Lời mở đầu
Trong những năm qua hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ... Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ những yếu kém trong điều hành và hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động ngân hàng ngày càng phong phú và không ngừng phát triển đòi hỏi chúng ta phải có một nhận thứ
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c mới về hệ thống ngân hàng.
Qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình tất yếu đối với bất kỳ một quốc gia nào muốn đạt được sự phát triển về kinh tế xã hội, trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá. Do vậy việc huy động vốn là hết sức coi trọng, nó là mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn trong nước và nước ngoài để phát triển kinh tế, xã hội.
Trong thế kỷ 21, thế kỷ của mở cửa và hội nhập, khi thị trường các quốc gia là một, các ngân hàng không chỉ phải cạnh tranh với các đối thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài dày dặn kinh nghiệm. Đây vừa là gánh nặng đồng thời là thách thức đối với các ngân hàng. Vì vậy bài toán huy động vốn tiết kiệm, hiệu quả ngày càng trở lên quan trọng hơn. Làm sao để các ngân hàng thương mại Việt Nam huy động tối đa nguốn vốn trong nước và ngoài nước để đáp ứng kịp thời vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, đồng thời kết hợp với quá trình thực tập cuối khoá tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội em có điều kiện tiếp cận và nghiên cứu về vấn đề này nhiều hơn, và em chọn đề tài:"Công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Nam Hà Nội – Thực trạng và giải pháp" làm luận văn tốt nghiệp.
Mong muốn của em là xin được góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển chung của hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội nói riêng.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Chương 1:
Nguồn vốn huy động đối với hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.1. Một vài nét về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại (NHTM):
- Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính khác. Sự đa dạng hoá dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng ta gọi ngân hàng là các “bách hoá tài chính” (financial department stores).
- NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.
- Còn theo nhà kinh tế học David Begg định nghĩa: NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi.
Tóm lại các định nghĩa về NHTM có thể có cách diễn đạt khác nhau, tuy nhiên đều thể hiện được các đặc trưng cơ bản sau:
+ Là một tổ chức được phép nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả.
+ Sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay, chiết khấu và đầu tư.
+ Thực hiện các khoản thanh toán và các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Những tổ chức nào có đầy đủ 3 đặc trưng trên mới được coi là NHTM.
1.1.2. Các chức năng của ngân hàng thương mại.
a. Chức năng trung gian tín dụng.
Làm trung gian tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện các nghiệp vụ:
Thứ nhất: NHTM huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế trong xã hội, từ các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức tín dụng khác... để hình thành nguồn vốn cho vay.
Thứ hai: NHTM dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay với chủ thể kinh tế thiếu vốn – có nhu cầu bổ sung vốn, góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Như vậy, hoạt động của NHTM là “đi vay để cho vay”, là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Những hoạt động trên mang tính chất kinh doanh, bởi vậy khi cho vay, NHTM đặt ra một lãi suất cao hơn lãi suất huy động vốn. Chênh lệch giữa 2 mức lãi suất là để bù đắp chi phí hoạt động tín dụng và phần lợi nhuận của ngân hàng.
Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cá các đối tác trong quan hệ tín dụng:
+ Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi với khoản lãi tiền gửi. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
+ Người đi vay thỏa mãn được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng, mà không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung cấp vốn.
+ Bản thân NHTM sẽ thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Lợi nhuận này là cơ sở để tồn tại và phát triển ngân hàng.
+ Đối với nền kinh tế, chức năng này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền và kiềm chế lạm phát.
Tóm lại, chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTM.
b. Chức năng trung gian thanh toán
NHTM làm trung gian thanh toán trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản chi trả trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện chức năng này. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như không an toàn, chi phí lớn... đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
Khi làm trung gian thanh toán, NHTM tiến hành những nghiệp vụ như : Mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản và thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Trong đó thanh toán theo yêu cầu của khách hàng là kết quả sau khi thực hiện hai công việc trên. Ngân hàng trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi, tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của khách hàng.
Tóm lại, thanh toán tiền tệ qua NHTM được thực hiện theo cách chuyển khoản nên mọi khoản thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí. Điều đó góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyến vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.
c. Chức năng tạo tiền
Chức năng này được thực hiện trên cơ sở:
+ Khi hệ thống ngân hàng hai cấp đã hình thành, các ngân hàng không hoạt động riêng lẻ mà theo hệ thống. Trong đó, Ngân hàng Trung ương giữ độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và với vai trò ngân hàng của các ngân hàng. Còn các NHTM chuyên kinh doanh tiền tệ trong mối quan hệ với doanh nghiệp và cá nhân...
+ Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số tiền vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở ngân hàng khác và chỉ khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền.
Từ một khoản tiền gửi ban đầu thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu.
Mở rộng tiền gửi là khả năng vốn có của ngân hàng thương mại, gắn liền với hoạt động tín dụng và thanh toán. Như vậy lượng tiền giao dịch không chỉ là giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng Trung ương phát hành mà bộ phận quan trọng là do tiền ghi sổ (bút tệ) do các NHTM tạo ra.
Chức năng tạo tiền có ý nghĩa quan trọng:
+ Khối lượng tiền do các NHTM tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của xã hội.
+ Việc tạo ra tiền chuyển khoản để thay thế cho tiền mặt là một sáng kiến quan trọng thứ hai của lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức tạo tiền đã tiết kiệm được cho phí lưu thông và ngân hàng trở thành trung tâm của đời sống kinh tế xã hội.
1.1.3. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại
+ Hoạt động tạo lập nguồn vốn: NHTM là một loại hình doanh nghiệp, bởi vậy muốn mở rộng các hoạt động kinh doanh, nó phải tự lập được nguồn vốn.
+ Hoạt động sử dụng vốn:
Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn ngày càng đa dạng và được thực hiện dưới nhiều hình thức:
- NHTM cho vay đối với khách hàng. Đây là hướng căn bản trong sử dụng vốn của ngân hàng, gồm có cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại hình cho vay có thời hạn, dưới 12 tháng. Nó là loại cho vay phổ biến của NHTM nhằm bổ sung vốn lưu động cho khách hàng.
Cho vay trung và dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại cho vay này để khách hàng thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế. Mặt khác loại cho vay này cũng phù hợp với khả năng huy động vốn theo chiều hướng gia tăng của NHTM và nhu cầu đa dạng của đối tác xin vay.
- Hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư của NHTM thực hiện dưới hình thức chủ yếu là đầu tư chứng khoán và đầu tư vốn liên doanh liên kết.
+ Hoạt động dịch vụ ngân hàng:
Dịch vụ ngân hàng được phát triển mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa lại nguồn thu đáng kể cho các NHTM. Hoạt động dịch vụ được thực hiện dưới các hình thức sau: thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ và vàng, môi giới kinh doanh chứng khoán, hoạt động uỷ thác, hoạt động thông tin tư vấn....
