Phần I
Cơ sở lý luận về hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất
Khái niệm
Chi phí sản xuất bao gồm có nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau, để có thể biết được số chi phí mà doanh nghiệp chi ra trong một thời kỳ nhất định nhằm tính toán, tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho yêu cầu quản lý, mọi chi phí chi ra được quy về thước đo tiền tệ và được gọi là chi phí sản xuất. Trên thế giới, có nhi
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp in I – Công ty nhiếp ảnh và Diafim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều quan niệm khác nhau về chi phí.
Theo kế toán Pháp thì chi phí được định nghĩa như sau: “Chi phí là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh nhằm sinh lời cho doanh nghiệp”
Theo quan điểm của Mỹ, chi phí được hiểu như sau: “Chi phí là thuật ngữ được xử dụng để phản ánh giá trị của các nguồn lực đã hao phí để có được các hàng hoá hoặc dịch vụ”
Theo kế toán Việt nam thì chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Chi phí được hình thành do có sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào sản phẩm và được biểu hiện trên hai mặt:
- Về mặt định tính: Đó là bản thân các yếu tố về vật chất phát sinh và tiêu hao tạo nên quá trình sản xuất và đạt đưọc mục đích tạo ra sản phẩm.
- Về mặt định lượng: Đó là mức tiêu hao cụ thể của các yếu tố vật chất tham gia vào quá trình sản xuất và được biểu hiện qua các thước đo khác nhau mà thước đo chủ yếu là thước đo tiền tệ.
Cả hai mặt này đều chịu sự chi phối của thường xuyên của quá trình tái sản xuất và đặc điểm sản xuất.
Phân biệt giữa chi phí và chi tiêu:
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất dinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì.
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí, có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu. Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu hạch toán chúng.
Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí... trong quá trình kinh doanh. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu quản lý, chi phí được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên, về mặt hạch toán chi phí sản xuất thường được phân loại theo các tiêu thức sau:
Phân loại theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh chi phí, chi phí sản xuất được phân loại theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán. Hiện nay, theo tiêu thức này, chi phí được chia thành 7 yếu tố như sau:
Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị NVL chính, VL phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ...sử dụng vào sản xuất (loại trừ giá trị không dùnh hết nhập laọi kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực)ư
Yếu tố nhiên liệu động lực: gồm giá trị vật tư, xăng dầu, điện, than... sử dụng vào quá trình sản xuất trong kỳ
Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương mà doanh nghiệp phải trả cho toàn bộ cán bộ, công nhân viên toàn doanh nghiệp.
Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh số trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho cán bộ, công nhân viên chức.
Yếu tố khấu hao TSCĐ: Gồm tổng số khấu hao phải trích trong kỳ của tất cả các TSCĐ đang dùng cho sản xuất
Yếu tố chi phí dụch vụ mua ngoài: PHản ánh toàn bộ những chi phí về lao vụ, dịch vụ mua ngoài sử dụng để phục vụ cho sản xuất như tiền điện, tiền nước, tiền bưu phí...
Yếu tố cho phí bằng tiền khác: Bao gồm toàn bộ những chi phí bằng tiền ngoài sáu yếu tố trên mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân thành các khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định của chế độ kế toán Việt nam hiện nay, giá thành sản phẩm bao bồm 5 khoản mục chi phí như sau:
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu năng lượng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
* Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương.
* Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, tổ đội sản xuất ngoài chi phí NVL trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Nó thường bao gồm các khoản sau: chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí nguyên vật liệu, chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác
* Chi phí bán hàng: Gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doạnh và quản lý hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất kỳ hoạt động hay phân xưởng nào.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách ứng xử của chi phí
Phục vụ cho mục đích quản trị, chi phí này được chia thành 3 loại sau:
* Biến phí: là những thay đổi về tổng số theo tỷ lệ nhất định so với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Nó bao gồm chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, và một số yếu tố thuộc chi phí sản xuất chung...Biến phí có tổng số thay đổi theo khối lượng sản phẩm, dịch vụ nhưng chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm lại không thay đổi.
* Định phí: Là những chi phí không thay đổi về tổng số so với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành như chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh.. Ngược lại với biến phí, khi số lượng sản phẩm, dịch vụ thay đổi thì định phí trên một đơn vị sản phẩm cũng thay đổi, tuy nhiên định phí giữ nguyên trong phạm vi phù hợp của doanh nghiệp. Phạm vi phù hợp là phạm vi giữa khối lượng sản phẩm tối thiểu và khối lượng sản phẩm tối đa mà doanh nghiệp sản xuất, trong phạm vi đó tổng định phí không biến đổi.
* Chi phí hỗn hợp: Đó là những chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố biến phí lẫn định phí. ở mức hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện những đặc điểm của định phí, quá mức độ đó, nó lại thể hiện những đặc tính của biến phí, chi phí hỗn hợp bao gồm: tiền thuê máy móc thiết bị, chi phí điện, chi phí điện thoại...
