng lẫn giá trị của từng thứ, từng loại.
- Giám đốc kiểm tra tình hình thực hiện các định mức sử dụng, tình hình hao hụt, dôi thừa vật liệu, góp phần tăng cường quản lý sử dụng một cách hợp lý tiết kiệm vật liệu, ngăn ngừa các hiện tượng tham ô, lãng phí.
- Chấp hành đầy đủ các thủ tục, xuất kho vật liệu, kiểm nghiệm vật liệu.
- Cung cấp số liệu, tài liệu về vật liệu cho các bộ phận có liên quan.
- Tham gia đánh giá, kiểm kê vật liệu, dụng cụ theo đúng quy định của chế độ Nhà nước.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
Tài khoản 152 - Vật liệu, dụng cụ.
Tài khoản 005 - Dụng cụ lâu bền đang sử dụng.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ cái.
1.4.2.2. Kế toán TSCĐ.
* Tài sản cố định là những tư liệulao động và tài sản khác có giá trị lớn và thời gian sủ dụng dài. Những tư liệu lao động và tài sản khác được xếp là TSCĐ phải có đủ hai tiêu chuẩn sau đây:
- Có giá trị từ 10.000.000 trở lên .
- Thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
* Nhiệm vụ của kế toán TSCĐ.
Trong quá trình hoạt động, TSCĐ của đơn vị thường xuyên biến động xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ, đr cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời cho công tác quản lý TSCĐ, kế toán TSCĐ có các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời số lượng, hiện trạng và giá trị TSCĐ hiện có, tình hình tăng, giảm và việc sử dụng tài sản đơn vị. Thông qua đó giám đốc chặt chẽ việc đầu tư, mua sắm, sử dụng TSCĐ ở đơn vị.
- Tham gia nghiệm thu và xác định nguyên giá TSCĐ trong các trường hợp: hoàn thành việc mua sắm, xây dựng, bàn giao đưa vào sử dụng, tài sản được cơ quan quản lý cấp phát trừ vào kinh phí, tài sản tiếp nhận của đơn vị khác bàn giao hoặc được biếu, tặng, viện trợ…
- Tham gia kiểm kê, kiểm tra định kỳ hay bất thường tài sản trong đơn vị, lập kế hoạch và theo dõi việc sửa chữa, thanh lý, khôi phục, mở rộng, đối mới TSCĐ.
- Phản ánh giá trị hao mòn TSCĐ, phân tích tình hình bảo quản, hiệu quả sử dụng TSCĐ.
* Tài khoản kế toán sử dụng:
Tài khoản 211 – Tài sản cố định hữu hình.
Tài khoản 213 – Tài sản cố định vô hình.
Tài khoản 001 – Tài sản thuê ngoài.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ cái.
1.4.3. Kế toán các khoản thanh toán.
* Nội dung các khoản thanh toán.
Nội dung các khoản thanh toán trong đơn vị HCSN bao gồm các khoản nợ phải thu và các khoản nọ phải trả, cụ thể:
Các khoản phải thu.
Tạm ứng.
Các khoản phải trả.
Các khoản phải nộp theo lương.
Các khoản phải nộp cho Nhà nước.
Phải trả viên chức.
Kinh phí cấp cho cấp dưới.
Thanh toán nội bộ.
* Một số qui định về kế toán thanh toán.
- Mọi khoản thanh toán của đơn vị phải được hạch toán chi tiết theo từng nội dung thanh toán, cho từng đối tượng và từng lần thanh toán.
- Kế toán phải theo dõi chặt chẽ từng khoản nợ phải thu, nợ phải trả và thường xuyên kiểm tra, đôn đóc thu hồi nợ tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn, kinh phí hoặc để nợ nần dây dưa, khê đọng, đồng thời phải nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật thanh toán, kỷ luật thu nộp ngân sách, nộp và trả đầy đủ, kịp thời các khoản phải nộp và các khoản phải trả.
- Những khách nợ chủ nợ và các đơn vị có quan hệ giao dịch, thanh toán thường xuyên hoặc có số dư bên Nợ lớn, kế toán cần phải lập bản kê nợ đối chiếu các khoản trả, xác nhận nợ và có kế hoạch thu hồi hoặc trả nợ kịp thời, tránh tình trạng khê đọng làm tổn thất kinh phí của Nhà nước.
- Trường hợp trong cùng một đơn vị vừa có quan hệ phải thu, vừa có quan hệ phải trả, sau khi hai bên đối chiếu xác nhận nợ có thể lập chứng từ để thanh toán bù trừ.
- Các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả bằng vàng, bạc, kim khí quý, đá quý phải được kế toán chi tiết cho từng khách nợ và chủ nợ theo cả hai chỉ tiêu số lượng và giá trị.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
TK 311 – Các khoản phải thu.
TK 312 – Tạm ứng.
TK 331 – Các khoản phải trả.
TK 332 – Các khoản phải nộp theo lương.
TK 333 – Các khoản phải nộp Nhà nước.
TK 334 – Phải trả viên chức.
TK 341 – Kinh phí cấp cho cấp dưới.
TK 342 – Thanh toán nội bộ.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ cái.
1.4.4. Kế toán nguồn kinh phí.
* Nội dung.
Theo mục đích sử dụng, nguồn kinh phí trong các đơn vị HCSN được chia thành các nguồn sau:
Nguồn vốn kinh doanh.
Nguồn kinh phí hoạt động.
Nguồn kinh phí dự án.
Nguồn kinh phí đầu tư XDCB.
Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ.
* Một số qui định về kế toán nguồn kinh phí.
Kế toán nguồn kinh phí phải chấp hành các quy định sau:
- Các đơn vị HCSN được tiếp nhân kinh phí theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp để thực hiênhnhiệm vụ chính trị của mình. Kinh phí của đơn vị HCSN được hình thành từ các nguồn:
+ Ngân sách nhà nước hoặc cơ quan quản lý cấp trên cấp theo dự toán được duyệt.
+ Các khoản đóng góp hội phí của các hội viên thành viên.
+ Thu sự nghiệp được sử dụng và bổ sung từ kết quả hoạt động có thu theo chế độ tài chính hiện hành.
Các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Các đơn vị phải hạch toán đầy đủ, rành mạch, rõ ràng từng loại kinh phí vốn, quỹ và phải theo dõi chi tiết theo từng nguồn hình thành vốn, kinh phí.
- Việc kết chuyển từng nguồn kinh phí quỹ này sang nguồn KP khác phải chấp hành theo đúng chế độ và làm các thủ tục cần thiết.
- Đối với các khoản thu tại đơn vị được phép bổ sung nguồn KP, khi phát sinh được hạch toán phản ánh các khoản thu, sau đó được kết chuyển sang tài khoản nguồn KP liên quan theo quy định hoặc theo phê duyệt của cấp trên có thẩm quyền.