1.2. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm : Vốn chủ sở hữu, vốn huy động và các khoản vay của các TCTD, của Ngân hàng Trung ương.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM, nó bao gồm: Vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và các tài sản nợ khác theo quy định.
- Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của của NHTM. Tuỳ theo các hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với NHTM nhà nước thì vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập và được bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. NHTM cổ phần vốn thì do các cổ đông đóng góp. Đối với ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp vốn...
Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và quy mô hoạt động của từng ngân hàng, nhưng không được thấp hơn mức vốn pháp định mà luật pháp quy định cho từng loại hình ngân hàng.
- Các quỹ dự trữ: Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình, trong quá trình hoạt động các ngân hàng thương mại được trích lập quỹ. Các quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lê, quỹ dự phòng tài chính, các quỹ khác như: quỹ phúc lợi, quỹ phát triển nghiệp vụ...
- Các tài sản nợ khác: Theo quy định của pháp luật một số tài sản nợ khác được coi như vốn chủ sở hữu của NHTM. Bao gồm: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản do Nhà nước cấp (nếu có), các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá, lợi nhuận được để lại chưa phân bổ cho các quỹ.
Tóm lại, vốn chủ sở hữu nói chung và vốn điều lệ nói riêng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Đây là điều kiện pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của ngân hàng thương mại, là căn cứ để tính toán các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng.
1.2.2. Vốn huy động:
Vốn huy động của ngân hàng dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: Vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
1.2.2.1. Vốn huy động từ tiền gửi.
Để huy động vốn, các ngân hàng đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn tiền gửi của các NHTM bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
* Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời như: khấu hao đã trích nhưng chưa đến lúc sử dụng: Tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên vật liệu, trả lương, các quỹ đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến... Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào ngân hàng. Hoặc để thuận tiện cho quá trình sử dụng vốn, đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng hoặc sử dụng dịch vụ ngân hàng khác. Khi đó, họ cần phải gửi vốn vào ngân hàng. Tổ chức kinh tế có thể gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau. Đồng thời ngân hàng sẽ mở cho các đơn vị các tài khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng.
- Tiền gửi không kỳ hạn:
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thoả mãn các nhu cầu đó. Loại tiền gửi này có mục đích chính là phục vụ nhu cầu thanh toán.
Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút tiền có thể thực hiện vào bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chệnh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Cho nên nguồn vốn này giúp cho ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư.
- Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế do quá trình cạnh tranh, để thu hút tiền gửi các ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi, hoặc chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh. Vì vậy để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có các loại kỳ hạn : 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng… với mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức lãi suất theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
* Tiền gửi của dân cư
Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại ngân hàng. Tiền gửi của dân cư bao gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Trong hình thức huy động này, người gửi tiền được giao cầm một sổ tiết kiệm. Sổ này được coi như giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ tiết kiệm của ngân hàng. Sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán:
Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng.
Giống như tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm (kể cả không kỳ hạn và có kỳ hạn) và tiền gửi thanh toán của dân cư tạo nên nguồn vốn hoạt động của các NHTM.
Trên thực tế tiền gửi của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi... với lãi suất hợp lý.
* Tiền gửi khác:
Ngoài hai loại tiền gửi trên tại các NHTM còn có các khoản tiền gửi khác như:
- Tiền gửi của tổ chức đoàn thể xã hội.
- Tiền gửi các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi của kho bạc Nhà nước…….
1.2.2.2. Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá
Đây là nguốn vốn mà NHTM có được thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng.
Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là kênh đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng.
Với việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn, ngân hàng có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng. Hình thức này thường được thực hiện khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng hay sau khi đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn thiếu và được sự đồng ý của Thống đốc ngân hàng Trung ương.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn (trên 80%) trong toàn bộ vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, trong điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
1.2.3. Vốn đi vay.
Trong quá trình kinh doanh của NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa cho vay hết, hay khi khách hàng có nhu cầu vay lớn nhưng nguồn vốn lại không đủ, hoặc người gửi rút tiền trước hạn trong khi đó vốn cho vay chưa đến lúc thu hồi. Khi đó các NHTM có thể gửi vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi, hay đi vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán. NHTM có thể vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay vốn từ ngân hàng Trung ương.
* Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác
Hầu hết các NHTM được tổ chức thành hệ thống gồm nhiều chi nhánh và hạch toán kinh doanh toàn ngành, thực hiện điều chuyển vốn giữa các chi nhánh qua Hội sở chính, khi thừa vốn các chi nhánh điều chuyển về Hội sở chính, khi thiếu vốn các chi nhánh được nhận vốn điều chuyển từ Hội sở chính. Vì vậy, việc vay vốn của tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước thường chỉ thực hiện ở ngân hàng Trung ương của từng hệ thống.
* Vốn vay của Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Vì vậy các NHTM có thể được ngân hàng Trung ương cho vay vốn khi cần thiết. ở Việt Nam hiện nay ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay vốn ngắn hạn dưới hình thức sau:
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Ngoài ra, ngân hàng Trung ương còn cho NHTM vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng chính phủ chấp nhận, ngân hàng Nhà nước còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn trong hệ thống.
Vốn vay của tổ chức tín dụng khác và vay của ngân hàng Trung ương thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của NHTM, cho nên ngoài tác dụng góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của ngân hàng, nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của NHTM.
1.2.4. Nguồn vốn khác:
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:
+ Vốn trong thanh toán: Vốn trong thanh toán là số vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Cụ thể:
+ Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người trả tiền nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người được hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán.
+ Số vốn trong thời gian khách hàng lưu ký tại ngân hàng nhưng chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán như séc bảo chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán ký quỹ...
Khi công nghệ thanh toán của ngân hàng ngày càng hiện đại, quy trình thủ tục thanh toán được cải tiến thì thời gian của mỗi cuộc thanh toán giảm đi đáng kể, do đó vốn mà ngân hàng có được trong mỗi khoản thanh toán cũng giảm. Nhưng do ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và khoản thanh toán được thực hiện qua ngân hàng ngày càng tăng, làm cho số vốn này có điều kiện gia tăng.
Vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Đây là nguốn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, ngân hàng có được một số vốn để kinh doanh. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ được hưởng hoa hồng phí.
Ngoài ra, ngân hàng làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, cũng như thu hộ lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng... những nghiệp vụ này cũng tạo thêm được nguồn vốn cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác của ngân hàng có thể không nhiều, thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn, nhưng điều đáng quan tâm là nguồn vốn này ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động, nhưng lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
1.3. Sự cần thiết và vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, tạo những điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức xã hội.
Quá trình huy động vốn của ngân hàng chính là quá trình tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong xã hội, sau đó cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, đầu tư và phát triển kinh tế. Như vậy, huy động vốn kịp thời đã tiết kiệm thời gian, chi phí nguồn lực, đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, những người tiết kiệm có được thu nhập từ lãi từ tiền gửi của mình, tức đồng tiền của họ từ chỗ dư thừa đã có khả năng sinh lời. Ngược lại, những người thiếu vốn thì có vốn kịp thời cho sản xuất, tăng lợi nhuận.
