Công tác kế hoạch hoá ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay

mở đầu Quá trình đổi mới ở nước ta những năm qua, công tác kế hoạch hoá cũng đã từng bước đổi mới để phù hợp với việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Hiện nay, hệ thống kế hoạch hoá về cơ bản đã được thay đổi: - Bãi bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất, lưu thông, chỉ duy trì ở mức cần thiết trong lưu thông một số mặt hàng quan trọng có sự trợ giá của Nhà nước. - Giảm hệ thống cân đối

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác kế hoạch hoá ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện vật; hoàn thiện và chú trọng các cân đối lớn, quan trọng của nền kinh tế quốc dân có liên quan đến sự chỉ đạo và điều hành của Nhà nước, như: thu-chi ngân sách, cân đối vốn đầu tư, xuất nhập khẩu ... - Từng bước triển khai phương thức kế hoạch hoá định hướng thông qua việc thực hiện công tác phân vùng, quy hoạch và các chính sách đòn bẩy kinh tế, các chương trình kinh tế – xã hội... - Trong kế hoạch hàng năm, đã chuyển từ điều hành vi mô sang điều hành vĩ mo, sử dụng các công cụ luật pháp và kinh tế để điều hành; đồng thời chú trọng nâng cao nghiên cứu chiến lược, kế hoạch dài hạn, trung hạn để làm cơ sở cho kế hoạch hàng năm; tăng cường công tác dự báo, cung cấp thông tin nhiều chiều để phục vụ tính toán lập kế hoạch. Tuy vậy, so yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới thì những kết quả trên còn hạn chế, hiệu quả chưa đạt như mong muốn. Thiếu sót, khuyết điểm nổi bật là: Một là: Phạm vi kế hoạch hoá chưa bao quát được toàn bộ nền kinh tế quốc dân mà chỉ tập trung cho khu vực kinh tế Nhà nước, chưa cân đối được các thành phần kinh tế khác.Kế hoạch định hướng chưa thực sự làm cơ sở cho các ngành kinh tế , các vùng kinh tế cũng như những thành phần kinh tế , các cơ sở, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch của mình; chưa bảo đảm thống nhất toàn xã hội . Hai là: Tác dụng định hướng chưa đủ mạnh để phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, chưa đủ sức để hướng tới mục tiêu chung; chưa thực sự góp phần cơ bản tạo lập môi trường kinh tế, môi trường pháp luật một cách ổn định để bảo đảm cho thị trường phát triển đúng hướng và thuận lợi. Ba là: Công tác dự báo còn yếu, còn thiếu nhiều thông tin định hướng, tầm nhìn của một số quy hoạch vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành chưa đủ xa; còn lúng túng trong xử lý mối quan hệ giữa mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn, trong cân đối giữa các mục tiêu, làm cho các cân đối vĩ mô không chắc chắn, nhiều dự báo và quy hoạch thiếu chính xác... Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là: Cần phải tiếp tục nghiên cứu, đổi mới và không ngừng hoàn thiện công tác kế hoạch hoá từ bước xây dựng, tổ chức thực hiện đến sắp xếp, cải tiến bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch. Phạm vi, nội dung đổi mới công tác kế hoạch hoá rất rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; có những vấn đề mà hiện nay cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đang đặt ra nhưng chưa thể giải đáp ngay được. Vì vậy, trong đề tài này chúng tôi không có tham vọng đề cập hết mọi vấn đề mà chỉ đi vào một số nội dung trong phạm vi công tác của mình và trong phạm vi những kiến thức đã nghiên cứu, học tập tại Phân viện Hà Nội – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2 năm qua, đó là: - Làm sáng tỏ vai trò của công tác kế hoạch nói chung và kế hoạch hoá đối với cấp tỉnh nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh chống lại quan điểm phủ nhận vai trò của kế hoạch hoá và quan điểm tuyệt đối hoá vai trò điều tiết của thị trường. - Đổi mới nội dung, phương pháp xây dựng, biện pháp tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm khắc phục những tồn tại và khuyết tật của phương thức kế hoạch hoá tập trung bao cấp; làm cho kế hoạch hoá thực sự là công cụ quản lý có hiệu lực của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. - Rút ra những vấn đề cơ bản có tính phương pháp luận, định hướng đổi mới nhiệm vụ cho Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Lạng Sơn. Về phương pháp nghiên cứu của đề tài: Sẽ sử dụng tổng hợp trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đó là thế giới quan khoa học khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể. Phương pháp xã hội học cụ thể (nghiên cứu về những thể chế, sự vận hành của Nhà nước dựa vào những tài liệu tổng kết thực tiễn hoặc điều tra xã hội học đã có), phương pháp lịch sử kết hợp lôgic, phân tích, so sánh ... Về kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, Luận văn này được trình bày theo 4 phần sau đây: - Chương I: Những vấn đề lý luận về kế hoạch hoá. - Chương II: Thực trạng công tác kế hoạch hoá ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay và những vấn đề đặt ra. - Chương III: Phương hướng và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kế hoạch hoá ở tỉnh Lạng Sơn giai đoạn trước mắt. - Kết luận. Chương I: những vấn đê lý luận về kế hoạch hoá 1- Nhận thức về kế hoạch hoá và đổi mới kế hoạch hoá: Chúng ta đều biết, mỗi nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nhiều vùng và nhiều đơn vị kinh tế khác nhau, có quan hệ ràng buộc với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, tạo thành một cơ cấu kinh tế thống nhất. Đối với nền kinh tế phát triển, trình độ xã hội hoá sản xuất cao đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, thì quan hệ tỷ lệ giữa các khâu, các yếu tố, các bộ phận của nền sản xuất xã hội càng chặt chẽ. Muốn tái sản xuất một cách bình thường, liên tục và ngày càng mở rộng, những tỷ lệ nhất định đó cần được bảo đảm trong từng đơn vị cũng như trong toàn xã hội. Tính cân đối hay tính tỷ lệ là sự tuơng ứng về số lượng giữa các yếu tố kinh tế để bảo đảm tiến hành sản xuất, đó là xu hướng tất yếu, phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Mác viết: “Sự tất yếu phải phân công lao động xã hội theo những tỷ lệ nhất định hoàn toàn không hề bị xoá bỏ bởi một hình thức nhất định của sản xuất xã hội...” (C.Mác-Ph.Ăng ghen, tuyển tập, T.III, Nhà xuất bản Sự thất – Hà Nội, năm 1982, trang 688). Con người có thể nhận thức, duy trì các quan hệ tỷ lệ đó trong phạm vi và toàn xã hội , việc duy trì có ý thức các quan hệ , tỷ lệ cân đối phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội , mà trước hết là do trình độ , tính chất các quan hệ về sở hữu quyêt định . Tính kế hoạch của nền kinh tế là tính cân đối được nhận thức và được duy trì một cách có ý thức. Lê nin nói: “Một sự cân đối thường xuyên, được duy trì một cách có ý thức, quả thật có ý nghĩa là tính kế hoạch” (V.I Lê nin: toàn tập, tập III, Nhà xuất bản Tiến bộ, năm 1976, trang 70). Tính cân đối là yêu cầu phổ biến của mọi nền kinh tế – xã hội. Dù bằng con đường tự phát thông qua thị trường hay bằng con đường kế hoạch hoá nền kinh tế, mọi nền sản xuất xã hội đều đòi hỏi khôi phục và duy trì các tỷ lệ cân đối để sản xuất có thể tiến hành được một cách bình thường. Dưới chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất , trong từng đơn vị kinh tế các quan hệ đó được duy trì mmột cách nghiêm ngặt do chủ thể kinh tế nhận thức được tính quy luật của nó . Cũng chính việc duy trì các quan hệ đó bảo đảm vấn đề hiệu quả sản xuất - kinh doanh , bảo đảm sự thắng lợi trong cạnh tranh không hoàn hảo trong cơ chế thị trường . Tuy nhiên trong phạm vi toàn xã hội thì các quan hệ tỷ lệ đó hình thành một cách tự phát dưới sự tác động của quy luật giá trị , bị xáo trộn và lặp lại qua các chu kỳ của khủng hoảng kinh tế . Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các ngành , các vùng kinh tế , các đơn vị kinh tế trong toàn xã hội được định hướng , liên kết và hợp tác thành một cơ cấu kinh tế thống nhất . Bằng các biện pháp và hình thức phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước , nhà nước tính toán , xây dựng các tỷ lệ cân đối theo một kế hoạch thống nhất . Song cần lưu ý rằng , các tỷ lệ cân đối là yếu tố luôn vận động , cân đối chỉ là xu hướng ; còn việc nhận thức , duy trì nó hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ , năng lực , nghệ thuật của chủ thể quản lý là con người và nhà nước . Nghĩa là chủ thể quản lý phải có trình độ , năng động , nhậy bén nhận thức kịp thời những biến động để vận dụng , điều chỉnh cân đối theo sự phát triển của tình hình . Sẽ sai lầm nếu cho rằng nền duy trì những tỷ lệ cân đối nhất định với mọi giai đoạn lịch sử . Đây thực chất là nghiệp vụ kế hoạc hoá nền kinh tế quốc dân. Như vậy, tính kế hoạch là đòi hỏi khách quan và nó là sản phẩm của quá trình xã hội hoá sản xuất. Công cụ kế hoạch – thuật ngữ thường dùng - được hiểu đầy đủ là kế hoạch hoá với tư cách là quá trình hoạt động có ý thức của một tổ chức hoạc cá nhân thuộc cộng đồng nhằm thực thiện các mục tiêu theo chương trình đã được xác định trước. Nói cách khác, kế hoạch hoá là quá trình hoạt động mang tính tổng hợp, tính liên ngành từ khâu phân tích, xác định mục tiêu, lựa chọn giải pháp cho đến khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra. Thực hiện việc kế hoạch hoá nền kinh tế xã hội là xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế nối tiếp nhau cho những khoảng thời gian và không gian nhất định ; đồng thời chỉ đạo thực hiện để biến các chương tình , các kế hoạch đó thành hiện thực. Kế hoạch Nhà nước đưa ra những định hướng , những chỉ tiêu phát triển kinh tế - văn hoá và những biện pháp thực hiện trong từng thời gian và không gian nhất định. Như vậy , kế hoạch nhà nước là sản phẩm đầu tiên , trực tiếp của công tác kế hoạch hoá ; nếu như cương lĩnh thứ nhất của Đảng cộng sản là đường lối , chủ trương phát triển của đất nước được ghi trong nghị quyết thì kế hoạch nhà nước là " Cương lĩnh thứ hai của Đảng " ( V . I . Lê Nin - toàn tập , tập 42 , NXB tiến bộ , M . 1977 , trang 193 ) . Kế hoạch phát triển kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người, của Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan nhằm biến đổi tính kế hoạch, tính cân đối của nền kinh tế thành hiện thực, biến xu hướng vận động của các quy luật kinh tế thành hiện thực. Vì nó là sản phẩm chủ quan nên kế hoạch đặt ra không phải đã là hoàn chỉnh, những quan hệ tỷ lệ không hẳn đã hoàn toàn đúng đắn. Vì vậy, kế hoạch cần được thường xuyên bổ sung, điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quốc tế đang diễn ra. ở nước ta, công tác kế hoạch hoá được thực hiện đã trên 40 năm nay và có thể chia thành 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ 1955 – 1985 là thời kỳ áp dụng cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh (hay còn gọi là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp) và thời kỳ từ 1986 đến nay là thời kỳ đổi mới theo cơ chế thị trường, tức kế hoạch hoá định hướng. ở thời kỳ trước (1955 – 1985) chúng ta đã qua các mốc lớn như kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng và phát triển kinh tế trên phạm vi cả nước; cơ chế kế hoạch hoá thời kỳ này có nhiều nhược điểm (sẽ phân tích ở phần sau) và không còn phù hợp nữa, buộc phải đổi mới. ở thời kỳ sau (từ 1986 đến nay), công tác kế hoạch hoá đã từng bước chuyển sang kế hoạch định hướng, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa . Đổi mới kế hoạch hoá, một cách tổng quát là bước chuyển từ kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung sang kế hoạch hoá trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, đổi mới kế hoạch hoá cũng như toàn bộ hoạt động đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước ta chỉ có thể thành công khi được đặt trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thiếu thị trường là thiếu môi trường cho cơ chế quản lý và kế hoạch hoá kiểu mới tồn tại. Đó là bài học thực tế. Kế hoạch và thị trường đều được xem là những công cụ điều tiết kinh tế khách quan, mặc dù chúng là 2 cơ chế hoạt động theo những nguyên tắc khác nhau. Trong đó thị trường được coi vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; thị trường phát triển theo sự điều tiết và định hướng của kế hoạch vĩ mô. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được tiềm năng cho những mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm được cân bằng tổng thể; tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , mỗi thành phần chịu sự tác động của quy luật kinh tế riêng nên có khả năng phát triển các hướng khác nhau thì việc kế hoạch hoá trên quy mô toàn xã hội khó bao quát được hết tất cả các yêu cầu rất đa dạng và luôn biến động , kế hoạch khó gắn được với điều kiện thực tế về kinh tế - xã hội , trở thành duy ý chí , dễ tạo ra sức ỳ, kém năng động... Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo quy luật giá trị , quy luật cung - cầu , giá cả , cạnh tranh , lưu thông tiền tệ . Nó là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hoá phát triển ; là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn tài nguyên , công nghệ , sức lao động ... đáp ứng mọi nhu cầu đầu vào , đầu ra trong nền kinh tế mà nếu nhà nước làm sẽ trở thành gánh nặng khổng lồ , chi phí rất cao , thậm chí không làm nổi . Thị trường có khả năng thích ứng cao hơn những điều kiện thay đổi , kích thích sự năng động sáng tạo , sự thay đổi cơ cấu ... điều mà nhà nước không thể làm được hoặc làm rất chậm chạp . Hơn nữa không phải do thị trường có khuyết tật mới cần đến vai trò can thiệp của Nhà nước mà vì xã hội đặt ra những mục tiêu trước đó dù thị trường có hoạt động tốt cũng không đáp ứng được . Song khuyết tật của thị trường là tính tự phát, vô chính phủ . Điển hình của nhữnh khuyết tật đó là : tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo , sự suất hiện độc quyền ; trục trặc của thị trường do hàng hoá công cộng gây ra ; trục trặc của thị trường do ngoại ứng ; giá cả thị trường không phản ánh được sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo yêu cầu phát triển mới ; nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn tới sự phân hoá theo khu vực , theo các tầng lớp dân cư gây ra bất bình đẳng . Vì những lẽ đó, cần có sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, một trong những trọng tâm của đổi mới kế hoạch hoá hiện nay là tìm mọi giải pháp thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các loại thị trường một cách chủ động, có tổ chức, có bước đi thích hợp với điều kiện nền sản xuất hàng hoá ở nước ta trình độ còn thấp .... Sự kết hợp kế hoạch và thị trường trong phạm vi vĩ mô và vi mô có những điểm khác biệt nhất định, do đó vấn đề đổi mới kế hoạch hoá ở hai cấp cũng có sự khác nhau. Kế hoạch hoá vi mô lấy hiệu quả kinh tế (lợi nhuận) làm mục tiêu chủ yếu và thị trường là căn cứ, đối tượng trực tiếp để lựa chọn phương án sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? Kế hoạch hoá vĩ mô lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm mục tiêu chung, do vậy thị trường chỉ là một căn cứ, chứ không phải là căn cứ duy nhất, trực tiếp. Mặt khác, với tư cách là cương lĩnh thứ hai, hoạt động kế hoạch hoá sẽ ngày càng quan trọng hơn trong quá trình đổi mới, nhưng sự thành bại về cơ bản không phải tự bản thân nó mà lại tuỳ thuộc vào sự đúng đắn của các chính sách kinh tế mà nó cụ thể hoá. Nhận xét này xuất phát từ ngay thực tiễn: Từ Đại hội Đảng VI về trước – chính sách kinh tế có những thiếu sót, sai lầm nên nhiều chỉ tiêu kế hoạch không đạt được; sau Đại hội VI và VII với các chính sách kinh tế đúng đắn, các kế hoạch đều đạt những thành tựu quan trọng. Tất nhiên để cụ thể hoá các chính sách kinh tế một cách có khoa học, có tính khả thi cao thì bản thân hoạt động kế hoạch hoá phải có phương pháp thích hợp. Điều này cho thấy đổi mới kế hoạch hoá là hết sức cần thiết và cấp bách. 2- Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa: Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta được đặt ra từ năm 1976 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV: “Phải tiếp tục xây dựng và từngbước hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả nước; cải tiến phương thức quản lý lấy kế hoạch hoá làm chính; kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV- Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1977, trang 61), song thực sự việc đổi mới chỉ được triển khai từ sau năm 1986 theo đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI: “Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1987, trang 62). Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra tiếp tục được Đại hội VII bổ sung, hoàn thiện và phát triển với 3 phương hướng chính là: - Chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. - Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, đồng thời từng bước xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. - Mở cửa, tăng cường giao lưu, hợp tác với bên ngoài theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu cho hoà bình, độc lập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1991, trang 147). Tiếp theo, Đại hội Đảng VIII trên cơ sở kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng kết 10 năm đổi mới đã nêu rõ: “Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếptục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội 1996, trang 20). Như vậy, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phát triển, đi từ bước thấp đến bước cao hơn, phù hợp với trình độ nhận thức về mặt lý luận, về tổ chức chỉ đạo thực tiễn của Đảng và phù hợp với xu hướng phát triển của quốc tế. Đó cũng là một quá trình phấn đấu lâu dài và gian khổ; diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. ảnh hưởng của những biến động đó đối với nền kinh tế nước ta là trực tiếp và hết sức mạnh mẽ; tuy nhiên đường lối đổi mới như đã nêu trên đã tạo ra động lực bên trong thúc đẩy sự thay đổi tư duy và các chính sách kinh tế. Kế hoạch 5 năm (1976-1980) là kế hoạch trung hạn đầu tiên khi thống nhất đất nước. Với sự lạc quan quá cao trong đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời chiến tranh qua hòa bình. chúng ta đã đề ra quá cao các mục tiêu kế hoạch mà trên thực tế không có cơ sở để thực hiện , với phương châm “...tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế , nhằm vào nhữnh vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất trong phạm vi cả nước ; cải tiến phương thức quản lý kinh tế lấy kế hoạch hoá là chính...” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV – Sách đã dẫn), chúng ta đã chưa có được những đổi mới đáng kể mà vẫn tiếp tục duy trì và áp dụng cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp của miền Bắc trong những năm chiến tranh cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của cả nước . Thực chất kế hoạch hoá thời kỳ đó là kế hoạch hoá nền kinh tế hiện vật , không công nhận kinh tế hàng hoá , chỉ chấp nhận thị trường có tổ chức và muốn xoá bỏ càng sớm càng tốt thị trường tự do , duy trì một giá ( giá cung cấp ) thoát ly thực tế ... Trong kế hoạch đã áp dụng phổ biến phương thức cấp phát , giao nộp , tất cả đều được chỉ huy từ trên , từ sản xuất đến đời sống , theo một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết ban hành từ trên xuống cho đến tận các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã . Vật tư do cấp trên giao và sử dụng theo định mức do cấp trên quy định; giá thành, số lượng, chất lượng sản phẩm được sản xuất theo lệnh của kế hoạch cấp trên; sản phẩm làm ra phải giao theo địa chỉ của cấp trên chỉ định với giá do cấp trên quyết định. Vì giá cả trong sản xuất và lưu thông đều đã được định sẵn nên công việc phân phối chỉ còn là cung cấp hàng hoá theo các tiêu chuẩn, định mức đã được xác định, người dân sống theo định mức tiêu dùng do cấp trên quy định và theo giá bao cấp... Cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh một cách triệt để, toàn diện đó đẻ ra mặt trái dễ nhận thấy nhất là: người dân sống trong một môi trường mà khuôn phép của nó như một trại lính; người lao động không được tự chủ, không còn tính sáng tạo, không có quyền lợi - đặc biệt là lợi ích kinh tế... Vì vậy họ không quan tâm đến cả việc giữ dìn, bảo quản tư liệu sản xuất, vấn đề phát huy yếu tố con người đạt kết quả thấp, năng xuất lao động xã hội mỗi năm mỗi giảm, tổng sản lượng năm sau thấp hơn năm trước. Minh chứng rõ rệt nhất của cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh và mặt trái của nó thể hiện trong nông nghiệp đó là việc tổ chức các hợp tác xã toàn xã, thậm chí toàn huyện, chính quyền cấp xã, huyện chỉ đạo công việc hàng ngày như một ban quản trị; thực tiễn phổ biến là người lao động chỉ chuyên tâm đến canh tác trên phần diện tích 5% của mình, thu nhập chủ yếu cũng từ diện tích đó mà ra, còn phần diện tích 95% của HTX không được quan tâm, có tình trạng lúa chín ngoài đồng mà người dân không đi gặt ( vì mang lại nguồn thu nhập không đáng kể )... Vì thế chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế lúc đó không tạo ra được động lực cho các cơ sở sản xuất cũng như cho người lao động; đến năm 1980 so với kế hoạch đề ra thì kết quả chỉ đạt được là: Sản lượng lương thực 69%, than 52%, điện 72%, hải sản 40%, vải 39%, giấy 37% (Nguồn: Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, báo cáo năm 1982). Những mất cân đối của nền kinh tế sau chiến tranh chưa khắc phục được bao nhiêu thì nay lại xuất hiện nhiều mất cân đối khác do chính kết quả của kế hoạch 5 năm đó mang lại, điển hình nhất là mất cân đối về vốn đầu tư và đầu tư không hiệu quả vì đã nóng vội lựa chọn cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp. Việc cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước Xã hội chủ nghĩa trong những năm 1978 – 1980 (mà đó là nguồn thu đáng kể của ngân sách Nhà nước) làm cho nền kinh tế ngày càng thêm khó khăn hơn; đồng thời lúc này những mặt yếu kém, tính lỗi thời của thể chế kinh tế kiểu chỉ huy thời chiến ngày càng bộc lộ ra một cách sâu sắc. Trong bối cảnh khủng hoảng đó, những ý tưởng cải cách trên một số lĩnh vực kinh tế quan trọng đã xuất hiện. Đầu tiên, đó là những cố gắng của các đơn vị kinh tế cơ sở và gia đình tìm cách “phá rào”, luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt động có hiệu quả hơn. Sau đó, bộ máy quản lý các cấp của Nhà nước thấy được sự cần thiết và tính hợp lý của việc điều chỉnh các chính sách và thể chế kinh tế nên đã có những biện pháp đổi mới quản lý (mặc dù lúc đầu rất dè dặt và chưa có kinh nghiệm). Kết quả của những tìm tòi, thể nghiệm đó là một số hình thức vận hành mới đã dần đi vào thực tế cuộc sống, được chấp nhận ở quy mô rộng; từ đó những biện pháp nhằm dần dần mở rộng quyền tự chủ hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế và người lao động được áp dụng, sự can thiệp trực tiếp của bộ máy hành chính Nhà nước vào lĩnh vực quản lý kinh tế cũng giảm đi tương ứng. Bước thay đổi đầu tiên trong các chính sách kinh tế được đánh dấu bằng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá IV (tháng 9-1979), cho rằng cần phải coi trọng hiệu quả kinh doanh, nới lỏng sự quản lý hành chính đối với các hoạt động kinh tế ngoài khu vực quốc doanh và ngoài kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước, chuyển trọng tâm đầu tư từ lĩnh vực công nghiệp nặng quy mô lớn sang công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng quy mô vừa và nhỏ, chú ý đúng mức tới lợi ích của tập thể và cá nhân người lao động. Sau đó, những thay đổi tiếp tục diễn ra và mạnh mẽ nhất là trong giai đoạn 1979 - 1984, thời kỳ này cuộc đấu tranh giữa cơ chế mới và cơ chế cũ rất căng thẳng, nhân tố luôn bị lên án, truy chụp nặng nề song nó đã thắng vì phù hợp quy luật và lòng dân. Thời kỳ này, tư duy mới trong quản lý kinh tế đã có một bước tiến lớnlao: từ chỗ muốn nhanh chóng hoàn thành cải tạo XHCN, sớm có chế độ công hữu XHCN với hai hình thức là quốc doanh và tập thể; từ chỗ chỉ chấp nhận thị trường có tổ chức, xoá bỏ càng sớm thị trường tự do, duy trì một giá ( giá cung cấp ) thoát ly thực tế... nay đã chấp nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân, quan hệ thị trường tự do với Nhà nước đã có mức độ nhất định. Điều này thể hiện rõ nét trong các chủ trương mới về cơ chế quản lý và kế hoạch hoá, như : khoán sản phẩm trong nông nghiệp; xác định 3 phần kế hoạch, 4 nguồn cân đối trong kế hoạch của sản xuất công nghiệp; tồn tại 2 thị trường và dần dần thực hiện cơ chế 1 giá, thu hẹp mặt hàng và cơ chế bao cấp... Trong nông nghiệp, chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động (thực chất là khoán một số khâu công việc cho hộ gia đình) mà trước đây một số nơi áp dụng thử, nay đã được chấp nhận và khuyến khích áp dụng; kèm theo đó là sự cho phép mua bán nông sản và vật tư sản xuất trên thị trường, khuyến khích nông dân mua bán nông sản với Nhà nước để đối lưu lấy sản phẩm công nghiệp. Trong công nghiệp, từ năm 1980 các cơ sở kinh tế quốc doanh bắt đầu được phép kinh doanh thêm ngoài kế hoạch pháp lệnh, khởi đầu là chính sách cho phép “3 phần kế hoạch” tương ứng với khả năng cân đối, cấp phát vật tư, nguyên liệu của Nhà nước (Quyết định 25, 26/CP năm 1980 của Hội đồng Chính phủ). Tiếp theo đến năm 1983 Nhà nước nới rộng thêm quản lý, giao cho các cơ sở kinh tế một số quyền tự chủ (Quyết định 146-HĐBT năm 1983). Trong lĩnh vực lưu thông, Nhà nước cũng bắt đầu thu hẹp số lượng các mặt hàng mà Nhà nước độc quyền kinh doanh; xoá bỏ bớt những quy định đã lỗi thời, kém hiệu quả, thương nghiệp quốc doanh từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ “thủ kho và phân phối theo kế hoạch” cũng được chuyển sang hoạt động theo cơ chế 2 giá linh hoạt hơn. Về giá cả, Nhà nước thực hiện các lần điều chỉnh lớn (tháng 10-1981 và tháng 10-1985) nhằm thu hẹp sự chênh lệch giá do Nhà nước quy định và giá thị trường tự do. Trong ngoại thương, tuy Nhà nước độc quyền nhưng đã có sự phân cấp, nhiều đơn vị cấp tỉnh đã được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu... Những thay đổi về cơ chế quản lý như vậy đã làm nhiều yếu tố mới xuất hiện. Trước hết trong lĩnh vực vi mô, các cơ sở kinh tế quốc doanh từ chỗ không có quyền tự chủ, chỉ có một quan hệ dọc với cơ quan chủ quản cấp trên, nay đã có quyền tự chủ và có quan hệ ngang (quan hệ với các cơ sở kinh tế khác), kinh tế gia đình và hộ tư nhân bước đầu phát huy... Từ đó thị trường trở nên sối động hơn, quan hệ hàng hoá - tiền tệ theo đúng nghĩa của nó đã bước đầu hình thành và phát triển. Trong lĩnh vực quản lý vĩ mô, những yếu tố mới buộc nó cũng phải có sự thay đổi tương ứng, nhiều vấn đề được đặt ra và đã có những cải cách căn bản hơn, triệt để hơn (chứ không phải chỉ điều chỉnh riêng rẽ từng lĩnh vực). Kết quả là nền kinh tế - xã hội đã vượt qua được tình trạng suy thoái, bắt đầu có tăng trưởng ở mức độ thấp, song nó vẫn còn mang nhiều khuyết tật và tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng, đó là: Nhà nước vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung bao cấp với khu vực kinh tế quốc doanh, lạm phát và bội chi ngân sách ở mức cao, các công cụ điều chỉnh (thuế, giá cả, tín dụng...) chưa thực sự có hiệu lực; trong quan hệ với bên ngoài, viện trợ dưới dạng cho vay dài hạn của Liên Xô vẫn là nguồn bù đắp tài chính cho sự bao cấp của Nhà nước, quan hệ trao đổi hàng hoá với Liên Xô và Đông Âu vẫn đóng vai trò là nguồn cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ ổn định hàng hoá xuất khẩu của ta. Tình hình kinh tế – xã hội như vậy đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đổi mới một cách toàn diện, mạnh mẽ. Đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra (tháng 12-1986) đáp ứng được yêu cầu và thực sự là một biến đổi to lớn trong hệ thống lý luận về con đường phát triển kinh tế ở nước ta. Dưới ánh sáng của Đại hội VI và những bổ sung, phát triển của Đại hội VII và Đại hội VIII, công cuộc đổi mới của ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 3- Thị trường và vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế: ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở nước ta, mối tương quan giữa vai trò của thị trường và vai trò của Nhà nước đang là những vấn đề then chốt, quyết định con đường và hiệu quả của sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Như đã nêu ở các phần trên đây, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, vai trò của Nhà nước đã có sự thay đổi căn bản. Việc tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao, bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội sẽ tuỳ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò của Nhà nước, của kinh tế Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hưỡng Xã hôị chủ nghĩa. Sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế có nhiều nguyên nhân khác nhau, song mức độ can thiệp từng quốc gia khác nhau. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự vận động, tự điều chỉnh theo cơ chế thị trường. Cơ chế đó có tác dụng giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, tạo động lực cho các chủ thể kinh tế trong quá trình hoạt động nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Nhưng bản thân thị trường cũng chứa đựng nhiều khuyết tật và vì xã hội đặt ra những mục tiêu mà thị trường không đáp ứng được. Do vậy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong lịch sử kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh đã phê phán sự can thiệp sâu của Nhà nước vào kinh tế, chỉ thừa nhận vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản trong việc tạo hành lang pháp lý, giải quyết một số vấn đề xã hội, bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa. ASmith ca ngợi cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường và đề ra thuyết “bàn tay vô hình”. Phái “cổ điển mới” học thuyết tư sản hiện đại vào cuối thế kỷ XIX đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX và từ giữa những năm 70 trở lại đây cũng không ủng hộ sự can thiệp của Nhà nước, song phái “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết” lại ủng hộ sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, đưa lên hàng đầu phương pháp phân tích vĩ mô. Trường phái Keynes vào những năm 20 – 30 của thế kỷ này cũng ủng hộ sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế với lý thuyết “bàn tay hữu hình”. Trong một thời gian dài lý thuyết Keynes đã trở thành cơ sở cho ._.chính sách kinh tếcủa nhiều Nhà nước tư sản, giúp họ khắc phục khó khăn và tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, trong bối cảnh của thế giới đương đại, vai trò của Nhà nước trở nên tích cực hơn, học thuyết “bàn tay hữu hình” trong nền kinh tế thị trường của Keynes và tân cổ điển đã được thực hiện ở các nước phát triển. Mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đang được vận dụng ở các nước đang phát triển. Vai trò của Nhà nước được nâng cao hơn, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, bởi các lý do sau: Thứ nhất, quy mô của khu vực công cộng rộng hơn đáng kể không phải chỉ do các chương trình phúc lợi xã hội; mà còn do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm sản xuất, cung ứng các hàng hoá công cộng và nhằm gây tác động lan truyền đối với khu vực tư nhân trong một số lĩnh vực mà Nhà nước muốn thúc đẩy phát triển. Thứ hai, Nhà nước thực thi các chính sách bảo vệ và thúc đẩy một số ngành hoặc vùng, khuyến khích sản xuất những mặt hàng xuất khẩu, những mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu xã hội. ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới vừa qua, ý kiến cá nhân tôi cho rằng việc cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nước để thực hiện chức năng điều chỉnh đối với nền kinh tế đã được chú trọng đúng mức. Hoạt động của Nhà nước trong quá trình phát triển được xem xét trên hai phương diện chính sau đây: Với tư cách Nhà nước là người đầu tư kinh doanh: Nhà nước vừa là người tiêu dùng, đồng thời vừa là người sản xuất kinh doanh trên một số lĩnh vực. Như vậy Nhà nước đã tham gia vào tổng cung và tổng cầu, điều hoà tiền tệ, giá cả. Thông qua việc đầu tư xây dựng, phát triển các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước giữ các đỉnh cao chỉ huy và tạo ra thực lực kinh tế cho mình trong nền kinh tế thị trường, qua đó có thể kiểm soát hoặc điều tiết được sự biến động, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm các mục tiêu xã hội. Nền kinh tế thị trường của nước ta hiện đang ở trình độ sơ khai nên vai trò Nhà nước và kinh tế quốc doanh càng quan trọng; nhưng xung quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Một ý kiến cho rằng hiệu quả kinh doanh của thành phần kinh tế Nhà nước thấp, các doanh nghiệp khó cạnh tranh được trên thị trường; nếu Nhà nước sử dụng biện pháp bảo hộ thì không có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật, lại tạo điều kiện cho chính doanh nghiệp của mình sự trông chờ ỷ lại, kém năng động... Cứ như vậy hiệu quả càng ngày càng trở nên kém hơn; thực tế những năm qua cho thấy Nhà nước không có đủ chi phí để bù đắp cho khoản lỗ của các doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế Nhà nước chỉ nên đầu tư kinh doanh vào những gì mà tư nhân không làm hoặc không làm được ( chẳng hạn đầu tư cho các mục tiêu nhằm giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội, đầu tư cho khoa học công nghệ, đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng an ninh... ). Một loại ý kiến khác cho rằng Nhà nước cần mở rộng hơn hoạt động của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, đảm bảo phát triển kết cấu hạ tầng đầu tư cho khoa học công nghệ, đầu tư vào những ngành và lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư quá lớn, chu chuyển vốn chậm, hiệu quả thấp ( thậm chí lỗ vốn )... Loại ý kiến thứ ba cho rằng Nhà nước với tư cách là chủ thể kinh tế lớn nhất , khu vực kinh tế Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất bảo đảm cho định hướng Xã hội chủ nghĩa; bảo đảm tính đồng bộ, ổn định, sự tăng trưởng bền lâu của nền kinh tế; là thành phần đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước, vì thế cần phải tiép tục phát triển các doanh nghiệp Nhà nước trên tất cả các ngành, các lĩnh vực, phát triển về mọi phương diện. Đó là một tất yếu khách quan. Thực tiễn cũng cho thấy sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước là điều cần thiết và có tính phổ biến ở các nước không phân biệt trình độ phát triển và chế độ kinh tế - xã hội. Vấn đề là ở chỗ cơ chế quản lý, sở hữu Nhà nước chưa có những định chế hữu hiệu cho nên hầu hết ở các nước hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn so các doanh nghiệp thuộc thành phânf kinh tế khác. Vì thế việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của công cuộc cải cách kinh tế ở các nước. Nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng có những ngành, lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chu chuyển vốn chậm hoặc lợi nhuận thấp, thậm chí thu lỗ như: công nghiệp nặng, cơ sở hạ tầng, khoa học-công nghệ ... Đó là những ngành mà các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không đủ khả năng đầu tư hoặc không muốn kinh doanh, nhưng lại là những ngành không thể thiếu được đối với các ngành khác và đối với toàn bộ hoạt động của đời sồng xã hội. Còn doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta hiện nay hoạt động kém hiệu quả, song đó là do yếu tố lịch sử để lại và bản thân nó đang tiến hành đổi mới, sắp xếp lại; hơn nữa doanh nghiệp Nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vực quan trọng và phải cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác (trừ một số lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh); sự cạnh tranh này mang ý nghĩa của tác nhân kích thích phát triển, định hướng kinh tế giúp Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế - xã hội. Do vậy có thể coi doanh nghiệp Nhà nước là công cụ quản lý, công cụ điều tiết của Nhà nước đặc biệt trong khu vực kinh tế công cộng, Nhà nước vừa là chủ thể, vừa là người tổ chức, quản lý, vận hành tối ưu nhất không gì thay thế được. Với ý nghĩa như vậy, tôi cho rằng loại ý kiến thứ ba về khu vực kinh tế Nhà nước nêu trên là đúng đắn. Trước mắt trong điều kiện nền kinh tế của ta còn lạc hậu, điểm xuất phát thấp, nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn mà Nhà nước chưa đáp ứng được, có thể thực hiện ý kiến thứ hai. Với tư cách là người quản lý nền kinh tế vĩ mô (lập kế hoạch và điều chỉnh): Trước hết Nhà nước tiến hành xây dựng các dự án, chiến lược phát triển, cáckế hoạch phát triển, các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội dài hạn hoặc trung hạn, kế hoạch hàng năm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây, Nhà nước tác động một cách trực tiếp lên nền kinh tế và thể hiện rất rõ nét; cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh đã quán triệt đầy đủ đường lối quản lý kinh tế với ý nghĩa kế hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng, theo mô hình kinh tế Xã hội chủ nghĩa với 2 đặc trưng lớn nhất là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh, loại ttrừ thị trường tự do. Thực chất của kế hoạch hoá thời kỳ đó là kế hoạch hoá nền kinh tế hiện vật, không công nhận nền kinh tế hàng hoá, kiêng kỵ thị trường và những quy luật, phạm trù của thị trường... Ngày nay, với việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã thực hiện cơ chế kế hoạch hoá định hướng; tức công tác kế hoạch hoá chỉ còn giữ vai trò tham mưu, lập ra các quy hoạch, các kế hoạch, các chương trình để định hướng sự phát triển và duy trì các cân đối vĩ mô, thực hiện các chủ trương của Đảng... Đó là con đường đi đúng đắn, phù hợp với các quy luật khách quan của nền kinh tế. Tuy vậy, vấn đề là làm thế nào để kế hoạch định hướng vĩ mô tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế nhận thức được, hiểu được rằng chỉ có làm theo định hướng đó mới phát triển và có hiệu quả cao; qua đó các đơn vị tự điều chỉnh hoạt động của mình theo định hướng, mục tiêu kế hoạch của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của thị trường. Thứ hai, Nhà nước đề ra hệ thống pháp luật và những quy định để tạo ra một môi trường thuận lợi, hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế – xã hội. Thứ ba là Nhà nước bảo đảm trật tự an ninh, quốc phòng, bảo đảm sự phát triển phúc lợi công cộng của xã hội như: giáo dục - đào tạo, y tế, bảo hiểm, các cấu trúc hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường... Thứ tư là Nhà nước cân đối ngân sách quốc gia, với chức năng này Nhà nước cần tạo ra nguồn thu cho ngân sách (chủ yếu