lời nói đầu
Từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường tự do canh tranh có định hướng của Nhà nước. Đất nước ta đã có những thay đổi đáng kể về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế này thì cần phải có một chính sách đúng đắn và sự quản lý chặt chẽ mọi hoạt động kinh tế. Trong các lĩnh vực có tính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp thì kế toán đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác Hạch toán kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty Dệt Kim Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kế toán được coi là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định phù hợp với các đối tượng sử dụng thông tin.
Mặt khác, bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào khi thành lập đều có mục tiêu chung là lợi nhuận. Muốn đạt được mục tiêu đó thì đòi hỏi công tác tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp cần phải quan tâm hàng đầu vì đây là khâu cuối cùng của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và kết thúc một vòng luân chuyển vốn.
Như vây, tiêu thụ thành phẩm được coi là một trong những khâu nhạy cảm nhất, quyết định nhất tới sự tồn tại hay diệt vong của một doanh nghiệp. Tổ chức tốt công tác tiêu thụ thành phẩm đòi hỏi phải có sự giao nhận thông tin chính xác, nhanh chóng, kịp thời giữa doanh nghiệp với thị trường, giữa thị trường với doanh nghiệp. Với quan điểm đó, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm đã trở thành một công cụ quản lý quan trọng không chỉ đối với chủ doanh nghiệp mà cả với công tác vĩ mô của Nhà nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm cũng như để góp phần hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm nên qua thời gian nghiên cứu lý luận ở nhà trường và thực tập tại công ty Dệt Kim Thăng Long Hà Nội em đã chọn đề tài: “Công tác hạch toán kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty Dệt Kim Thăng Long” để nghiên cứu.
Khoá luận này bao gồm 3 phần chính:
Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về công tác hạch toán kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại công ty Dệt Kim Thăng Long.
Phần III: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty Dệt Kim Thăng Long.
Phần I: một số vấn đề lý luận chung về công tác hạch toán kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
I, ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
1, Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm:
1.1, Thành phẩm và vai trò của thành phẩm.
Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp bao gồm thành phẩm, nửa thành phẩm và lao vụ mà các đơn vị sản xuất ra để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong đó thành phẩm chiếm đại bộ phận.
Thành phẩm: là những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn chế biến cuối cùng của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ của đơn vị tiến hành sản xuất xong hoặc thuê ngoài đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật và nhập kho hoặc giao trực tiếp cho khách hàng.
Nửa thành phẩm: là những thành phẩm chưa qua giai đoạn chế biến cuối cùng của quá trình chế biến, nhưng do yêu cầu của sản xuất và tiêu thụ nên được nhập kho thành phẩm và khi bán cho khách hàng nửa thành phẩm cũng có ý nghĩa như thành phẩm.
Thành phẩm được biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Số lượng thành phẩm được xác định bằng các đơn vị đo lường như kg, lít, mét........Còn chất lượng thì lại được xác định bằng tỉ lệ phần trăm tốt hay xấu hoặc được phân cấp theo phẩm cấp.
Sản xuất sản phẩm, hàng hoá là một quá trình diễn ra một cách thường xuyên và có tính chất lượng, phân công lao động có tính chuyên môn hoá cao. Trong một ngành kinh tế, sản phẩm của công ty này có thể là vật liệu của công ty khác. Vì vậy thành phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế và bản thân mỗi doanh nghiệp.
Đối với DN, khối lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ là cơ sở để đánh giá quy mô sản xuất của đơn vị, tỷ trọng cung ứng của DN về sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân. Qua đó có những đánh giá, phân tích về tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đây là những thông tin quan trọng ảnh hưởng đến quan hệ của doanh nghiệp với các cơ quan quản lý của nhà nước, với các đối tác kinh doanh.
Đối với nhà nước, khối lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ là cơ sở quan trọng để Nhà nước xác định các khoản đóng góp nghĩa vụ của DN vào ngân sách Nhà nước, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Đối với xã hội, khối lượng thành phẩm hoàn thành của DN là nguồn hàng hoá tạo nên sự phong phú, đa dạng cho thị trường hàng hoá, đảm bảo sự cân đối cần thiết giữa tiền và hàng. Thành phẩm của các doanh nghiệp là nguồn của cải vật chất quan trọng không những cho tiêu dùng mà còn cho quá trình tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, thành phẩm còn là kết quả lao động, sáng tạo của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Vì vậy, công tác kế toán về thành phẩm phải luôn được quan tâm, đảm bảo an toàn tối đa cho thành phẩm , tránh mọi tổn thất làm ảnh hưởng xấu đến tài sản, tiền vốn và thu nhập của doanh nghiệp, cần phải quản lý chặt chẽ thành phẩm cả về chất lượng và số lượng để đảm bảo chữ tín trong doanh nghiệp.
1.2 Yêu cầu quản lý thành phẩm:
Như chúng ta đã biết, thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của tập thể người lao động, là cơ sở để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Mọi tổn thất của quá trình sản xuất thành phẩm trước hết ảnh hưởng đến doanh nghiệp và tiếp nữa sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của đơn vị khác. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra là phải quản lý tốt thành phẩm đi đôi với việc kiểm tra giám sát chặt chẽ về số lượng và về chủng loại thành phẩm góp phần nâng cao chất lượng quản lý. Để quản lý thành phẩm một cách chặt chẽ các doanh nghiệp cần phải làm tốt các yêu cầu sau:
- Trước hết phải quản lý về mặt số lượng. Muốn vậy phải thường xuyên phản ánh giám sát tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất; tình hình xuất - nhập - tồn kho - dự trữ thành phẩm để kịp thời phát hiện các trường hợp hàng hoá tồn đọng lâu trong kho không được tiêu thụ, tìm biện pháp giải quyết, tránh trường hợp ứ đọng vốn.
- Bên cạnh đó, phải quản lý chặt chẽ về mặt chất lượng thành phẩm. Tránh việc đưa ra thị trường các sản phẩm kém phẩm chất, bởi trong điều kiện hiện naynó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đi đôi với việc thường xuyên tăng cường chất lượng thành phẩm, doanh nghiệp cần phải thường xuyên cải tiến mẫu mã, chủng loại mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
2, Tiêu thụ thành phẩm và yêu cầu quản lý tiêu thụ.
2.1, Tiêu thụ thành phẩm và vai trò của tiêu thụ thành phẩm.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp chỉ có nhiệm vụ sản xuất ra thành phẩm, còn tiêu thụ thuộc về trách nhiệm của Nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ điều hành vĩ mô nền kinh tế thì các doanh nghiệp phải đảm nhiệm cả nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ. Đây là điều mới mẻ song cần thiết giúp các doanh nghiệp tự khẳng định mình và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Tiêu thụ là quá trình thực hiện trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình đó doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng, còn khách hàng trả cho doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán sản phẩm hàng hoá đó theo giá trị thoả thuận. Quá trình tiêu thụ kết thúc khi cả 2 điều kiện sau được đảm bảo:
-Doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm và quyền sở hữu cho người mua
-Đơn vị trả tiền mua hoặc chấp nhận trả tiền.
Điều trên có nghĩa là trong quá trình tiêu thụ phải có sự thay đổi thoả thuận giữa bên mưa và bên bán, phải có sự thay đổi về quyền sở hữu sản phẩm và cả hai bên thực hiện quá trình hàng và tiền.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh . Tiêu thụ thành phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa thành phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất và phân phối với một bên là tiêu dùng.
ở các doanh nghiệp tiêu thụ thành phẩm đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Khi thành phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ tức là nó được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, sự thích ứng với người tiêu dùng, uy tín của doanh nghiệp , chất lượng sản phẩm và sự hoàn thiện các hoạt động của đơn vị. Nói cách khác, tiêu thụ thành phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh, những điểm yếu của doanh nghiệp.
Thông qua công tác tiêu thụ thành phẩm các nhà sản xuất có thể hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ thành phẩm có vai trò trong việc cân đối cung cầu nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nó giúp cho doanh nghiệp xác định được phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ mỗi loại thành phẩm còn có thể dự đoán được nhu cầu tiêu dùng của xã hội nối chung và từng khu vực nói riêng.
2.2, Yêu cầu quản lý tiêu thụ.
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quố dân, thực hiện tốt khâu tiêu thụ hàng hoá là cơ sở cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng. Giữa sản xuất và tiêu dùngcó quan hệ chặt chẽ, do đóviệc quản lý công tác tiêu thụ là cần thiết.