1.3.2. Huy động vốn làm gia tăng vốn trong nước, kích thích huy động vốn nước ngoài.
Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động trong nước còn nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó vốn trong nước là yếu tố quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước thể hiện:
Thứ nhất, tạo tính chủ động trong quá trình huy động vốn, chi phí huy động vốn thấp, hiệu quả kinh tế đối với xã hội cao.
Thứ hai, tạo các điều kiện thuận lợi để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, hình thành và tạo lập sức mạnh hồi sinh cho nền kinh tế, hạn chế các tiêu cực phát sinh về kinh tế - xã hội do đầu tư nước ngoài mang lại. Nhờ vậy tính độc lập tự chủ của đất nước được bảo đảm, tránh lệ thuộc nước ngoài do quan hệ vay mượn.
Xét về bản chất, huy động vốn của các NHTM là trực tiếp làm cho quy mô tích luỹ trong nước ngày càng tăng, chuyển tối đa nguồn vốn đang nhàn rỗi thành nguồn vốn hữu ích có khả năng sinh lời. Còn huy động vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện kinh tế còn nghèo, thiếu vốn mà nhu cầu đầu tư phát triển lại cao.
Việc huy động vốn nước ngoài qua các NHTM mà tổ chức khác không có như : khả năng tính toán các điều kiện và lợi ích cho vay trả, khả năng quản lý có hiệu quả vốn vay và vai trò quản lý ngoại tệ để thực hiện chính sách ngoại hối của một quốc gia.
1.3.3. Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt động huy động vốn qua ngân hàng góp phần kiềm chế và kiểm soát mức lạm phát thông qua việc đIều chỉnh lượng tiền tham gia vào quá trình lưu thông, ổn định giá trị đồng tiền. Chẳng hạn: Ngân hàng luôn là nơi cung cấp một lượng vốn tín dụng lớn, đáp ứng các khoản chi tiêu và đầu tư của chính phủ cho các dự án về sản xuất kinh doanh và những dự án thực hiện chính sách xã hội, bù đắp những sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách thông qua hình thức vay nợ giữa ngân sách với ngân hàng.
1.3.4. Huy động vốn quyết định sự tồn tại của các NHTM.
Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có vốn, vốn là nhân tố chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn cho phép mở rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh giúp cho các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, gia tăng lợi nhuận.
Nguồn vốn quyết định khả năng thanh toán, chi trả của một ngân hàng, nếu có nguồn vốn lớn, năng lực thanh toán tốt thì sẽ gây được uy tín trên thị trường.
Nguồn vốn của ngân hàng còn là một nhân tố tác động đến sự thắng lợi trong cạnh tranh tạo cho ngân hàng có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Ngân hàng có khả năng vốn dồi dào cho phép điều chỉnh phí bình quân đầu vào là một lợi thế cạnh tranh.
Mặt khác, ngân hàng khi có nguồn vốn lớn sẽ có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình thức kinh doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô hoạt động tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của ngân hàng.
Đại bộ phận nguồn vốn của NHTM là nguồn vốn ngân hàng huy động được trong nền kinh tế. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn phong phú, đa dạng đòi hỏi NHTM phải đa dạng hoá được các nguồn vốn nghĩa là có một tỷ trọng vốn trung và dài hạn thích hợp để thực hiện chức năng của một ngân hàng đa năng, khi thực hiện được điều đó ngân hàng sẽ luôn giữ được lợi thế trong cạnh tranh, uy tín của ngân hàng không ngừng được nâng cao.
ở nước ta hiện nay, thị phần hoạt động của tín dụng chiếm khoảng 90%. Con số này khá cao chứng tỏ hoạt động tín dụng là chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi NHTM.
Mà muốn có hoạt động tín dụng phải có vốn, muốn có vốn phải huy động vốn và chủ yếu từ nền kinh tế. Như vậy, huy động vốn phải là bước khởi đầu quan trọng nhất để có được bước khởi động tiếp theo trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng.
Qua quá trình huy động vốn, ngân hàng sẽ có vốn để cho vay và thu lợi nhuận, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn huy động có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên mức độ ổn định quy mô, cơ cấu của nguồn vốn này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả những yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan của bản thân ngân hàng.
Thứ nhất: Điều kiện kinh tế xã hội: đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung đến việc huy động vốn của NHTM. Cụ thể, trong một nền kinh tế tăng trưởng cao mới có tích luỹ trong doanh nghiệp và dân cư. Do đó nguồn tiền gửi, tiền tiết kiệm gửi vào các ngân hàng thương mại ngày càng nhiều. Ngoài ra, một nền kinh tế tăng trưởng thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói quen sử dụng những tiện ích do các NHTM cung ứng. Với các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng sẽ thu được càng nhiều khoản vốn.
Lạm phát là yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Nếu lạm phát cao hoặc biến động có thể làm trượt giá đồng tiền, người dân sẽ chuyển tài sản của họ sang hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị như mua vàng, ngoại tệ mạnh.
Thứ hai: Lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động của NHTM. Khi người dân gửi tiền vào ngân hàng, họ hy vọng số tiền của mình được đảm bảo an toàn, ngoài ra thu được 1 khoản lãi nhất định. Vì vậy, ngân hàng đưa ra mức lãi suất hợp lý sẽ thu hút được khách hàng gửi tiền, đặc biệt là tiền gửi trung, dài hạn.
Thứ ba: Các yếu tố liên quan đến khách hàng: Đó là tâm lý của người dân trong việc sử dụng tiện ích của ngân hàng, độ tin tưởng của người dân vào ngân hàng, thói quen gửi tiền, thói quen tiết kiệm, sở thích về tiêu dùng...điều này có thể thấy qua việc so sánh tâm lý của công chúng các nước. Những nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển thì ngân hàng trở nên gần gũi hơn với công chúng và việc sử dụng những tiện ích do ngân hàng cung cấp trở nên thường xuyên hơn.
Thứ tư: Các chính sách của nhà nước, cụ thể là chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất, chính sách về thu hút vốn... Đôi khi sự thay đổi lớn các chính sách của nhà nước đã làm ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung.
Thứ năm: Các yếu tố liên quan đến ngân hàng như: vị thế của ngân hàng, uy tín, mạng lưới hoạt động của ngân hàng, lãi suất do ngân hàng đưa ra, những tiện ích trong thanh toán, đội ngũ cán bộ công nhân viên, cơ sở vật chất kỹ thuật, sự phong phú về sản phẩm ngân hàng cung ứng... tất cả các yếu tố này tạo nên sức mạnh tổng hợp của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong công tác huy động vốn nói riêng. Vì vậy để tăng cường khả năng huy động vốn thì bản thân những nỗ lực của ngân hàng có quyết định rất lớn. Thực tế, một ngân hàng có đủ những yếu tố trên sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, tạo lập được nhiều mối quan hệ bền chặt với các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và niềm tin với dân chúng.
