Công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây

Tài liệu Công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây: LỜI MỞ ĐẦU Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung... Ebook Công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của thế giới cũng như để Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển. Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển cũng như thách thức cần phải vượt qua như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – một chi nhánh mới được thành lập không lâu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây – cũng luôn ý ‎thức được nhiệm vụ của mình. Công tác huy động vốn luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu. Trong hơn 7 năm hoạt động, công tác huy động vốn của ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế cần được tiếp tục cải thiện. Sau một thời gian được thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam -Hà Tây, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề huy động vốn tại ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây. Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam, đặc biệt là của cô giáo: Th.s.Lê Hương Lan - người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Vì kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và những lời góp ‎ý qu‎ý báu của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp của mình. Em xin trân trọng cảm ơn! Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Theo các nhà kinh tế học thì sự ra đời của Ngân hàng thương mại trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Ngay từ thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện mầm mống sơ khai cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại. Đó là hoạt động cho vay nặng lãi. Sau đó nền sản xuất hàng hóa ra đời và khi phát triển đến một mức độ nhất định vào đầu thế kỷ XV thì các NHTM chính thức ra đời. Trong thời kỳ này, các NHTM hoạt động kinh doanh đa năng và đều có các hoạt động như nhau, bao gồm: phát hành giấy bạc ngân hàng; kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng; chiết khấu và cho vay; thực hiện các dịch vụ thanh toán khác…với mục tiêu vì lợi nhuận.Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau và trong quá trình cạnh tranh đó, nhều ngân hàng bị phá sản, bị thôn tính cũng như có nhiều ngân hàng lớn dần lên. Cùng với thời gian, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngày càng phức tạp hơn đòi hỏi các NHTM cũng phải có nhiều thay đổi phù hợp hơn để tồn tại. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như hậu quả của những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng trung ương – chuyên quản lý việc phát hành tiền và thực hiện điều tiết nền kinh tế. Điều này đã tách các NHTM ra khỏi chức năng phát hành tiền và thực hiện chuyên sâu vào việc kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác. Từ lúc này, nói đến ngân hàng, người ta hiểu có nghĩa là nói đến các NHTM. Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi các NHTM phải cung cấp các dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Do vậy, các nghiệp vụ ngân hàng cũng không ngừng được cải tiến và hoàn thiện hơn. Tóm lại, Ngân hàng hay Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có nhiều cách định nghĩa ngân hàng. Tiếp cận theo các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng được hiểu như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Khi tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu của NHTM thì Luật các tổ chức tín dụng của nước ta ghi như sau: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại Tham gia kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm là tiền tệ - một lĩnh vực mà các nhà kinh tế học coi là huyết mạch, cung cấp phương tiện lưu thông, thanh toán và chi phối hầu hết các hoạt động của nền kinh tế - các NHTM không chỉ trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong guồng quay của bộ máy tuần hoàn vốn của nền kinh tế mà còn trở thành công cụ để Nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển mạnh và ổn định phải có một hệ thống ngân hàng phát triển và vững mạnh. Trong báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: “Ngân hàng phải là ngành đi đầu với tư cách là động lực và là công cụ tổ chức quản l‎ý cho nền kinh tế ổn định và phát triển…”. Với những tính chất đặc thù trên, NHTM bao gồm các đặc điểm sau: Trung gian tài chính: Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế có hai loại cá nhân và tổ chức, đó là: Các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và có nhu cầu bổ sung vốn; các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu và có nhu cầu bảo toàn, sinh lời vốn. Hai loại cá nhân và tổ chức này tạo thành cung cầu về vốn nhưng việc gặp nhau của cung cầu vốn này bị cản trở bởi khoảng cách không gian, thời gian, thông tin…nên khó có thể gặp nhau trực tiếp. Vì vậy, NHTM đứng ra đóng vai trò là một trung gian để giúp cung cầu về vốn gặp nhau. Các NHTM không chỉ khắc phục những khó khăn về không gian, thời gian, thông tin mà còn có khả năng thẩm định thông tin và chia sẻ rủi ro với khách hàng. Đây là một đặc điểm nổi bật của NHTM. Tạo phương tiện thanh toán: Một trong những chức năng quan trọng của tiền là tạo phương tiện thanh toán. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên các NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán. Trước đây, khi chưa có Ngân hàng trung ương, các NHTM lớn, có uy tín, có khả năng phát hành tiền của riêng mình và đưa vào lưu thông tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi Ngân hàng trung ương ra đời, các NHTM không còn phát hành tiền nhưng vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán thông qua việc triển khai dịch vụ thanh toán qua số dư tài khoản của khách hàng. Theo quan điểm hiện đại, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán lớn gấp bội thông qua các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo công thức số nhân tiền tệ. Trung gian thanh toán: Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu thanh toán liên quốc gia, liên châu lục. Để tiến hành thanh toán được nhanh chóng, phù hợp, chính xác, các cá nhân và tổ chức ở các nước thường thông qua ngân hàng. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngân hàng còn cung cấp đa dạng các hình thức thanh toán cho khách hàng như thanh toán bằng: Séc, ủy nhiệm chi, L/C, các loại thẻ...Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. Vai trò của Ngân hàng thương mại Vai trò trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế: NHTM tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội thành quỹ cho vay và sử dụng quỹ này để cung ứng cho những người có nhu cầu vốn. Thông qua trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên được đào tạo cũng như của đội ngũ quản lý, ngân hàng có thể khắc phục được hầu hết những khiếm khuyết của thị trường tài chính. Ngoài ra bằng hoạt động giám sát, thẩm định trước, trong và sau khi cho vay, ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro đạo đức. Hơn nữa, ngân hàng có thể tập trung được nhiều khoản tiền nhỏ và ngắn hạn để cho vay những khoản lớn hơn, thời hạn dài hơn thông qua nghiệp vụ chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Từ đó, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vai trò trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán: NHTM thực hiện việc thanh toán hộ cho các khách hàng thông qua các dịch vụ thanh toán đa dạng, giúp cho việc thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. Nhờ có NHTM mà việc thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế được thực hiện an toàn, tiết kiệm chi phí từ đó nâng cao lợi ích xã hội và thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế phát triển, và ngược lại khi thương mại phát triển thì sẽ thúc đẩy hệ thống NHTM phát triển theo. NHTM là nguồn cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng nhất: Khi xã hội phát triển thì nhu cầu của con người về các dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng. NHTM là tổ chức có thể đáp ứng được điều đó. NHTM giúp con người thỏa mãn nhu cầu về tài chính, thông qua đó nâng cao mức sống cho người dân. Ngược lại, nhu cầu ngày càng cao của con người cũng giúp NHTM ngày càng hoàn thiện hơn trong việc cung ứng dịch vụ và thu lợi từ phí dịch vụ. Vai trò thực hiện các chính sách xã hội: Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách tiền tệ và tài khóa như chính sách chiết khấu, tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở... được Ngân hàng trung ương thực hiện tác động trực tiếp vào hệ thống NHTM làm thay đổi các chính sách của các NHTM, làm thay đổi lượng vốn cung ứng ra nền kinh tế, từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của nền kinh tế. Và như vậy thúc đẩy sự tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội khác. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn: Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi Nguồn vốn huy động thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không thể thay thế để duy trì hoạt động kinh doanh của NHTM. Các NHTM thường thực hiện huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng. Các loại hình huy động vốn bằng tiền gửi bao gồm: - Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại không ổn định do khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào. Nguồn tiền này chủ yếu được gửi vào nhằm sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển các dịch vụ thanh toán và đem lại nguồn thu từ phí dịch vụ cho ngân hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: đây là nguồn vốn có kỳ hạn xác định nên tương đối ổn định nhưng chi phí để có được và duy trì nguồn này tương đối cao. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào là để có được sự an toàn vốn và hưởng lãi. Các NHTM đều mong muốn tăng trưởng nguồn này để có thể tiến hành mở rộng khả năng kinh doanh của mình. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây cũng là nguồn có thời hạn xác định nên ổn định nhưng chi phí cho nguồn này cũng cao. Mục đích của người dân khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn vốn và có được khoản lợi nhuận từ lãi ngân hàng chi trả. Đối với các NHTM thì đây thường là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động được. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nghiệp vụ này đem lại nguồn vốn tương đối ổn định và giúp ngân hàng có thể có được một khoản vốn lớn trong một thời gian ngắn. Lãi suất của nguồn này phụ thuộc vào tính cấp thiết của việc huy động vốn cũng như lãi suất trên thị trường nên nó thường có lãi suất cao để có thể thu hút vốn được nhanh chóng. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay Nguồn vốn đi vay được ngân hàng chủ yếu sử dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản và tiện lợi trong việc giao dịch, thanh toán giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ này ngày càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng không nhỏ đối với các NHTM. Tuy nhiên chi phí cho nguồn đi vay là cao nên nhiều ngân hàng cũng không duy trì tỷ trọngnguồn này ở mức cao. Các NHTM thường đi vay theo hai hình thức là vay từ Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng nhà nước) và vay từ các tổ chức tín dụng khác. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tạo vốn tự có Vốn tự có thường là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng lại có ‎ nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM vì nó đóng vai trò là tấm đệm bảo vệ cho các hoạt động đó và tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng, phát triển các hoạt động của mình đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thương trường. Ngân hàng thường tạo vốn tự có thông qua các nguồn sau: thông qua nguồn vốn nội bộ; thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Các nghiệp vụ nguồn vốn khác Ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có các nguồn vốn khác, đó là: Vốn ủy thác đầu tư, vốn tài trợ, vốn trong thanh toán... Hoạt động sử dụng vốn: Tín dụng: Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM về mặt giá trị, đồng thời nó là nghiệp vụ đem lại nguồn thu, lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng (chiếm từ 70 - 90% thu nhập của ngân hàng). Tuy nhiên, các NHTM đang có xu hướng làm giảm tỷ trọng về lợi nhuận của hoạt động tín dụng mà phát triển các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ hiện đại để tăng doanh thu. Mặt khác, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay để hạn chế rủi ro xuống mức tối thiểu, đảm bảo sự an toàn của các khoản tín dụng, tránh gây mất vốn, thất thoát vốn của ngân hàng. Quản l‎ý ngân quỹ Nghiệp vụ quản l‎ý ngân quỹ của một NHTM thường bao gồm quản lý dự trữ bắt buộc và quản lý đảm bảo khả năng thanh toán. + Quản lý dự trữ bắt buộc: Mục đích là để đáp ứng yêu cầu về mặt pháp l‎ý do Ngân hàng Trung ương đề ra. Ngân hàng Trung ương quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên tổng tiền gửi đối với các NHTM, tỷ lệ này thay đổi theo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Mặt khác, mục đích mà Ngân hàng Trung ương đề ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng cũng như sự an toàn cho vốn của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. Lượng dự trữ bắt buộc này thường được gửi tại Ngân hàng Trung ương. + Quản lý ngân quỹ đảm bảo khả năng thanh toán: Dựa vào kinh nghiệm quản lý ngân quỹ trong quá trình hoạt động của chính mình cũng như của các ngân hàng khác mà NHTM xác định một tỷ lệ dự trữ phù hợp, dôi ra ngoài so với dự trữ bắt buộc. Khoản dự trữ này thường được duy trì tại chính ngân hàng đó hoặc gửi tại các NHTM khác. Mục đích của khoản mục này là để đáp ứng nhu cầu thanh toán, rút tiền của khách hàng. Tóm lại, quản lý ngân quỹ của NHTM mục đích chủ yếu là để duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, lượng tiền được sử dụng trong quản l‎ý ngân quỹ có khả năng sinh lời rất kém, nhiều khi là khoản tiền chết nên các ngân hàng thường không muốn duy trì khoản mục này ở tỷ lệ cao. Như vậy ngân quỹ là khoản không thể thiếu để hạn chế rủi ro thanh khoản nhưng lại có thể gây lãng phí nguồn lực của ngân hàng. Cân đối hai yếu tố này là nhiệm vụ của ngân hàng. Đầu tư tài chính Các NHTM thường đầu tư tài chính vào nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Mục đích của việc đầu tư này là vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, cũng như để tăng thu nhập cho ngân hàng. Các loại giấy tờ có giá mà ngân hàng lựa chọn thường là những loại chứng khoán rất có giá trị trên thị trường, tức là khả năng thanh khoản và sinh lời lớn như chứng khoán Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, chứng khoán của các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty lớn, có uy tín khác. Mua bán ngoại tệ Đây là nghiệp vụ được ngân hàng thực hiện nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro hối đoái, tỷ giá cũng như để tạo thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc mua bán ngoại tệ thường được ngân hàng thực hiện với các loại ngoại tệ mạnh và thực hiện ở thị trường liên ngân hàng trong nước và thế giới. Nghiệp vụ này đòi hỏi ngân hàng phải có chuyên môn cao cũng như sự nhanh nhạy với thị trường. Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng thường tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ theo sự yêu cầu của Chính phủ hoặc có sự tự nguyện từ phía ngân hàng. Các hoạt động khác: Bảo quản vật có giá. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn. Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm. Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có vốn. NHTM cũng vậy, NHTM thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, đa dạng hơn các doanh nghiệp khác. Vốn đối với NHTM rất quan trọng. Nó quyết định quy mô, khả năng sinh lời, xu hướng hoạt động và phát triển của ngân hàng. Một NHTM thường có các loại vốn sau: Vốn chủ sở hữu Khái niệm Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của NHTM, được hình thành từ nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động và các quỹ của ngân hàng. Vai trò của vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu (VCSH) của một NHTM đóng vai trò quan trọng sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Thứ nhất, VCSH là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được các khoản tiền gửi đầu tiên. Khi mới thành lập, một ngân hàng luôn cần vốn để mua sắm đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những thiết bị, điều kiện làm việc cần thiết, thuê nhân viên... Thứ hai, VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì VCSH giúp trang bị những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề, đưa ra các biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động bình thường và sinh lời. Thứ ba, VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ của ngân hàng về sức mạng tài chính của NHTM. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được các nhu cầu tín dụng cua rhọ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn. Thứ tư, VCSH cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần bổ sung vốn để thúc đẩy sự tăng trưởng và có thể chống đỡ được rủi ro gắn với sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới. Cuối cùng, VCSH được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của ngân hàng có thể được duy trì ổn định và bền vững. VCSH của ngân hàng cần phải được phát triển tương xứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác cũng như quy mô của ngân hàng. Do đó, VCSH - tấm đệm dùng để chống đỡ những thua lỗ - cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô và rủi ro của ngân hàng. Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường, nhìn chung bao gồm: Vốn điều lệ (nguồn vốn hình thành ban đầu): Cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác, để thành lập và đi vào hoạt động, chủ sở hữu NHTM phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu và được ghi vào điều lệ doanh nghiệp, được gọi là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của NHTM phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định, mức vốn tối thiểu mà luật pháp quy định để thành lập ngân hàng. Tùy theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, vốn do ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh, vốn do các bên liên doanh góp. Nếu là ngân hàng tư nhân, vốn do tư nhân bỏ ra. Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng không được nhỏ hơn vốn pháp định. Ở Việt Nam, mức vốn pháp định do Ngân hàng Nhà nước quy định. Còn số vốn điều lệ sẽ khác nhau tùy thuộc vào chủ sở hữu của ngân hàng đó. Vốn điều lệ của ngân hàng thuộc sở hữu và ngân hàng có toàn quyền sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc và cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn vốn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phiếu, góp thêm, cấp thêm...để mở rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định...Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết. Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước hết là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hằng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Tiếp theo là quỹ bảo toàn vốn, được lập nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Còn có quỹ thặng dư, là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu của ngân hàng khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc...Những quỹ này được trích từ lợi nhuận hàng năm theo luật định, do vậy tỷ lệ trích, nội dung sử dụng phải theo đúng quy định. Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng không thể sử dụng lâu dài. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (nguồn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Vốn huy động Khái niệm: Hoạt động huy động vốn là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng, không một ngân hàng nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động huy động vốn. Bởi NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên nguồn vốn của ngân hàng là một yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động. Uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn được ví như nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình tạo ra các sản phẩm của ngân hàng. Thực chất, hoạt động huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Trong đó, hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Vai trò của huy động vốn Đối với nền kinh tế Vai trò to lớn nhất của hoạt động huy động vốn của NHTM đối với nền kinh tế là nâng cao được hiệu quả sử dụng các nguồn vốn thông qua động tác tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhà rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi, hoạt động chưa hiệu quả thành các nguồn vốn có quy mô lớn, đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn với hiệu quả kinh tế cao hơn. Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn kết hợp với sự phân bổ lại các nguồn vốn vào nền kinh tế, NHTM đã đảm bảo hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Mức độ giảm thiểu chi phí vốn có thể thấy được khi chúng ta tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trong hoạt động vay mượn khi thiếu đi sự có mặt của NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung: người cho vay sẽ gặp những người đi vay có nhu cầu vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải mất công thẩm định độ tin cây đối với người vay. Hoạt động huy động của NHTM đem lại thu nhập cho những người gửi tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Những khách hàng nắm giữ kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng ngoài thu nhập từ việc trả lãi của ngân hàng còn có cơ hội sinh lời từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán chúng. Bên cạnh vai trò chủ yếu trên, hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình thành nên tỉ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỉ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của ngân hàng. Một doanh nghiệp hoạt động với tỉ suất lợi nhuận không đạt yêu cầu trên (trừ những lý do đặc biệt) nên dừng việc sản xuất kinh doanh lại để lấy vốn vào ngân hàng lấy lãi, như vậy có lợi hơn cho bản thân doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Ngoài ra, hoạt động huy động vốn của NHTM tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc với ngân hàng, có điều kiện sử dụng các dịch vụ của ngân hàng và do đó hình thành nên thói quen và phong cách làm việc hiện đại cho khách hàng. Đối với bản thân NHTM Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM, lên tới 70-80%, vì vậy nó đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn và liên tục gia tăng. Không có bất kỳ một ngân hàng nào có đủ sức thực hiện cho vay chỉ bằng vốn chủ sở hữu của mình. Mặt khác, bản chất của NHTM là làm trung gian tài chính - đi vay để cho vay. Do đó, nguồn vốn huy động đương nhiên là nguồn vốn chủ yếu quan trọng nhất, giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân hàng không thể cho vay lớn, kỳ hạn dài trong điều kiện vốn huy động nhỏ, ngắn hạn, không ổn định. Hoạt động huy động vốn của NHTM góp phần tạo nên uy tín, sức mạnh của ngân hàng. Một trong những chỉ tiêu để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng là tổng nguồn vốn, trong đó có vốn huy động. Nguồn vốn càng lớn, ngân hàng càng có điều kiện để tăng khả năng cạnh tranh, có sức để duy trì các chiến lược cạnh tranh của mình. Dưới con mắt của hầu hết khách hàng , tổng nguồn vốn của ngân hàng lớn có nghĩa là ngân hàng đó lớn và đáng tin cậy. Do vậy, ngân hàng có vốn lớn thường rất thuận lợi trong các hoạt động của mình vì chiếm được lòng tin của công chúng. Hoạt động huy động vốn giúp tăng cường và mở rộng mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Qua mối quan hệ này, ngân hàng có cơ hội tìm hiểu về khách hàng của mình và cũng có cơ hội tuyên truyền, quảng bá về ngân hàng của mình cho khách hàng. Điều này sẽ tạo cơ hội cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nhiều khách hàng hơn với độ thỏa dụng ngày càng cao. Tóm lại, hoạt động huy động vốn của NHTM có quan hệ chặt chẽ và mang tính hai chiều với tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn được làm tốt sẽ tác động tích cực tới các hoạt động khác của ngân hàng và ngược lại. Do vậy cần đảm bảo tất cả các hoạt động của ngân hàng phải được thực hiện tốt và kết hợp được với nhau một cách tối ưu nếu muốn NHTM hoạt động hiệu quả. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại Huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một NHTM nào. Để huy động được vốn, các ngân hàng thương mại áp dụng rất nhiều các hình thức huy động đa dạng khác nhau. Tùy theo đặc điểm và tình hình kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng sẽ áp dụng các hình thức huy động phù hợp. Nhưng nhìn chung, huy động vốn thường thông qua các hình thức sau: Vốn huy động từ tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Như vậy, tiền gửi là một khoản mục nguồn vốn được tạo ra do nghiệp vụ nhận tiền gửi hay nghiệp vụ nợ của NHTM. Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ tr._.ọng lớn nhất (hơn 50%) trong tổng nguồn tiền và là mục tiêu tăng trưởng của ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi phải trả cho tiền gửi. Ỏ nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Đối với người gửi tiền, mục đích của họ khá đa dạng như bảo toàn và sinh lợi, sử dụng dịch vụ thanh toán. Còn đối với ngân hàng, mục đích của họ là huy động được nguồn vốn rẻ, chất lượng tốt, đa dạng giúp ngân hàng tìm kiếm được lợi nhuận cao. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Đây là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các tổ chức này và được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng nhu cầu sử dụng (vốn lưu động) hoặc sử dụng cho các mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ khen thưởng). Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào ngân hàng dưới hai hình thức: + Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào, người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào để sử dụng và ngân hàng luôn có trách nhiệm phải thỏa mãn nhu cầu rút tiền đó một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Nếu không thực hiện được, ngân hàng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Đối với tổ chức gửi tiền thì mục đích chính là để thông qua đó sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Ngoài ra loại tiền gửi này vẫn được hưởng một mức lãi nhất định nên cũng góp phần tăng thu nhập cho người gửi tiền. Mặt khác, người gửi tiền được chủ động trong việc rút tiền nên vẫn đáp ứng được nhu cầu về vốn kinh doanh khi cần thiết. Đối với NHTM, tiền gửi không kỳ hạn có chi phí trả lãi thấp nhưng chi phí phi trả lãi cao (chi phí quản lý...) nên ngân hàng thường thu phí cho các dịch vụ thanh toán qua tiền gửi không kỳ hạn này. Tỷ trọng của nguồn tiền gửi trong các NHTM thường cao nên ngân hàng nào thu hút được nhiều tiền gửi không kỳ hạn thì sẽ có được chênh lệch lãi suất lớn. Vì vậy, trên thực tế, các NHTM thường lôi kéo các khách hàng lớn như bảo hiểm, dầu khí, kho bạc... mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng mình để thu hút được một lượng tiền khổng lồ với lãi suất thấp và khi thực hiện thanh toán sẽ thu được nhiều phí dịch vụ. Mặc dù tiền gửi không kỳ hạn là nguồn có thời hạn rất ngắn nhưng giữa việc gửi vào và rút ra vấn có sự chênh lệch về thời gian và thực tế ở các NHTM tài khoản này luôn có số dư nên ngân hàng vẫn có thể sử dụng nguồn này, tiến hành chuyển hoán kỳ hạn nguồn để kinh doanh. Loại tiền gửi không kỳ hạn này được huy động dưới hai hình thức: Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi phi giao dịch: Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào ngân hàng nhưng không nhằm mục tiêu giao dịch mà chủ yếu là để bảo toàn vốn. Với loại tài khoản này, người gửi tiền được hưởng một khoản tiền lãi nhưng không được phát hành Séc cho nhu cầu thanh toán. Huy động vốn qua tài khoản giao dịch của khách hàng: Đây là tài khoản mà người mở tài khoản được quyền sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, các loại Séc, L/C...Do đặc điểm của loại tài khoản này cho phép người gửi có thể thực hiện thanh toán nên ngân hàng thường yêu cầu người gửi tiền thực hiện một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Khi thực hiện giao dịch thì phải trả phí giao dịch cho ngân hàng. + Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức gửi tiền về thời hạn gửi tiền, thường là khách hàng đã xác định được khoảng thời gian mà vốn nhàn rỗi. Trong khoản thời gian đó, ngân hàng tùy ý sử dụng khoản tiền này, đến hạn khách hàng sẽ được rút tiền và hưởng một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn và tùy thuộc vào kỳ hạn gửi tiền, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Khi chưa đến thời điểm rút tiền, nếu khách hàng muốn rút trước hạn thì phải báo trước cho ngân hàng, phải được sự đồng ý của ngân hàng. Trên thực tế, để cạnh tranh, thu hút khách hàng nên các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước hạn nhưng khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ thu được một khoản tiền với mức lãi suất không kỳ hạn. Đối với các tổ chức gửi tiền thì tài khoản tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục đích chủ yếu để thu lời, nó rât thuận tiện khi đã xác định được khoảng thời gian mà vốn nhàn rỗi. Hơn nữa, nếu cần thì tổ chức gửi tiền vẫn có thể rút được tiền để sử dụng. Đối với ngân hàng, tổng lượng tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức thường có quy mô không lớn nhưng rất ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động để kinh doanh. Tuy nhiên đây là một nguồn tương đối đắt do lãi suất phải chi trả cho nguồn này thường cao. Để thu hút thêm nguồn này, các NHTM thừong đưa ra rất nhiều các loại kỳ hạn khác nhau như: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 3 năm, 5 năm với mức lãi suất hấp dẫn tăng theo kỳ hạn gửi. Tiền gửi của dân cư: Đây là khoản tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư gửi tại ngân hàng. Loại tiền gửi này chủ yếu bao gồm các loại sau: + Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi của dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích bảo toàn và sinh lời. Loại tài khoản này không được sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đây là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn huy động của ngân hàng. Trong hình thức này, người gửi tiền được trao một quyển sổ tiết kiệm, sổ này được coi là giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ tiết kiệm của ngân hàng, đồng thời cũng là chứng từ xác nhận khoản nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ nhưng có thể sử dụng để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. Đối với người gửi tiền thì đây là một cơ hội để bảo toàn vốn và sinh lời mà không cần phải thực hiện đầu tư và mức độ rủi ro không cao. Người gửi tiền mong muốn đến một khoảng thời gian nhất định sẽ tích góp, dành dụm được một số tiền để đảm bảo cho những vấn đề của cuộc sống. Đối với ngân hàng, đây là một nguồn huy động lớn, độ ổn định thường cao bởi vì kỳ hạn thường dài và khi hết kỳ hạn khách hàng thường có xu hướng mở tiếp một kỳ hạn mới. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ thuật chuyển hoán kỳ hạn nguồn, cho phép ngân hàng chủ động kinh doanh và đầu tư vào những dự án có thời hạn dài. Tuy nhiên đây là một nguồn đắt và lãi suất của nó cao, cao hơn mức lãi suất trả cho tiền gửi của các tổ chức. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Loại tiền gửi này mang đặc tính chung của tiền gửi không kỳ hạn là cho phép người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ lúc nào, lãi suất của nó thấp hơn lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Tương tự, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng mang đặc tính chung của tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán. Nếu rút trước hạn phải thông báo cho ngân hàng, được sự đồng ‎ý của ngân hàng và hưởng mức lãi suất bằng lãi suất không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi. Đây là nguồn huy động ổn định nhất, rất quan trọng trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất mà ngân hàng chi trả cho loại tiền này là cao nhất trong các loại tiền gửi, nên nguồn này có chi phí huy động lớn nhất. + Tài khoản tiền gửi cá nhân: Đây là loại tài khoản mà cá nhân mở để có thể thực hiện các giao dịch thanh toán, sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đời sống vật chất của người dân ngày càng được nâng cao, do đó nhu cầu được thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặc biệt là các phương tiện thanh toán hiện đại như visa card, master card...ngày càng tăng. Đây chính là xu thế thanh toán mới và cũng là hướng phát triển mới của dịch vụ ngân hàng. Tiền gửi khác: Ngoài hai loại tiền gửi của tổ chức và cá nhân nói trên, tại các NHTM còn có các loại tiền khác như: Tiền gửi bằng vốn chuyên dùng. Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác. Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước. Vốn huy động từ tiền vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Tỷ trọng của loại nguồn vốn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên mà ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết. Ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất phải trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các nguồn vay mà NHTM có thể huy động là: Vay từ Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương): Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), NHTM thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang các thương phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đóa hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho các NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Thông qua lãi suất chiết khấu mà Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước tuy có lãi suất thấp song thường thời hạn ngắn, chỉ đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng lên cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết số dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của Kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Thông thường các khoản vay này là ngắn hạn. Tuy nhiên, lãi suất vay từ các tổ chức tín dụng cao hơn lãi suất vay Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ huy động vốn này được thực hiện qua hình thức chủ yếu sau: + Vay qua thanh toán bù trừ. + Vay qua hợp đồng cầm cố, tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc các hợp đồng tín dụng có chất lượng cao. + Vay theo hình thức tín dụng thời vụ. Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái. Vay trên thị trường vốn (vay thông qua phát hành giấy tờ có giá): Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường, bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Nguồn vốn này tương đối ổn định. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải thông qua ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Lãi suất của loại nguồn này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn trên thị trường và thường cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn thông thường. Các vấn đề về chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ...cũng được các ngân hàng quan tâm. Các nguồn vốn khác: Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi, tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng rất đáng kể. Nhìn chung các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn lắm. Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng. Các nguồn khác bao gồm : Nguồn vốn đại lý, ủy thác: Là vốn hình thành do các khách hàng mong muốn tận dụng các quy trình hay các dịch vụ của ngân hàng, bao gồm ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ. Thông thường các ngân hàng lớn mới có nguồn vốn này. Đặc biệt nguồn vốn này có chi phí rất thấp. Nguồn trong thanh toán: Là vốn ngân hàng có được từ những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh từ hoạt động thanh toán (không dùng tiền mặt) của khách hàng trong ngân hàng như Séc trong quá trình chi trả, ký quỹ để mở L/C. Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. Nguồn khác: Vốn tài trợ, vốn liên doanh liên kết, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả... Các nhân tố tác động tới công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại: Để có nguồn vốn vững chắc, ổn định, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng là một vấn đề rất phức tạp. Nó đòi hỏi NHTM phải có những nghiệp vụ huy động vốn ngắn, trung và dài hạn một cách linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, mức độ ổn định, quy mô, cơ cấu của nguồn vốn này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đòi hỏi NHTM phải nghiên cứu các yếu tố này một cách kỹ lưỡng, cả bên trong và bên ngoài, cả chủ quan và khách quan. Các nhân tố khách quan Đây là các yếu tố ảnh hưởng chung đến toàn bộ hệ thống NHTM Sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế: Nếu nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng, phát triển cao, nhu cầu về vốn cho đầu tư, phát triển tăng mạnh thì nó tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng phát triển, nhu cầu huy đọng vốn của ngân hàng tăng cao. Đồng thời khi kinh tế phát triển thì khả năng tích lũy của người dân cũng tăng mạnh. Đó chính là nguồn tài nguyên lớn cho công tác huy động vốn của NHTM. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển chậm, hoặc suy thoái, nhu cầu đầu tư và khả năng tích lũy giảm nên công tác huy động vốn của ngân hàng cũng giảm. Sự ổn định của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến lãi suất, tỷ giá, lạm phát, thu nhập, chu kỳ chi tiêu của người dân. Các yếu tố này đều có tác động không nhỏ đến khả năng huy động vốn của NHTM. Ví dụ như khi thu nhập của người dân gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Một ví dụ khác, thời vụ chi tiêu cũng ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Cụ thể vào các dịp tết, nguồn tiết kiệm của dân cư cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút do nhu cầu chi tiêu gia tăng. Hoặc như ảnh hưởng của yếu tố lạm phát có thể được thấy rất rõ ràng. Trong những giai đoạn lạm phát cao thì người dân có xu hướng thu hút tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh và nguồn huy động của ngân hàng cũng theo xu hướng đó. Còn khi lạm phát ổn định thì nguồn huy động của NHTM có xu hướng thu hút được nhiều nội tệ hơn. Hành lang pháp lý: Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng nhiều đến khả năng huy động vốn của NHTM. Nếu hành lang pháp lý được mở rộng theo hướng khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính thì các NHTM cũng được phép huy động nhiều hơn so với số vốn chủ sở hữu của mình. Và ngược lại, khi hành lang pháp lý thu hẹp lại theo hướng kìm hãm sự phát triển quá nóng của thị trường tài chính thì lượng vốn mà ngân hàng được phép huy động trên vốn chủ sở hữu sẽ giảm đi. Các chính sách kinh tế vĩ mô: Hệ thống NHTM là một phương tiện để qua đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện sự điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách tài chính tiền tệ như chính sách lãi suất chiết khấu, chính sách chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở đều ảnh hưởng đến lượng vốn mà NHTM huy động được. Khi ngân hàng Nhà nước muốn thu hẹp cung tiền thì với các công cụ trên Ngân hàng nhà nước sẽ tác động làm giảm khả năng huy động và lượng vốn khả dụng của các NHTM với mục tiêu kìm hãm sự phát triển quá mức của nền kinh tế. Và ngược lại, khi muốn mở rộng cung tiền, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, với các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tác động làm tăng khả năng huy động vốn cũng như lượng vốn khả dụng của các NHTM. Sự phát triển của thị trường tài chính: Một quốc gia có thị trường tài chính phát triển là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động huy động vốn. Thị trường tài chính phát triển sẽ tạo ra nhiều công cụ nợ cũng như nhiều sản phẩm dịch vụ mới hữu hiệu và thiết thực cho công tác huy động vốn của ngân hàng. Thị trường tài chính phát triển còn tạo ra sự cạnh tranh giữa các NHTM. Sự cạnh tranh càng gay gắt thì các chính sách mà các ngân hàng đưa ra để thu hút vốn ngày càng nhiều và hiệu quả hơn, góp phần làm hoàn thiện hơn thị trường tài chính, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung và đem lại nhiều lợi ích cho người gửi tiền. Tâm lý của người dân: Một quốc gia có dân số cao, tỷ lệ người dân có thu nhập cao lớn là điều kiện thuận lợi cho các NHTM có thể thu hút được một lượng vốn lớn. Ngoài ra, tâm lý người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn của các NHTM vì nó ảnh hưởng đến việc ra quyết định gửi tiền của người dân. Nếu người dân vẫn còn thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt hoặc tích trữ tiền tại nhà thì đó là một khó khăn lớn đối với ngân hàng. Ngược lại, nếu người dân đã quen với việc thanh toán điện tử, thấy được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng thì đây là điều kiện tốt cho ngân hàng huy động vốn. Mặt khác, khi người dân dự đoán lạm phát cao hoặc sẽ xảy ra những biến động về kinh tế, chính trị thì nhu cầu tiết kiệm, gửi tiền và nắm giữ nội tệ của người dân giảm, dẫn đến nguồn cho huy động vốn của ngân hàng giảm, cơ cấu huy động thay đổi và ngược lại. Cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, các ngân hàng thương mại đang phải hoạt động kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Bởi các ngân hàng thương mại sử dụng một loại nguyên liệu đặc biệt đó là tiền – loại nguyên liệu có tính xã hội cao và tính nhạy cảm cao. Bằng chứng là chỉ một sự thay đổi nhỏ về lãi suất huy động cũng có thể có sự chuyển dịch của khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Thêm vào đó lại rất khó tạo được sự khác biệt trong sản phẩm ngân hàng vì khi một ngân hàng cho ra một sản phẩm mới thì nhanh chóng các ngân hàng bạn cũng có thể tung ra thị trường một sản phẩm tương tự, thậm chí tính năng còn ưu việt hơn do khắc phục được nhược điểm. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, mỗi ngân hàng cần phải nhận thức rõ môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, xác định thị trường mục tiêu, phát huy lợi thế cạnh tranh, đồng thời cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ... Các nhân tố thuộc về chủ quan Ngân hàng thương mại Uy tín của ngân hàng: Khi gửi tiền vào NHTM, người gửi thường lo sợ trước biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do đó, họ thường có sự cân nhắc lựa chọn ngân hàng nào mà họ cho là an toàn, thuận lợi nhất và đó chính là biểu hiện sự uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Ngân hàng nào uy tín càng cao thì càng thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền và do đó có cơ hội huy động được lượng vốn càng lớn. Thông thường, người gửi tiền thường đánh giá uy tín của ngân hàng qua các tiêu thức cơ bản sau: sự hoạt động lâu năm, quy mô hoạt động, vốn chủ sở hữu, lượng vốn huy động được, cơ sở vật chất, trình độ quản lý, thái độ của nhân viên giao dịch, công nghệ và các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Do đoa, các NHTM cần phải nâng cao các yếu tố này của mình để tăng cường khả năng huy động vốn. Chính sách lãi suất và cạnh tranh của ngân hàng: Đây cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền vào ngân hàng nào của khách hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng phải đủ độ linh hoạt, hấp dẫn và cạnh tranh được với các ngân hàng khác, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo bù đắp được chi phí và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Hai loại lãi suất này luôn gắn bó mật thiết với nhau. Thông thường quy mô tiền gửi vào NHTM biến động tỷ lệ thuận với lãi suất huy động nhưng cũng có khi lãi suất huy động giảm mà huy động của NHTM vẫn có thể tăng. Như vậy, lãi suất huy động vốn ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của NHTM. đặc biệt là tới tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Chính sách sản phẩm: Đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên nhu cầu của người dân cũng ngày càng phong phú và đa dạng. Việc đưa ra nhiều loại sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn được ngày càng nhiều nhu cầu đó là vô cùng cần thiết để huy động vốn cho ngân hàng. Các NHTM thường cung cấp các loại hình dịch vụ vừa mang tính chất truyền thống vừa mang tính chất hiện đại như tiền gửi tiết kiệm với nhiều mức kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu đa mệnh giá... Đặc biệt, việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới hiện nay đang được các ngân hàng rất coi trọng và được xem như một chiến lược cạnh tranh giữa các ngân hàng. Ngoài ra các sản phẩm mới này còn tạo ra một phong cách tiêu dùng mới cho người dân theo xu hướng hiện đại, giảm việc sử dụng thanh toán tiền mặt (các loại thẻ thanh toán...). Đặc điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, quầy giao dịch: Đặc điểm ngân hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM. Một ngân hàng có địa điểm đẹp, nằm tại các dãy phố chính, dân cư đông đúc, sầm uất là một thế mạnh để thu hút những người gửi tiền. Ngoài ra, mạng lưới chi nhánh, số lượng quầy giao dịch cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Ngân hàng nào có mạng lưới lớn thì khả năng tiếp xúc, đi sâu đi sát người dân để vận động họ gửi tiền càng lớn. Chính sách kinh doanh của NHTM: Khi ngân hàng mở rộng cho vay thì nhu cầu về tiền gửi của ngân hàng tăng lên. Ngân hàng sẽ thực hiện các biện pháp hữu hiệu để huy động vốn và do đó tiền gửi của các cá nhân và tổ chức cũng tăng lên. Công tác khuyếch chương, quảng cáo, marketing của NHTM: Trong thời đại hiện nay, thông tin đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các NHTM cũng đã nhận ra được sức mạnh của nó. Để tạo được ấn tượng với khách hàng về tên tuổi, uy tín, khả năng phục vụ, trình độ công nghệ, loại hình dịch vụ cung cấp thì các NHTM đã sử dụng các phương tiện quảng cáo trên thông tin đại chúng như vô tuyến truyền hình, đài truyền thanh, biểu ngữ quảng cáo trên đường phố, các đợt khuyến mãi, dự thưởng...Các hoạt động đó đã giúp người dân nắm bắt được các thông tin về dịch vụ hoặc đơn giản là thương hiệu của ngân hàng để từ đó đến với ngân hàng. Đây là điều mà các ngân hàng mong muốn đạt được. Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, trình độ nhân viên của NHTM: Các yếu tố này là bộ mặt của một ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang, công nghệ càng hiện đại, đội ngũ nhân viên càng nhiệt tình, chu đáo thì khả năng làm vừa lòng khách hàng sẽ càng cao, tạo nhiều niềm tin và sự thoải mái cho khách hàng. Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn khách hàng truyền thống cũng như thu hút khách hàng mới cho ngân hàng. Từ đó góp phần nâng cao vị thế và khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH XUÂN NAM – HÀ TÂY 2.1. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây Theo quyết định số 280/QĐ - NHNN ngày 15/11/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã thể hiện định hướng chiến lược có ý nghĩa quan trọng trong những tháng cuối năm 1996. Trong đó có việc ra đời của một số chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tại các thành phố lớn, khu đô thị và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước trong giai đoạn 1996 - 1997 . Theo quyết định số 2280/CV/NHNo-02 Ngày 14/09/2000 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/09/2000. Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam là Chi nhánh cấp II trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây. Tuy tuổi đời còn rất trẻ nhưng NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã không ngừng vươn lên và ngày càng khẳng định được mình về các lĩnh vực như: vốn, tài sản, đội ngũ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Hiện nay NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đang tập trung giữ vững và phát triển thị trường thành thị với việc nâng cao chất lượng phục vụ cũng như phát triển các dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mở rộng các phòng giao dịch. Đến nay, ngoài trụ sở chính tại số 565 đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội, NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã mở thêm hai phòng giao dịch với đội ngũ nhân viên nhiệt tình trong công tác, luôn duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng. Hai phòng giao dịch tại: + Phòng Giao Dịch Thượng Đình - 110 Thượng Đình. + Phòng Giao Dịch 539 đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân Nam Trong những năm đầu mới thành lập, chi nhánh Thanh Xuân Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn nhưng chi nhánh đã đánh dấu được sự trưởng thành trong kinh doanh của mình và đến ngày 30/06/2006 tổng nguồn vốn huy động đạt 211,375 tỷ đồng. Chi nhánh ngày càng thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ của mình, các hoạt động chính của chi nhánh là: - Mở tài khoản tiền gửi, nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Cho vay ngắn, trung và dài hạn với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư khác nhau. - Thực hiện nghiệp vụ hùn vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế, dịch vụ tư vấn và đầu tư phát triển kinh doanh. Thực hiện nghiệp vụ cho vay cầm cố, thế chấp bất động sản và cho vay tiêu dùng đối với mọi đối tượng dân cư, mua lại công trái với giá hợp lý. - Thanh toán ngoài hệ thống và thanh toán điện tử, chuyển tiền qua mạng vi tính trong hệ thống với thời gian nhanh nhất. Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, mua bán ngoại tệ, dịch vụ thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối cho mọi đối tượng - Phát hành và thanh toán Thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ ATM (thẻ rút tiền tự động). Khi mới thành lập Cán bộ viên chức của chi nhánh chỉ gồm 12 người. Ngoài những thành viên trong Ban Giám đốc, Trưởng các phòng kế hoạch, kinh doanh, kế toán, ngân quỹ đã từng có kinh nghiệm trong nghiệp vụ kinh doanh và đã trải qua quá trình công tác thì số cán bộ viên chức còn lại đều bắt đầu làm quen với công việc hoàn toàn mới mẻ nên còn thiếu kiến thức thực tế, lại chưa am hiểu công việc. Vì vậy, chi nhánh còn rất nhiều mặt phải hoàn thiện và phát triển đó là: kiện toàn bộ máy, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, định hình và hoạch định chiến lược kinh doanh đúng hướng, đào tạo con người, chính sách tìm kiếm và thu hút những khách hàng tiềm năng… Tính đến ngày 30/06/2007 tổng cán bộ nhân viên tại chi nhánh là 31 người. Trong đó cán bộ viên chức có trình độ trên đại học là 8 người; cán bộ viên chức có trình độ đại học là 19 người; cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp là 4 người. Trải qua quá trình hình thành và phát triển cơ cấu tổ chức cán bộ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam dần dần trở nên hoàn thiện hơn, xứng đáng là một đơn vị kinh tế điển hình của khu vực Tỉnh Hà Tây. Đáp ứng được nhiệm vụ mà Ngân hàng Nhà nước giao phó. Qua nhiều đợt tuyển dụng và bổ sung cán bộ đến nay cơ cấu tổ chức của ngân hàng đã được biên chế một cách phù hợp theo cơ cấu như sau: 2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây - Chi nhánh Thanh Xuân Nam * Ban giám đốc gồm: - Một Giám đốc phụ trách chung - Ba phó giám đốc: + Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh + Một phó giám đốc phụ trách thanh toán quốc tế + Một phó giám đốc phụ trách kế toán ngân quỹ * Cơ cấu thành ban: Có 6 phòng ban với cơ cấu tổ chức như sau: Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức Ban giám đốc Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng kế toán, ngân quỹ Phòng thanh t._.ao đối với những khoản tiền họ gửi ngoài những tiện ích họ cần mà những dịch vụ ngân hàng cung cấp. Vì vậy, lãi suất huy động vốn cao sẽ kích thích lòng ham muốn lợi nhuận của khách hàng (họ sẽ gửi tiền nhiều hơn), ngân hàng sẽ huy động được nguồn vốn lớn hơn. Ngược lại nếu lãi suất tiền gửi ngân hàng trả thấp sẽ làm giảm động cơ gửi tiền của khách hàng nên nguồn vốn ngân hàng huy động được sẽ hạn chế. Trong thực tế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa mong muốn của khách hàng và của ngân hàng về lãi suất, trong khi khách hàng mong muốn được trả lãi suất cao đối với khoản tiền họ gửi vào ngân hàng thì ngân hàng lại mong muốn lãi suất huy động thấp. Giải quyết mâu thuẫn này, mỗi NHTM nói chung cũng như Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam phải có chính sách lãi suất hợp lý. Chính sách lãi suất hợp lý phải đảm bảo cho ngân hàng huy động được nguồn vốn đủ đáp ứng những nhu cầu sử dụng vốn hiệu quả cả về quy mô cũng như cơ cấu, đồng thời phải đảm bảo lợi nhuận thu được của NHTM. Khi xây dựng chính sách lãi suất, các NHTM phải quan tâm đến nhu cầu sử dụng vốn về quy mô cũng như cơ cấu để xác định được mức lãi suất phù hợp đối với từng nguồn vốn NH cần phải huy động. Đối với những nguồn vốn ngân hàng thiếu không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn thì ngân hàng có thể tăng lãi suất huy động để khuyến khích khách hàng gửi tiền tạo điều kiện mở rộng nguồn vốn huy động. Ngược lại, đối với những nguồn vốn ngân hàng còn ứ đọng không có cơ hội đầu tư hay cho vay có hiêụ quả thì ngân hàng có thể giảm lãi suất huy động để giảm nguồn vốn huy động, tránh tình trạng nguồn vốn huy động thừa không thu được thu nhập hay thu nhập không đủ bù đắp chi phí huy động vốn. Do đó khi xác định lãi suất huy động đối với từng nguồn vốn phải chú trọng đến quan hệ cung - cầu về nguồn vốn, lãi suất đầu tư sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn. Hơn nữa, trong cơ chế thị trường, các NHTM kinh doanh trong môi trường cạnh tranh. Do đó để đảm bảo tính cạnh tranh, khi xác định lãi suất huy động vốn cần phải tham khảo lãi suất hiện tại của các NHTM khác trên địa bàn để tránh tình trạng lãi suất huy động thấp hơn đáng kể so với lãi suất của ngân hàng khác. Từ thực trạng về huy động vốn hiện nay của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam, thì việc cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng dần tỷ trọng nguồn vốn trung - dài hạn và ngoại tệ, giảm tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn thì Chi nhánh Thanh Xuân Nam cần phải tạo khoảng cách về lãi suất giữa tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi trung - dài hạn. Mục đích của biện pháp này là để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền trung và dài hạn, khuyến khích mọi người gửi tiền với kỳ hạn dài hơn. Trên thực tế, mặc dù lãi suất trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn, nhưng sau khi tính toán thấy rằng với cùng một món tiền gửi trong cùng một khoảng thời gian thì lãi thu được do gửi kỳ hạn dài vẫn thấp hơn so với gửi kỳ hạn ngắn. Do vậy, nhất thiết phải duy trì một khoảng cách giữa lãi suất trung và dài hạn với ngắn hạn sao cho cùng một khoản tiền gửi lãi thu được từ dài hạn cao hơn lãi thu được từ ngắn hạn. Với biện pháp này không có nghĩa là tăng lãi suất trung và dài hạn lên quá cao vì như vậy sẽ phải tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn khiến các nhà sản xuất kinh doanh không dễ dàng chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao, họ sẽ không đầu tư trực tiếp vào các dự án kinh doanh mà gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Điều đó sẽ gây ra những khó khăn cho ngân hàng khi giải quyết đầu ra cho nguồn vốn huy động, do đó cần phải có sự cân đối giữa lãi suất ngắn hạn với trung và dài hạn để tạo một khoảng cách cần thiết giữa hai lãi suất này mà không ảnh hưởng đến mức lãi suất huy động bình quân. Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo từng đối tượng huy động, linh hoạt qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân hàng cũng có quyền quyết định việc điều chỉnh lãi suất. Vì vậy, ngân hàng cần phải tham khảo và xin phép ý kiến của các cấp cao hơn để có được một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Hiện nay ở Chi nhánh Thanh Xuân Nam cũng như ở nhiều ngân hàng khác, các loại tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng theo quy định là hết hạn ghi trên sổ mới được rút tiền còn nếu rút trước hạn chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn. Điều này chỉ phù hợp với các loại tiền gửi kỳ hạn 1 tháng hay 2 tháng, còn áp dụng với các mức tiền gửi 3, 5, 6, 9, 12 tháng thì người gửi sẽ bị thiệt thòi. Vì vậy, khách hàng không nhiệt tình và hạn chế gửi tiền với kỳ hạn dài. Để hấp dẫn khách hàng hơn, ngân hàng có thể cho phép người gửi tiền rút trước hạn và để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, ngân hàng có thể thay vì trả tiền cho khách hàng với mức lãi suất không kỳ hạn có thể cho khách hàng hưởng mức lãi suất ở kỳ hạn ngắn hơn. Ví dụ như tiền gửi 12 tháng rút trước hạn được trả lãi suất của tiền gửi 9 tháng, 6 tháng, 3 tháng...Tuỳ thuộc vào khách hàng rút tiền tương ứng với loại kỳ hạn nào thì ngân hàng sẽ áp dụng mức lãi suất tương đương. Như vậy vừa làm thoả mãn nhu cầu cũng như lợi ích của khách hàng, vừa tạo thêm được biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với tiền gửi dài hơn thời hạn gửi ban đầu. Ngoài ra, ngân hàng còn phải duy trì mức lãi suất thật phù hợp với từng thời điểm và phù hợp với lãi suất của thị trường, đảm bảo có lợi cho người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng. Như ta đã biết, khách hàng gửi tiền với nhiều mục đích khác nhau. Có người gửi chỉ vì mục đích an toàn, có người gửi nhằm mục đích để lấy lãi. Hiện nay đa số các NHTM mới chỉ có hai hình thức trả lãi là trả lãi trước và trả lãi sau. Với nhu cầu của người dân ngày càng đa dạng thì Chi nhánh Thanh Xuân Nam nên xem xét, triển khai các hình thức trả lãi như sau: - Loại gửi tiền một lần nhưng lấy lãi nhiều lần (phần gốc vẫn được giữ nguyên cho đến khi hết hạn), ngân hàng có thể trả lãi cho khách hàng theo từng tháng hoặc 3 tháng, 6 tháng một lần. - Loại gửi một lần dài hạn nhưng rút một phần trước hạn cần ưu đãi khách theo cách tính lãi kỳ hạn tương đương. - Hình thức lãi suất tăng dần theo số lượng tiền gửi. Với cùng một kỳ hạn, ngân hàng có thể trả lãi suất cao hơn cho những khoản tiền gửi có giá trị lớn, như vậy sẽ khuyến khích được người dân cũng như các doanh nghiệp gửi tiền ở một nơi với giá trị lớn. c) Áp dụng các công cụ huy động vốn mới Tới thời điểm hiện nay NHNo&PTNT Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã nhận nhiệm vụ triển khai nhiều đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu nội tệ và ngoại tệ với kỳ hạn tương đối đa dạng và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Trong thời gian tới Chi nhánh Thanh Xuân Nam nên phát triển các công cụ huy động mới như thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, từng bước tổ chức thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ. Khuyến khích người dân mở tài khoản cá nhân tại Chi nhánh Thanh Xuân Nam và thực hiện các dịch vụ thu hộ tiền thông qua tài khoản cá nhân tại Chi nhánh Thanh Xuân Nam cho các tổ chức có nguồn thu thường xuyên như Bưu chính viễn thông, Điện lực, Bảo hiểm...Làm được các dịch vụ như vậy thì Chi nhánh Thanh Xuân Nam ngoài việc có thêm thu nhập từ hoạt động dịch vụ mà còn có được nhiều điều kiện thuận lợi trong việc huy động vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. 3.2.2. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ có liên quan đến công tác huy động vốn: Ở nước ta hiện nay, lãi suất vẫn là công cụ cạnh tranh chủ yếu của các NHTM. Tuy nhiên, với xu hướng lãi suất ngày càng giảm để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở nước ta và trên thế giới thì công cụ lãi suất không còn mang tính cạnh tranh cao như trước nữa. Phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các ngân hàng là bằng loại hình và chất lượng dịch vụ. Thông qua các dịch vụ cung ứng ngân hàng sẽ nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. * Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán Trong hoạt động của NHTM, thanh toán là một nghiệp vụ trung gian quan trọng không những tạo ra các khoản thu nhập cho ngân hàng thông qua phí và hoa hồng mà còn tạo ra tiện ích cho khách hàng, tạo ra mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Hoạt động thanh toán đã buộc khách hàng mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Ngân hàng làm tốt công tác thanh toán thì mới giữ được thị phần thanh toán giúp cho ngân hàng có nhiều số lượng khách hàng có số dư lớn hơn dẫn đến tăng được nguồn vốn từ tiền gửi thanh toán. Đây là nguồn vốn không kỳ hạn, chi phí huy động thấp nhưng không ổn định. Tăng cường nâng cao chất lượng thanh toán và mở rộng mối quan hệ với khách hàng, mở rộng nguồn vốn giúp cho ngân hàng tiếp cận với nguồn vốn rẻ tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào các lĩnh vực mới như thị trường chứng khoán, thị trường tiền gửi kinh doanh ngoại tệ . Nâng cao chất lượng thanh toán đặc biệt là thanh toán quốc tế sẽ tạo điều kiện cho NHTM nắm giữ các tài khoản ngoại tệ do khách hàng ký quỹ mà trong khoản thời gian nào đó ngân hàng có thể dùng nguồn vốn ngoại tệ này. Công tác này giúp cho ngân hàng có nguồn vốn ngoại tệ rẻ, có cơ cấu nội ngoại tệ phù hợp , khắc phục tình trạng khan hiếm