- KP phải được sử dụng đúng mục đích, nội dung dự toán, phê duyệt đúng tiêu chuẩn và định mức của Nhà nước. Cuối niên độ kế toán, KP sử dụng không hết phải hoàn trả ngân sách hoặc cấp trên, đơn vị chỉ được kết chuyển qua năm sau khi được phép của cơ quan tài chính.
- Cuối mỗi kỳ kế toán, đơn vị phải làm thủ tục đối chiếu thanh quyết toán tình hình tiếp nhận và sử dụng từng loại kinh phí với cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản, cơ quan chủ trì thực hiện các chương trình, dự án… theo đúng quy định của chế độ hiện hành.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
TK 411- Nguồn vốn kinh doanh.
TK 461- Nguồn kinh phí hoạt động.
TK 462- Nguồn kinh phí dự án.
TK 441- Nguồn kinh phí ĐTXDCB.
TK 466- Nguồn kinh phí đã HTTSCĐ.
TK 431- Quỹ cơ quan.
TK 421- Chênh lệch thu, chi chưa xử lý.
TK 413- Chênh lệch tỷ giá.
* Sổ kế toán liên quan.
- Giấy phân phối HMKP;
- Sổ theo dõi HMKP;
- Sổ cái.
1.4.5. Kế toán các khoản thu.
* Nội dung các khoản thu:
Các khoản thu ở các đơn vị HCSN bao gồm:
- Các khoản thu phí, lệ phí như: lệ phí cầu, đường, án phí, lệ phí công chứng.
- Các khoản thu sự nghiệp: Sự nghiệp VH, GD, YT, sự nghiệp kinh tế.
- Các khoản thu khác như: Thu lãi tiền gửi, thu mua kỳ phiếu, trái phiếu, thu nhượng bán thanh lý TSCĐ, vật tư…
* Nguyên tắc:
Các khoản thu phí, lệ phí là do Nhà nước quy định cụ thể cho từng loại. Đơn vị phải lập dự toán thu, tổ chức quá trình thu và quản lý chặt chẽ các khoản thu theo chức năng của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thu, phân phối và sử dụng của từng khoản thu.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
TK 511- Các khoản thu.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ cái.
1.4.6. Kế toán các khoản chi.
* Nội dung của các khoản chi HCSN.
Nội dung của các khoản chi HCSN bao gồm một số nội dung chủ yếu sau:
- Chi tiền lương chính.
- Chi phụ cấp lương.
- Chi trả tiền làm đêm, làm thêm giờ.
- Chi cho nghiệp vụ chuyên môn.
- Chi quản lý hành chính: công tác phí, phụ cấp lưu trú, vật tư văn phòng, thông tin, liên lạc…
- Chi sửa chữa, mua sắm TSCĐ.
- Chi phí thực hiện các chương trình, dự án, đề tài.
- Chi phí thanh lý, nhượng bán vật tư, TSCĐ…
* Một số nguyên tắc kế toán các khoản chi HCSN.
Kế toán HCSN phải tôn trọng một số nguyên tắc sau:
- Phải tổ chức hạch toán chi tiết từng loại chi phù hợp với thời gian cấp KP, theo từng nguồn KP được cấp và từng nội dung chi theo quy định của mục lục ngân sách (đối với KP ngân sách cấp hoặc có nguồn gốc ngân sách); hoặc theo từng khoản mục chi đối với các chương trình, dự án, để tài…
- Phải đảm bảo thống nhất giữa hạch toán với việclập dự toán về nội dung chi, phương pháp tính toán…
- Phải hạch toán chi tiết theo từng năm (năm trước, năm nay, năm sau).
- Các đơn vị cấp trên ngoài việc phải theo dõi tập hợp các khoản chi của đơn vị mình còn phải tổng hợp chi trong toàn ngành.
* Tài khoản kế toán sử dụng.
TK 661- Chi hoạt động.
TK 662- Chi dự án.
* Sổ kế toán liên quan.
- Sổ cái.
1.4.7. Báo cáo tài chính.
* Báo cáo tài chính là báo cáo tổng hợp về tình hình tài sản của đơn vị; tình hình và kết quả cấp phát, tiếp nhận vốn, kinh phí; các khoản thu (thu phí, lệ phí, thu SN và các khoản thu khác); tình hình quản lý, sử dụng các tài sản, KP và quyết toán KP trong một thời kỳ nhất định.
* Nội dung báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính qui định cho các đơn vị HCSN bao gồm các biểu mẫu sau:
- Bảng cân đối tài khoản (Mẫu B01 – H).
- Tổng hợp tình hình KP và quyết toán KP đã sử dụng (Mẫu B02 – H).
- Báo cáo tình hình sử dụng số KP quyết toán năm trước chuyển sang.
- Báo cáo tình hình tăng, giảm TSCĐ (Mẫu B03 – H).
- Báo cáo kết quả hoạt động sự nghiệp có thu (Mẫu B04 – H).
- Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu B05 – H).
- Báo cáo tình hình KP năm trước chuyển sang.
Ngoài ra, để phục vụ việc quyết toán KP đã sử dụng theo từng nguồn cấp phát và nội dung ch, đơn vị phải lập các biểu chi tiết cho biểu (Mẫu B02 – H) sau:
- Chi tiết KP hoạt động đề nghị quyết toán (F02 – 1H);
- Chi tiết thực chi dự án đề nghị quyết toán (F02 – 2H);
Bảng đối chiếu HMKP (F02 – 3H).
Sơ đồ kế toán tổng hợp :
(1) Tk 334
Tk 112 Tk 111 TK661
(2) (3) (6)
(11) (4)
(5) Tk 332
Tk 511 (7)
(10)
(12)
Tk 342 Tk 461
(9)
(8)
(13)
Giải thích sơ đồ:
(1): Gửi tiền mặt vào tài khoản tiền gửi tại kho bạc.
(2): Rút tiền gửi kho bạc về quỹ tiền mặt của đơn vị.
(3): Thanh toán tiền lương cho cán bộ, công nhân viên của đơn vị.
(6): Các khoản chi thường xuyên tại đơn vị trả bằng tiền mặt.
(5): Nộp các ._.khoản trích theo lương của cán bộ, công nhân viên của đơn vị lên cơ quan cấp trên.
(6): Tính tiền lương phải trả cho cán bộ, công nhân viên của đơn vị.
(7): Tính các khoản phải nộp theo lương của cán bộ, công nhân viên của đơn vị.
(8): Chuyển trả tiền điện thoại, tiền báo chí trong đơn vị.
(9): Trường hợp đơn vị chuyển trả BHXH, BHYT cho cơ quan cấp trên.
(10): Rút dự toán chi hoạt động về quỹ tiền mặt của đơn vị.
(11): Thu tiền học phí của giáo viên chủ nhiệm.