Trong những yếu tố liên quan đến ngân hàng, phải kể đến một nhân tố hết sức quan trọng đó là công tác phân tích cân đối vốn của NHTM. Nếu một ngân hàng có nhu cầu tín dụng lớn và thường xuyên thì họ phải nỗ lực trong công tác huy động vốn và ngược lạ._.i. Do đó mỗi ngân hàng phải vạch ra cho mình những kế hoạch trong công tác huy động vốn để phù hợp với nhu cầu tín dụng, đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ sáu: Các yếu tố khác: Đó là thông tin, một yếu tố có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực, trong đó có hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với một mạng lưới thông tin hiện đại, các ngân hàng có thể cung ứng cho dân chúng những hiểu biết về ngân hàng, các vấn đề về chính sách tài chính, tiền tệ và các tiện ích ngân hàng có thể mang đến cho họ. Thông tin còn phục vụ đắc lực cho hoạt động marketing ngân hàng tốt hơn. Có thể nói thông tin là phương tiện phục vụ đắc lực làm cho người dân hiểu biết về ngân hàng hơn. Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng khác như: Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng tạo ra cuộc chiến lãi suất giữa các ngân hàng...
Chương 2
Thực trạng công tác huy động vốn
tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn chi nhánh nam hà nội
2.1. Giới thiệu chung về NHNo & PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. NHNo & PTNT Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này, đây là NHTM lớn nhất cả nước về tổ chức và quy mô hoạt động. Kể từ ngày thành lập năm 1988, hệ thống mạng lưới giao dịch của NHNo & PTNT Việt Nam đã được phát triển không ngừng nhưng việc mở rộng thị phần ở các địa bàn có điều kiện kinh doanh thuận lợi vẫn bị chậm.
Để giải quyết vấn đề này và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, NHNo & PTNT Nam Hà Nội được thành lập ngày 12/3/2001 theo quyết định số 48/NHNo/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam về việc thành lập chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam trụ sở chính tại C3 Phương Liệt-Thanh Xuân-Thành phố Hà Nội.
Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội là đơn vị phụ thuộc của NHNo & PTNT Việt Nam, có con dấu riêng để thực hiện hoạt động kinh doanh theo uỷ quyền của NHNo & PTNT Việt Nam, hoạt động theo điều lệ của NHNo & PTNT Việt Nam, theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam ban hành theo quyết định 169/QĐ/HĐQT ngày 7/9/2000 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam.
Ban đầu thành lập biên chế của ngân hàng gồm 36 người, trong đó:
+Từ trụ sở chính chuyển về 22 người
+Từ các ngân hàng địa phương chuyển về 11 người
+Tuyển dụng mới từ bên ngoài 3 người
Về trình độ chuyên môn:
+Đại học và trên đại học:28 người chiếm 78%
+Cao đẳng, trung cấp 7 người chiếm 19%
+Chưa qua đào tạo 1 người chiếm 2,7%
NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội thực hiện các chức năng kinh doanh đa năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng trong và ngoài nước, đầu tư cho dự án phát triển kinh tế xã hội; uỷ thác tín dụng đầu tư cho Chính phủ, các chủ đầu tư trong và ngoài nước trong các ngành kinh tế, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội thực hiện các dịch vụ mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thu đổi ngoại tệ, các nghiệp vụ bảo lãnh…
Ngày 8/5/2001, chi nhánh tổ chức khai trương hoạt động ngay tại tầng 1 trụ sở C3 Phương Liệt. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là nhanh chóng ổn định hoạt động của chi nhánh, về con người cũng như trang thiết bị, cơ sở vật chất, triển khai các hoạt động kinh doanh với phương châm hành động là “Vì sự thành đạt của khách hàng và ngân hàng”. Tuy mới đi vào hoạt động được gần 7 năm, nhưng NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã đạt được một số thành tựu lớn: tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh năm 2007 đạt 8320 tỷ đồng, tổng dư nợ là 2474 tỷ đồng, bình quân nguồn vốn của một chi nhánh cấp 2 đạt 650 tỷ đồng, một phòng giao dịch đạt hơn 70 tỷ đồng. Số lao động tăng từ 36 người (năm 2001) đến 78 người (năm 2002) và hiện nay là hơn 128 người. Các tổ chức chính trị và đoàn thể chi nhánh vẫn duy trì hoạt động tốt và đi vào chiều sâu, hỗ trợ đắc lực cho công tác chuyên môn.
Như vậy, dưới sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT Nam Hà Nội ngày càng phát triển lớn mạnh, là bằng chứng khẳng định rằng việc thành lập chi nhánh Nam Hà Nội là một hướng đi đúng đắn trong bước phát triển tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế.
2.2. Cơ cấu tổ chức
a) Cơ cấu tổ chức
Hiện nay, bộ máy tổ chức của NHNo & PTNT Nam Hà Nội được sắp xếp theo mô hình sau:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội
Ban giám đốc
Tổ kiểm tra kiểm toán
Phòng Nguồn vốn & kế hoạch tổng hợp
Phòng kế toán ngân quỹ
Phòng hành chính nhân sự
Phòng KTKT nội bộ
Phòng thẩm định
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng tín dụng
(Nguồn: Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Ngoài ra NHNo & PTNT Nam Hà Nội còn có các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc khác.
b) Chức năng một số phòng ban
* Ban giám đốc
- Giám đốc là người trực tiếp lãnh đạo và điều hành mọi hoạt động của chi nhánh theo đúng quy định của Nhà nước, NHNo, NHNo & PTNT Việt Nam, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, hội đồng quản trị về các quyết định của mình. Quyền hạn và trách nhiệm của Giám đốc được quy định tại điều 10 Quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh ban hành kèm theo quyết định số 169/ QĐ/ HĐQT ngày 7/9/2000 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam.
- Phó giám đốc: trong phạm vi phân công uỷ quyền, phó giám đốc có thể:
+ Tổ chức hướng dẫn hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh, giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh hàng ngày thuộc lĩnh vực được phân công và chịu trách nhiệm trước giám đốc và Pháp luật về những quyết định của mình.
+ Phân tích tình hình kinh tế, phân tích nghiệp vụ kinh doanh, đề xuất ý kiến…phục vụ cho công tác hàng tuần, tháng, quý, năm và thực hiện chương trình đã được duyệt.
* Phòng tín dụng:
- Nhiệm vụ kế hoạch tổng hợp:
+ Nghiên cứu kinh tế trên địa bàn, đề xuất và xây dựng chiến lược huy động vốn, đầu tư tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Xây dựng đề án mở rộng mạng lưới kinh doanh của chi nhánh theo định hướng của NHNo & PTNT Việt Nam.
+ Tổng hợp phân tích hoạt động kinh doanh trong quý, năm.
+ Tổng hợp báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định.
+ Xây dựng, theo dõi và quyết toán các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh.