từ thuế) để từ đó tạo ra các hàng hoá công cộng và chi tiêu cho hoạt động của Chính phủ, tạo nguồn dự trữ bảo đảm cân đối và ổn định trong quá trình phát triển. Thứ năm là Nhà nước tăng cường và hoàn thiện các quan hệ thị trường, tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng nhanh chóng: thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn lực, Nhà nước cần tạo điều kiện để mở rộng hơn nữa quy mô và phạm vi của thị trường; đồng thời Nhà nước cũng cần có những chính sách hạn chế mặt tiêu cực, hạn chế khuyết tật của thị trường. Thứ sáu là Nhà nước bảo đảm sự công bằng xã hội, đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Sự nhạy cảm của các nhóm xã hội đối với việc “phân chia cái bánh của xã hội...” tác động mạnh tới tính lâu bền của tăng trưởng và phát triển, vì thế vai trò của Nhà nước trong phân phối lần đầu và phân phối lại của cải xã hội chính là nội dung quyết định của sự định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Còn các nước không có sự định hướng Xã hội chủ nghĩa đó, Nhà nước vẫn phải thực hiện vai trò điều chỉnh nhiều vấn đề xã hội mà cơ chế thị trường không thể đóng vai trò điều chỉnh được (ví dụ giải quyết các vấn đề hỗ trợ, cứu tế, đầu tư vào con người để tạo nguồn lực... ). Tóm lại, Nhà nước thông qua thể chế, các chính sách và công cụ như nêu trên để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và ổn định nền kinh tế quốc dân. 4- Những quan điểm đổi mới kế hoạch hoá: Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu bước quan trọng về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế kế hoạch hoá nói riêng, sau đó Đại hội Đảng lần thứ VII, thứ VIII tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới ở trình độ nhận thức lý luận cũng như thực tiễn của lần sau cao hơn lần trước: - “Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh Xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ... Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trong những năm tới phải bảo đảm thực hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo các chương trình mục tiêu... Với quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, các đơn vị kinh tế cơ sở chủ động tiếp cận nhu cầu thị trường... Nhà nước sử dụng đòn bẩy kinh tế cả trong kế hoạch hoá trực tiếp và gián tiếp để bảo đảm thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân. Việc giao kế hoạch pháp lệnh chỉ hạn chế trong một số chỉ tiêu thật cần thiết nhằm bảo đảm những cân đối cơ bản và những nghĩa vụ cam kết của nước ngoài”... (Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI – Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội 1977, trang 61, 62). - “Nâng cao chất lượng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng nhất. Sử dụng các chương trình mục tiêu, chính sách đầu tư, tín dụng và các chính sách kinh tế khác để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế. Kế hoạch phải xác định những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân và có chính sách, biện pháp bảo đảm các cân đối đó. Nâng cao dần trình độ dự báo kinh tế – xã hội trong công tác kế hoạch hoá” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1991, trang 71). - “Kế hoạch Nhà nước phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn, các chính sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch. Tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn cho cả nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực. Chuyển dần sang kế hoạch 5 năm là chính, có phân ra từng năm; giảm nhẹ việc xây dựng và xét duyệt kế hoạch hàng năm. Kế hoạch phải bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Hà Nội 1996, trang 101). Như đã trích dẫn ở trên và qua phân tích ở những phần trước, ta thấy quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt của Đảng về đổi mới kế hoạch hoá là xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng, gắn kế hoạch với thị trường, kế hoạch hoá vừa là phương thức quản lý, vừa là công cụ quản lý. Với những quan điểm của Đại hội VI, hoạt động đổi mới kế hoạch hoá thực sự được định hướng ở tầm quan điểm chiến lược, chứ không chỉ dừng ở những sửa đổi tầm tác nghiệp nữa. Thế nhưng, vì nhiều lý do và sức ỳ sẵn có, thực tế đến những năm 1988, 1989 nhiều nội dung kế hoạch hoá vẫn chưa được đổi mới đáng kể, vẫn còn vài ý kiến khác nhau về vai trò, vị trí của kế hoạch hoá. Chỉ đến khi vượt qua được cao điểm của khủng hoảng kinh tế, của lạm phát ở mức độ là 3 con số (tỷ lệ lạm phát của năm 1986 là 774,7%; năm 1988 là 393,8%; năm 1990 là 67,4%), kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng thì khoảng cách giữa hiện thực quản lý kinh tế vĩ mô và lý thuyết về nó bị cách xa ra nhiều lần. Rõ ràng, quan điểm đổi mới của Đảng đã đượ thực chứng là đúng đắn, có bước đi hợp lý. Trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đảng, công tác đổi mới kế hoạch hoá phải tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Chương II: thực trạng công tác kế hoạch hoá ở tỉnh lạng sơn hiện nay, những vấn đề đặt ra 1- Tình hình, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội: Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, nằm ở phía đông bắc của nước ta: Phía bắc giáp Cao Bằng. Phía đông-bắc giáp với Trung Quốc. Phía nam-đông nam giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Thái Nguyên. Lạng Sơn nằm ở từ 21019’ đến 22027’ vĩ độ bắc và từ 106006’ đến 107021’ kinh độ đông. Diện tích tự nhiên là 8187 km2. Dân số Lạng Sơn là 711 ngàn người, gồm 8 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Nùng chiếm 44%. dân tộc Tày chiếm 36%, dân tộc Kinh chiếm 16% còn lại là các dân tộc khác. Lạng Sơn có 253 km đường biên giới với Trung Quốc, có cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (cả đường sắt và đường bộ) và có nhiều cửa khẩu quốc gia, các cặp chợ đường biên xen kẽ nhau; thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi hàng hoá giữa tỉnh và các địa phương khác trong cả nước với phía Trung Quốc. Về giao thông, Lạng Sơn có tuyến đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn và thông sang Trung Quốc, có nhiều tuyến đường bộ: Quốc lộ 1A, quốc lộ 1B đi Thái Nguyên, quốc lộ 4A đi Cao Bằng, quốc lộ 4B đi ra Quảng Ninh; các tuyến quốc lộ 31, 279 giao lưu giữa các tỉnh vùng đông-bắc... Trong những năm gần đây, Lạng Sơn có mức tăng trưởng kinh tế khá cao và đều đặn, tổng sản phẩm nội tỉnh (VA) thời kỳ 1990-1995 bình quân tăng 10,25%/năm, thời kỳ 1996-1999 bình quân tăng 9,5%/năm. Tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm nội tỉnh (VA) thời kỳ 1990-1995 của ngành nông-lâm nghiệp là 5,2%, của ngành công nghiệp là 22,1%, dịch vụ là 16,7%; thời kỳ 1996-1999 của ngành nông-lâm nghiệp là 5,5%, công nghiệp là 21,3% và dịch vụ là 15,4%. Cơ cấu kinh tế cũng có những chuyển dịch đáng kể: Năm 1990 tỷ trọng của các ngành trong V.A là: Nông-lâm nghiệp 69,7%, công nghiệp 5,7%, dịch vụ 24,6%. Đến năm 1995 tỷ trong tương ứng đã là: 62,2%, 8,0% và 29,8%. Năm 1999 tỷ trong các ngành tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm nông-lâm nghiệp, tăng công nghiệp, dịch vụ; kết quả là: nông-lâm nghiệp còn 53,9% (giảm 15,8% so với năm 1990), công nghiệp là 10,8% (tăng 5,3% so với 1990), dịch vụ là 35,2% (tăng 10,6% so với năm 1990). Đời sống vật chất , tinh thần , bộ mặt xã hội của tỉnh đã có nhiều thay đổi và tiến bộ vượt bậc. Lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở những nơi có điều kiện thuận lợi đã có những bước chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ứng dụng tiến bộ vào sản xuất nên hiệu quả kinh tế cao hơn trước, sản lượng lương thực tăng gần 2 lần so với năm 1985. Hiện nay 100% số xã đã có đường giao thông đến trung