Cách phân loại chi phí cho phép thấy trước được sự biến đổi của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi, do đó nó có tác dụng trong quản trị kinh doanh, đáp ứng cho yêu cầu lập kế hoạch kiểm soát hoạt động điều tiết chi phí cho người quản lý, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định.
Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được phân ra làm hai loại là chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua, còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
Giá thành sản phẩm
Khái niệm
Nói đến chi phí sản xuất là nói đến những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Nó là một trong hai mặt của một quá trình thống nhất, quá trình sản xuất. Mặt còn lại của quá trình sản xuất được thể hiện qua chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Vậy “giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành”
Trong giá thành sản xuất sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để lập giá bán, là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, kết quả sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp
Phân loại giá thành sản phẩm
Đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều phạm vi khác nhau:
Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành: giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
- Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: Giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành thực tế: giá thành thực tế được xác định dựa vào các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm sau khi kết thúc quá trình này. Gía thành thực tế là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo phạm vi phát sinh chi phí: Giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ
- Giá thành sản xuất: (giá thành công xưởng) Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí liên quan đến việc sản xuất chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (Chi phí NVLTT, Chi phí NCTT, chi phí SXC )
- Giá thành tiêu thụ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất và chi phí quản lý bán hàng). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ hay giá thành toàn bộ. Nó chỉ được xác định sau khi sản phẩm đã tiêu thụ.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, về mặt nội dung giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi phí sản xuất và giá trị sử dụng cấu thành trong khối lượng sản phẩm. Bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch các yếu tố chi phí vào đối tượng tính giá thành. Mặt khác, giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất là hai mặt của quá trình sản xuất, vì thế chúng giống nhau về mặt chất. Tuy nhiên, xét về mặt lượng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau vì: Chi phí luôn gắn với một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm chứa đựng cả một phần của chi phí kỳ trước (chi phí sản phẩm làm dở đầu kỳ). Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện qua sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất
dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát
sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm,
dịch vụ hoàn thành
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành chi phí sx chi phí sản chi phí SX
Sản phẩm, dịch = dở dang + xuất PS - dở dang
Vụ hoàn thành đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng gía thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Như vậy, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hạ hay tăng giá thành sản phẩm. Do đó, quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất.
Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Để thoả mãn các yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng như việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải dựa trên việc xác định giá thành sản phẩm chính xác, nhưng việc xác định giá thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng cuả kết quả việc tập hợp chi phí sản xuất. Do vậy, để tổ chức tốt công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đòi hỏi kế toán cần phải làm tốt các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm phù hợp vơí đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp
- Tổ chức tập hợp và phân bổ chi phí theo đúng đối tượng đã xác định, tổng hợp các khoản mục chi phí, các yếu tố chi phí đồng thời xác định đúng đắn chi phí dở dang cuối kỳ
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị của các sản phẩm theo đúng các khoản mục quy định trong kỳ tính giá thành
- Lập báo cáo chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và các dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
II. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm
1.1. Đối tượng tập hợp chi phí
Xác định đối tượng tập hợp chi phí là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí thường được căn cứ vào:
- Tính chất, đặc điểm sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất: đơn giản hay phức tạp, liên tục hay song song.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất
- Loại hình sản xuất: đơn chiếc hay hàng loạt
- Đối tượng tập hợp chi phí có thể là toàn bộ quy trình công nghệ hay từng giai đoạn, từng quy trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng, từng đơn đặt hàng...
Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí có tác dụng tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất, hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp và tính giá thành sản phẩm nhanh chóng, chính xác.
1.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
* Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm chính là việc xác định thành phẩm, bán thành phẩm, công việc lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành. Đối tượng tính giá thành có thể là:
Từng sản phẩm, công việc đã hoàn thành
Từng bộ phận, chi tiết sản phẩm
Sản phẩm hoàn thành ở cuối quy trình công nghệ hay bán thành phẩm
Từng công trình, hạng mục công trình
2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất:
Là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Có những phương pháp chủ yếu sau:
Hạch toán chi phí sản xuất theo công việc: Theo phương pháp này, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được xác định theo từng loại sản phẩm, từng loại công việc, từng đơn đặt hàng. Trên cơ sở đó kế toán mở sổ hoặc thẻ kế toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng. Chi phí sản xuất không kể phát sinh ở đâu, ở bộ phận nào đều được phân loại theo sản phẩm, công việc, đơn đặt hàng. Phương pháp này áp dụng trong những doanh nghiệp thoả mãn điều kiện sau:
Sản phẩm có tính đơn chiếc, giá trị lớn, kết cấu phức tạp.
Sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng
Chu kỳ sản xuất sản phẩm dài
Hạch toán chi phí sản xuất theo quá trình sản xuất
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất được tập hợp theo từng công đoạn hoặc từng bộ phận, từng phân xưởng sản xuất...Phương pháp này áp dụng trong những doanh nghiệp có điều kiện sau:
Sản phẩm có tính đồng nhất, được sản xuất đại trà
Sản phẩm có giá trị nhỏ
Sản phẩm được đặt mua sau quá trình sản xuất
Phương pháp liên hợp: Có thể vận dụng cả hai phương pháp trên trong một số doanh nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp, vừa có điều kiện áp dụng phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, vừa có điều kiện sử dụng phương pháp chi phí theo qúa trình sản xuất sản phẩm.