(12): Trường hợp kế toán của đơn vị tính tỷ lệ % tiền học phí phải nộp lên cấp trên.
(13): Cuối kỳ, khi báo cáo quyết toán chi hoạt động của đơn vị được cấp trên duyệt y.
Chương II : Thực tế công tác kế toán tại trường kỹ thuật thiết bị y tế .
1- Giới thiệu sơ qua về trường kỹ thuật thiết bị y tế :
Ngày 14/8/2003 , Trường kỹ thuật thiết bị y tế tròn 30 tuổi . Trải qua 30 năm xây dựng và trưởng thành ,từ một nhà trường chưa có địa chỉ khi có quyết định thành lập ban đầu , đến một địa điểm tại nơi sơ tán thuộc Hà Bắc , rồi sáp nhập vào xí nghiệp Sữa chữa thiết bị y tế chuyển về Hà Nội . Sau đó lại tách ra để cùng Viện Trang thiết bị và Công trình Y tế mang tên mới : Trung tâm Thiết bị Y tế. Cuối cùng tháng 11/1991 là thành viên độc lập trực thuộc Bộ Y tế và trở thành một trường dạy nghề kỹ thuật duy nhất đào tạo đội ngũ nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế cho cả nước. Các thế hệ cán bộ , giáo viên , công nhân viên , học sinh của trường đã vượt qua mọi khó khăn của những ngày đầu mới thành lập và tìm tòi vượt khó đi lên khi cơ chế thị trường xuất hiện trong những năm đầu đổi mới của đất nước .
1.1 – Quá trình thành lập trường Kỹ thuật thiết bị y tế :
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp , tại chiến khu Việt Bắc , Đảng và Chính Phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Quốc Phòng tập hợp những kỹ sư , công nhân có ít nhiều hiểu biết về cơ khí và điện máy về làm việc trong các xí nghiệp quốc phòng đồng thời kèm cặp công nhân trẻ, hướng dẫn cho họ sữa chữa máy móc khí tài của quân đội trong đó có một số máy y tế phục vụ cho các đội điều trị , bệnh viện quân y như nồi hấp , tủ lạnh chạy bằng dầu , mô tơ phát điện dùng cho máy Xquang Picker , chiến lợi phẩm thu được .
Trong an toàn khu đã thành lập các cơ sở Dược, đồng thời phụ trách luôn cả công tác vật tư , trang thiết bị y tế tại xã An Trạch – Huyện Phú Lương – Tỉnh Thái Nguyên , bên cạnh bệnh viện 108 ,ban đại học Dược thuộc trường Đại học Y- Dược khoa , … xưởng XZ16 là đơn vị chuyên trách sửa chữa , sản xuất phục vụ y tế . Cán bộ công nhân kỹ thuật phần lớn là tốt nghiệp Trường Kỹ Nghệ thực hành Hà Nội . Đây là lực lượng nòng cốt của xưởng XZ16.
Cuối năm 1953 , đầu năm 1954 , họ đã nhận được những chuyến hàng viện trợ y tế của các nước anh em trong đó có máy Xquang loại 4 Kenotrons và 6 Kenotrons và một số dụng cụ đóng theo cơ số như : bộ tiểu phẫu thuật , trung phẫu thuật …
Năm 1954 , hoà bình được lập lại trên nửa đất nước , các đội ngũ kỹ thuật trở về tiếp quản các cơ sở y tế bao gồm các Viện nghiên cứu , bệnh viện ,trường đào tạo ở Hà Nội , Hải Phòng và các thành phố khác. Đồng thời xây dựng lại các bệnh viện tỉnh đã bị chiến tranh tàn phá ,từng bước phát triển các bệnh viện ,bệnh xá huyện ,thị và trạm y tế hộ sinh xã . Để có thể làm tốt công tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân , việc bổ sung máy móc dụng cụ y tế tăng thêm cơ sở vật chất cho các bệnh viện , viện nghiên cứu,trường đào tạo cán bộ y tế là hết sức cần thiết . Do tình hình kinh tế lúc bấy giờ còn nhiều khó khăn vì đất nước mới thoát khỏi cuộc chiến tranh nên việc trang bị máy móc dụng cụ y tế phải dựa vào sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa anh em như Liên Xô(cũ) ,Trung quốc ,Ba Lan…
Các bệnh viện lớn ở Hà Nội và một số bệnh viện tỉnh đã được trang bị các loại máy hiện đại của các hãng có tiếng như máy Xquang TUR của CHDC Đức , ghế chữa răng của hãng MEDICOR(Hungary) … các hệ thống nồi hấp , sấy , các tủ lạnh chạy điện ,tủ ấm tự động , kính hiển vi … Từ đó vấn đề đào tạo cán bộ ,công nhân có kiến thức khoa học ,có khả năng tay nghề chuyên về sửa chữa máy móc y tế được đặt ra thành vấn đề cấp bách trước mắt và vấn đề tự sản xuất trang thiết bị y tế về lâu dài nhằm thực hiện phương châm tự lực cánh sinh của đảng . Thời gian này số cán bộ kỹ thuật không nhiều nhưng là những người đã để lại dấu ấn khó quên trong công tác đào tạo lại cán bộ kỹ thuật thiết bị y tế , đó là : Bác Lý Văn Đại – nguyên là phó ban kỹ thuật Đài phát thanh Vọng của Hà Nội thời kỳ Pháp tạm chiến , một bàn tay vàng về lắp đặt ,hiệu chỉnh máy , sửa chữa máy được chuyên gia các nước XHCN anh em khâm phục và được giáo sư Tôn Thất Tùng tín nhiệm , quý trọng . Ngoài Bác Đại còn có ông Nguyễn Văn Rạng- một kỹ thuật viên điện tử được đào tạo ở Paris về nước cùng với đoàn cố Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch sau chuyến đi thăm nước Pháp ,ông Rạng cùng với đồng chí Lê Ngọc Côn là những cán bộ quản đốc đầu tiên của phân xưởng sửa chữa thiết bị y tế .
Bước vào giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1961-1965 , các cơ sở y tế được nhận thêm nhiều thiết bị , công việc chuẩn hóa trang thiết bị y tế cho các bệnh viện trung ương ,tỉnh ,huyện được hình thành .Bệnh viện Phủ Doãn phải mở rộng thêm cơ sở để tiếp nhận trang bị của CHDC Đức giúp nên Quốc Doanh Y – Dược phẩm phải nhường lại địa điểm ở Phủ Doãn cho bệnh viện .Từ đố bệnh viện Phủ Doãn đổi tên thành bệnh viện Việt Đức và Quốc Doanh Y – Dược Phẩm chuyển về ngã tư sở . Ngôi nhà được sửa sang lại và trang bị thêm để sản xuất dung cụ y tế và được đặt tên là Xưởng y cụ .