Để quản lý tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, cần phải quản lý chặt chẽ khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá thành, giá bán, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán theo hợp đồng đã ký kết và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra để đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất và việc sử dụng vốn có hiệu quả thì trong công tác tiêu thụ cần biết rõ từng khoản thu nhập, nguyên nhân tăng, giảm từng khoản đó đồng thời phân tích các nguyên nhân để tìm ra biện pháp có hiệu quả cao nhất.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần việc sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ và thực hiện tốt khâu tiêu thụ là sự sống còn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp. Vì thế, trong quản lý tiêu thụ kế toán doanh nghiệp cần phải tổ chức hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm một cách khoa học, hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
3, Vai trò của kế toán đối với việc quản lý thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là khâu động của hoạt động sản xuất kinh doanh trong xí nghiệp, vì quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra sản phẩm mà phải tiêu thụ kịp thời. Giữa kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ luôn có mối q uan hệ mật thiết, trong đó sản xuất là cái gốc của tiêu thụ. Nếu sản xuất không hoàn thành thì tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, bởi vậy kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm luôn gắn liền với nhau và có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thật vậy, thông qua số liệu của kế toán mà giám đốc xí nghiệp và cơ quan cấp trên có thể biết được mức độ hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp về sản xuất sản phẩm, quá trình tiêu thụ để từ đó phát hiện kịp thời những sai sót, mất cân đối ở từng khâu của quá trình lập và thực hiện kế hoạch, đảm bảo sự cân đối thường xuyên giữa các yếu tố của quá trình tiêu thụ, dự trữ...Để đạt được yêu cầu đó, công tác tổ chức quản lý phải thật sự khoa học, đặc biệt là kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm .
Để phát huy vai trò của kế toán đối với công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
1, Phản ánh, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm về số lượng, chất lượng và chủng loại; tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm.
2, Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ, doanh thu tiêu thụ, tình hình thanh toán tiền hàng, thanh toán với ngân sách và xác định chính xác kết quả tiêu thụ.
3, Phản ánh và giám đốc tình hình thu nhập, cung cấp số liệu cho việc quyết toán đầy đủ và đúng hạn.
4, Lập và gửi báo cáo kết quả kinh doanh đúng chế độ, kịp thời. Định kỳ tiến hành phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ của xí nghiệp.
5, Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý chặt chẽ thành phẩm tiêu thụ trong xí nghiệp.
Song toàn bộ vai trò và nhiệm vụ đã nêu trên của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm chỉ thực sự phát huy tác dụng khi cán bộ kế toán nắm vững nội dung việc tổ chức công tác kế toán.
II, Nội dung công tác kế toán thành phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp.
1, Yêu cầu của công tác kế toán thành phẩm.
Để quản lý và hạch toán chặt chẽ thành phẩm, công tác kế toán thành phẩm phải được tổ chức theo nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Phải tổ chức hạch toán thành phẩm theo chủng loại thành phẩm, theo đúng số lượng, chất lượng thành phẩm.
Nguyên tắc 2: Phải kết hợp việc ghi chép của kế toán thành phẩm với việc ghi chép ở kho và ở phân xưởng sản xuất, đảm bảo cho thành phẩm được phản ánh kịp thời, chính xác phục vụ cho việc quản lý thành phẩm được chặt chẽ.
Nguyên tắc 3: Đối với thành phẩm trong xí nghiệp công nghiệp, khi nhập kho, xuất kho phải ghi theo giá thành thực tế.
Nguyên tắc 4: Sự biến động của thành phẩm có rất nhiều nguyên nhân, vì vậy để phản ánh được tình hình biến động của thành phẩm phải tổ chức công tác ghi chép ban đầu một cách khoa học và hợp lý.
2, Đánh giá thành phẩm.
Đánh giá thành phẩm là xác định giá trị của chúng theo những nguyên tắc nhất định
Đối với thành phẩm phải xác định theo giá thực tế, xong trong doanh nghiệp có nhiều loại thành phẩm và có sự biến động thường xuyên. Vì vậy,để đáp ứng yêu cầu hạch toán hàng ngày, doanh nghiệp có thể sử dụng giá hạch toán để hạch toán chi tiết thành phẩm. Nhưng đến cuối tháng hoặc cuối kỳ hạch toán kế toán phải tính hệ số giá để chuyển giá hạch toán sang giá thực tế.
Giá hạch toán của thành phẩm là giá ổn định trong một niên độ kế toán, do phòng kế toán quy định. Giá hạch toán có thể là giá thành kế hoạch hoặc giá nhập kho thống nhất quy định.
2.1 Đánh giá thành phẩm nhập kho.
Trị giá thành phẩm phản ánh trong kế toán tổng hợp phải được phản ánh theo nguyên tắc giá thực tế hay còn gọi là giá vốn thực tế có nghĩa là dánh giá theo giá thành sản xuất. Giá thực tế của thành phẩm nhập kho được xác định với từng nguồn nhập:
- Thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra được đánh giá theo giá thành công xưởng thực tế.
Zcxtt =CPNVL trực tiếp +CPNC trực tiếp + CPSX chung
-Thành phẩm thuê ngoài gia công được đánh giá theo giá thành thực tế gia công bao gồm: CPNVL trực tiếp đem gia công, chi phí thuê nhân công gia công và các chi phí có liên quan đến thành phẩm thuê gia công như chi phí vận chuyển, bảo quản...
-Đối với thành phẩm mua ngoài thì được tính theo trị giá vốn thực tế bao gồm giá mua ghi trên hoá đơn (bao gồm cả thuế ) cộng với các chi phí mua thực tế như chi phí vận chuyển, bảo quản, chi phí thu mua...trừ đi khoản giảm giá (nếu có). Như vậy, ta có thể nhận thấy chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp được coi là chi phí làm giảm lợi tức trong kỳ mà chúng phát sinh, chứ không cấu tạo nên thành phẩm. Do vậy, các chi phí này được khấu trừ vào lợi tức của kỳ hạch toán đó để tính ra lợi tức ròng.
2.2 Đánh giá thành phẩm xuất kho.
Đối với thành phẩm xuất kho, các doanh nghiệp có thể tuỳ theo đặc điểm thành phẩm, tình hình quản lý của mình mà lưqạ chọn phương hạch toán thích hợp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán.
Các doanh nghiệp có thể chọn một trong các phương pháp tính giá thành thực tế của thành phẩm xuất kho sau đây:
(1) Phương pháp bình quân gia quyền.
Đơn giá bình quân gia quyền
=
Giá thành thực tế thành
phẩm tồn kho đầu kỳ
Số lượng thành phẩm tồn kho đầu kỳ
+
+
Giá thành thực tế thành
phẩm nhập kho tkỳ
Số lượng thành phẩm
nhập tkỳ
Giá thành thực tế thành phẩm xuất bán trong tháng
=
Đơn giá bình quân gia quyền
*
Số lượng thành phẩm xuất bán trong tháng
Phương pháp này tính toán đơn giản nhưng thực hiện khá phức tạp vì doanh nghiệp phải theo dõi chặt chẽ về số lượng của từng sản phẩm Nhập- Xuất- Tồn và phải sử dụng giá thực tế để ghi sổ.
(2) Phương pháp nhập trước, xuất trước:
Nguyên tắc thực hiện là nhập kho theo giá nào xuất theo giá đó và hàng nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết lô hàng nhập trước mới đến lô hàng nhập lần sau.
Phương pháp này phù hợp với việc bảo quản hàng tại kho. Giá tồn kho và giá bán ra được phản ánh chính xác nhưng khó khăn trong hạch toán chi tiết. Do vậy, phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có chủng loại mặt hàng ít, việc nhập xuất không thường xuyên.
(3) Phương pháp nhập sau, xuất trước:
Theo phương pháp này doanh nghiệp tiến hành xuất lô hàng của lần nhập sau cùng trước, nhập theo giá nào xuất theo giá đó.
Sử dụng phương pháp này thì thành phẩm trong doanh nghiệp phải được phản ánh một cách chính xác theo từng lô hàng nhập vào, bán ra. Phương phấp này thể hiện đầy đủ nhất nguyên tắc phù hợp, nghĩa là trị giá vốn của hàng bán ra phù hợp với doanh thu tạo ra trong kỳ nên nó tạo điều kiện thuận lợicho doanh nghiệp trong hạch toán kế toán cũng như trong kế hoạch tiêu thụ. Tuy nhiên phương pháp này không phù hợp với việc bảo quản hàng hoá tại kho.
(4) Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này thành phẩm được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp điều chỉnh) phương pháp này thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có tính tách biệt.
Khi sử dụng phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, theo dõi chặt chẽ các loại thành phẩm theo từng lô. Khi xuất kho thành phẩm theo lô nào thì căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho thực tế của lô hàng đó để tính ra trị giá hàng xuất kho.