2.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính tổng giá thành sản phẩm, giá thành đơn vị sản phẩm. Nó mang tính chất thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành.
Phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp): Phương pháp này áp dụng thích hợp ở những doanh nghiệp mà một đối tượng tính giá thành tương ứng một đối tượng tập hợp chi phí. Chi phí sản xuất được tập hợp cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất (cũng là đối tượng tính giá thành) theo một trong hai phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với loại chi phí chỉ liên quan đến một đối tượng thì tập hợp trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với loại chi phí chỉ liên quan đến một đối tượng thì tập hợp trực tiếp vào sổ chi tiết của đối tượng đó, còn loại chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng thì kế toán dựa vào một tiêu thức phân bổ thích hợp để phân bổ loại chi phí này cho từng đối tượng và ghi vào sổ chi tiết chi phí tương ứng. Đến kỳ tính giá thành sản phẩm, kế toán dựa vào sổ tập hợp chi phí sản xuất và kết quả kiểm kê, tính giá thành sản phẩm dở dang để tính giá thành sản phẩm. Công thức tính như sau:
Tổng GTSP hoàn thành
=
Giá trị SPDD đầu kỳ
+
CPSX thực tế trong kỳ
-
Các PS giảm CPSX
-
Giá trị SPDD cuối kỳ
Từ đó tính được giá thành đơn vị sản phẩm:
Giá thành một
đơn vị SP
=
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
Số lượng sản phẩm hoàn thành
- Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này thường được áp dụng khi một đối tượng tính giá thành tương ứng với nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, một loại sản phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn chế biến, mỗi giai đoạn là một phân xưởng hoặc tổ, đội như các doanh nghiệp ngành dệt, giầy da, giấy...
Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm
Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + Z3 + ...+ Zn
- Phương pháp hệ số: Phương pháp hệ số được áp dụng chủ yếu trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả qúa trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết phải căn cứ vào hệ số chi phí để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Số lượng quy đổi sản phẩm tiêu chuẩn
=
Tổng sản lượng thực tế từng loại sản phẩm
x
Hệ số chi phí của từng loại sản phẩm
=
Giá thành đơn vị Tổng giá thành các loại sản phẩm
phẩm tiêu chuẩn Số lượng sản phẩm tiêu chuẩn
x
=
Giá thành đơn vị Giá thành đơn vị Hệ số chi phí của
từng loại sản phẩm SP tiêu chuẩn từng loại sản phẩm
- Phương pháp tỷ lệ chi phí: Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, đóng giầy, cơ khí chế tạo... kế toán thường tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại.
x
=
Giá thành thực tế Giá thành kế hoạch (định mức) Tỷ lệ
đơn vị SP từng loại đơn vị sản phẩm từng loại chi phí
- Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp mà bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ, để tính giá trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo giá có thể sử dụng được, ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
Tổng giá Giá trị Tổng CP Giá trị SP Giá trị SP
thành SP = sản phẩm + SX phát - sản phẩm - chính DD
chính chính DD sinh trong phụ thu cuối kỳ
đầu kỳ kỳ hồi ước tính
- Phương pháp liên hợp: Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành sản phẩm phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ...
III. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
1.1. Doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên
Đặc điểm và tài khoản sử dụng:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ..) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụmg là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm..
Để theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng tài khoản 621 “Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận chi phí sản xuất...)
Kết cấu của tài khoản này như sau:
Bên nợ: Tập hợp chi phí nguyên, vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ.
Bên có: - Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết
- Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Phương pháp hạch toán
Phương pháp hạch toán cụ thể thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Hạch toán tổng hợp chi phí NVLTT theo
phương pháp KKTX
TK 152 TK 621 TK 154
Vật liệu xuất dùng trực tiếp Kết chuyển chi phí
chế tạo sản phẩm, dịch vụ nguyên vật liệu trực tiếp
TK 151 TK 152
Vật liệu đi đường dùng Vật liệu dùng không hết nhập
Trực tiếp cho sản xuất kho hoặc chuyển kỳ sau
TK 331,111,112...
Vật liệu mua ngoài
dùng trực tiếp cho SX
TK 133
VAT đầu vào
được khấu trừ
1.2 . Doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ
Đặc điểm và tài khoản sử dụng
Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên chi phí vật liệu xuất dùng rất khó phân định được là xuất cho mục đích sản xuất, quản lý, hay cho tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, kế toán cần phải theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, lao vụ..) hoặc dựa vào mục đích sử dụng hay tỷ lệ định mức để phân bổ vật liệu xuất dùng cho từng mục đích.