Để có thêm lực lượng lao động có kỹ thuật , năm 1961 , xưởng y cụ mở lớp công nhân kỹ thuật khoá I . Các anh chị em có trình độ văn hoá xin được theo học ,học viện toàn là thanh niên đang hăng hái , giảng viên là những kỹ sư mới ra trường có dịp suy nghĩ ,soạn bài giảng . Đây thực sự là một lớp học có lên lớp nghe giảng lý thuyết , có thực hành nghiêm túc không phải như trước đây là đào tạo cán bộ theo kiểu kèm cặp , khi lớp học hoàn thành , xưởng lựa chọn những người thi đỗ bố trí vào các phân xưởng.
Những năm 1962, 1963 , 1964 … xưởng tổ chức khoá II ,khoá III … kết quả đạt được tốt ,thời kỳ này đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng việc đánh phá ra miền Bắc nên xưởng phải sơ tán về vùng nông thôn và phân tán việc sản xuất .
Do số lượng cán bộ công nhân đào tạo ở nước ngoài quá ít không đáp ứng được nhu cầu nên năm 1968 Bộ Y Tế chủ trương liên kết với ngành Bưu điện để gửi khoảng 100 công nhân đến học tập tại trường Đào tạo công nhân ngành bưu điện ở Phủ Lý –Hà Nam . Học sinh được học tập những vấn đề cơ bản về cơ khí điện , điện tử trong thời gian 2 năm .Bộ y tế nhận thấy số công nhân này tuy có những hiểu biết cơ bản về cơ khí , điện , điện tử nhưng chưa có kiến thức về những máy móc y tế nên Bộ Quyết định cho số công nhân trên tiếp tục học thêm 1 năm nữa chuyên sâu về sửa chữa máy y tế . Ngày 20/12/1970 , Bộ Y tế quyết định thành lập xưởng sửa chữa thiết bị y tế tiền thân của Xí nghiệp sửa chữa thiết bị y tế hiện nay , phụ trách xưởng là đồng chí Lê Ngọc Côn ,đồng thời cho phép mở lớp để tiếp tục việc đào tạo bổ sung cho số 100 công nhân vừa học xong ở Trường Công Nhân Bưu điện Phủ Lý .
Đến tháng 8/1973 ,Bộ Y tế quyết định thành lập trường Công Nhân Kỹ thuật thiết bị y tế và tháng 10 / 1973 quyết định nâng xưởng sữa chữa thiết bị y tế lên thành xí nghiệp .Lúc đầu trường là một đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân.Cả hai đơn vị đều thuộc Cục Vật tư Xây dựng cơ bản , Bộ Y tế .Về lãnh đạo thì Giám đốc Xí nghiệp kiêm hiệu trưởng trường . Đây là một kết quả của một tư duy một tầm nhìn chiến lược trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật sửa chữa thiết bị y tế . Khung cán bộ của xưởng và trường lúc này đã được củng cố . Xưởng được Bộ Y tế bổ nhiệm đồng chí Lê Lợi – Nguyên là trưởng phòng Quản trị của Bộ về giữ chức quản đốc , các đồng chí Lê Ngọc Côn , Từ Hùng – Phó quản đốc . Đến tháng 10/1973 Bộ y tế quyết định nâng xưởng thành xí nghiệp . Trường cũng được Bộ y tế ra quyết định cử kỹ sư Trần Đình Liên – phụ trách phân xưởng Xquang của xí nghiệp về giữ chức Phó hiệu trưởng . Tháng 2/1974 Bộ y tế chính thức bổ nhiệm đồng chí Lê Lợi – Giám đốc xí nghiệp kiêm hiệu trưởng nhà trường .
1.2 – Trường công nhân kỹ thuật sửa chữa thiết bị y tế những ngày đầu mới thành lập (1973-1976) :
Tại quyết định số 320 – BYT/QĐ ngày 14/8/1973 , Bộ y tế thành lập trường Công nhân kỹ thuật sửa chữa thiết bị y tế thuộc Cục Vật tư Xây dựng cơ bản Bộ y tế và được đặt cạnh Xí nghiệp sữa chữa thiết bị y tế . Hai đơn vị này có mối quan hệ khăng khít với nhau theo mô hình tổ chức Xí Nghiệp – trường giống như mô hình Bệnh viện – trường , nhưng Xí nghiệp và Trường đều cố con dấu và tài khoản riêng , chỉ có Giám đốc kiêm hiệu trưởng và tổ chức Đảng là phụ thuộc vào Xí Nghiệp .Năm 1974 Lãnh đạo , giáo viên của trường đã tìm địa điểm xây dựng cơ sở vật chất cho trường quyết tâm thực hiện việc tuyển sinh khoá đầu . Hoà bình lập lại năm 1975 , Xí nghiệp đã xin được cấp đất tại Phường Phương Mai và chuyển hẳn về Hà Nội năm 1976 trong khi trường vẫn phải ở lại nơi sơ tán Hà Bắc . Khó khăn nhất là tem ,phiếu phục vụ đời sống học sinh . Để khắc phục vấn đề này chỉ có cách sát nhập trường vào xí nghiệp thì mới giải quyết được lâu dài , vì thế Bộ Y tế đã ra quyết định 468 – BYT/QĐ ngày 17/05/1796 sát nhập trường vào xí nghiệp .
* Xây dựng đội ngũ cán bộ ban đầu:
Những cán bộ có mặt trong những ngày đầu mới thành lập hầu hết là người của Xí nghiệp thiết bị y tế chuyển sang . Ngoài hai đồng chí lãnh đạo nhà trường do Bộ bổ nhiệm đó là : Đồng chí Lê Lợi – Giám đốc xí nghiệp kiêm hiệu trưởng và kỹ sư Trần Đình Liên – Phó hiệu trưởng , phụ trách chuyên môn .Các cán bộ , giáo viên có mặt đầu tiên để lo cho trường những ngày đầu là những cán bộ được điều từ xí nghiệp thiết bị y tế. Thời gian đầu tất cả thầy trò đều tập trung vào việc sữa chữa nhà kho thành xưởng thực tập , lớp học , phòng làm việc , hội trường , nhà ở cho cán bộ giáo viên và học sinh. Một số lo mua sắm vật tư tìm kiếm máy móc dụng cụ phương tiện giảng dạy , học tập. Thầy và trò làm việc với tinh thần ngày quên giờ , tuần quên ăn , ăn uống qua loa . Tất cả vì ngày khai giảng đầu tiên , vì buổi học đầu tiên của trường đúng vào dịp khai giảng đối với các trường trong cả nước . Điều này đã được thực hiện đúng vào mùa khai giảng các trường dạy nghề năm học 1974-1975 của cả nước.