- Nhiệm vụ kinh doanh:
+ Xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
+ Phân tích kinh tế, áp dụng các biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao.
+ Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án đầu tư.
+ Tiếp nhận và thực hiện các chương trình dự án có nguồn vốn trong và ngoài nước.
+Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, nợ xấu và tìm nguyên nhân nhược điểm và cách khắc phục.
* Phòng thanh toán quốc tế
- Nghiên cứu tình hình xuất nhập khẩu trên địa bàn, xây dựng chiến lược kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế trong từng thời kỳ.
- Tổ chức kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế theo đúng quy định.
- Đầu mối tổ chức thực hiện các dự án uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Tổng hợp báo cáo chuyên đề.
* Phòng kế toán ngân quỹ
- Thực hiện hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của NHNo, NHNo & PTNT Việt Nam.
- Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, quỹ tiền lương của chi nhánh trình NHNo & PTNT Việt Nam phê duyệt.
- Quản lý và sử dụng quỹ chuyên dùng theo quy định NHNo & PTNT Việt Nam
- Tổng hợp lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán và báo cáo theo quy định.
- Thực hiện các khoản nộp NSNN.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong nứơc.
- Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ.
- Quản lý sử dụng các thiết bị thông tin điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh.
- Chấp hành chế độ báo cáo thống kê và cung cấp thông tin theo quy định.
- Đầu mối quản lý và bảo dưỡng máy móc, thiết bị tin học, xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán, kế toán, thống kê, hạch toán nghiệp vụ tín dụng và các hoạt động khác phục vụ kinh doanh.
2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội thời gian qua.
Gần 7 năm đi vào hoạt động, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã gặp không ít những khó khăn nhưng cũng có những thuận lợi nhất định. Cùng với việc khắc phục những khó khăn, ngân hàng đã biết nắm bắt những cơ hội để từ đó đề ra những mục tiêu, bước đi và giải pháp phù hợp. Vì vậy hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã đạt được một số kết quả nhất định như sau:
* Về công tác huy động vốn:
Bảng 1: Nguồn vốn huy động qua các năm từ 2005 - 2007
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
So với 2005
2007
So với 2006
+/-
%
+/-
%
I. Tổng nguồn vốn huy động
4.439
7.953
3.514
179
8.320
367
105
1. Nguồn vốn huy động tại đp
4.439
5.767
1.328
130
6.134
367
106
+ Nguồn nội tệ
3.601
5.187
1.586
144
5.562
375
107
+ Ngoại tệ
838
580
-258
69
572
-8
99
2. Huy động trái phiếu TW
0
2.186
2.186
-
2.186
0
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Thời kỳ 2001-2005 là giai đoạn hình thành và xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững, có thể nói: 5 năm của giai đoạn này NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã cơ bản xây dựng được nền tảng vững chắc cho hoạt động kinh doanh. Do vậy, năm 2006 và các năm tiếp theo NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã và sẽ có sự phát triển ổn định cả về số lượng và chất lượng. Năm 2006 là năm thắng lợi vượt bậc của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội cả về tốc độ tăng trưởng, cả về quy mô, cơ cấu nguồn vốn, thể hiện: Tổng nguồn vốn huy động đạt 7.953 tỷ đồng, tăng 3.514 tỷ đồng so năm trước, tốc độ tăng trưởng 79%, vượt 5% so với kế hoạch TSC (trụ sở chính) giao (kế hoạch đã điều chỉnh tăng). Đây là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất, số lượng tăng nhiều nhất trong 5 năm đầu hoạt động của NHNo & PTNT Nam Hà Nội. Cuối năm 2006, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã vươn lên tốp 5 đơn vị dẫn đầu trong hệ thống về quy mô vốn. Trong đó, nguồn vốn bằng nội tệ đạt 7.373 tỷ đồng, nguồn vốn ngoại tệ quy đổi VNĐ 580 tỷ đồng. Nguồn vốn bình quân đầu người tăng từ 37 tỷ/người lên 62 tỷ/người tăng trưởng 68%/năm. Đến năm 2007, nguốn vốn huy động của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội hoàn thành vượt mức kế hoạch giao. Tổng nguồn vốn huy động đạt 8.320 tỷ, trong đó: nguồn vốn huy động tại địa phương đạt 6.134 tỷ đồng tăng 6% so với năm 2006 và vượt 48% kế hoạch giao. Nguồn ngoại tệ đạt 572 tỷ đồng, bằng 99% so với năm 2006.
* Về công tác tín dụng
Bảng 2: Tình hình dư nợ của NHNo & PTNT Nam Hà Nội từ 2005-2007.
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
So với 2005
2007
So với 2006
+/-
%
+/-
%
I. Tổng dư nợ
2.130
3.747
1.616
176
2.481
-1.266
66
1. Dư nợ tại đp
1.119
1.601
482
143
1.938
337
121
1.1. Nội tệ
542,7
763,5
220,8
141
1.021
257,5
134
Tỷ trọng dư nợ nội tệ
48,5%
47,7%
-0,8%
98%
52,5
4,8%
110%
1.2. Ngoại tệ
576,3
837,5
261,2
145
924
86,5
110%
Tỷ trọng dư nợ ngoại tệ
51,5%
52,3%
0,8%
102%
47,5%
-4,8%
91%
2. Dư nợ tại Trung ương
1.011
2.146
1.135
212
536
-1610
25%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2005-2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Cơ cấu dư nợ năm 2006 phân tích theo loại tiền của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội thay đổi không nhiều, nhu cầu cho vay bằng ngoại tệ vẫn chiếm chủ yếu và có xu hướng tăng lên. Đây được coi là khó khăn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội khi thực hiện chủ trương giảm nguồn tiền gửi TCTD, nên nguồn vốn ngoại tệ bị giảm nhiều so với đầu năm và thực tế lãi suất tiền gửi ngoại tệ của TCTD đã cao hơn nhiều so với phí điều hoà vốn của TSC (5,7%-6,0%/năm). Chính vì lý do trên mà năm 2006 cũng là năm đầu tiên Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội phải sử dụng vốn ngoại tệ của TSC. Năm 2007, cơ cấu dư nợ phân theo loại tiền có sự thay đổi so với năm 2006. Nếu năm 2006 dư nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ (chiếm 52,3%) thì năm 2007 dư nợ nội tệ chiếm tỷ trọng chủ yếu (52,5%). Đây cũng là một trong những cố gắng của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội trong việc giảm dần dư nợ cho vay bằng ngoại tệ nhằm hạn chế việc sử dụng vốn ngoại tệ của Trung ương và cải thiện chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào.