ngoại tệ. Tuy nhiên, thời điểm này hoạt động thanh toán quốc tế có sự tăng trưởng chậm chưa xứng đáng với vai trò của Chi nhánh Thanh Xuân Nam. Chi nhánh Thanh Xuân Nam cần nâng cao chất lượng thanh toán, giữ vững thị phần thanh toán bằng các biện pháp sau : - Có quan hệ thường xuyên củng cố mối quan hệ với khách hàng quen biết, có quan hệ truyền thống với khách hàng. - Tìm kiếm khách hàng mới để mở rộng thị phần ngân hàng, chủ động tìm các khách hàng mới. - Nâng cao uy tín trong thanh toán, tránh rủi ro trong thanh toán quốc tế. - Tăng cường công tác thẩm định, thực hiện cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. - Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn cán bộ thanh toán. Nâng cao chất lượng thanh toán không những tạo lợi nhuận thanh toán cho Chi nhánh mà còn giúp tiếp cận được với nguồn ngoại tệ rẻ, giúp Chi nhánh Thanh Xuân Nam cân đối nguồn ngoại tệ và có điều kiện tăng trưởng nguồn ngoại tệ ổn định, bền vững lâu dài. - Chi nhánh Thanh Xuân Nam với ưu thế là có hệ thống thanh toán, máy móc thiết bị, các phương tiện thanh toán hiện đại, song những kết quả đạt được còn chưa xứng đáng với cơ sở vật chất hiện có. Chi nhánh Thanh Xuân Nam cần thực hiện các biện pháp sau : + Khai thác một cách có hiệu quả nhất các thiết bị, công nghệ hiện có. + Thực hiện biên chế, đào tạo các cán bộ ngân hàng giỏi về tin học và thanh toán. + Thẩm định, lắp đặt, vận hành các công nghệ thanh toán, tin học hiện đại trên thế giới. Để đáp ứng với quan điểm ngân hàng áp dụng công nghệ hiện đại, đi trước một bước, có chức năng làm đòn bẩy phát triển kinh tế. Trong quá trình ứng dụng công nghệ tin học, Chi nhánh Thanh Xuân Nam luôn luôn đảm bảo nguyên tắc, sao cho công nghệ ứng dụng tin học cũng phải đạt mục tiêu tạo ra lợi nhuận cho Chi nhánh Thanh Xuân Nam, lấy thu bù chi. 3.2.3. Phát triển các hoạt động Marketing ngân hàng Marketing ngân hàng là quá trình tư duy hướng tới lợi nhuận. Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của đơn vị để đạt được mục tiêu của mình, bằng nhận thức, tiến hành công việc thông qua kế hoạch hóa, kiểm soát nguồn của cải vật chất nhằm thích ứng với môi trường, thị trường để thỏa mãn nhu cầu lựa chọn của khách hàng, để đạt được mục tiêu sinh lợi cao nhất. Vậy nên tổ chức Marketing ngân hàng không chỉ làm tăng vốn mà còn làm tăng lợi nhuận. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các NH như hiện nay thì Marketing là một hoạt động quan trọng trong cần phải thực hiện để thu hút được khách hàng. Ở Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây đã thực hiện một số biện pháp Marketing. Do đặc trưng của Marketing ngân hàng là tất cả các bộ phận trong ngân hàng đều phải làm Marketing. Vì vậy, em xin đưa ra các biện pháp sau: a) Thực hiện văn minh thương mại. Do sự phát triển và hội nhập kinh tế, ngày nay loài người đang sống trong xã hội thương mại, các mối quan hệ do mối quan hệ kinh tế đó là quan hệ thương mại chi phối. Vậy nên người ta đưa ra một khái niệm mới là nền văn minh thương mại. Vậy nên, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam cũng cần áp dụng các biện pháp này. * Cải tạo, bảo vệ cơ sở vật chất. Đây được coi là bộ mặt của ngân hàng vì một ngân hàng có cơ sở vật chất khang trang hiện đại sẽ góp phần tác động mạnh mẽ, tạo hình ảnh ban đầu tốt đẹp và thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn. * Thái độ của nhân viên ngân hàng không được cửa quyền quan chức, mà phải coi khách hàng là đối tượng tạo ra lợi nhuận của đơn vị mình: Nhân viên ngân hàng phải nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn khách hàng khi họ đến giao dịch, phải biết lắng nghe để nắm bắt được những nhu cầu mong muốn của khách hàng. Phục vụ họ theo phương châm:“Khách hàng là thượng đế”. * Đưa yếu tố văn hoá vào Marketing ngân hàng: Dưới con mắt của khách hàng, nhân viên ngân hàng là người đại diện cho ngân hàng, là hình ảnh của ngân hàng, là người quyết định mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Vì vậy, trang phục, phong cách, tác phong giao tiếp lịch sự của nhân viên NH sẽ tạo cho khách hàng một ấn tượng tốt về NH. b) Thành lập phòng tư vấn khách hàng Dịch vụ ngân hàng, thanh toán hiện nay ở Việt Nam còn đang mới so với đa số công chúng, vậy việc làm cho khách hàng hiểu và thực hiện đúng các quy trình thủ tục khi đến ngân hàng là rất cần thiết. Ngoài ra còn có thể tư vấn cho khách hàng việc gửi tiền, vay tiền với các kỳ hạn phù hợp. Việc các nhân viên ngân hàng giải thích hướng dẫn cho khách hàng là rất tốt nhưng sẽ mất nhiều thời gian, gây ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công việc của nhân viên đôi khi không đem lại sự thoả mãn cho khách hàng. Vậy nên việc lập một phòng tư vấn khách hàng ở ngân hàng là cần thiết. c) Tổ chức hội nghị khách hàng theo định kỳ Đây là một biện pháp thuộc chiến lược xúc tiến hỗn hợp trong công tác Marketing ngân hàng. Tổ chức hội nghị ngân hàng giúp cho ngân hàng nắm bắt được nhu cầu khách hàng, giải quyết các thắc mắc, mâu thuẫn giữa khách hàng và ngân hàng, tạo nên mối quan hệ khăng khít, lâu dài giữa khách hàng đồng thời giúp khách hàng có được thông tin nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời về ngân hàng. Công tác tổ chức hội nghị khách hàng còn giúp cho ngân hàng có cơ hội giới thiệu cung ứng các sản phẩm dịch vụ mới, duy trì khách hàng hiện tại, giảm chi phí quảng cáo, tăng hiệu quẩ thị trường mục tiêu. kế hoạch hoá được kế hoạch kinh doanh của mình trong thời gian tới, giúp cho ngân hàng cân đối nguồn vốn hợp lý. d) Tăng cường hơn nữa công tác quảng cáo, tiếp thị và khuyến mại Trong nền kinh tế thị trường, việc quảng cáo tiếp thị, khuyến mại không chỉ giúp cho khách hàng biết đến ngân hàng, hiểu biết sâu rộng về ngân hàng, mà nó còn giúp cho công tác tiêu thụ các sản phẩm. Các sản phẩm ngân hàng là các sản phẩm cao cấp, việc các sản phẩm này đến khách hàng là khó, phải có thời gian lâu dài. Chi nhánh cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp Marketing thúc đẩy và tạo điều kiện cho các sản phẩm của mình đến với khách hàng. Các sản phẩm như thẻ thanh toán, máy thanh toán, các loại giấy tờ huy động vốn như trái phiếu, cổ phiếu, CDs, ngân hàng phải tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (TV, Radio, làm các panô áp phích để quảng cáo mỗi khi đưa ra sản phẩm mới). 3.2.4. Mở rộng mạng lưới hoạt động: Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đi vào hoạt động từ 15/09/2000 Sau một thời gian đi vào hoạt động, ngoài trụ sở chính tại số 565 Nguyễn Trãi đến nay Chi nhánh đã mở thêm 5 phòng giao dịch. Tuy nhiên với mạng lưới hoạt động như hiện nay là vẫn còn ít, chưa xứng với tiềm năng của địa bàn Hà Nội, chưa đảm bảo được sự thuận tiện cho khách hàng khi gửi tiền. Do đó trong tương lai, Chi nhánh Thanh Xuân Nam nên quan tâm, nghiên cứu việc mở thêm các phòng giao dịch tại các khu dân trí cao, có nguồn thu nhập ổn định và lâu dài. Việc mở rộng mạng lưới đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu lớn nên Chi nhánh Thanh Xuân Nam phải có sự nghiên cứu kỹ về tính hiệu quả của nó. Khi mở thêm các mạng lưới cơ sở cần phải xác định địa điểm phù hợp. Địa điểm để mở mạng lưới phải đảm bảo nơi có giao thông thuận tiện, tập trung đông dân cư và có thu nhập, có trình độ dân trí cao mới thu hút được khách hàng. 3.2.5. Nâng cao niềm tin của khách hàng bằng quy trình công nghệ cung ứng dịch vụ gọn nhẹ, tiện lợi, nhanh chóng cũng như bằng thái độ nhiệt tình, chuyên môn xuất sắc của đội ngũ nhân viên ngân hàng Trong con mắt của khách hàng thì một ngân hàng lớn, có uy tín là một ngân hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng nhất, khách hàng không phải chờ đợi lâu. Vì vậy, công nghệ cung ứng dịch vụ của ngân hàng càng nhanh chóng, chính xác càng để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng khách hàng và nhờ đó thu hút thêm được nhiều khách hàng. Mặt khác, nhân tố con người trong hoạt động ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hiệu quả công tác huy động vốn nói riêng. Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam phải thường xuyên hơn nữa tổ chức đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Khuyến khích nhân viên của toàn bộ chi nhánh tham gia các khóa học nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, tiếp cận các kiến thức mới, học hỏi kinh nghiệm và mở rộng quan hệ. Các nhân viên giao dịch với khách hàng cần phải có thái độ ân cần, niềm nở, thao tác nghiệp vụ nhanh, giải thích các thắc mắc của khách hàng một cách nhẹ nhàng, nhiệt tình và dễ hiểu. Công tác tổ chức cán bộ phải coi phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định mọi thắng lợi trong kinh doanh. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Trên đây là một số giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam, tuy nhiên để các giải pháp trên mang tính khả thi và có thể được áp dụng trong thực tiễn, em xin kiến nghị với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Hà Tây một số nội dung sau: 3.3.1. Đối với Chính phủ Chính phủ là cơ quan có vai trò điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế, do vậy Chính phủ rất quan trọng trong việc điều hành mọi hoạt động của một Quốc gia. Chính phủ là cơ quan thực hiện việc luật pháp hóa những chủ trương, chính sách và những biện pháp cần thiết trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Tuy vậy, Chính phủ cũng cần nắm bắt kịp thời những gì chưa cụ thể, chưa hiệu qủa trong hệ thống pháp luật để từ đó tiến hành bổ sung tạo điều kiện xây dựng môi trường pháp lý hoàn thiện và ổn định, đảm bảo cho mọi người dân an tâm, tin tưởng khi sống và làm việc theo pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng nói chung và lĩnh vực hoạt động ngân hàng nói riêng, đặc biệt là trong phạm vi huy động vốn nhằm phục vụ công cuộc CNH-HĐH đất nước hiện nay thì Chính phủ cần tiếp tục quan tâm và hỗ trợ ngân hàng từ nhiều phía. * Tạo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của NH, nó có thể tạo thuận lợi nhưng cũng có thể gây trở ngại hạn chế cho công tác huy động vốn. Nhìn chung sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên đề cơ bản và quan trọng cho sự phát triển và tăng trưởng của Đất nước cũng như việc thu hút vốn vào NH. Trong tình hình kinh tế hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập sự ổn định kinh tế vĩ mô là kìm chế lạm phát, tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người bền vững, giữ cho đồng nội tệ ổn định giá trị. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động nguồn vốn cho các NHTM. * Đẩy mạnh việc phát triển thị trường chứng khoán Với cơ chế huy động vốn như hiện nay, thì nguồn vốn không thể đáp ứng theo nhu cầu của nền kinh tế đặt ra, đặt biệt là nguồn vốn trung-dài hạn, đồng thời cũng không tạo được sự thu hút và sử dụng vốn từ bên ngoài vào.Thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán.Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh thu hút nguồn vốn nhàn rỗi chảy đến những nơi có nhu cầu đầu tư. Hiện nay các NHTM chủ yếu huy động vốn ngắn hạn, còn vốn trung-dài hạn thì được huy động thông qua việc phát hành các trái phiếu, tuy nhiên việc sử dụng công cụ này không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả cao, hơn nữa khả năng thnah khoản của trái phiếu không phải là đơn giản. Nếu thị trường chứng khoán phát triển thì việc phát hành và thanh khoản của trái phiếu sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nhờ vậy, NH sẽ thuận lợi hơn trong quá trình huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, đặc biệt là nguồn vốn trung – dài hạn trong các tầng lớp dân cư. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Nhằm hướng tới mở rộng huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là “kênh” qua NHTM thì NHNN cần có những chính sách mềm dẻo, linh hoạt theo hướng sau : * Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt. Trong đó cần khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các NHTM và TCTD cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. NHNN cần dùng lãi suất làm “đòn bẩy” thúc đẩy các NHTM chú trọng huy động vốn. * NHNN cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài, nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài chảy qua “kênh” NHTM. * NHNN cần có những hướng dẫn cụ thể về các hình thức huy động vốn như : Tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, cần có những quy định cụ thể về áp dụng lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài như 10 thời điểm, 20 thời điểm. * NHNN cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó nhằm giúp khách hàng có được hướng giải quyết đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với Ngân hàng. * Củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam Để nâng cao chất lượng hoạt động và tiến tới hội nhập với NHTM trong khu vực và thế giới thì việc cải cách và củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam là rất cần thiết. Nhà nước cần củng cố theo hướng sau: Đối với NHTM quốc doanh: Nhà nước cần cấp đủ, bổ sung thêm vốn điều lệ để tăng năng lực tài chính cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh để hoà nhập với xu thế chung của các NHTM trong khu vực, cần có sự tách bạch giữa cho vay chính sách và cho vay thương mại, trừ một số trường hợp nhất định (phải được Bộ Tài chính bảo lãnh), việc tái cấp vốn phải căn cứ vào thực trạng hoạt động của NHTM theo tiêu chuẩn quốc tế để có báo cáo chính xác với NHNN và Bộ Tài chính. Đối với các NHTM ngoài quốc doanh: Nhà nước cần có sự quản lý, thanh tra, giám sát chặt chẽ hơn nữa hoạt động kinh doanh của các NHTM này. 3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây * Sớm nghiên cứu và ban hành các văn bản, quy chế nghiệp vụ tạo hành lang pháp lý cho Chi nhánh Thanh Xuân Nam triển khai các dịch vụ, tiện ích mới. * Bổ sung biên chế theo kế hoạch đã xây dựng để Chi nhánh Thanh Xuân Nam bố trí đủ lao động cho các phòng nghiệp vụ và phòng giao dịch. * Hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật tốt phục vụ cho giao dịch, trang bị đủ máy tính cho các phòng giao dịch, hỗ trợ phần mềm giao dịch phù hợp với hoạt động đặc thù của Chi nhánh Thanh Xuân Nam. * Trang bị máy ATM tại các phòng giao dịch để mở rộng dịch vụ rút tiền tự động qua máy ATM và phục vụ trả lương thông qua tài khoản ATM cho các khách hàng lớn của Chi nhánh Thanh Xuân Nam. * Hỗ trợ công tác đào tạo cho Chi nhánh Thanh Xuân Nam khi triển khai các dịch vụ, tiện ích mới. * Ban hành cơ chế khoán tài chính phù hợp, kích thích việc mở rộng tăng trưởng hoạt động kinh doanh trên địa bàn Hà Nội. Trên đây là một số giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam cùng những kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải pháp được đưa ra. Tuy nhiên hiệu quả của công tác huy động vốn sẽ không cao nếu như Chi nhánh không kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện tốt các chiến lược huy động vốn của toàn ngành. KẾT LUẬN Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng tăng trưởng nhanh chóng thì nhu cầu vốn để cung ứng cho nền kinh tế càng được đặt ra một cách hết sức cấp bách. Hơn nữa, áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và ngoài nước để thu hút vốn của các thành phần kinh tế đang diễn ra ngày một gay gắt. Chính vì vậy, công tác huy động vốn ngày càng trở thành một hoạt động quan trọng hàng đầu trong các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, để gia tăng được lượng vốn huy động một cách hữu hiệu nhất thì không phải ngân hàng nào cũng làm được. Làm thế nào để gia tăng được nguồn vốn phù hợp với tiềm lực của ngân hàng mình luôn là một bài toán khó. Đối với Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam, một chi nhánh còn khá non trẻ thì công tác huy động vốn luôn được đặt lên hàng đầu. Với phương châm huy động vốn để cho vay, ngân hàng đã luôn tìm mọi biện pháp để tăng cường công tác huy động vốn của chính mình. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam, em đã có cơ hội để nghiên cứu nhiều hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là nghiệp vụ huy động vốn. Ngân hàng đã đạt được những kết quả tương đối khả quan, bên cạnh đó ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong công tác huy động vốn. Nếu ngân hàng biết phát huy được hết lợi thế của mình và có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những khó khăn của mình thì em tin rằng trong tương lai, với phương châm và cách thức kinh doanh mà ngân hàng đã lựa chọn, ngân hàng sẽ đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa và ngày một lớn mạnh, phát triển, trở thành một bộ phận không thể thiếu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Vì kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và những lời góp ‎ý qu‎ý báu của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây, đặc biệt là của cô giáo: Th.s.Lê Hương Lan – người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin trân trọng cảm ơn! DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam năm 1997, sửa đổi năm 2003. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động Ngân hàng, Nhà xuất bản Tài Chính. Lê Vinh Danh (2005), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung Ương, Nhà xuất bản Tài chính. Mishkin Frederic S. (1994), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật. Cao Sĩ Liêm (1995), Đổi mới chính sách tiền tệ - tín dụng - ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân (2002), Giáo trình lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nhà xuất bản Thống Kê. Phan Thị Thu Hà (chủ biên), Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân (2006), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống Kê. Luật các tổ chức tín dụng Các tạp chí Ngân hàng Các văn bản pháp luật khác có liên quan DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NH : Ngân hàng NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NHNo& PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần TCTD : Tổ chức tín dụng TGKKH : Tiền gửi không kỳ hạn TGCKH : Tiền gửi có kỳ hạn CNH - HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước HTX : Hợp tác xã HGĐ : Hộ gia đình VCSH : Vốn chủ sở hữu DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ cơ cấu tổ chức 37 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 3 1.1.1. Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 3 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 8 1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại 12 1.2.1. Vốn chủ sở hữu 12 1.2.2. Vốn huy động 16 1.3. Các nhân tố tác động tới công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại: 28 1.3.1. Các nhân tố khách quan 28 1.3.2. Các nhân tố thuộc về chủ quan Ngân hàng thương mại 31 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH XUÂN NAM – HÀ TÂY 34 2.1. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây 34 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây 34 2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây - Chi nhánh Thanh Xuân Nam 36 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tây - chi nhánh Thanh Xuân Nam 38 2.2. Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây 49 2.2.1. Quy mô vốn 50 2.2.2. Cơ cấu nguồn vốn 51 2.2.3. Đánh giá chung về công tác huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây 65 CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH XUÂN NAM – HÀ TÂY 76 3.1. Mục tiêu, định hướng huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam. 76 3.1.1. Mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước 76 3.1.2. Mục tiêu, định hướng của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây 77 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT THANH XUÂN NAM – HÀ TÂY 80 3.2.1. Tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị phần: 81 3.2.2. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ có liên quan đến công tác huy động vốn: 91 3.2.3. Phát triển các hoạt động Marketing ngân hàng 93 3.2.4. Mở rộng mạng lưới hoạt động: 96 3.2.5. Nâng cao niềm tin của khách hàng bằng quy trình công nghệ cung ứng dịch vụ gọn nhẹ, tiện lợi, nhanh chóng cũng như bằng thái độ nhiệt tình, chuyên môn xuất sắc của đội ngũ nhân viên ngân hàng 96 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 97 3.3.1. Đối với Chính phủ 97 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 99 3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây 100 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11036.doc
Tài liệu liên quan