* Xây dựng nội dung giảng dạy :
Năm 1973 , Trường công nhân kỹ thuật y tế được thành lập ,cơ sở vật chất hầu như chưa có gì , tất cả còn tạm bợ , đội ngũ cán bộ giảng dạy phải dựa vào nhiều nguồn khác nhau ,cái khó nhất vẫn là nội dung chương trình giảng dạy chuẩn bị cho khoá đào tạo đầu tiên của trường (1973-1974). Vì là một trường chính quy nên quy trình đào tạo cũng phải đảm bảo tính chính quy ngay từ đầu ,điều đó đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo và giáo viên phải động não , suy nghĩ tìm tòi và sáng tạo ra một quy trình đào tạo thích hợp .Đó là việc kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành , giữa kiến thức cơ bản với kỹ thuật chuyên môn , giữa đa ngành với chuyên sâu , giữa kỹ thuật chuyên môn với nghiệp vụ quản lý . Những nguyên tắc trên đã được áp dụng cho khoá đầu tiên và đã đạt được kết quả mỹ mãn. Với nội dung chương trình giảng dạy và với việc học sinh có đủ máy để thực tập thì khi ra trường học sinh có những hiểu biết kỹ năng cơ bản và có thể độc lập làm việc được .
* Công tác tuyển sinh :
Mục tiêu của trường đặt ra là trong bất cứ hoàn cảnh nào , việc tuyển sinh khoá đầu tiên cũng phải thực hiện . Dựa trên nhiệm vụ của trường là đào tạo công nhân cho các địa phương nên công tác tuyển sinh khác với các trường khác là không tổ chức thi tuyển cho tất cả các đối tượng mà tiến hành tuyển sinh theo cách gọi ngày nay là “ cử tuyển” . Trường thiết bị y tế giao chỉ tiêu tuyển sinh và tiêu chuẩn cán bộ được cử đi học cho các tỉnh , các bệnh viện , viện nghiên cứu thuộc Bộ để địa phương đơn vị tuyển chọn người theo yêu cầu của trường.
Vơí sự cố gắng của thầy trò vượt lên bao khó khăn gian khổ , Khoá học đầu tiên khai giảng đã thành công tốt đẹp . Các em tốt nghiệp ra trường về cơ sở phục vụ và với kiến thức học tập ở trường cùng với việc học tập trong thực tế các em đã trưởng thành nhanh chóng , nhiều em phấn đấu học tập tiếp đại học , nhiều em trở thành cán bộ quản lý .
“Vạn sự khởi đầu nan ”, với sự thành công bước đầu tốt đẹp , nhà trường tiếp tục chiêu sinh khoá 2 , khoá 3 liên tiếp vào những năm sau , cùng với phương thức tuyển sinh ưu tiên cho vùng cao , vùng sâu , vùng xa , quân nhân phục viên chuyển ngành cũng được tuyển chọn về trường học tập . Có thể nói , khoá đầu tiên là khoá học vừa lao động xây dựng trường vừa học tập . Niềm vui đất nước đại thắng , tổ quốc thống nhất cùng với niềm vui xí nghiệp sữa chữa thiết bị y tế được cấp đất tại Hà Nội , cùng với thành công của các khóa đầu , toàn trường hết sức phấn khởi cho việc chuẩn bị điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo cho các khoá tiếp theo. Trong muôn vàn khó khăn của buổi ban đầu , nhưng ý chí quyết tâm của thày trò trường kỹ thuật thiết bị y tế đã chiến thắng và hoàn thành tốt nhiệm vụ của Bộ y tế giao cho.
1.3 – Trường kỹ thuật thiết bị y tế trong thập kỷ đầu đất nước thống nhất (1976-1986):
Chiến thắng 30/4/1975 cả nước thống nhất , nhiều cơ sở văn hoá , kinh tế , xã hội ... sơ tán đã trở về Hà Nội thì Xí nghiệp và Trường vẫn phải ở lại nơi sơ tán Tiên Sơn – Hà Bắc . Lúc này với sự cố gắng của tập thể ban giám đốc Xí nghiệp cụ thể là với sự năng nổ , nhiệt tình , trách nhiệm của đồng chí Lê Lợi – giám đốc kiêm hiệu trưởng . Sau nhiều lần duyệt lên ,duyệt xuống cuối cùng tháng 03/1975 chính phủ đồng ý cấp cho Xí nghiệp một khu đất thuộc Kim Liên III nay là phường Phương Mai – quận Đống Đa – Hà Nội .
Bộ y tế đã ra quyết định số 468/BYT – QĐ ngày 17/05/1976 sáp nhập trường vào Xí nghiệp , lúc này Trường mới thật sự ở bên cạnh Xí nghiệp vì tài khoản tuy riêng nhưng con dấu dùng chung và đồng chí Lê Ngọc Côn – Phó giám đốc Xí nghiệp được giao kiêm hiệu trưởng nhà trường trực tiếp lo ăn ở sinh hoạt tại nơi sơ tán .
Sau 2 năm tập trung vừa giảng dạy vừa củng cố xây dựng thêm cơ sở vật chất , vừa bổ sung giáo viên , khoá 1 với 53 học sinh đã tốt nghiệp ra trường thì cũng là lúc đồng chí Lê Lợi – giám đốc Xí nghiệp được điều về Bộ y tế công tác . Sau đó một thời gian đồng chí Trần Đình Liên cũng được biệt phái về Cục Vật tư nhận nhiệm vụ mới .
Có đất , được Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cho phép , chỉ trong 2 năm 1976-1977 , Xí nghiệp đã xây dựng hoàn chỉnh 02 ngôi nhà 3 tầng khang trang , rộng rãi . Trong khi đó Trường vẫn án binh bất động tại nơi sơ tán Châu Khê - Tiên Sơn – Hà Bắc.
Lúc này Trường đã cho tốt nghiệp khoá 1 và khoá 2 với 105 học sinh . Khoá 3 với 92 học sinh trong đó 1/3 là quân nhân chuyển ngành cũng làm lễ tốt nghiệp ra trường. Mặc dù ở nơi sơ tán nhưng buổi lễ tốt nghiệp rất trân trọng , đại diện Cục Vật tư – Cố Bác sĩ Nguyễn Kim Đương – Quyên Cục trưởng cùng các phòng ban của Cục và Xí nghiệp đã về dự. Sau lễ tốt nghiệp cho khoá 3 ra trường , khoá 4 đang học năm thứ hai , khoá 5 mới nhập trường . Nhiệm vụ lúc này là phải thực hiện bằng được 3 y kiến đề xuất của đồng chí Lê Lợi – nguyên giám đốc kiêm hiệu trưởng trước lúc chuyển công tác . Đó là :
Đề nghị cho Trường được xây dựng tại khu đất cạnh xí nghiệp
Tổ chức đăng ký hộ khẩu chính thức cho học sinh tại Hà Nội
Xây dựng chương trình học 3 năm bậc 3/7 .