- Phân tích dư nợ theo thời gian:
Bảng 3: Tình hình dư nợ theo thời gian của NHNo & PTNT Nam Hà Nội 2005 - 2007.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
So với 2005
Số tiền
So với 2006
+/-
%
+/-
%
1.Dư nợ tại địa phương
1.119
1.601
482
143
1.945
344
121
-Ngắn hạn
805
952
147
118
863
-89
91
-Trung hạn
100
88
-12
88
108
20
123
- Dài hạn
214
561
347
262
973
412
173
Tỷ trọng vốn trung, dài hạn
28%
41%
13%
146%
56%
15%
137%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007 của
NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Năm 2007, cơ cấu dư nợ phân theo thời gian cho vay của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã thay đổi đáng kể. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn tăng nhanh gần đạt mức chỉ đạo của Hội đồng quản trị (thực hiện là 56%, kế hoạch giao là 57%). Việc tăng dư nợ trung và dài hạn do giải ngân dự án mua Tầu chở dầu của Công ty vận tải Biển Đông (tăng 200 tỷ đồng), dự án ENZO Việt (77 tỷ), dự án Trường Đại học Thăng Long (49 tỷ).
* Về công tác kinh doanh ngoại tệ và phát triển sản phẩm dịch vụ mới:
- Công tác kinh doanh ngoại tệ:
NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội luôn chú trọng công tác phát triển kinh doanh ngoại hối, thu hút khách hàng nhỏ và vừa có các hoạt động xuất nhập khẩu, luôn đáp ứng mọi nhu cầu ngoại tệ hợp lý cho khách hàng hoạt động và giải quyết kịp thời các vướng mắc trong quan hệ thanh toán Quốc tế, không để xảy ra sơ xuất đáng tiếc nào. Doanh số hoạt động tiếp tục tăng trưởng, thu phí dịch vụ tăng 44% so với năm 2006. Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4: Tình hình kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế của
NHNo & PTNT Nam Hà Nội 2005 - 2007.
Đơn vị tính:1000 USD
STT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
1
TT hàng nhập
1.078
103.447
1.437
147.997
359
44.550
2
TT hàng xuất
591
59.099
553
92.967
(38)
33.868
4
Mua ngoại tệ
107.263
154.273
3
Bán ngoại tệ
109.404
154.287
4
Thu dịch vụ
187
209
300
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007 của
NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
- Công tác phát triển sản phẩm mới:
Nhận rõ vai trò quan trọng của sản phẩm dịch vụ trong ngân hàng hiện đại và tăng cường tính cạnh tranh lành mạnh, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện tốt các sản phẩm dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán quốc tế, đại lý Western Union, thanh toán điện tử, thẻ ATM, ngân hàng đầu mối, ngân hàng phục vụ dự án… Bên cạnh đó còn phát triển 1 số sản phẩm dịch vụ mới như:
+ Duy trì, hoàn thiện dịch vụ cho Trung tâm chuyển tiền Bưu điện.
+ Ngân hàng đầu mối phục vụ các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Duy trì thu tiền mặt tại chỗ của sinh viên, dịch vụ nhận tiền của Tổng công ty xi măng, trả lương qua tài khoản ATM.
Nhờ có sự nhận thức đúng đắn và tập trung chỉ đạo phát triển mạnh sản phẩm dịch vụ nên năm 2007 thu dịch vụ của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đạt 18.899 trđ, tỷ lệ thu dịch vụ đạt 12,2%.
* Về công tác kế toán - tài chính:
Bảng 5: Công tác kế toán tài chính của NHNo & PTNT Nam Hà Nội 2005-2007.
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
So với 2005
2007
So với 2006
+/-
%
+/-
%
1. Tổng thu 946A
332.929
556.189
223.260
167
738.093
181.904
133
2. Tổng chi theo 946A
274.485
461.630
187.145
168
634.409
172.779
137
3. Quỹ thu nhập 946A
58.444
94.559
36.115
162
103.684
9.125
110
4. Hệ số lương được hưởng
2,41
2,86
0,45
119
2,94
0,08
103
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007 của
NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Năm 2006, chênh lệch thu nhập - chi phí (chưa có lương) của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đạt 94.559 triệu đồng, tăng 36.115 triệu đồng so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng là 62%, so với kế hoạch giao vượt 41%. Quỹ thu nhập bình quân đầu người đạt 732 triệu đồng/1cán bộ/năm, tăng 64% so năm 2005. Năm 2007, tổng thu 946A đạt 738.093 triệu đồng, tăng 181.904 triệu đồng so với năm trước với tốc độ tăng 33%. Tổng chi 946A năm 2007 là 634.409 triệu đồng, tăng 172.779 triệu đồng so năm trước với tốc độ tăng 37%. Chênh lệch thu nhập – chi phí (chưa có lương) thực tế là 103.684 triệu đồng, tăng 9.125 triệu đồng so với năm trước.
* Các lĩnh vực công tác khác:
+ Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ luôn được duy trì và ngày càng có chất lượng. Trong năm 2007 đã thực hiện được 93 cuộc kiểm tra, trong đó có 2 cuộc kiểm tra về công tác chỉ đạo điều hành và 91 cuộc kiểm tra hoạt động kinh doanh. Kết quả kiểm tra theo chuyên đề của chi nhánh năm 2007 là 164.649 chứng từ kế toán với số tiền 38.018.074 trđ, 2.525 hồ sơ tín dụng với số tiền 4.577.089 trđ và 1.179 bộ hồ sơ thanh toán quốc tế với số tiền 55.943 nghìn USD. Ngoài các đợt kiểm tra theo chuyên đề của NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội, còn tổ chức thành lập các đoàn kiểm tra theo đề cương kiểm tra của NHNo & PTNT Việt Nam. Năm 2007 đơn vị chưa phát sinh đơn thư phản ánh nào.
+ Công tác tổ chức: Thực hiện đúng, đủ các quy định về bổ nhiệm, nâng lương, khen thưởng kỷ luật, tuyển dụng, năm 2007 biên chế thêm 20 cán bộ, đưa tổng số cán bộ nhân viên của chi nhánh lên 151 người, không có ai bị kỷ luật, không có đơn thư khiếu nại. Ngoài ra, thực hiện theo quy định của TSC, Phòng thẩm định của chi nhánh đã chấm dứt hoạt động từ 15/07/2007.
+ Công tác phát triển mạng lưới: Năm 2007, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội thành lập thêm 2 PGD trực thuộc chi nhánh cấp II. Đến nay, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội gồm 1 hội sở, 7 phòng nghiệp vụ, 3 chi nhánh cấp II, 4 phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh cấp I và 8 phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh cấp II. Đánh giá chung, các đơn vị đều hoạt động tốt, tự trang trải chi phí và có lãi.
+ Công tác đào tạo: Ngoài các buổi tập huấn đột xuất, trong năm 2007 NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội còn tổ chức nhiều buổi tập huấn do TSC tổ chức, tham gia liên kết đào tạo với các đơn vị trong cơ sở đào tạo khu vực tổ chức. Về hiện đại hoá ngân hàng: ngày 10/12/2007, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã tiến hành chuyển đổi chương trình giao dịch ngân hàng bán lẻ chương trình IPCAS từ Hội sở đến các phòng giao dịch.