Trong phương pháp kiểm kê định kỳ, tài khoản sử dụng là TK 621: “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Các chi phí được phản ánh trên tài khoản 621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. TK này cuối kỳ không có số dư và được mở theo từng đối tượng hạch toán chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, lao vụ..) với nội dung như sau:
Bên nợ: Giá trị vật liệu đã xuất dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ
Bên có: Kết chuyển chi phí vật liệu vào giá thành sản phẩm, dịch vụ, lao vụ
Phương pháp hạch toán
Sơ đồ 2: Hạch toán tổng hợp chi phí NVL TT theo
phương pháp KKĐK
TK331,111, TK 611 TK 621 TK 631
112,411... Giá trị NVL dùng trực Kết chuyển CP
Giá trị vật liệu tiếp chế tạo sản phẩm NVL trực tiếp
tăng trong kỳ TK 151,152
Giá trị vật liệu
chưa dùng cuối kỳ
Kết chuyển giá trị VL chưa dùng đầu kỳ
Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Đặc điểm và tài khoản sử dụng
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động trực tiếp chế tạo, sản xuất sản phẩm, thực hiện các dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo một tỷ lệ quy định với tiền lương trên. Để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí như TK 621 với nội dung cụ thể như sau:
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp phát sinh
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Phương pháp hạch toán:
Sơ đồ 3: Hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp
TK 334 TK 622 TK 154
Lương phải trả cho công Kết chuyển CP NCTT
Nhân trực tiếp SX (KKTX)
TK 335
Trích trước tiền lương phép TK631
Cho công nhân TTSX
TK338 Kết chuyển chi phí NCTT
Trích BHXH, BHYT, KPCĐ (KKĐK)
Theo tiền lương CNTTSX
Hạch toán chi phí sản xuất chung
Đặc điểm và tài khoản sử dụng
Chi phí sản xuất chung là những chi phí quản lý và phục vụ sản xuất phát sinh ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Chi phí sản xuất chung bao gồm: chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, chi phí công cụ dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627 “Chi phí sản xuất chung”, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ.
Bên nợ: - Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ
Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí SXC
- kết chuyển(phân bổ) chi phí SXC
TK 627 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành các tiểu khoản sau:
TK6271: Chi phí nhân viên phân xưởng
TK6272: Chi phí vật liệu
TK6273: Chi phí công cụ, dụng cụ SX
TK6274: Chi phí khấu hao TSCĐ
TK6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
TK6278: Chi phí bằng tiền khác
Tuỳ theo yêu cầu quản lý của mỗi doanh nghiệp mà tài khoản 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí.
Phân bổ chi phí sản xuất chung :
Chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều loại sản phẩm, lao vụ nên phải phân bổ các khoản chi phí sản xuất chung vào cuối kỳ hạch toán. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là: chi phí nguyên vật liệu chính, tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất, số giờ máy chạy,...
Mức CPSXC Tổng CP SXC cần phân bổ Tổng tiêu thức
phân bổ cho = x phân bổ của
từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ từng đối tượng
Phương pháp hạch toán:
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung theo sơ đồ số 4, tuy nhiên, có một số điểm lưu ý theo quy định tại chuẩn mực số 02- hàng tồn kho của thông tư 89/2002/TT-BTC như sau:
Chi phí sản xuất chung được chia ra làm chi phí sản xuất chung cố định (chi phí không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất), và chi phí sản xuất chung biến đổi (chi phí thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất). Đến cuối kỳ:
- Nếu số sản phẩm thực tế sản xuất ra bằng hoặc lớn hơn mức công suất bình thường, thì chi phí sản xuất chung cố định và biến đổi được phân bổ hết cho các đối tượng chịu chi phí theo định khoản
Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 627 - Chi phí sản xuất chung
- Nếu mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình thường thì kế toán phải tính và xác định chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến theo mức công suất bình thường, phần còn lại được ghi nhận vào gá vốn trong kỳ như sau
Nợ TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán
Có TK 627: Chi phí sản xuất chung
Sơ đồ 4: hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung
TK334, 338 TK 627 TK 111,112,152,..
Chi phí nhân viên Các khoản ghi giảm CPSXC
TK 152,153(611)
Chi phí vật liệu, dụng cụ TK 154 (631)
TK 142, 335 Kết chuyển CPSXC
Chi phí theo dự toán
TK 214
Chi phí KH TSCĐ
TK111,112
Chi phí mua ngoài và
CP bằng tiền khác
TK 133
Thuế GTGT
Hạch toán các khoản chi phí khác
Chi phí phải trả: là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán. Nó thường bao gồm tiền lương phép của công nhân sản xuất, chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch, thiệt hại ngừng sản xuất, chi phí lãi vay...
Để hạch toán các khoản chi phí này, kế toán sử dụng tài khoản 335 với phương pháp hạch toán như sau:
Khi trích trước các khoản chi phí, kế toán phản ánh:
Nợ các TK chi phí:
Có TK 335: Chi phí trích trước
Khi thực tế phát sinh chi phí:
Nợ TK 335: Chi phí trích trước
Có các TK liên quan
Chi phí trả trước: Là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ này mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán. Nó thường bao gồm các khoản sau: giá trị công cụ dụng cụ phân bổ nhiều lần, giá trị sửa chữa lớn TSCĐ ngoài kế hoạch, tiền thuê đất, TSCĐ...Để theo dõi, kế toán sử dụng TK 142 hoạc 242.