(5) Phương pháp giá hạch toán:
Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, khối lượng, chủng loại mặt hàng nhiều, tình nhập- xuất diễn ra thường xuyên nên việc xác định giá thực tế thành phẩm xuất kho rất khó khăn. Bên cạnh đó, giá thành thực tế lại chỉ có thể tính vào cuối tháng. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, công tác kế toán doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp giá hạch toán để hạch toán tình hình nhập xuất hàng ngày. Cuối kỳ kế toán phải điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế. Việc điều chỉnh này căn cứ vào hệ số giá. Hệ số giá được tính bằng công thức sau:
Hệ số giá
=
Giá ttế của thành phẩm tồn đầu kỳ
Giá hạch toán của thành phẩm tồn đkỳ
+
+
Giá ttế của thành phẩm nhập tkỳ
Giá hạch toán của thành phẩm tồn tkỳ
Sau đó căn cứ vào giá hạch toán thành phẩm xuất kho và hệ số giá ta tính được giá thực tế của thành phẩm xuất kho bằng công thức sau:
Giá thực tế của thành phẩm xuất kho
=
Hệ số giá
*
Giá hạch toán của thành phẩm xuất kho
3, Chứng từ sử dụng:
Để quản lý chặt chẽ thành phẩm, các hoạt động nhập, xuất kho thành phẩm đều phải lập chứng từ kế toán một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời,đúng với quy định của chế độ ghi chép ban đầu. Những chứng từ này sẽ là cơ sở pháp lý để tiến hành hạch toán nhập, xuất kho thành phẩm, đồng thời là chứng cứ pháp lý khi xảy khiếu kiện . Các chứng từ kế toán được sử dụng trong kế toán thành phẩm là:
Phiếu nhập kho
Biên bản kiểm kê kho
Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho
Phiếu xuất kho
4, Kế toán chi tiết thành phẩm.
Kế toán chi tiết thành phẩm là kế toán theo từng danh điểm, từng loại thành phẩm, từng kho thành phẩm, theo từng người chịu trách nhiệm bảo quản. Kế toán chi tiết thành phẩm có thể tiến hành theomột trong ba phương pháp sau:
4.1 Phương pháp ghi thẻ song song.
Trong phương pháp này, việc hạch toán thành phẩm được tiến hành đồng thời ở cả kho và phòng kế toán.
ở kho: Việc ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm hàng ngày do thủ kho tiến hành trên thẻ kho và chỉ ghi theo số lượng căn cứ vào số liệu trên các chứng từ nhập, xuất kho (sau khi đã kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chứng từ)
ở phòng kế toán: Kế toán sử dụng sổ chi tiết kế toán thành phẩm để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn theo chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Cuối tháng, kế toán cộng sổ chi tiết thành phẩm của mình và tiến hành kiểm tra, đối chiếu với thẻ kho do kế toán đưa lên. Trình tự ghi chép (sơ đồ số 1.1)
Sơ đồ số 1.1
Thẻ kho
Ctừ nhập
Sổ KT chi tiết
Ctừ xuất
BK tổng hợp N-X-T
Kế toán tổng hợp
:Ghi hàng ngày
: Ghi cuối tháng
: Đối chiếu, kiểm tra
Phương pháp này ghi chép đơn giản, dễ kiểm tra, dễ đối chiếu. Tuy nhiên, việc ghi chép ở kho và phòng kế toán còn bị trùng lắp về chỉ tiêu số lượng. Việc kiểm tra đối chiếu được tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế chức năng kiểm tra kịp thời cuả kế toán. Do vậy, phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có ít chủng loại thành phẩm, các nghiệp vụ nhập, xuất ít, không thường xuyên.
4.2 Phương pháp đối chiếu luân chuyển
ở kho: vẫn mở thẻ kho để ghi chép, theo dõi về mặt số lượng, tình nhập,xuất kho hàng ngày của từng loại thành phẩm.
ở phòng kế toán: Không sử dụng thẻ kho hay sổ chi tiết thành phẩm mà mở sổ đối chiếu luân chuyển để hạch toán số lượng và số tiền của từng loại thành phẩm nhập, xuất theo từng kho. Sổ được mở cho cả năm, mỗi tháng chỉ ghi một lần vào cuối tháng. Trên cơ sở các chứng từ nhập, xuất kho kế toán lập ra các bảng kê nhập, xuất lấy dòng tổng cộng ghi vào sổ đối chiếu một lần vào cuối tháng, sau đó tiến hành kiểm tra, đối chiếu giữa thẻ kho và sổ đối chiếu luân chuyển của phòng kế toán. Trình tự ghi chép (sơ đồ số 1.2)
Sơ đồ số 1.2
Bảng kê nhập
Phiếu nhập kho
Phiếu xuất kho
Sổ đối chiếu luân chuyển
Kế toán tổng hợp
Thẻ kho
Bảng kê xuất
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Phương pháp này giúp khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi một lần vào cuối tháng. Song việc ghi sổ vẫn bị trùng lắp giữa kho và phòng kế toán về chỉ tiêu hiện vật. Việc tiến hành kiểm tra, đối chiếu diễn ra vào cuối tháng nên cũng hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán. Do vậy, phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp sản xuất không nhiều nghiệp vụ nhập, xuất.
4.3 Phương pháp sổ số dư.
Phương pháp này được tiến hành như sau:(Sơ đồ số 1.3)
ở kho: Thủ kho cũng dùng thẻ kho để ghi chéptình hình nhập, xuất, tồn kho nhưng cuối tháng phải ghi số tồn kho đã tính được sang sổ số dư vào cột số lượng.
ở phòng kế toán: Kế toán mở sổ số dư theo từng kho chung cho cả năm để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn. Từ các bảng kê nhập, bảng kê xuất kế toán lập luỹ kế nhập, luỹ kế xuất theo từng nhóm sản phẩm theo chỉ tiêu giá trị.
Cuối tháng, kế toán căn cứ vào số liệu trên cột số lượng và số tồn cuối tháng do thủ kho ghi trên sổ số dư để tính ra giá trị và ghi vào cột sổ tiền trê sổ số dư. Việc kiểm tra, đối chiếu được căn cứ vào cột số tồn trên sổ số dư và bảng kê tổng hợp nhập, xuất, tồn và số liệu kế toán tổng hợp.
Sơ đồ số 1.3
Ctừ xuất
BK xuất
Bảng luỹ kế xuất
Ctừ nhập
Bảng luỹ kế nhập
BK nhập
BK tổng hợp
N-X-T
Sổ số dư
Thẻ kho
Kiểm tra, đối chiếu
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Phương pháp này có ưu điểm là tránh được sự ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán, công việc được tiến hành đều trong tháng. Tuy nhiên, do kế toán chỉ theo dõi về mặt giá trị nên muốn biết số hiện có và tình hình tăng giảm thành phẩm về mặt hiện vật thì phải xem số liệu của thẻ kho. Do vậy, việc kiểm tra của kế toán sẽ kém hiệu quả, công việc phát hiện sai sót, nhầm lẫn giữa thủ kho và kế toán gặp khó khăn, phức tạp. Như vậy phương pháp này thích hợp cho những doanh nghiệp có khối lượng các nghiệp vụ nhập, xuất thành phẩm lớn, thường xuyên sử dụng giá hạch toán trong công tác hạch toán công tác hạch toán chi tiết thành phẩm. Đồng thời cán bộ kế toán phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có ý thức, có trách nhiệm trong việc tính toán sổ sách.
5, Kế toán tổng hợp thành phẩm.
5.1 Các tài khoản sử dụng trong kế toán tổng hợp thành phẩm.
Trong kế toán tổng hợp thành phẩm kêa toán sử dụng các tài khoản chủ yếu sau:
Tài khoản 155- thành phẩm: tài khoản này được sử dụng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại thành phẩm cuả doanh nghiệp.
Tài khoản 632- giá vốn hàng bán: tài khoản này dùng để phản ánh trị giá vốn của thành phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ xuất bán trong kỳ.
Tài khoản 157- Hàng gửi đi bán: tài khoản này được dùng để phản ánh trị giá của hàng hoá, sản phẩm gửi đi bán, hoặc đã chuyển cho khách hàng, hoặc nhờ bán đại lý, ký gửi, giá trị của lao vụ, dịch vụ đã bàn giao cho khách nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.