+ Công tác thi đua: NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã triển khai các phong trào thi đua ngay từ đầu năm để tạo khí thế thi đua sôi nổi trong đơn vị. Kết quả thi đua đạt được trong năm 2006: Cờ thi đua xuất sắc của UBND thành phố Hà Nội trao tặng, là một trong số ít đơn vị vinh dự nhận Cúp Thăng Long 2007, Huân chương lao động hạng 3 do Chủ tịch nước trao tặng...Ngoài ra, trong năm 2007, giám đốc chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội còn vinh dự được công nhận là Giám đốc doanh nghiệp giỏi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Công tác Đảng: Năm 2007, Đảng bộ NHNo & PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội đã được nâng cấp thành Đảng bộ cơ sở bao gồm 49 Đảng viên, phân ra 6 chi bộ trực thuộc. Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2007.
+ Công tác đoàn thể: chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ nhân viên vẫn được duy trì và đi vào nề nếp, tổ chức nhiều cuộc giao lưu thể thao và đi tham quan, gắn công tác đoàn thể với công tác chuyên môn.
2.4. Thực trạng công tác huy động vốn ở NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội.
2.4.1. Cơ cấu nguồn vốn:
Năm 2001, NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội mới khai trương và đi vào hoạt động, tại thời điểm đó ngân hàng chưa có thị phần, mối quan hệ với khách hàng gần như chưa có. Nếu như năm 2001 nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Nam Hà Nội chỉ đạt 635 tỷ đồng thì đến năm 2007 nguồn vốn huy động đã lên tới 8.320 tỷ đồng. Đây là kết quả phản ánh quá trình nỗ lực của bản thân ngân hàng.
Diễn biến quy mô nguồn vốn của chi nhánh từ năm 2005-2007 được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 6: Diễn biến quy mô nguồn vốn, 2005-2007.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Tổng nguồn vốn
huy động
Tăng giảm so với năm trước
số tiền
(%)
2005
4.439
-
-
2006
7.953
+3.514
179
2007
8.320
+367
105
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007 của
NHNo & PTNT Nam Hà Nội).
ở đây, chỉ xem xét nguồn vốn trên phương diện là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Qua số liệu trên ta thấy, nguồn vốn huy động của ngân hàng liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2006 tổng nguồn vốn huy động tăng 3.514 tỷ đồng so với năm 2005, tương ứng với tỷ lệ tăng 179%. Đến cuối năm 2007 tổng nguồn vốn huy động đã tăng trưởng nhanh chóng đạt 8.320 tỷ đồng tăng 367 tỷ đồng so với đầu năm, NHNo & PTNT Nam Hà Nội vươn lên vị trí thứ 8 trong số các NHNo có nguồn vốn cao nhất của hệ thống. Đặc biệt mức vốn huy động bình quân một cán bộ đã đạt gần 37 tỷ đồng và đựợc xếp vào 1 trong 5 đơn vị NHNo có số bình quân nguồn vốn trên đầu cán bộ hàng đầu của hệ thống. Như vậy, so với kế hoạch được giao (6.686 tỷ đồng) tổng nguồn vốn huy động trong năm 2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã vượt 1.634 tỷ đồng, tỷ lệ vượt là 124%. Đó là một cố gắng lớn của chi nhánh trong điều kiện nguồn vốn của các chi nhánh NHNo lớn trên địa bàn Hà Nội bị giảm sút hoặc tăng trưởng chậm lại.
Nếu coi huy động vốn là đầu vào trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, thì công tác tín dụng được coi là đầu ra của hoạt động này. Định hướng đầu tư tín dụng của NHNo & PTNT Nam Hà Nội là trên cơ sở lấy an toàn tín dụng và hiệu quả kinh doanh đặt lên hàng đầu, trước hết tập trung đầu tư cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên, cho vay hộ gia đình, cầm cố các GTCG, thực hiện chính sách thu hút khách hàng và tiếp cận các doanh nghiệp Nhà nước.
Xem xét diễn biến cơ cấu nguồn vốn của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội ta có bảng số liệu sau:
Bảng 7: Cơ cấu vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội 2005-2007.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
So với 2005
Số tiền
So với 2006
+/-
%
+/-
%
I. Nguồn vốn huy động
4.438
7.953
3.515
179
8.320
367
105
1.Huy động từ tiền gửi
3.025
4.754
1.729
157
5.228
474
110
2.Phát hành giấy tờ có giá
1.413
3.199
1.786
226
3.092
-107
97
II. Vốn uỷ thác đầu tư
854
6
-848
0,7%
1
-5
17
III. Vốn vay NHNN
43
41
-2
95
46
5
112
Tổng nguồn vốn
5.335
8.000
2.665
150
8.367
367
105
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007
của NHNo & PTNT Nam Hà Nội).
Nhìn vào bảng cơ cấu nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội ta thấy:
Năm 2005: Nguồn vốn huy động của ngân hàng là rất lớn, chiếm tỷ trọng 83% trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, trong đó vốn huy động từ tiền gửi là chủ yếu, chiếm 68% nguồn vốn huy động và phát hành giấy tờ có giá chỉ chiếm 32%. Vốn vay ngân hàng Nhà nước chiếm 1% tổng nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội. Chứng tỏ, trong năm 2005, NHNo & PTNT Nam Hà Nội không huy động đủ vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư của mình, vì vậy ngân hàng phải huy động thêm bằng cách đi vay ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên vốn vay thêm này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Bên cạnh đó, năm 2005, NHNo & PTNT Nam Hà Nội có một lượng vốn uỷ thác đầu tư khá lớn, là 854 tỷ đồng, nguồn vốn này ngân hàng không phải mất chi phí huy động và còn được hưởng hoa hồng phí từ việc giải ngân thay cho các nhà tài trợ. Đó là trong thời gian vốn đã được tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển trả lại cho chủ đầu tư, khi đó ngân hàng sẽ chiếm dụng được 1 khoản vốn để kinh doanh.
Năm 2006: nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Nam Hà Nội tăng mạnh, tăng 3.515 tỷ đồng so với năm 2005, tương ứng với tốc độ tăng là 179%. Trong đó, phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh, tăng 1.786 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 126% so với năm 2005 và huy động từ tiền gửi tăng 1.729 tỷ đồng với tốc độ tăng là 57%. Như vậy năm 2006, NHNo & PTNT Nam Hà Nội có nhu cầu sử dụng vốn rất lớn và khả năng huy động vốn tăng mạnh để đáp ứng nhu cầu đó. Nguồn vốn huy động từ tiền gửi mặc dù đã tăng nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn của ngân hàng, vì vậy ngân hàng phải tăng vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá. Nguồn vốn này có chi phí huy động rất cao, tuy nhiên huy động bằng nguồn này ngân hàng sẽ chủ động hơn trong việc sử dụng vốn vì hầu hết các giấy tờ có gía đều có thời hạn hoàn trả nhất định. Nguồn vốn vay NHNo năm 2006 giảm 2 tỷ so với năm 2005, tương ứng với tỷ lệ giảm là 5%. Bên cạnh đó, nguồn vốn uỷ thác đầu tư giảm mạnh, giảm 847 tỷ đồng so với năm 2005.