Khi phát sinh các khoản chi phí, ghi như sau:
Nợ TK 142, 242:
Có TK 111,112,331,...
Định kỳ, căn cứ vào kế hoạch phân bổ để phân bổ các khoản chi phí trên như sau:
Nợ TK chi phí:
Có TK 142, 242: Chi phí trả trước
Các khoản thiệt hại trong sản xuất:
- Thiệt hại về sản phẩm hỏng: Nếu đó là sản phẩm._. hỏng trong định mức, thì phần thiệt hại hạch toán vào chi phí sản xuất sản phẩm. Đối với giá trị thiệt hại của những sản phẩm hỏng ngoài định mức thì phải theo dõi riêng, xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý thích hợp.
- Thiệt hại về ngừng sản xuất: Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra những chi phí để duy trì hoạt động. Những khoản chi phí này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Nếu có kế hoạch về việc này, kế toán sử dụng TK 335. Nếu ngừng sản xuất bất thường thì chi phí bỏ ra theo dõi trên các TK 142, 242, 154,...
Tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm
5.1. Phương pháp KKTX
Để tổng hợp chi phí sản xuất phục vụ tính giá thành sản phẩm theo phương pháp KKTX, kế toán sử dụng tài khoản 154 “Chi phí SX kinh doanh dở dang”. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Kết cấu của TK này như sau:
Bên nợ: Tổng hợp các chi phí sản xuất trong kỳ.
Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm
- Tổng giá thành SP, lao vụ hoàn thành
Dư nợ: Chi phí sản xuất kimh doanh dở dang
Phương pháp hạch toán được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 5:Hạch toán tổng hợp CPSX theo phương pháp KKTX
TK 621 TK 154 TK 152.111
D: xxx Các khoản ghi giảm chi phí
Kết chuyển CPNVL trực tiếp sản xuất
TK 622
Kết chuyển CP NCTT TK 155,157
Nhập kho hoặc gửi bán
TK627 TK 632
Chi phí sản xuất chung Tiêu thụ thẳng
D: xxx
5.2. Phương pháp KKĐK
Theo phương pháp KKĐK, kế toán sử dụng tài khoản 631 “Giá thành sản xuất”. Tài khoản này không có số dư cuối kỳ và nội dung phản ánh như sau:
Bên nợ: - Giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dang đầu kỳ
- Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Bên có: - Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
- Các khoản phải ghi giảm chi phí sản xuất sản phẩm
- Tổng giá thành sản phẩm lao vụ hoàn thành
Phương pháp hạch toán được thể hiện cụ thể như sau:
Sơ đồ 6:Hạch toán tổng hợp CPSX theo phương pháp KKĐK
Kết chuyển giá trị sản phẩm, dịch vụ DD đầu kỳ
TK 621 TK 631 TK 154
Kết chuyển CP Giá trị sản phẩm, dịch vụ
Nguyên vật liệu trực tiếp dở dang cuối kỳ
TK622
Kết chuyển chi phí TK632
nhân công trực tiếp
TK 627 Tổng giá thành SX của SP
Kết chuyển CP SXC hoàn thành, nhập kho, gửi
bán, hay tiêu thụ trực tiếp
Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất thường dùng các phương pháp sau để đánh gía sản phẩm dở dang.
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính
Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phấm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi
Gía trị vật liệu Giá trị vật liệu + Giá trị vật liệu Số lượng
=
+
chính nằm trong chính DDĐK xuất dùng TK sản phẩm
sản phẩm Số lượng + Sốlượng SP DDCK
dở dang thành phẩm DDCK
Đánh giá sản phẩm dở dang theo phuơng pháp sản lượng ước tính tương đương
Phương pháp này dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bboẩ tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên, vật liệu chính phải được xác định theo số thực tế đã dùng.
Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm
dở dang
=
Giá trị vật liệu chính DD ĐK
Giá trị VL chính xuất dùng TK
+
Số lượng thành phẩm
Số SP DD không quy đổi ra thành phẩm
+
x
Số SP DDCK không quy đổi
Chi phí
chế biến nằm trong SPDD
từng loại
=
Chi phí chế biến DDĐK
+
Chi phí chế biến PS trong kỳ
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng SP DD quy đổi
Số lượng sản phẩm DDCK quy đổi
x
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% CP chế biến
Để đơn giản cho việc tính toán, đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất, đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch
Căn cứ vào định mức tiêu hao (hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định sản phẩm dở dang.
IV. Các hình thức sổ kế toán áp dụng trong kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm
Hiện nay, Việt nam sử dụng 4 hình thức sổ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đó là:
Hình thức nhật ký - sổ cái
Hình thức này áp dụng trong loại hình kinh doanh đơn giản, quy mô nhỏ, trình độ quản lý thấp, điều kiện lao động thủ công.