5.2 Phương pháp hạch toán:
5.2.1 Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên.(sơ đồ số 1.4)
Sơ đồ số 1.4
hạch toán tổng hợp thành phẩm
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 154 TK 632
Giá vốn của thành phẩm tiêu thụ ngay
TK 155
TP hoàn thành
nhập kho TP xuất bán
TK 632,157 TK 157
SP gửi bán,ký gửi, gửi đlý TP gửi đi bán
hàng đã bán bị trả lại TK 128,222
TP góp vốn liên doanh
TK 412
CL giảm CL tăng
TK 642,3381 TK 642,1381
TP thừa khi kiểm kê TP thiếu khi kiểm kê
Ưu điểm của phương pháp là theo dõi được thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm theo các chứng từ kế toán. Từ đó nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp, giúp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp có những quyết định kịp thời, hợp lý về tình hình sản xuất nói chung, về khâu quản lý và tiêu thụ nói riêng.
Nhược điểm: Đối với một số mặt hàng cồng kềnh, điều kiện cân đong, đo đếm khi nhập, xuất, tồn không được chính xác thì trị giá hàng xuất kho theo chứng từ nhiều khi xa rời thực tế.
Tuy nhiên, do tác dụng to lớn của phương pháp này đối với công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp sử dụng phương pháp này là phổ biến.
5.2.2 Trường hợp doanh nghiệp áp dụng hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.(sơ đồ số 1.5)
Sơ đồ số 1.5
hạch toán tổng hợp thành phẩm
(Theo phương pháp kiểm kê định kỳ)
TK 155, 157 TK 632
TK 631
SP hoàn thành nhập kho
Kết chuyển giá vốn thành phẩm tồn kho định khoản đkỳ
Kết chuyển giá vốn thành phẩm tồn kho cuối kỳ
(căn cứ vào kết quả kiểm kê)
Ưu điểm: sử dụng phương pháp này thì việc ghi chép của kế toán đơn giản hơn, gọn nhẹ hơn do giảm được lao động và chi phí hạch toán.
Nhược điểm: theo phương pháp này thì trị giá thành phẩm xuất kho sẽ không chính xác nếu không hạch toán riêng được thành phẩm hư hao, mất mát. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không tổ chức tốt công tác quản lý thành phẩm tại kho, nhân viên quản lý thiếu tinh thần trách nhiệm thì tổn thất về thành phẩm rất lớn mà không xác định được các cá nhân liên quan. Vì vậy phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có sản phẩm công kềnh, cân đo đong đếm không được chính xác.
5.2.3 Hệ thống sổ sách kế toán sử dụng trong quá trình tổng hợp thành phẩm.
a, Theo hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ
Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ thường sử dụng một số sổ kế toán chủ yếu sau:
- Bảng kê số 8: Dùng để tổng hợp tình hình nhập -xuất - tồn kho thành phẩm theo giá hạch toán và theo giá thực tế.
- Bảng kê số 9: Dùng để tính giá tành thực tế thành phẩm
-Sổ cái TK 155- Thành phẩm
-Nhật ký chứng từ số 8 ( phần ghi có TK 155- thành phẩm)
b, Theo hình thức sổ kế toán nhật ký chứng từ ghi sổ.
Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ ghi sổ kế toán thường sử dụng một số sổ chủ yếu sau:
-Chứng từ ghi sổ: Phản ánh các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến thành phẩm, theo cùng một nội dung kinh tế có chứng từ gốc cùng loại Nợ TK 155, Có các TK liên quan hoặc có TK 155, Nơ các TK liên quan.
-Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ: Dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian và dùng để quản lý chưngs tưg ghi sổ.
- Sổ chi tiết vật tư, sản phẩm hàng hoá.
c, Theo hình thức sổ kế toán Nhật ký sổ cái.
Theo hình thức này, kế toán tổng hợp thành phẩm sử dụng một số sổ kế toán chủ yếu:
-Sổ Nhật ký sổ cái: Dùng để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian, trong đó có thành phẩm.
-Sổ chi tiết vật liệu, sản phẩm hàng hoá: Dùng để phản ánh chi tiết cụ thể từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh về thành phẩm mà trên Nhật ký sổ cái chưa phản ánh được.
d, Theo hình thức sổ kế toán Nhật ký chung.
- Sổ Nhật ký chung: Dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian (trong đó có các nghiệp vụ về thành phẩm)
-sổ chi tiết vật liệu, sản phẩm, hàng hoá: Dùng để ghi chép và phản ánh tình hình Nhập, xuất, tồn kho thành phẩm theo hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị.
-Sổ cái TK 155.
6. Kế toán dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Thành phẩm để lâu trong kho có thể bị hư hỏng, hao hụt hoặc giẩm sút phẩm chất do bảo quản không tốt, hoặc có thể do bị lỗi mốt so với thị trường hiện tại, Do vậy, số thành phẩm tồn kho không giữ được giá gốc, khi bán ra sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo có thể thu hồi được số vốn tối thiểu bỏ ra đối với thành phẩm tồn kho trong hệ thống kế toán đã sử dụng TK 159- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho để giảm bớt rủi ro cho hàng tồn kho.
6.1 Nguyên tắc hạch toán TK 159- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
-Dự phòng giảm giá hàng tồn kho chỉ được lập vào cuối niên độ kế toán trước khi lập báo cáo tài chính.
-Việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải tính cho từng sản phẩm tồn kho, nếu có bằng chứng chắc chắn về sự giảm giá thường xuyên có thể sảy ra trong niên độ kế toán.
- Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào số lượng, giá trị hàng tồn kho xác định khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho niên độ kế toán tiếp theo.
+ Nếu số dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho năn sau nhỏ hơn số đã lập cuối năm trước chưa sử dụng, thì số chênh lệch được hoàn nhập vào kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Nếu ngược lại, thì căn cứ vào số chênh lệch để lập dự phòng bổ sung dự phòng giảm giá hàng tồn kho cuối niên độ kế toán.
6.2 Phương pháp lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Mức dự phòng cần lập năm tới cho hàng tồn kho
=
Số lượng hàng tồn kho cuối niên độ
*
Mức giảm giá của hàng tồn kho
6.3 Phương pháp hạch toán
- Cuối niên độ, kế toán hoàn nhập toàn bộ số dự phòng đã lập năn trước, kế toán ghi:
Nợ TK 159- Dự phòng giẩm giá hàng tồn kho
Có TK 721- Thu nhập bất thường
-Đồng thời trích lập dự phòng cho năn tới
Nợ TK 642(6426)- Chi phí QLDN
Có TK 159- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Trong niên độ kế toán tiếp theo mọi biến động về giá cả hàng tồn kho ( tăng, giảm) phản ánh ở TK 412- Chênh lệch đánh giá lại tài sản.
III, Nội dung công tác tiêu thụ thành phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp.
1, Tiêu thụ th._.ành phẩm và các trường hợp hàng hoá được xác định là tiêu thụ
Tiêu thụ thành phẩm là quá trình doanh nghiệp giao thành phẩm cho khách hàng đã thu được tiền về hoặc khách hàng đã chấp nhận thanh toán. Thành phẩm được coi là tiêu thụ trong bốn trường hợp sau:
(1) Thực hiện bán sản phẩm theo phương thức trả tiền ngay: Là phương thức thanh toán trực tiếp giữa người mua và người bán. Khi bên bán chuyển giao hàng hoá, dịch vụ thì bên mua xuất tiền, ngân phiếu để trả trực tiếp tương ứng với giá cả mà hai bên đã thoả thuận. Thanh toán theo hình thức này đảm bảo khả năng thu tiền nhanh trách được rủi ro trong thanh toán nhưng thường chỉ áp dụng trong trường hợp hàng hoá có giá trị không lớn.
(2)Bán hàng theo phương thức trả chậm: Theo phương thức này, khi người bán giao hàng cho người mua thì người mua không thanh toán ngay mà ký chấp nhận nợ từ đó hình thành khoản công nợ phải thu của người mua. Hết hạn tín dụng theo thoả thuận bên mua có nghĩa vụ phải thanh toán hết số tiền hàng sang bên bán. Việc thanh toán có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như tiền mặt, ngân phiếu...v v
(3)Khách hàng ứng trước tiền hàng: Khi khách hàng ứng trước tiền cho người bán để mua hàng thì được coi là tiêu thụ
(4) Hình thức hàng đổi hàng: Theo hình thức này, khi bên bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua thì bên mua xuất giao cho bên bán một lô hàng có giá trị tương ứng với giá trị lô hàng đã nhận được từ bên bán. Trong trường hợp này người bán đồng thời là người mua. Hiện nay, đôi lúc có thể dung tiền để thanh toán một phần thiếu hụt.
Tiêu thụ trong các xí nghiệp công nghiệp chủ yếu là tiêu thụ những sản phẩm hàng hoá do xí nghiệp sản xuất ra hoặc sản phẩm thu được do liên doanh liên kết, ngoài ra còn tiêu thụ vật tư hàng hoá, lao vụ dịch vụ phục vụ bên ngoài.