Năm 2007: Nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Nam Hà Nội tiếp tục tăng, cụ thể tăng 367 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 5%, trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi tăng 474 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng là 10% và huy động bằng cách phát hành giấy tờ có gía năm 2007 giảm 107 tỷ đồng so với năm 2006. Nguồn vốn uỷ thác đầu tư tiếp tục giảm, giảm 5 tỷ so với năm 2006. Vay Ngân hàng nhà nước năm 2007 tăng 5 tỷ so với 2006.
Tóm lại, nhìn vào bảng số liệu về cơ cấu vốn của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội ta thấy cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng nói chung là hợp lý. Mặc dù ngân hàng phải huy động thêm vốn bằng cách vay NHNo và phát hành giấy tờ có giá nhưng nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn huy động của chi nhánh.
2.4.2. Tình hình huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
2.4.2.1. Vốn huy động từ tiền gửi.
* Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động:
Bảng 8: Kết quả huy động vốn theo kỳ hạn
Đơn vị: Tỷ đồng.
Chỉ tiêu
2005
2006
So với 2005
2007
So với 2006
+/-
%
+/-
%
Tổng nguồn vốn huy động
4.438
7.953
3.514
179
8.320
367
105
Tiền gửi không kỳ hạn
906
1.189
283
131
1.238
49
104
Tiền gửi có KH < 12 tháng
938
1.489
551
159
1.591
103
107
Tiền gửi có KH > 12 tháng
2.594
5.275
2.681
203
5.491
215
104
Tỷ trọng vốn trung, dài hạn
58,44
66,33
7,89
114
66
-0,33
96
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007
của NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Nhìn vào bảng ta thấy, nguồn vốn huy động trung và dài hạn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội chiếm một tỷ trọng khá lớn (>50%) trong tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi có kỳ hạn > 12 tháng biến động như sau: năm 2006 tăng mạnh so với 2005, cụ thể tăng 2.681 triệu đồng và đến năm 2007 thì tăng nhẹ, cụ thể tăng 215 triệu đồng so với năm 2006. Tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn năm 2006 tăng 7,89 % so với năm 2005 nhưng đến năm 2007 lại giảm nhẹ, giảm 0,33% so với năm 2006. Nguồn vốn huy động trung và dài hạn cao chứng tỏ chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã thu hút được lượng lớn khách hàng gửi tiền tiết kiệm với sự tin tưởng cao.
Nguồn vốn huy động không kỳ hạn tăng trưởng rõ rệt, năm 2006 tăng 283 triệu đồng so với năm 2005 tương ứng với tỷ lệ tăng là 31%. Năm 2007 cũng tăng 49 triệu đồng so với năm 2006 tương ứng với tỷ lệ tăng là 4%. Tóm lại, nguồn vốn huy động không kỳ hạn có xu hướng tăng qua các năm, điều đó chứng tỏ nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán tăng lên.
Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng cũng tăng, cụ thể năm 2006 tăng 551 triệu đồng so với năm 2005 và năm 2007 tăng 103 triệu đồng so với năm 2006.
Trong tổng nguồn tiền gửi, tiền gửi kỳ hạn ngắn và không kỳ hạn chiếm tỷ lệ không cao. Đó có thể là do tình hình thị trường tiền tệ tương đối ổn định, và mức lãi suất tiền gửi trung - dài hạn mà Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đưa ra hấp dẫn hơn nhiều so với mức lãi suất tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn.
Xem xét cụ thể với từng loại đối tượng huy động vốn cụ thể ta có bảng sau:
Bảng 9: Cơ cấu nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
theo từng kỳ hạn cụ thể, 2005-2007.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
So với 2005
2007
So với 2006
+/-
%
+/-
%
Tổng nguồn vốn
4.438
7.953
3.515
179
8.320
367
1.105
1. TG, TV TCTD
550
824
274
150
572
252
69
+ TG ko kỳ hạn
0,5
28
27,5
5.600
90
62
321
+ TG, TV có kỳ hạn
549,5
796
246,5
145
482
-314
61
2. TG các TCKT
1.646
2.897
1.251
176
3.565
668
123
+ TG không kỳ hạn
902
1.156
254
128
1.134
-22
98
+ TG có kỳ hạn < 12 t
123
367
244
298
858
491
234
+ TG có kỳ hạn 12t-24t
595
187
-408
31
349
162
187
+ TG có kỳ hạn > 24t
26
1.187
1.161
4.565
1.224
37
103
3. TG tiết kiệm dân cư
829
1.033
204
125
1.091
58
106
+ TG không kỳ hạn
4
5
1
125
13
8
260
+ TG có kỳ hạn < 12 t
265
313
48
118
252
-61
81
+ TG có kỳ hạn 12t-24t
367
402
35
110
370
-32
92
+ TG có kỳ hạn > 24t
193
313
120
162
456
143
146
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 2005-2007
của NHNo & PTNT Nam Hà Nội)
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
* Với TG, TV TCTD:
Năm 2005: TG, TV TCTD là 550 tỷ đồng trong đó TG không kỳ hạn là 0,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chiếm 0,09% trong tổng TG,TV TCTD và TG, TV có kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất lớn là 99,91%. Điều này chứng tỏ vốn huy động từ tổ chức tín dụng khác của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội chủ yếu là vốn huy động có kỳ hạn.
Năm 2006: TG, TV TCTD là 824 tỷ đồng, tăng 274 tỷ đồng so với năm 2005, trong đó: TG không kỳ hạn của TCTD tại chi nhánh tăng 27,5 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng là 3,4% trong khi đó TG, TV có kỳ hạn tăng mạnh, cụ thể tăng 246,5 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 96,6% trong TG,TV TCTD.
Năm 2007: TG, TV TCTD là 572 tỷ đồng, giảm 252 tỷ đồng so với năm 2006, trong đó: TG không kỳ hạn của TCTD tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội là 90 tỷ đồng, tăng 62 tỷ đồng so với năm 2006, chiếm tỷ trọng là 15,7%. TG, TV có kỳ hạn là 482 tỷ đồng, giảm 314 tỷ đồng so với năm 2006 và chiếm tỷ trọng là 84,3%.
Tóm lại trong cơ cấu TG, TV TCTD thì chủ yếu là TG,TV có kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất lớn, TG, TV không kỳ hạn mặc dù đã tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
* TG của TCKT:
Năm 2005: TG của TCKT là 1.646 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 37% trong tổng nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội, trong đó TG không kỳ hạn là 902 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 55% TG của TCKT. Đây là nguồn TG chiếm tỷ trọng lớn nhất trong TG của TCKT. Nguồn tiền gửi này bao gồm tiền gửi thanh toán, tiền gửi vốn chuyên dùng và tiền gửi không kỳ hạn khác mà chủ yếu doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng để thực h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7625.doc