Do sự phân công của Ban giám đốc , đồng chí Lê Ngọc Côn chuyển hẳn về Xí nghiệp phụ trách chung ,đồng chí Từ Hùng _Phó giám đốc được giao kiêm hiệu trưởng nhà trường . Đồng chí Bùi Đình Kiên – phó phòng Kế hoạch kiêm bí thư Đảng uỷ của Xí nghiệp mới được Bộ y tế bổ nhiệm giữ chức phó hiệu trưởng nhà trường .
Trứơc tình hình trên một sự lựa chọn và sự quyết định đúng đắn , chính xác :
ngày 20/12/1978 , Đảng uỷ ,Ban giám đốc Xí nghiệp và Ban giám hiệu quyết định chuyển Trường về khu đất cạnh Xí nghiệp . Lúc này Xí nghiệp đã cơ bản xây dựng xong .Vô cùng phấn khởi ,toàn thể cán bộ , giáo viên và học sinh bắt tay vào việc lao động chuyển trường với tình thần nhanh gọn , đảm bảo tiết kiệm ,an toàn . Để đảm bảo khi di chuyển về Hà Nội có cơ sở tối thiểu cho học sinh ăn ở , học tập ... Trước đó lãnh đạo Xí nghiệp đã cùng với Ban Kiến thiết cơ bản của Xí nghiệp vận chuyển và dựng một ngôi nhà lắp ghép của Nhật 10 gian xin của bệnh viện Hữu nghị Việt Xô và xây dựng tạm một nhà ở cấp 4 với tổng diện tích trên 200m2 để tiếp đón cán bộ , giáo viên và học sinh từ Hà Bắc trở về.
Do tình hình biến động về mặt tổ chức ,đầu năm 1979 , đồng chí Từ Hùng được điều về Cục Vật tư công tác , đồng chí Hoàng Hùng – Phó giám đốc Xí nghiệp được giao nhiệm vụ kiêm hiệu trưởng nhà trường . Tíêp đó đồng chí Kiên đi học tập trung trường Đảng của Nguyễn Aí Quốc , đồng chí Đặng Vũ Vinh được đề bạt phó hiệu trưởng .
Như vậy , 3 ý kiến của đồng chí Lê Lợi – giám đốc kiêm hiệu trưởng trước khi chuyển công tác về Bộ thì việc thứ nhất đã giải quyết xong.
Việc thứ hai : Đăng ký hộ khẩu chính thức cho học sinh tại Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn ,với uy tín riêng của đồng chí quyền Cục trưởng Nguyễn Kim Đương đã giúp trường nhanh chóng thực hiện được khâu này .
Việc thứ ba : Xây dung chương trình bậc 3/7 , thời gian học 3 năm để chính thức Tổng cục Dạy nghề phê duyệt mới là vấn đề quan trọng và bức thiết . Các đồng chí Hoàng Hùng , Đặng Vũ Vinh , Đào Nam Anh và các thầy cô giáo đã qua 5 năm giảng dạy và nhiều thầy cô giáo được tu nghiệp thiết bị y tế và dạy nghề ở Đức về và ở Xí nghiệp thiết bị y tế sang , giáo trình bậc 3/7 đã được hội đồng nghiệm thu vào ngày 03/06/1980 với sự có mặt của KS.Nguyễn Xuân Bình – Cục phó cục Vật Tư cùng đại diện của Tổng cục dạy nghề và các thành viên khác . Như vậy chưa đầy một năm cả 3 ý kiến đề xuất của đồng chí Lê Lợi đã hoàn tất .
Qua đây đã thể hiện được tầm nhìn của các đồng chí lãnh đạo của Bộ y tế về công tác tổ chức , công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật thiết bị y tế . Do nhu cầu công tác , đầu năm 1981 , đồng chí Lê Ngọc Côn lại được phân công phụ trách trường thay đồng chí Hoàng Hùng.Mặc dù về mặt tổ chức có sự thay đổi song vì có chương trình đào tạo chuẩn , đội ngũ giáo viên khá nên liên tiếp những năm 1980,1981,1982,1983 , trường tuyển sinh và đào tạo khoá 6,7,8,9,10 khá thuận lợi . Vì đây là một chương trình biên soạn mới , lại được học với thời gian là 3 năm với 4 chuyên ngành , nhưng được chia thành 2 chuyên ngành ghép : Điện tử + Quang học ; Cơ điện + Điện quang . Vì thề chất lượng học sinh ngày càng nâng cao .Đặc biệt đã tham gia triển lãm sản xuất đồ ding dạy học các nước XHCN được tổng cục dạy nghề tặng bằng khen .
1.4 – Tình hình nhà trường những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986-1996):
Vào những năm đầu trong công cuộc đổi mới của đất nước , cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đã tác động trực tiếp đến các trường Đại học , trung học chuyên nghiệp và dạy nghề , cũng như các trường dạy nghề khác , quy mô của trường bị thu hẹp , chỉ tiêu tuyển sinh những năm 1986 –1987 không tăng mà có chiều hướng giảm . Mô hình của trường vẫn nằm trong xí nghiệp ,lãnh đạo nhà trường do giám đốc xí nghiệp kiêm hiệu trưởng . Trong khi đó xí nghiệp cũng phải lo kiện toàn lại để tổ chức sản xuất , kinh phí không tăng . Cảnh quan môi trường sư phạm và vật chất kỹ thuật không được đầu tư ,4 dãy nhà cấp 4 khoảng 720m2 được xây dung tạm thời năm 1979 đã xuống cấp . Theo đề xuất của Tổng công ty thiết bị và công trình y tế – Bộ y tế đã ra quyết định số 933 – BYT/QĐ ngày 16/10/1986 tách trường khỏi xí nghiệp để xây dựng thành một trường độc lập .Đồng chí Bùi Đình Kiên – Nguyên hiệu phó cuả trường được giao nhiệm vụ phụ trách trường . Đồng chí Đặng Vũ Vinh – Phó hiệu trưởng phụ trách công tác đào tạo . Từ đây trường trực thuộc thẳng Tổng công ty , Chi bộ đảng , Công đoàn và Đoàn thanh niên trực thuộc quận Đống Đa .
Ngày 17/12/1988 Bộ y tế đã quyết định sáp nhập Viện trang thiết bị và công trình y tế với trường kỹ thuật thiết bị y tế thành trung tâm thiết bị y tế bằng quyết định số 1065 – BYT/QĐ.