Để phản ánh và giám đốc tình hình tiêu thụ, kế toán sử dụng các TK: 632-Giá vốn hàng bán; TK 155- thành phẩm ; TK154- sản phẩm dở dang; TK 511-Doanh thu; TK 532-Giảm giá hàng bán ;TK 531-Hàng bị trả lại; TK 641-Chi phí bán hàng; TK 642- Chi phí quản lý doanh nghiệp ; TK 331-Phải trả người mua; TK 333- Thanh toán với Nhà nước và một số TK liên quan khác.
Trong quá trình tiêu thụ, các doanh nghiệp cần phải quản lý, ghi chép và phản ánh được giá thành công xưởng thực tế của số sản phẩm xuất kho, chi phí lưu thông, doanh thu tiêu thụ sản phẩm, thuế phải nộp cho Nhà nước.
Khi hàng hoá, sản phẩm được xác định là tiêu thụ, kế toán ghi nhận doanh thu bán hàng. Doanh thu bán hàng là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp lao vụ dịch vụ cho khách hàng.
Đối với doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, thì doanh thu bán hàng là doanh thu không có thuế GTGT và được xác định là:
Doanh thu bán hàng
=
Số lượng thành phẩm tiêu thụ
*
Đơn giá bán (không có thuế GTGT)
Đối với doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, doanh thu bán hàng là doanh thu bao gồm cả thuế.
Trong quá trình tiêu thụ còn phát sinh các khoản hàng bán bị trả lại, hồi khấu số tiền thưởng cho khách hoặc giảm giá hàng bán do hàng kém phẩm chất, không đúng chủng loại...vv. Những khoản chi phí này được trừ vào tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ để tính doanh thu thuần.
2.Tổ chức kế toán bán hàng
2.1 Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ theo phương pháp kê khai thường xuyên trong những doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Trong quá trình bán hàng, tuỳ theo từng phương thức tiêu thụ sản phẩm, hàng mà kế toán tiến hành hạch toán kế toán.
Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong trường hợp này thường tiến hành theo những phương thức tiêu thụ chủ yếu sau:
2.1.1 Phương thức bán hàng trực tiếp: (sơ đồ số1.6)
Phương thức tiêu thụ trực tiếp là phương thức giao hàng cho người mua (hay trực tiếp tại các phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Người mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán số hàng mà người bán đã giao. Số hàng khi bàn giao cho khách được chính thức coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hữu về số hàng này.
Sơ đồ số 1.6
(3)
TK 154,155,156 TK632 TK 911 TK 531,532 TK 512,511 TK111,112,131
(1) (6) (4) (2)
TK641
TK 811
(8) (7)
TK642
TK3331 (11)
(9) (5)
TK421
(10a)
(10b)
Diễn giải:
(1): Trị giá thực tế của hàng bán
(2): Doanh thu bán hàng thu được
(3): Các khoản bán hàng thu được
(4): kết chuyển các khoản giảm giá
(5): Thuế GTGT phải nộp
(6): Kết chuyển giá vốn hàng bán
(7): Kết chuyển doanh thu thuần
(8): Kết chuyển chi phí bán hàng
(9): Kết chuyển chi phí quản lý doanh nghiệp
(10a): Kết chuyển chênh lệch thu >chi
(10b): Kết chuyển chênh lệch chi >thu
(11) : Chiết khấu thanh toán
2.1.2 Phương thức bán hàng gửi bán: (sơ đồ số1.7)
Đây là phương thức tiêu thụ chờ chấp nhận. Số hàng này được coi là tiêu thụ khi được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Sơ đồ số 1.7
TK 811
TK154,155,156 TK157 TK632 TK 911 TK511 TK111,112,131
(1) (3) (5) (4) (2) (7)
TK 3331
(6)
Diễn giải:
(1)Xuất hàng gửi cho người bán
(2)Doanh thu tiêu thụ
(3)Giá vốn của hàng đã tiêu thụ
(4)Kết chuyển doanh thu thuần
(5)Kết chuyển giá vốn hàng bán
(6)Thuế GTGT phải nộp
(7)Chiết khấu thanh toán
2.1.3 Phương thức giao hàng đại lý.
Theo hình thức này doanh nghiệp giao hàng cho cơ sở nhận đại lý. Bên nhận đại lý trực tiếp bán hàng và thanh toán tiền hàng cho bên giao đại lý. Số hàng gửi đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp giao đại lý và được xác định là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
-Tại đơn vị có hàng giao đại lý.( sơ đồ 1.8)
TK811
Sơ đồ 1.8:
TK 155,156 TK157 TK632 TK 911 TK 511 TK111,112,131
(1) (3) (5) (4) (2) (8)
(6) TK641
TK3331
(7)
Diễn giải:
(1)Kết chuyển doanh thu thuần
(2)Xuất hàng giao đại lý
(3)Doanh thu trừ hoa hồng
(4)Giá vốn hàng bán
(5)Kết chuyển giá vốn hàng bán
(6)Tiền trả hoa hồng
(7)Thuế GTGT phải nộp
(8)Chiết khấu thanh toán.
-Tại đơn vị nhận bán hàng đại lý.(sơ đồ 1.9)
Khi nhận được hàng căn cứ vào giá trị ghi trong hợp đồng kế toán ghi vào TK ngoài bảng
Nợ TK 003- hàng hoá nhận bán hộ, ký gửi
Khi bán được hàng hoặc số hàng nhận ký gửi không bán được trả lại cho khách ghi Có TK 003
Sơ đồ 1.9: Sơ đồ hạch toán bán hàng tại đơn vị bán hàng đại lý
TK911
TK331
TK511
TK111,112
TK333111
(1)
(3)
(4)
(2)
(5)
TK003
-Bán
-Trả lại
-nhận
(1) Hoa hồng được nhận
(2) Thuế GTGT phải nộp tính trên hoa hồng được hưởng
(3) Tiền bán cho bên đại lý
(4) Thanh toán tiền hàng cho chủ hàng.
(5) Kết chuyển doanh thu
2.1.4 Phương thức bán hàng trả góp: (sơ đồ 1.10)
Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Theo phương thức trả góp, về mặt hạch toán khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao được coi là tiêu thụ
Sơ đồ 1.10:
TK 111,112
TK 155,156 TK632 TK911 TK 511 TK 131
(3)
(2a)
(1) (5) (4)
TK 3331
(2c)
TK711
(2b)
Giá thực tế của hàng bán trả góp
(2a)Tiền bán hàng theo phương thức thông thường
(2b) Tiền lãi trả chậm
(2c) Thuế GTGT tính trên giá bán trả một lần
(3) Số tiền thu về hàng trả góp
(4)Kết chuyển doanh thu thuần
(5) Kết chuyển giá vốn hàng bán
2.1.5 Phương thức bán hàng nội bộ.(sơ đồ 1.11)
Tiêu thụ nội bộ là việc mua, bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ giữa đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc hay giữa các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một công ty, tổng công ty, tập đoàn. Ngoài ra còn bao gồm các khoản sản phẩm hàng hoá, dịch vụ xuất để biếu tặng, xuất dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Sơ đồ 1.11: Sơ đồ kế toán một số nghiệp vụ về tiêu thụ nội bộ
TK 154, 155
TK 632
TK 911
TK 512
TK 111
TK 111,112,1368
TK 531, 532
TK3331
(1) (6) (7) (2a)
(3) (5) (4)
(2b)
(1)Trị giá vốn của sản phẩm, hàng hoá cung cấp giữa các đơn vị nội bộ
(2a)Doanh thu tiêu thụ nội bộ chưa có thuế GTGT
(2b)Thuế GTGT phải nộp
(3) Các khoản làm giảm trừ doanh thu
(4)Số thu về hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ nội bộ
(5) Xác định doanh thu thuần
(6) Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ nội bộ trong kỳ.
(7) Kết chuyển doanh thu thuần.