Quy trình hạch toán được thể hiện như sau:
Sơ đồ 7: trình tự hạch toán CPSX và tính giá thành SP
theo hình thức nhật ký - sổ cái
Chứng từ gốc (Bảng tổng hợp chứng
từ gốc) Bảng phân bổ
Sổ chi tiết TK
621,622,627
Sổ chi tiết
TK 154 (631)
Bảng tính giá
thành sản phẩm
Nhật ký- Sổ cái
TK621,622,627,154 (631)
Báo cáo tài chính
Hình thức Nhật ký chung:
Hình thức này có thể áp dụng ở nhiều đơn vị, lại có thể dùng kế toán máy. Theo hình thức này, mọi nghiệp vụ phát sinh đều được phản ánh vào sổ nhật ký theo thời gian phát sinh và cuối kỳ lên sổ cái. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải mở một số nhật ký đặc biệt như nhật ký thu, chi tiền, nhật ký mua, bán hàng. Trình tự hạch toán cụ thể như sơ đồ số 13
Hình thức chứng từ ghi sổ
Đây là kế toán kết hợp ghi sổ theo thời gian trên sổ đăng ký chứng từ ghi sổ với ghi sổ theo nội dung kinh tế trên sổ cái. Theo hình thức này, các chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế có cùng nội dung sẽ được tập hợp để đưa lên chứng từ ghi sổ, sau đó đưa lên sổ cái trên cơ sở các chứng từ ghi sổ kèm theo các chứng từ gốc.
Sơ đồ 8: Trình tự hạch toán chi phí và tính giá thành
sản phẩm theo hình thức chứng từ ghi sổ
Chứng từ gốc (Bảng tổng hợp chứng từ gốc)
Các bảng phân bổ
Sổ chi tiết TK
621,622,627
Chứng từ ghi sổ
Sổ chi tiết
TK 154 (631)
Sổ cái TK 621, 622 627,154 (631)
Bảng tính giá
thành sản phẩm
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo kế toán
Hình thức nhật ký chứng từ.
Đây là hình thức sổ dùng để tập hợp và hệ thống các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên có của tài khoản, kết hợp với phân tích các nghiệp vụ đó theo bên nợ của các tài khoản đối ứng. Để theo dõi chi phí sản xuất, kinh doanh,kế toán dùng các bảng kê: bảng kê số 4 (tập hợp chi phí theo phân xưởng), bảng kê số 5(tập hợp chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí xây dựng cơ bản), bảng kê số 6(tập hợp chi phí trả trước, chi phí phải trả) và nhật ký chứng từ số 7 (tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp). Ngoài ra, còn các bảng phân bổ, sổ chi tiết...
Sơ đồ 9: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá Thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chứng từ
Chứng từ gốc và các
bảng phân bổ
Bảng kế số 4
Bảng tính giá thành SP
Bảng kế số 5
Bảng kế số 6
Nhật ký chứng từ số 7
Sổ cái TK621, 622, 627,154,(631)
Báo cáo kế toán
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
IV. Khái quát chung Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới
Kế toán Bắc mỹ
Về cơ bản, kế toán Việt nam và kế toán Bắc Mỹ không có điểm khác biệt vì kế toán Việt nam được xây dựng trên cơ sở của hệ thống kế toán Mỹ.
Trong hệ thống kế toán Mỹ, thuật ngữ chi phí được sử dụng để phản ánh giá trị của các nguồn lực hao phí để có được các hàng hoá, dịch vụ. Chi phí sản xuất tập hợp vào giá thành sản phẩm gồm có 3 khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Các chi phí ngoài sản xuất không được tính vào giá thành sản phẩm mà được khấu trừ lợi tức của kỳ phát sinh. Trình tự tính giá thành sản phẩm như sau:
Tập hợp cho phí của các nguyên vật liệu (giá mua, chi phí thu mua) cho đối tượng tính giá thành.
Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp cho từng đối tượng tính giá
Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng đối tượng tính giá
Tính giá thành sản phẩm
=
+
+
Giá thành Chi phí nguyên Chi phí nhân Chi phí sản xuất
Sản phẩm vật liệu trực tiếp công trực tiếp chung phân bổ
2. Kế toán Pháp
Theo quan điểm của kế toán Pháp thì chi phí là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết cho quá trình hoạt động kinh doanh nhằm sinh lợi cho quá trình hoạt động kinh doanh nhằm sinh lợi cho doanh nghiệp. Từ đó, kế toán Pháp phân loại chi phí thành: Chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí tài chính, chi phí đặc biệt. Trong đó chi phí sản xuất kinh doanh được hiểu là chi phí bỏ ra dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí mua nguyên vật liệu, hàng hoá, vật tư sử dụng ngay, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí nhân viên...
Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh không tập hợp riêng chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ mà tiến hành tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh theo các khoản chi phí như mua nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ mua ngoài, chi phí thuế, chi phí nhân viên, chi phí quản lý thông thường. Sau đó, cuối kỳ tiến hành kết chuyển chi phí và thu nhâp để xác định kết quả kinh doanh. Như vậy, khác với kế toán Việt nam và kế toán Mỹ, đối với kế toán Pháp, giá thành sản phẩm không chỉ có chi phí sản xuất mà còn có chi phí ngoài sản xuất (chi phí tiêu thụ) nên trình tự hạch toán, tính giá được thực hiện theo trình tự sau:
Tập hợp chi phí nguyên vật liệu đưa vào sản xuất
Tính giá phí sản xuất
Tính giá phí tiêu thụ
Tính giá thành sản phẩm
Vậy đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có sự khác biệt đó là do xuất phát từ quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của chỉ tiêu tính giá thành
Phần II
Thực trạng công tác hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí
nghiệp in I – Công ty nhiếp ảnh và Diafim
I . Những đặc điểm chung của xí nghiệp
Quá trình hình thành và phát triển
Tháng 12 năm 1997, theo quyết định 3480/TC-QĐ của bộ trưởng Bộ Văn hoá thông tin, công ty nhiếp ảnh và Diafim được thành lập trên cơ sở hợp nhất các công ty sau:
- Công ty nhiếp ảnh trung ương
- Công ty Diafim
Tên giao dịch quốc tế của công ty là Photograph Diafim company, viết tắt là Phodico.
Công ty nhiếp ảnh và Diafim là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc bộ Văn hoá thông tin, hạch toán độc lập, có con dấu, có tài khoản riêng tại ngân hàng.
Ngày 1, tháng 12 năm 1999, căn cứ quyết định số 45/ NADC của giám đốc công ty nhiếp ảnh và Diafim, xí nghiệp in I được thành lập. Vậy xí nghiệp in I là đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc của công ty PhoDiCo, được hoạt động theo giấy phép in và đăng ký kinh doanh của công ty.
Xí nghiệp in I được giám đốc công ty nhiếp ảnh và Diafim uỷ quyền cho mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng con dấu của công ty. Hoạt động in theo giấy phép in số 219/ GP cấp ngày 15 tháng 5 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá thông tin
Nguồn vốn của xí nghiệp chủ yếu là nguồn từ ngân sách nhà nước, bên cạnh đó có nguồn tự bổ xung và nguồn đi vay. Sau quá trình hoạt động cho đến nay, xí nghiệp đã mở rộng sản xuất, đầu tư thêm hệ thống máy móc thiết bị mới từ Nhật Bản, cộng hoà sec (hệ thống in offset) và hệ thống đóng xén tự động, nâng tổng số vốn lên hơn sáu tỷ đồng.
Tổng số cán bộ công nhân viên ổn định của xí nghiệp là 36 người, được ký kết hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Phần còn lại là lao động thuê ngoài khi cần thiết.
Tuy là doanh nghiệp trực thuộc nhưng xí nghiệp in I hạch toán hoàn toàn độc lập từ khâu mở đầu của sản xuất như tìm kiếm thị trường, tìm nguồn nguyên vật liệu, đến quá trình sản xuất, cho đến khâu cuối cùng là tiêu thụ, tính ra kết quả sản xuất kinh doanh. Điều đó đòi hỏi ban lãnh đạo của xí nghiệp phải tự chủ, năng động, sáng tạo để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay.
Xí nghiệp in I là doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực in ấn, sản phẩm của công ty chủ yếu là các ấn phẩm văn hoá như sách, báo, tạp chí, áp phích, tờ rời,...Với số vốn đầu tư ban đầu không nhiều (hơn 4 tỷ VNĐ) nhưng ban lãnh đạo cùng công nhân viên trong toàn xí nghiệp luôn phấn đấu, sáng tạo không ngừng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm ổn định và thu nhập khá cho một số lượng không nhỏ lao động trong toàn công ty. Điều đó giúp doanh nghiệp không những tồn tại mà ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất
2. Chức năng, nhiệm vụ của xí nghiệp
Xí nghiệp in I là một nhánh của công ty nhiếp ảnh và Diafim, cùng song song tồn tại với các xưởng sản xuất khác như xưởng ảnh, xưởng Diafim, ngân hàng dữ liệu ảnh, các cửa hàng....Chức năng và nhiệp vụ chính của xí nghiệp như sau:
In các ấn phẩm văn hoá hợp pháp.
Làm các dịch vụ đóng, xén, gia công, bao bì.
Tham gia đấu thầu các hợp đồng in.
Ký kết hợp đồng với các đơn vị khác theo sự uỷ quyền của giám đốc công ty nhiếp ảnh và Diafim.
Trong kinh doanh, xí nghiệp thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp khác, trong nội bộ, thực hiện theo chế độ chính sách của nhà nước. Từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Đối với cấp trên, xí nghiệp thực hiện nộp đủ 2 % trên doanh thu, và các khoản nghĩa vụ khác với nhà nước.