Tháng 10/1990 ,Bộ y tế quyết định số 808 –BYT/QĐ tách trường và Viện thành 2 đơn vị như cũ trực thuộc Tổng công ty . Đồng chí Đặng Vũ Vinh – phó hiệu trưởng.Nhưng lúc này Tổng công ty cũng gặp nhiều khó khăn trong sản xuấ kinh doanh .Mặt khác nếu để trường trong Tổng công ty thì kinh phí cấp hàng năm sẽ gặp khó khăn vì nhà nước chủ trương chỉ cấp kinh phí đào tạo cho những trường trực thuộc bộ ,ngành quản lý , vì thế Bộ y tế đã có một biện pháp kịp thời , ra quyết định để 2 đơn vị tách khỏi tổng công ty trực thuộc bộ y tế ,quyết định 1009/BYT-QĐ ngày 08/11/1991 ra đời từ đó . Đồng chí Bùi Đình Kiên được giao nhiệm vụ Hiểu trưởng nhà trường .
Chỉ sau một thời gian ngắn chưa đầy 2 năm với sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Thụ – Tổng giám đốc Tổng công ty trang thiết bị và công trình y tế và sự quan tâm của giáo sư Phạm Song – Bộ trưởng cùng các vụ chức năng của Bộ y tế đã cấp thêm kinh phí chống xuống cấp và một ít kinh phí sự nghiệp 2 ngôi nhà 2 tầng – 3 tầng đã hoàn thành .
Phấn khởi trước việc 2 ngôi nhà ra đời ,Trường mạnh giạn đầu tư xây dựng một nhà ký túc xá 3 tầng với 520m2 bằng kinh phí chống xuống cấp .Như vậy chỉ trong vòng 3 năm (1990-1993) , được sự quan tâm của Bộ y tế bằng vốn chống xuống cấp và kinh phí sự nghiệp thường xuyên, trường đã xây dựng hoàn chỉnh 3 ngôi nhà cao tầng,mặc dù nhà học chính đã thiết kế xong nhưng trường vẫn trong tình trạng khó khăn : khó khăn nhất vẫn là công tác tổ chức , do xáo trộn nhiều lần đặc biệt là từ khi tách Viện và Trường sau đó thực hiện tinh giảm biên chế , số lượng cán bộ công nhân viên so với các đơn vị trong Bộ là quá thấp (45 người) nhưng vẫn phải thực hiện giảm 20 % ,còn 36 người . Đây là một bài toán khó , nên Ban giám hiệu đã kêu gọi các thầy cô giáo , các cán bộ , giáo viên , công nhân viên ai có nhu cầu đến tuổi nghỉ chế độ thì tự nguyện xung phong , đây coi như là một trách nhiệm đôí với nhà trường .và sau nhiều lần bàn bạc thì nhiều đồng chí đã tình nguyện đăng ký …
Năm 1994-1995 , Khoá 20 và 21 hàng năm đã có trên 100 học sinh nhập học , lưu lượng bình quân trên 200 học sinh / năm. Nhưng tình trạng khó khăn. Bộ y tế quyết định phê duyệt để trường xây dung giảng đường lớn 3 tầng với trên 1000m2 nhà kiên cố . Với tinh thần vừa đào tạo vừa xây dung , chỉ trong chưa đầy 3 năm (1993-1995) , giảng đường lớn đã được đưa vào sử dụng . Cảnh quan môi trường bắt đầu có sự đổi mới để khẳng định sự đi lên của trường.
Có cơ sở vật chất , ngoài chương trình đào tạo chính quy thợ bậc 3/7 . Được sự quan tâm của Bộ y tế đặc biệt là các Vụ chức năng của Bộ , trường liên tiếp mở các lớp đào tạo lại , đào tạo nâng cao cho đội ngũ giáo viên và số học sinh đã tốt nghiệp ra trường hiện đang công tác tại các cơ sở y tế trong cả nước .
1.5 – trường kỹ thuật thiết bị y tế vững bước trong thời kỳ đổi mới (1997-2003):
1.5.1. Tình hình chung :
Trong thời gian từ năm 1991 đến năm 1996 , trường vẫn là đơn vị trực thuộc Bộ y tế , mặc dù đội ngũ cán bộ , giáo viên ,công nhân viên không tăng ,trường vừa làm nhiệm vụ đào tạo chính quy , đào tạo lại ,vừa xây dựng cơ sở vật chất . Nhưng được sự quan tâm của Bộ y tế , sự chỉ đạo sát sao của các Vụ chức năng – Bộ Y tế cùng với sự cố gắng nỗ lực vượt bậc của tập thể đội ngũ cán bộ , giáo viên , công nhân viên và học sinh đã tạo dựng lên một ngôi trường tuy không lớn nhưng khá khang trang tạo điều kiện để trường hội nhập với ngành dạy nghề thủ đô và cả nước đáp ứng mọi nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế mà ngành y tế đang rất cần . Thầy trò phấn khởi với cơ sở vật chất đã có , trường lớp khang trang , phương tiện dạy học bước đầu có sự khởi sắc thì một vinh dự lớn đó là : đúng vào dịp kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/1996 ,GS.TS. Đỗ Nguyên Phương Bộ trưởng Bộ y tế sau đúng một năm về nhận nhiệm vụ lãnh đạo ngành y tế đã đến thăm trường , đây là lần đầu tiên một vị Bộ trưởng không những đến thăm và động viên thầy và trò nhân ngày truyền thống của ngành Giáo dục - Đào tạo , Bộ trưởng đã có buổi nói chuyện tiếp xúc với thầy trò của trường với tình cảm chân tình cởi mở , đặc biệt Bộ trưởng đã nêu những vấn đề rất quan trọng của việc đào tạo nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế .Năm 1997 ,trường liên kết với khoa Điện tử – trường Đại học Bách Khoa mở một lớp đào tạo cao đẳng Điện tử y tế với 120 học sinh đã tốt nghiệp năm 2000 , nhiều học sinh đã phát huy tốt , một số đã được đề bạt trưởng , phó phòng vật tư kỹ thuật tỉnh .
1.5.2. Kết quả công tác đạo tào :
a/.Đào tạo chính quy :
Sau 5 năm (1997-2002) , số học sinh nhập học ngày càng tăng , trường đã tuyển sinh tới 61 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó ưu tiên đào tạo , đào tạo lại theo địa chỉ cho các vùng sâu , vùng xa cách bệnh viện Quân y trong cả nước .Trong đó có trên 200 học viên là cán bộ của đơn vị gửi đến học , sau khi tốt nghiệp được nhận lại công tác . Số liệu của sự cố gắng đó là :
14 tỉnh miền núi phía Bắc :60 học viên
04 tỉnh miền núi Tây Nguyên :18 học viên
12 tỉnh miền tây Nam Bộ :21 học viên
Các tỉnh Phía Bắc :66 học viên
Các tỉnh Phía Nam:16 học viên
Tổng cộng :221 học viên
Số học sinh này đã góp phần phủ kín nhân lực kỹ thuật tại các trung tâm y tế huyện đặc biệt là các trung tâm y tế của 16 tỉnh thuộc Dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia và 20 tỉnh thuộc dự án Dân số đã được Bộ Y tế trang bị nhiều chủng loại thiết bị y tế .