2.1.6 Trường hợp doanh nghiệp nhận gia công vật tư, hàng hoá cho khách hàng.(sơ đồ 1.12)
Đây là phương thức doanh nghiệp nhận nguyên vật liệu, vật tư của khách hàng, sản xuất theo yêu cầu khách đã thoả thuận. Số hàng này thuộc quyền sở hữu của khách hàng. Khi giao lại hàng cho khách bên nhận gia công được nhận một khoản tiền gia công sản phẩm
Sơ đồ 1.12:
TK111, 112, 131
TK 157
TK 632
TK 911
TK511
TK154, 155
(1) (2) (6) (7)
TK 531, 532
TK 111, 112
(3)
(4) (5)
TK 3331
(1)Chuyển giao hàng cho người đặt và chờ nhận
(2)Người đặt hàng chấp nhận hàng
(3)Số thu về gia công hàng hoá
(4)Các khoản giảm trừ số thu về gia công
(5)Kết chuyển doanh thu thuần
(6)Kết chuyển giá vốn hàng gia công
(7)Kết chuyển doanh thu về gia công
2.1.7 Một số trường hợp tiêu thụ khác.(sơ đồ 1.13)
Diễn giải:
(1)Xuất thành phẩm để biếu tặng
(2)Doanh thu của hàng biếu tặng
(3)Trả lương cho công nhân viên bằng hàng hoá
(4)Thuế GTGT phải nộp của hàng biếu tặng
(5)Kết chuyển giá vốn của hàng biếu tặng
(6)Kết chuyển doanh thu thuần
Sơ đồ 1.13:
TK 154, 155
TK 632
TK 911
TK 511
TK 111, 112
TK 3331
TK 334
TK 133
(1) (5) (6) (2)
(3)
(4)
2.2 Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ theo phương pháp kê khai thường xuyên trong những doanh nghiệp tính thuế GTGT bằng phương pháp trực tiếp.(Sơ đồ 1.14)
Trong những doanh nghiệp này thì doanh thu bán hàng là doanh thu bao gồm cả thuế GTGT phải nộp.
Diễn giải:
(1) Xuất hàng phục vụ khách hàng
(2)Doanh thu hàng hoá bao gồm cả thuế GTGT
(3)Doanh thu nhận bằng hàng hoá
(4)Thuế tiêu thụ đặc biệt
(5)Các khoản khấu trừ
(6)Xác định số thuế GTGT phải nộp
(7)Kết chuyển giá vốn hàng bán
(8)Kết chuyển doanh thu thuần
(9)Kết chuyển, xác định KQKD
Sơ đồ 1.14:
TK 154, 155
TK 632
TK 911
TK 511, 512
TK 111, 112, 131
TK 333
TK 152, 153
TK 531, 532
TK 3331
TK 642
TK 911
TK811
(1) (7) (8) (2) (10)
(3)
(4)
(5)
(9)
(6)
2.3 Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, lao vụ ở các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.(Sơ đồ 1.15)
Sơ đồ 1.15:
TK 155
TK811
TK 511
TK 111, 112
TK 155, 157
TK 632
(1) (4)
(7a)
TK 3331
TK 911
TK 157
(5) (10) (8)
(2)
TK 631
(7b)
(3)
TK 611
TK 531, 532
TK 111, 112, 131
(11)
(12)
(9) (6)
(1) Kết chuyển trị giá vốn thành phẩm tồn kho đầu kỳ
(2) Kết chuyển trị giá vốn của hàng gửi bán chưa bán được đầu kỳ
(3) Kết chuyển giá thành sản phẩm, dịch vụ sản xuất hoàn thành trong kỳ
(4) Kết chuyển giá vốn hàng đã tiêu thụ trong kỳ
(5) Kết chuyển giá vốn hàng đã tiêu thụ trong kỳ
(6) kết chuyển xác định doanh thu thuần
(7a) Doanh thu bán hàng chưa thuế GTGT
(7b) Thuế GTGT phải nộp
(8) Tổng giá thanh toán
(9) Các khoản giảm trừ doanh thu
(10) Kết chuyển xác định kết quả kinh doanh
(11) Giá trao đổi của hàng nhận về dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
(2 Giá trao đổi của hàng nhận về dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
2.4 Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê và tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.(sơ đồ 1.16)
Sơ đồ 1.16: Phương pháp hạch toán theo kiểm kê định kỳ và thuế GTGT trực tiếp
TK 531, 532
TK 111, 112, 131
TK 631
TK 157
TK 911
TK 111, 112
TK 511
TK 811
TK 155, 157
TK 632
TK 155
(1) (7) (4) (10)
(2) (8) (9)
(3)
(5) (6)
Kết chuyển trị giá vốn thành phẩm tồn kho đầu kỳ
Kết chuyển trị giá vốn của hàng gửi bán chưa bán được đầu kỳ
Kết chuyển giá thành sản phẩm, dịch vụ sản xuất hoàn thành trong kỳ
Doanh thu bán hàng bao gồm cả thuế VAT
Các khoản giảm trừ doanh thu
kết chuyển xác định doanh thu thuần
Kết chuyển hàng tồn kho và hàng gửi bán còn lại cuối kỳ
Kết chuyển trị giá vốn hàng đã xuất trong kỳ
Kết chuyển xác định kết quả kinh doanh
(10) Chiết khấu thanh toán
2.5 Chứng từ sử dụng trong kế toán bán hàng
Để thực hiện hạch toán một cách chính xác, kịp thời đầy đủ kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ thường sử dụng một số chứng từ chủ yếu sau:
Phiếu xuất kho mẫu
Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ
Hoá đơn GTGT
Phiếu thu ...
2.6 Hệ thống sổ sách kế toán sử dụng theo dõi quá trình bán hàng và sử dụng kết quả tiêu thụ
Hình thức sổ Nhật ký chứng từ
Theo hình thức này thì kế toán thường phải sử dụng một số sổ kế toán chủ yếu:
Sổ chi tiết dùng chung cho các TK liên quan. Mỗi tháng lập một lần. Nội dung của sổ chi tiết dùng làm căn cứ ghi vào các bảng kê và Nhật ký chứng từ liên quan
Sổ chi tiết bán hàng; sổ này được mở cho từng thành phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã bán hoặc đã cung cấp cho khách hàng
Sổ chi tiết với người mua: số này được mở chi tiết theo từng đối tượng
Bảng kê số 5: dùng để tổng hợp phát sinh có của các TK142,TK335, 338 đối ứng với các TK 641, 642, 241.
Bảng kê số 6: Phản ánh các thành phẩm, hàng hoá gửi đại lý nhờ bán hộ hoặc gửi bán.
Bảng kê số 11: Phản ánh tình hình thanh toán tiền hàng với người mua và người đặt hàng.
Sổ cái TK 157, 131, 511, 512, 911, 531, 532.
Nhật ký chứng từ số 8
Sổ theo dõi thuế GTGT: Phản ánh số thuế GTGT đã nộp, phải nộp, còn phải nộp
Nhật ký chứng từ số 10: theo dõi phản ánh TK 133 và TK 3331
Hình thức sổ kế toán Nhật ký chung:
Trong hình thức này kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ thường phải sử dụng một số sổ kế toán chủ yếu
Sổ Nhật ký chung: dùng để ghi chép các nghiệp vụ kế toán phát sinh theo thứ tự thời gian và là căn cứ để ghi sổ cái
Sổ Nhật vký thu (chi) tiền: dùng để ghi chép các nghiệp vụ thu chi tiền của đơn vị
Sổ Nhật ký bán hàng: dùng để ghi chép các nghiệp vụ của đơn vị theo hình thức thu tiền sau hoặc trong trường hợp khách hàng ứng trước tiền mua hàng.
Sổ cái các TK131, 511, 531, 532, 133, 331...
Sổ chi tiết thanh toán với người mua, với ngân sách nhà nước
Sổ chi tiết tiêu thụ
hình thức sổ kế toán Nhật ký - sổ cái
Trong hình thức này thường sử dụng các sổ kế toán chủ yếu
Sổ Nhật ký - Sổ cái
Sổ chi tiết thanh toán với người mua, với ngân sách
Sổ chi tiết bán hàng
Sổ theo dõi thuế GTGT
Hình thức sổ kế toán chứng từ ghi sổ
Trong hình thức kế toán chứng từ ghi sổ kế toán thường sử dụng một số loại sổ kế toán chủ yếu:
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Sổ cái các TK 131, 511, 531, 532, 331, ... 641
Sổ chi tiết thanh toán với người mua, với ngân sách nhà nước
sổ chi tiết tiêu thụ
Sổ theo dõi thuế GTGT
PHần ii: thực trạng công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty Dệt Kim Thăng Long
I, Đặc điểm tình hình chung của công ty Dệt kim Thăng Long
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Dệt kim Thăng Long
Công ty Dệt Kim Thăng Long với trụ sở chính đặt tại 46 Hàng Quạt, tên giao dịch: Thăng Long Knitting company viết tắt là KNITEXIM- là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc sở công nghiệp Hà Nội, có đầy đủ tư cách pháp nhân, tự chủ trong sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế độc lập.
Được chính thức thành lập vào tháng 7/1982 ban đầu chỉ là xí nghiệp Dệt Kim Thăng Long. Sau đó, theo quyết định số 5593/QĐ-UB ngày 4 tháng 10 năm 1993 được điều chỉnh thành Công ty Dệt Kim Thăng Long.