tâm xã, 61% số xã có điện lưới quốc gia, 38,2% số xã có điện thoại, 100% số xã có trường tiểu học, 76,6% số xã có trạm y tế, 42% số hộ được xem chương trình truyền hình... Sản xuất công nghiệp đã thoát khỏi tình trạng đình đốn của những năm đầu đổi mới, nhiều sản phẩm sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng (không phải vận chuyển từ miền xuôi lên như trước đây). Lĩnh vực dịch vụ phát triển nhanh (bình quân thời kỳ 1991-1995 là 18,3% năm và thời kỳ 1996-1999 là 14,1% năm), phát triển đa dạng, thu hút được hàng nghìn tỷ đồng vốn đầu tư kinh doanh, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống và đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước... Các cửa khẩu được quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, phát triển thị trường... Vì vậy hàng năm thu hút được hơn 300 doanh nghiệp trong cả nước tham gia xuất nhập khẩu qua biên giới, tạo nên thị trường sống động, thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực kinh tế phát triển theo. Có thể nói nhờ giao lưu kinh tế qua biên giới, nhờ phát triển các cửa khẩu - đặc biệt là khu kinh tế đô thị Đồng Đăng - Bảo Lâm (theo quyết định 748/TTg của Thủ Tướng Chính Phủ) mà nền kinh tế hàng hoá tỉnh Lạng Sơn có bước nhảy mới về chất Trong năm 1999, mặc dù có nhiều khó khăn, có mặt giảm sút nhưng vẫn cố gắng duy trì được tăng trưởng kinh tế, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh: Tốc độ tăng trưởng đạt 7,26% so với năm 1998, là mức tăng trưởng khá so với mức tăng chung của cả nước là 4,7 – 5,0%, thu nhập bình quân đạt 220 USD/người/năm. Trong nông nghiệp, mô hình kinh tế trang trại, hộ gia đình phát triển và ngày càng được khẳng định. Sản xuất công nghiệp, các hoạt động dịch vụ, thương mại tiếp tục có bước phát triển mới. Lĩnh vực văn hoá-xã hội cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo được sự chuyển biến lớn trên nhiều mặt: Vấn đề xoá đói giảm nghèo được quan tâm, trở thành vấn đề được xã hội hoá, thực hiện đồng bộ và khẩn trương hơn. Nhiều biện pháp như: hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, ưu đãi về đầu tư vốn cho sản xuất, trợ giá giống, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, cấp thẻ bảo hiểm y tế, giảm học phí cho học sinh, hỗ trợ giải quyết nhà ở, đào tạo cán bộ cho xã nghèo... đã được chính quyền Nhà nước cấp tỉnh ghi nhận thành Nghị quyết để chỉ đạo thực tiễn. Thông qua nhiều chương trình khác nhau, tỉnh đã thu hút được nhiều nguồn lực hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm... Tỷ lệ đói nghèo từ 24,07% năm 1993 đã giảm dần và ước năm 1999 chỉ còn 14%. Công tác truyền thông dân số, kế hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh ở cơ sở và có sự tham gia đắc lực của các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng nên tỷ lệ sinh giảm 0,08%/năm, tỷ lệ phát triển dân số còn 1,5% (vượt mục tiêu đề ra). Các chương trình quốc gia về phòng chống các dịch bệnh xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân... đều được tăng cường. Cơ sở vật chất của ngành y tế được nâng cao về chất lẫn về lượng, trong 10 năm qua đã đầu tư nâng cấp và xây dựng mới hầu hết các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh, xây dựng được 65 trạm y tế – dân số kế hoạch hoá gia đình cấp xã. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ đạt được nhiều kết quả quan trọng sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII): Quy mô học sinh các bậc học ngày càng tăng, bình quân mỗi năm tăng 2,5 – 3,0%; tỷ lệ trẻ trong độ tuổi được huy động đến trường đạt trên 96%, đã hoàn thành xoá mù chữ và cơ bản phổ cập tiểu học. Công tác đào tạo – bồi dưỡng có nhiều cố gắng và tiến bộ, mỗi năm ngân sách chi thêm trên 2 tỷ đồng để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý Nhà nước cho cán bộ. Khoa học công nghệ đã tập trung vào nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, trong đó tập trung vào khảo nghiệm giống cây, con mới, bảo quản và nghiên cứu chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Nhìn chung, tình hình kinh tế – xã hội tỉnh Lạng Sơn sau 10 năm đổi mới đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tạo được những tiền đề cho giai đoạn mới. Nhưng do điểm xuất phát ở mức quá thấp so bình quân cả nước (thu nhập bình quân đạt 60% so cả nước); so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì tốc độ tăng trưởng như nêu ở trên vẫn chưa đáp ứng được, đặc biệt cơ sở hạ tầng còn thấp kém và thiếu thốn nhiều, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất công nghiệp vẫn chưa có đầu ra, các ngành dịch vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường, đầu tư của nước ngoài dẫm chân tại chỗ... Đứng trước thực trạng kinh tế – xã hội, từ điều kiện tự nhiên của tỉnh, vấn đề đặt ra cho công tác kế hoạch hoá là phải làm thế nào để tiếptục phát huy được tiềm năng và lợi thế sẵn có, giữ vững tăng trưởng kinh tế và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết những vấn đề xã hội, phát triển văn hoá... để tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn của những năm tiếp theo. 2- Thực trạng công tác kế hoạch hoá trước công cuộc đổi mới: Tuy có vị trí địa lý rất thuận lợi, song do nhiều yếu tố lịch sử để lại, đặc biệt là bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 và thực hiện công cuộc phòng thủ, bảo vệ biên giới những năm 1979 – 1987 nên trước giai đoạn đổi mới Lạng Sơn vẫn là một tỉnh nghèo, thể hiện rõ nét nhất là trình độ dân trí thấp, sản xuất nặng về tự túc tự cấp theo phương thức canh tác lạc hậu, cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể... Trong thời kỳ bao cấp đó, cũng như các địa phương khác, tỉnh Lạng Sơn cũng sử dụng kế hoạch hoá như là một phương thức, một công cụ để quản lý nền kinh tế. Phương thức kế hoạch hoá bao cấp lúc đó chủ yếu là xây dựng kế hoạch 10 năm, 5 năm và kế hoạch hàng năm, giữa các kỳ kế hoạch có xem xét, điều chỉnh lại. Ngoài ra có chú ý nghiên cứu thêm về phân vùng kinh tế, về quy hoạch ngành. Phương thức kế hoạch hoá theo chương trình, theo dự án chưa được chú trọng, nếu có cũng chỉ là những chương trình nhỏ và ngắn hạn với phạm vi, nội dung hẹp. Mọi kế hoạch Nhà nước thời kỳ đó đều xuất phát từ mô hình nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc quản lý tập trung dân chủ và hai đặc trưng cơ bản là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không chấp nhận thị trường; nghĩa là chỉ thừa nhận và kế hoạch hoá đối với thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, chỉ thừa nhận thị trường có tổ chức... Thực chất đó là kế hoạch hoá hiện vật, không có kế hoạch hoá giá trị; không cho phép tồn tại các thị trường về vật tư thiết bị phục vụ sản xuất, không tồn tại thị trường sức lao động, thị trường tài chính. Về xây dựng kế hoạch: Vào giữa năm, căn cứ kết quả thực hiện kế hoạch trong 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ của 6 tháng còn lại, Nhà nước Trung ương sẽ giao kế hoạch hướng dẫn cho tỉnh. Kế hoạch hướng dẫn đó (có thời kỳ còn gọi là số kiểm tra) thực chất là yêu cầu tối thiểu của cấp trên giao cho cấp dưới (thường là chỉ tiêu giao nộp sản phẩm) và khả năng tối đa về vật chất (cung ứng vật tư thiết bị, hàng hoá, vốn đầu tư, trợ cấp ngân sách, chỉ tiêu chi lương...) mà cấp trên cung cấp cho cấp dưới để thực hiện kế hoạch. Căn cứ kế hoạch hướng dẫn (số kiểm tra) đó, tỉnh lại phân bổ đến các huyện, thị và ngành, sau đó tổng hợp kế hoạch từ dưới lên, cân đối và kiến nghị cấp Trung ương giao thành chỉ tiêu chính thức. Thông thường thì số hướng dẫn của Trung ương, số tổng hợp từ các ngành, huyện thị và số được cân đối, kiến nghị không trùng khớp lên nhau. Đến khi Nhà nước chính thức giao kế hoạch thì các