Ngoài đào tạo theo địa chỉ trên ,trường đã đào tạo cho Cục quân y – Bộ quốc phòng đối tượng là sĩ quan , chiến sĩ ,quân nhân chuyên nghiệp , công nhân quốc phòng 4 khoá với 140 học viên góp phần bổ sung nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế cho các bệnh viện quân đội cũng đang được trang bị các thiết bị hiện đại như ngành dân y .
b/. Đào tạo lại :
Đào tạo lại - đào tạo nâng cao:
Trước sự phát triển của ngành , đặc biệt là các trang thiết bị y tế đã được cung cấp tới các bệnh viện từ trung ương đến địa phương , đội ngũ cán bộ kỹ thuật trực tiếp sử dụng , quản lý ,bảo dưỡng ,sữa chữa các thiết bị y tế các cơ sở , tuy được đào tạo qua trường lớp song kỹ thuật máy y tế ngày càng hiện đại . Nhận thức được điều này ,hàng năm trường đã tổ chức các lớp đào tạo lại cho các địa phương , thời gian từ 2 tuần đến 3 tháng . Kết quả nhiều học viên sau khi được đào tạo lại đã làm chủ được các thiết bị y tế mới .
Số liệu thống kê :1997-2003
Tổng số : 18 lớp với 478 học viên gồm đào tạo lại , đào tạo chuyển đổi , đào tạo nâng cao và tập huấn sử dụng thiết bị y tế.
c/. Đào tạo lại theo chương trình dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia (WB) :
Cuối năm 1996 ,Dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia – BYT đã giao cho trường nhiệm vụ quan trọng đó là : Đào tạo người vận hành , bảo dưỡng thiết bị y tế cho các trung tâm y tế huyện của 16 tỉnh gồm :
6 tỉnh phía Bắc : Lạng Sơn , Cao Bằng , Sơn La , Hà Tây , Bắc Ninh , Bắc Giang.
3 tỉnh miền Trung : Nghệ An ,Hà Tĩnh , Quảng Trị.
7 tỉnh miền Nam : Bình Định , Phú Yên , Ninh Thuận , Gia Lai , Kon Tum , Sóc Trăng , Tây Ninh.
d/.Đào tạo lại giáo viên :
Trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là các công nghệ kỹ thuật tiên tiến được ứng dụng vào các thiết bị y tế , do đó việc đào tạo bổ sung các kỹ thuật mới và phương pháp dạy học mới cho lực lượng giáo viên cũng là nhiệm vụ quan trọng .Tuy số lượng giáo viên không nhiều , học sinh đông , nhiệm vụ giảng dạy khá lớn nhưng trường đã tranh thủ vận dụng , tổ chức các lớp học , đó là :
Các lớp bổ sung về nghiệp vụ sư phạm bậc 1 và bậc 2.
Các khoá về lý thuyết và ứng dụng kỹ thuật số.
Các lớp về chuyên đề kỹ thuật cảm biến .
Các lớp chuyên đề về phương pháp dạy học tích cực .
Đồng thời thường xuyên bố trí giáo viên đến các cơ sở có các thiết bị mới hiện đại để cập nhật thông tin , nhờ đó số giáo trình mới , số sa bàn dạy học mới đều được các giáo viên của trường trực tiếp biên soạn và chuẩn bị .Do vậy việc chuyển tải các kiến thức mới đến người học tiến bộ rõ nét , đặc biệt đã có một số giáo viên khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm của trường .Ngoài ra với các kiến thức đã được cập nhật trên , các thầy giáo giảng dạy theo các chương trình của Dự án như đã nêu trên được địa phương hoan nghênh .
Với những thành công bước đầu của việc xây dựng cơ sở vật chất , tổ chức đào tạo , ứng dụng các kỹ thuật công nghệ mới . Để động viên thầy và trò , được phép của Bộ Y tế , trường tổ chức trọng thể “ Lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập trường (14/08/1973-17/08/1998)”.
Sau nhiều năm phấn đấu ,đặc biệt từ ngày trường chính thức trực thuộc Bộ y tế .Một sự kiện quan trọng ngày 20/11/2001 ,trường long trọng tổ chức kỷ niệm 10 năm đổi mới (1991-2001).
Một điều khẳng định nữa để tăng cường cơ sở vật chất ngoài sự quan tâm của lãnh đạo Bộ y tế ,Các Vụ chức năng của Bộ , Tổng cục dạy nghề , Bộ LĐ-TB&XH đã xếp vào trường đầu tư trọng điểm Quốc gia giai đoạn 2001-2005 , quyết định số 1378/QĐ-LĐ/TBXH ngày 13/12/2001.
Từ đây vị trí của trường được khẳng định.
Song song với sự phát triển đào tạo nghề , trước sự lớn mạnh của Ngành TTB y tế , nhu cầu về sửa chữa bảo dưỡng các thiết bị y tế với các kỹ thuật công nghệ cao đang được đặt ra như là một nhiệm vụ cấp bách. Với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành , ngày 01/04/2002 Bộ y tế đã ra quyết định thành lập Trung tâm dịch vụ kỹ thuật thiết bị y tế.
Theo đề nghị của trường và căn cứ vào khả năng chuyên môn , Bộ Y tế đã ra quýêt định Bộ nhiệm KS. Nguyễn Việt Cường – Trưởng ban cơ điện làm giám đốc trung tâm .
Và ngày 16/11/2002 lễ ra mắt Trung tâm dịch vụ sửa chữa thiết bị y tế được tổ chức trọng thể , GSTS . Lê Ngọc Trọng – Thứ trưởng Bộ y tế ,TS . Dương Văn Tỉnh – Vụ trưởng Vụ TTB và CTYT cùng với gần 50 đại biểu là Giám đốc , Phó giám đốc Sở y tế , Giám đốc bệnh viện Tỉnh và Giám đốc trung tâm y tế huyện đã về dự.
Sự ra đời Trung tâm Dịch vụ KTTB Y tế thuộc trường Kỹ thuật thiết bị y tế là một nước nhảy vọt về chất để cùng với Viện TTB & CTYT , các thành viên của Tổng công ty thiết bị y tế Việt Nam , các Công ty Vật tư y tế tỉnh thành và khu vực nhằm góp phần bảo dưỡng ,sữa chữa các thiết bị y tế đã và sẽ được cung cấp ở tất cả các tuyến y tế từ địa phương đến TW .
Những thành tích đạt được :
Phát huy những thành tích và truyền thống quyết tâm vượt khó , năng động sáng tạo của 25 phấn đấu và xây dựng .Trong 5 năm gần đây , trường KTTB Y tế đã có những chuyển biến khích lệ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0786.doc