Tiền thân của Công ty Dệt Kim Thăng Long là một xưởng Dệt nhỏ chuyên sản xuất hàng dệt kim từ thời Pháp thuộc năm 1950, do nhà tư sản Nguyễn Văn Căn làm chủ.
Đến tháng 2/1959 chấp hành đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cải tạo công ty thương nghiệp với hình thức công tư hợp danh, công ty lúc này được đổi tên thành Xí Nghiệp Dệt Kim Cự Doanh. Với quy mô mới, Công ty đã mở rộng sản xuất và đặt thêm trụ sở thứ hai ở phố Trần Quý Cáp- Hà Nội. Sự mở rộng này đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động và số lượng tiêu thụ ngày càng nhiều với chủng loại phong phú.
Tháng 7/1982 trước tình trạng ngành công nghiệp dệt vẫn thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất UBND TP Hà Nội đã quyết định sát nhập Xí Nghiệp Dệt Cự Doanh với Xí Nghiệp May Hà Nội thành Xí nghiệp Dệt Kim Thăng Long.
Sau khi quyết định được kí kết, Xí nghiệp Dệt Kim Thăng Long có thêm nhiệm vụ mới đó là May mặc.
Lúc đầu, Công ty Dệt Kim Thăng Long chỉ dệt ra vải, may quần áo từ vải của công ty và cung cấp ra thị trường theo chỉ tiêu phân phối nhà nước.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì doanh nghiệp đã làm chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đến tháng 10 năm 1993, theo đề nghị của Xí nghiệp Dệt Kim Thăng Long sở công nghiệp Hà Nội đã chuyển đổi Xí nghiệp thành Công ty Dệt Kim Thăng Long.
Với số vốn ít ỏi,máy móc thiết bị cũ và lạc hậu, công ty đã đẩy mạnh đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Công ty không chỉ sản xuất hàng may mặc bằng nguyên liệu tự cung tự cấp mà giờ đây công ty còn mở rộng sản xuất bằng cách may gia công theo các đơn đặt hàng. Công ty không những cung cấp các loại quần áo cho người tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu chúng ra nước ngoài. Bên cạnh đó Ban lãnh đạo công ty còn đổi mới phương thức quản lý để đạt hiệu quả sản xuất cao, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên và đóng góp nghĩa vụ đối với ngân sách ngày càng lớn.
Hiện nay, Công ty có 625 người, trong đó số cán bộ công nhân viên phục vụ gián tiếp là 156 người, số lao động trực tiếp sản xuất là 469 người. Tài sản của công ty vào năm 1986 là:
Vốn cố định: 22.837.617 đồng
Vốn lưu động: 74.791.809 đồng
Với sự cố gắng và nỗ lực của toàn doanh nghiệp, đến nay số vốn của công ty đã tăng lên đáng kể mà cụ thể là: (tính đến cuối năm 2000)
Vốn cố định: 7.149.460.447 đồng
Vốn lưu động: 588.430.637 đồng
2.Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý của công ty Dệt kim Thăng Long.
2.1 Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty.
Công ty Dệt Kim Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được mở tài khoản tại ngân hàng và được sử dụng con dấu theo quy định của Nhà nước.
Với nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm may mặc, dệt kim và sản phẩm liên doanh liên kết phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, phụ tùng thiết bị về ngành dệt và may mặc nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất của Công ty và thị trường.
Bằng sự sáng tạo, sự đổi mới, dám nghĩ dám làm của đội ngũ cán bộ công ty Dệt Kim Thăng Long mấy chục năm qua đã đưa công ty phát triển ngày càng lớn mạnh, làm ăn có hiệu quả
Trong những năm gần đây, Công ty đã tìm được các đối tác làm ăn lớn trong khu vực và xuất khẩu hàng hoá sang nhiều nước trên thế giới như Hàn quốc, Đài loan, Hà lan... .
2.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất:
Công ty Dệt kim Thăng Long trước đây là một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng dệt kim. Đối tượng phục vụ chủ yếu của công ty là ngành may mặc. Sau khi được sát nhập với xí nghiệp May Hà Nội thì Công ty Dệt kim Thăng Long vừa sản xuất hàng dệt kim vừa sản xuất hàng may mặc. Quá trình sản xuất phải trải qua ba quá trình chế biến liên tục, ứng với mỗi giai đoạn sản xuất là một phân xưởng với các chức năng khác nhau.
Phân xưởng Dệt: là giai đoạn sản xuất khởi đầu của quá trình sản xuất sản phẩm. Nó có nhiệm vụ sản xuất ra vải mộc từ sợi bông. Chất lượng của sản phẩm sản xuất ra 70% phụ thuộc vào phân xưởng này.
Phân xưởng Tẩy: Có chức năng tẩy trắng toàn bộ vải mộc của phân xưởng dệt và nhuộm màu cho số vải đó.
Phân xưởng Cắt May: có nhiệm vụ cắt và may vải đã nhuộm thành sản phẩm cuối cùng.
Mỗi phân xưởng đều có một quản đốc và một phó quản đốc. Tuỳ thuộc vào đặc tính của sản xuất và khối lượng công việc mà bố trí thêm hai đến ba nhân viên chuyên ngành kinh tế kỹ thuật giúp việc cho quản đốc.
Tuy nhiên, từ nhiều năm trở lại đây do sự chuyển đổi cơ chế và những khó khăn chung cho ngành Dệt cho nên phân xưởng Dệt của công ty hầu như không còn hoạt động nữa.
Hiện nay, công ty chủ yếu chú trọng vào sản xuất và gia công hàng may mặc theo quy trình công nghệ khép kín, các công đoạn sản xuất được thực hiện trọn vẹn trong doanh nghiệp bao gồm: Cắt - May - Là - Đóng gói - Nhập kho.
2.3, Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất của Công ty Dệt Kim Thăng Long:(sơ đồ 2.1)
Công ty Dệt Kim Thăng Long là một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng dệt kim. Sau khi được sáp nhập với xí nghiệp may Hà Nội Công ty có thêm nhiệm vụ mới là may mặc và gia công hàng may mặc. Như vậy, nguyên vật liệu chính của công ty là sợi và vải. Sợi được đưa vào guồng đảo sợi rồi dệt thành vải, vải sau khi được kiểm tra được đưa vào kho vải mộc. Vải mộc qua quá trình tẩy giặt, sấy khô, kiểm tra được nhập kho vải trắng. Vải trắng được đưa sang phân xưởng nhuộm để có thành phẩm vải với màu sắc khác nhau. Vải đó lại được đưa vào phân xưởng may để tạo ra quần áo. ở phân xưởng may được tổ chức trên dây chuyền khép kín bao gồm Cắt-May-Là-Đóng gói-Nhập kho thành phẩm.
2.4 Đặc điểm tổ chức quản lý của công ty.(sơ đồ 2.2)
Công ty Dệt kim Thăng Long là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập trực thuộc sở công nghiệp Hà Nội. Xuất phát từ yêu cầu quản lý, hệ thống quản lý của công ty được tổ chức theo hệ trực tuyến chức năng gồm 5 phòng ban và 3 phân xưởng :
Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty như sau: Đứng đầu công ty là ban giám đốc dưới là các phòng ban trực thuộc làm nhiệm vụ điều hành sản xuâts kinh doanh của công ty.
Ban giám đốc bao gồm: Một giám đốc và hai phó giám đốc, trong đó một phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật , một phó giám đốc phụ trách về đời sống.
-Giám đốc: điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty dưới sự trợ giúp của các phó giám đốc và các phòng nghiệp vụ.
-Phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật:
-Phó giám đốc phụ trách về đời sống: phụ trách đời sống cho anh chị em công nhân đảm bảo cuộc sống cho họ cả về vật chất lẫn tinh thần.
Các phòng ban chức năng của công ty bao gồm 5 phòng ban
+Phòng kế toán tài vụ: Có nhiệm vụ đôn đốc kiểm tra, hạch toán các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, tính đúng, tính đủ phục vụ cho việc hạch toán kế toán đảm bảo chính xác. Theo dõi các khoản thu chi tài chính để phản ánh vào các tài khoản liên quan, sau một thời gian nhất định lập báo cáo tài chính gửi giám đốc tạo điều kiện thuận lợi giúp cho ban lãnh đạo công ty đề ra các biện pháp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
+Phòng kế hoạch vật tư xuất nhập khẩu: Sau khi nhận được hợp đồng thì lên kế hoạch triển khaiviệc mua nguyên vật liệu, giao kế hoạch xuống từng phân xưởng sản xuất và chịu trách nhiệm đôn đốc sản xuất để kịp thời giao hàng đúng tiến độ đã ký với khách hàng, tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, trực tiếp xử lý những phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
+Phòng kỹ thuật: Trực tiếp thu mua nguyên vật liệu và sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo đúng chất lượng. Nếu sản phẩm sản xuất ra không đủ các tiêu chuẩn chất lượng do nguyên vật liệu thì phòng kỹ thuật hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công ty về mặt kinh tế. Đồng thời, có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm nhằm loại sản phẩm hỏng, lỗi trước khi đưa vào nhập kho thành phẩm.