mục tiêu, những cân đối kế hoạch còn có sự chênh lệch xa nữa vì cơ chế xin – cho. Về thực hiện kế hoạch: Chủ yếu theo biện pháp cấp phát, giao nộp sản phẩm, mọi hoạt động đều được chỉ huy tập trung và thống nhất từ trên xuống theo một hệ thống chỉ tiêu kế hoạch rất chi tiết. Trong sản xuất, Nhà nước giao vật tư, vật liệu, năng lượng, tiền lương theo định mức; Nhà nước duyệt giá thành, yêu cầu về chất lượng sản phẩm đối với cơ sở sản xuất. Cơ sở sản xuất chỉ việc thực hiện rồi giao nộp lại sản phẩm theo những địa chỉ do Nhà nước chỉ định. Trong lưu thông, Nhà nước thực hiện phân phối hàng hoá theo tiêu chuẩn, định mức và theo giá bao cấp... Đánh giá lại, ta thấy kế hoạch hoá tập trung, bao cấp cũng có những tác dụng tích cực, nổi bật lên là nó đã huy động được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực cho những mục tiêu quan trọng của đất nước, bảo đảm cho mọi tầng lớp nhân dân lao động một cuộc sống tối thiểu về vật chất, tinh thần trong điều kiện sản xuất xã hội còn ở mức thấp... Tuy nhiên, kế hoạch hoá đó thực sụ trở thành vật cản sự phát triển của nền sản xuất kinh tế sau khi thống nhất đất nước, việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá đó đã làm nền kinh tế – xã hội lâm vào khủng hoảng sâu sắc (Riêng đối với Lạng Sơn, chỉ cần nguồn cân đối của Trung ương chậm triển khai là toàn bộ mọi hoạt động bế tắc ngay)... Trong cái khó khăn đòi hỏi cần có lối thoát đó, công tác kế hoạch hoá của Lạng Sơn cũng đã có những cải tiến, tìm tòi cho phù hợp và phát huy lợi thế so sánh riêng của mình (ví dụ liên doanh chế biến tinh dầu hồi, sản xuất thuốc lá từ nguồn nguyên liệu của Lạng Sơn để qua đó tạo thêm nguồn hàng bổ sung...). 3- Quá trình đổi mới kế hoạch hoá từ năm 1986 đến nay: Cùng với xu thế chung của cả nước, trong thời kỳ đổi mới Lạng Sơn đã đạt được nhiều tiến bộ, nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực đổi mới kế hoạch hoá và cơ chế quản lý kinh tế, như: sớm thực hiện khoán trong nông nghiệp, hướng dẫn tổ chức lại hợp tác xã theo mô hình mới, giao đất giao rừng cho hộ nhân dân quản lý, bảo vệ, từng bước điều chỉnh giá để thu hẹp chênh lệch giá, tiến tới cơ chế một giá vào năm 1989, thu hẹp mặt hàng theo giá bao cấp. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, đã nhiều lần sắp xếp, sáp nhập, giải thể các cơ sở kinh tế không còn vai trò, nhiệm vụ hoặc không thực sự cần thiết trong cơ chế thị trường, chuyển hết mọi cơ sở sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Theo cơ chế mới, công tác kế hoạch hoá giữ vai trò tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, lập ra các quy hoạch, kế hoạch để định hướng phát triển, duy trì các cân đối vĩ mô, thực hiện chủ trương của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Nhà nước không can thiệp vào những vấn đề cụ thể của doanh nghiệp nữa, mà để doanh nghiệp tự chủ theo khuôn khổ pháp luật. Đổi mới kế hoạch hoá được triển khai cụ thể ở một số lĩnh vực như sau: Đối với cấp tỉnh và huyện, ngành: - Kế hoạch đã thực sự chuyển từ cơ chế kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng (hướng dẫn) với việc nỗ lực xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội toàn tỉnh, các huyện thị và quy hoạch phát triển các ngành đến 2010. Vấn đề nghiên cứu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, trung hạn, nghiên cứu chương trình mục tiêu để làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch hàng năm đã được quan tâm và đầu tư đúng mức. Từ năm 1996 đến nay, tỉnh đã hoàn thành quy hoạch tổng thể các huyện thị, quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội cả tỉnh, quy hoạch của một số ngành quan trọng và cần ưu tiên như: Du lịch, công nghiệp, nông-lâm nghiệp, điện năng, giao thông vận tải. Đặc biệt quy hoạch khu kinh tế đô thị Đồng Đăng – Bảo Lâm đã được Chính phủ phê duyệt và thực hiện đầu tư từ cuối năm 1997 đến nay; quy hoạch hướng phát triển kinh tế đô thị Lạng Sơn - Đồng Đăng cũng đã dược phê duyệt về nguyên tắc. Đó là những thuận lợi để Lạng Sơn có thể phát triển, hội nhập với tam giác kinh tế trọng điểm miền Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). - Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện 2 loại kế hoạch là: kế hoạch ngân sách (thường là ngắn hạn, năm, quý, tháng) và kế hoạch phát triển ( năm, 5 năm hoặc dài hơn), trong đó đặc biệt chú trọng kế hoạch phát triển theo cơ chế mới. Nội dung của kế hoạch phát triển phải xử lý tốt những vấn đề như: tăng trưởng kinh tế gắn với kế hoạch đầu tư, kế hoạch phát triển vùng gắn với quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành; tăng trưởng kinh tế gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu kinh tế nông thôn). Triển khai kế hoạch hoá theo chương trình, theo mục tiêu để thực hiện đồng bộ, có hiệu quả và đúng định hướng Xã hội chủ nghĩa. - Kế hoạch hoá thông qua việc sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô, các chính sách kinh tế, các đòn bẩy kinh tế để định hướng và thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch. Phạm vi kế hoạch hoá không chỉ đối với kinh tế quốc doanh, hợp tác xã như trước đây mà mở rộng ra với tất các mọi thành phần kinh tế. - Chú trọng nhiều hơn đến các kế hạch về khoa học công nghệ, giáo dục – đào tạo, văn hoá, thông tin, y tế, thể dục – thể thao, các vấn đề xã hội khác... Các lĩnh vực này, nếu trong thời kỳ kế hoạch hoá mệnh lệnh hành chính được coi là những hoạt động “phi sản xuất vật chất” và được giao chỉ tiêu kế hoạch để có đối tượng hoạt động, có bao cấp về ngân sách... thì nay đã được coi đúng ý nghĩa của nó trong đời sống xã hội, đó là các ngành dịch vụ. Nhân tố con người là chủ thể của quá trình phát triển, mặc dù kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã chú ý vấn đề này, nhưng ngày nay do sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thiên niên kỷ thứ 3 đang đặt ra cấp thiết hơn mọi yếu tố nguồn lực mà con người là trung tâm. Chính vì vậy vấn đề phát triển nguồn nhân lực gắn với vấn đề chống thất nghiệp, chống đói nghèo, tạo việc làm... cần được coi như một nội dung của kế hoạch phát triển. Vấn đề gia tăng dân số còn ở mức độ cao, nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng lớn, đói nghèo... đang là thách thức gay gắt đối với sự phát ttriển nhân lực. Do đó trong kế hoạch hoá cần có những giải pháp để duy trì quy mô dân số phù hợp, cải cách giáo dục, tổ chức tốt vấn đề y tế để tạo ra nguồn nhân lực, con người đáp ứng yêu cầu mới. Cùng với yếu tố nguồn lực con người, cũng cần nhấn mạnh vấn đề phát huy động lực văn hoá trong kế hoạch phát triển. Đây là một nội dung đổi mới của kế hoạch hoá, vì nó phù hợp quan điểm của Đảng coi văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. - Trình tự lập kế hoạch đã có những thay đổi về cơ bản, cách giao số hướng dẫn (số kiểm tra) và tổng hợp từ cơ sở lên, sau đó cân đối, giao lại cho cơ sở nay đã không thực hiện nữa, mà thay bằng việc cung cấp những định hướng phát triển, những thông tin cần thiết để cơ sở, các ngành và huyện thị xây dựng kế hoạch theo định hướng đó. - Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch cũng đã rút gọn rất nhiều, các chỉ tiêu sản xuất, cung ứng vật tư, giao nộp sản phẩm... đều đượ xoá bỏ. Hiện nay chỉ còn duy trì chỉ tiêu pháp lệnh về thu – chi ngân sách Nhà nước, chỉ tiêu vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư cho các chương trình thuộc nguồn ngân sách Nhà nước. - Thực hiện phân cấp kế hoạch hoá cho các cơ sở, huyện thị để chủ động quyết định kế hoạch của mình. Đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh: - Thực hiện kế hoạch hoá gián t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2293.doc
Tài liệu liên quan