+Phòng tổ chức hành chính: Quản lý về mặt lao động, số ngày công lao động cũng như tiền công của công nhân viên trong công ty, tuyển dụng lao động khi có yêu cầu. Nắm vững thông tin về tình hình lao động sản xuất của công nhân, thường xuyên tổ chức thăm hỏi động viên anh chị em có hoàn cảnh khó khăn và giúp đỡ họ về mặt vật chất cũng như tinh thần nếu có thể.
+Phòng bảo vệ dịch vụ: làm công tác dịch vụ, phục vụ thêm cho đời sống công nhân viên trong xí nghiệp
2.4 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán:
Công ty là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản riêng tại ngân hàng và có quyền quyết định về mọi hoạt động kinh tế tài chính của mình. Cán bộ kế toán của công ty đều có trình độ đại học và có kinh nghiệm trong nghề nghiệp. Công ty hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, kỳ hạch toán của công ty theo tháng dương lịch.Tổ chức công tác kế toán của công ty vận dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ,với hình thức kế toán này tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết đảm bảo các mặt của quá trình hạch toán tiến hành song song.
* Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán ở công ty Dệt Kim Thăng Long(sơ đồ 2.3)
Kế toán trưởng
Kế toán vật
liệu
Kế toán tiền lương
Kế toán thanh toán ,tscđ, tiêu thụ và xđkq
Kế toán giá thành
Thủ
quỹ
Sơ đồ 2.3:
Kế toán trưởng: là người phụ trách chung của phòng, có trách nhiệm chỉ đạo công việc chung cho các nhân viên trong phòng cà chịu hoàn toàn trách nhiệm về những sai sót của mình trước pháp luật trong công tác quản lý tài chính của Công ty. Đồng thời cũng là người lập kế hoạch tài chính với nhà nước, báo cáo các thông tin kinh tế tài chính với giám đốc và cơ quan có thẩm quyền.
Kế toán thanh toán, TSCĐ, tiêu thụ và xác định KQKD: phụ trách giao dịch với ngân hàng, có nhiệm vụ hạch toán các khoản thu, chi của công ty. Đồng thời, có nhiệm vụ hạch toán tăng, giảm TSCĐ cũng như là theo dõi, hạch toán quá trình nhập, xuất thành phẩm. Cuối mỗi tháng, xác định kết quả kinh doanh của toàn công ty. Do đơn giản hoá bộ máy kế toán lên một kế toán ở Công ty Dệt Kim Thăng Long có thể kiêm nhiều mảng kế toán . Do đó, đòi hỏi kế toán phải có trình độ, nghiệp vụ vững vàng.
Kế toán tiền lương và bảo hiểm xã hội: có nhiệm vụ theo dõi và chi trả lương, thanh toán bảo hiểm xã hội cho cán bộ công nhân viên.
Kế toán vật liệu: theo dõi về vật liệu đưa vào sản xuất, lập kế hoạch thu mua, dự trữ NVL
Kế toán giá thành: Tập hợp các chi phí phát sinh cuối tháng tính ra giá thành công xưởng của thành phẩm nhập kho. Đông thời phụ trách công việc chung khi kế toán trưởng đi vắng.
Thủ quỹ: thực hiện chi các khoản như tạm ứng.. bảo quản quỹ tiền mặt của công ty.
Sự phân công trong phòng tài chính kế toán của công ty tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên, theo tôi thì nên kết hợp kế toán vật liệu với kế toán tính giá thành vì giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ và cũng tránh tình trạng quá tải công việc cho kế toán thanh toán, TSCĐ, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh. Trình tự ghi sổ ở Công ty Dệt Kim Thăng Long được thể hiện qua sơ đồ 2.4
sơ đồ 2.4: trình tự kế toán ghi sổ ở công ty dệt kim thăng long
Sổ quỹ
Chứng từ gốc
và các bảng phân bổ
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
Sổ và thẻ
kế toán chi tiết
Sổ cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo biểu kế toán
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
II,Thực tế công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty Dệt Kim Thăng Long.
A.Kế toán thành phẩm
1, Đặc điểm thành phẩm của Công ty Dệt Kim Thăng Long.
May mặc là một trong những nhu cầu không thể thiếu được trong xã hội loài người. Công ty Dệt Kim Thăng Long ra đời cũng chính là để thoả mãn nhu cầu đó. Chính vì thế mà sản phẩm của công ty rất đa dạng và phong phú.
Với nhiệm vụ sản xuất ra vải vóc, quần áo phục vụ cho nhu cầu về mặc của mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã hội, sản phẩm của công ty chủ yếu là vải thô và các loại quần áo có kiểu cách, chủng loại, kích cỡ khác nhau như áo T-shirt, quần áo thể thao,quần áo trẻ em ........v..v..Cũng giống như các doanh nghiệp thuộc ngành Dệt- May khác, sản phẩm của công ty có những đặc điểm chính sau:
+ Đối với thành phẩm của phân xưởng Dệt:
Thành phẩm của phân xưởng Dệt là vải mộc, đây cũng chính là nguyên liệu chính của phân xưởng May và cũng là đối tượng tiếp theo của phân xưởng Nhuộm cho nên yêu cầu về chất lượng là rất cao. Do yêu cầu khắt khe về chất lượng như vậy nên ban quản đốc cũng như nhân viên kỹ thuật kết hợp với phòng KCS kiểm tra từ chủng loại sợi đưa vào cho tới việc bố trí kim, khuy màn sao cho sản phẩm mịn, mát tay, đảm bảo chịu nhiệt và độ co theo tiêu chuẩn quy định.
+ Đối với thành phẩm của phân xưởng May:
Thành phẩm của phân xưởng May là sản phẩm trực tiếp cho nhu cầu về mặc cho mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy mà các sản phẩm phải có nhiều kiểu cách, mầu sắc và kích cỡ phù hợp với người tiêu dùng. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty
Là sản phẩm luôn phải thay đổi kiểu dáng mầu sắc cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng do vậy công tác quản lý thành phẩm là tương đối phức tạp.
Sản phẩm của công ty được tiêu thụ rộng rãi ở thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng phong phú, đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng, Công ty chủ yếu tập trung vào các mặt hàng sau:
-Hàng nội địa (quần và áo các loại): là sản phẩm mà công ty sản xuất ra rồi đem tiêu thụ ngay trong nước.
-Hàng xuất khẩu (hàng gia công và hàng bán ra): là những sản phẩm mà Công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng của các bạn hàng nước ngoài.
Những mặt hàng trên có thể được sản xuất bằng nguyên vật liệu của khách hàng (hàng gia công) nhưng cũng có thể doanh nghiệp tự cung cấp lấy. Sau khi sản xuất ra thành phẩm thì giao lại cho khách hàng rồi thu tiền đã được ký kết theo hợp đồng đặt hàng.
Về chủng loại mặt hàng của công ty thì rất đa dạng và phong phú, trong đó mỗi loại có kiểu dáng, kích cỡ khác nhau.
Về số lượng: ở Công ty Dệt Kim Thăng Long sản phẩm được sản xuất ra nhiều hay ít trước hết là căn cứ vào các hợp đồng kinh tế đã ký kết, đồng thời căn cứ vào nhu cầu thị trường ở từng thời kỳ.
Về chất lượng: Do nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cho nên chất lượng sản phẩm cũng ngày một nâng cao. Bởi vậy cho nên mọi sản phẩm của công ty xuất ra đều phải trải qua bộ phận kiểm tra chất lượng (KCS) để đánh giá chất lượng và chỉ nhập kho những mặt hàng đạt yêu cầu.
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, mức sống người lao động không ngừng được cải thiện vì thế nhu cầu về ăn mặc ngày càng cao, mọi người đều quan tâm tới cách ăn mặc của mình sao cho đẹp hơn, lịch sự hơn, sản phẩm của ngành May mặc đã góp phần không nhỏ trong việc làm đẹp cho cuộc sống con người. Nhận thức được điều đó Công ty Dệt Kim Thăng Long đã không ngừng đổi mới và cải tiến các sản phẩm của mình cả về kiểu dáng, mẫu mã lẫn màu sắc kích cỡ của sản phẩm. Do đó, sản._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6294.doc