Đặc điểm sản xuất và tổ chức quản lý
3.1 Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
Là một doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ, hạch toán độc lập, xí nghiệp in I có bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả, đảm bảo quản lý chặt chẽ, bao quát từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất. Phương thức quản lý theo kiểu trực tuyến, chức năng. Với mô hình này, đơn vị đảm bảo thông tin, mệnh lệnh từ trên xuống, các phản hồi từ dưới lên nhanh chóng chính xác. Đồng thời các phòng ban có quan hệ tham mưu, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Đây cũng là mô hình phổ biến cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Toàn xí nghiệp có một giám đốc, ba phòng ban, và các phân xưởng sản xuất. Bộ máy quản lý là giám đốc, các trưởng phòng, quản đốc, tổ trưởng. Có thể khái quát bộ máy của xí nghiệp qua sơ đồ sau (sơ đồ số 10)
Sơ đồ 10: Bộ máy tổ chức của xí nghiệp
Giám đốc
Phòng kế hoạch sx
Phòng kế toán tài vụ
Phòng tổng hợp
Vi tính
PX chế bản tạo mẫu
Phân xưởng in
PX hoàn thiện
In
Ruột
In Bìa
Bình bản
Phơi bản
Gấp, khâu
(ghim)
Đóng bìa, cắt xén
nnnnn
Ghi chú Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ phối hợp
Chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban như sau:
- Giám đốc: Là người lãnh đạo cao nhất trong toàn xí nghiệp, trực tiếp chỉ đạo, quản lý các phòng ban, các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, đồng thời là người đại diện xí nghiệp trong mọi giao dịch với cấp trên, với khách hàng,... ký kết hợp đồng kinh tế, tham gia hội họp, tham gia đấu thầu,...
- Phòng tổng hợp: phòng có hai nhiệm vụ chính là:
+ Marketing: Tăng cường các mối giao lưu để quảng bá chất lượng sản phẩm của công ty, tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng kinh tế để mở rộng thị trường, đồng thời tìm hiểu thị hiếu khách hàng, đánh giá khai thác thị trường, tham mưu cho giám đốc về phương hướng kinh doanh, tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng đáp ứng tối ưu nhu cầu khách hàng.
+ Tổ chức hành chính: Có trách nhiệm về các mặt nhân sự, sắp xếp, bố trí lao động hợp lý trong công ty, quản lý công tác văn thư, lưu trữ, tổ chức các phong trào văn nghệ, thi đua, khen thưởng, làm thêm ca...
- Phòng kế toán, tài vụ: Đảm nhiệm công tác kế toán tài chính của công ty, phản ánh tổng hợp, chính xác chi phí sản xuất kinh doanh, tính giá thành sản phẩm, hạch toán tiêu thụ, tính ra lãi lỗ và lập báo cáo tài chính, báo cáo quản trị theo định kỳ...Bộ phận kế toán phải đảm bảo thông tin liên tục, đầy đủ, chính xác, giúp giám đốc quản lý quá trình sản xuất chặt chẽ, hiệu quả, và từ đó đề ra phương hướng kinh doanh, phương hướng đầu tư đúng đắn, kịp thời,...
- Phòng kế hoạch sản xuất: Đây là phòng ban có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc về các mặt của sản xuất như kế hoạch mua nguyên vật liệu, dự trữ vật tư cho sản xuất, tiến độ sản xuất, lưu kho,...đồng thời phòng cũng trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ các phân xưởng, phân công, điều hành công việc hợp lý, khoa học cho các phân xưởng.
Giữa phòng kế hoạch sản xuất và phòng kế toán tài vụ có mối liên hệ mật thiết với nhau, thông tin qua lại lẫn nhau: Phòng kế hoạch sản xuất là nơi chuyển những thông tin kỹ thuật của sản phẩm cho kế toán, làm căn cứ cho kế toán ghi sổ. Ngược lại, phòng kế toán phản hồi các thông tin kế toán cần thiết cho phòng kế hoạch sản xuất: ví dụ như thông tin về tỷ trọng các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm, thông tin về định mức nguyên vật liệu,...
- Phân xưởng chế bản tạo mẫu: Phân xưởng này có ba bộ phận chính là : Vi tính, bình bản, phơi bản
Nhiệm vụ chính của phân xưởng là đánh máy vi tính, căn chỉnh, sắp chữ điện tử, tạo ra mẫu in, sau đó phân màu theo từng yêu cầu của khách hàng, sau đó chụp lên bản kẽm, phơi bản.
- Phân xưởng in : Đây là phần công việc chính, quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất. Các mẫu in sẽ được phân xưởng tạo mẫu chuyển xuống và được in theo đúng tiêu chuẩn công nghệ quy định, theo từng chủng loại nhất định. Phân xưởng in lại tách ra hai tổ riêng là tổ in bìa và tổ in ruột sản phẩm. Tuy nhiên hai công việc này thường được tiến hành song song với nhau để đảm bảo sản phẩm đồng bộ và phối hợp công việc hợp lý hơn. Sản phẩm sau khi in phải được kiểm tra chặt chẽ về mức đồng đều, đẹp mắt.
- Phân xưởng hoàn thiện: Sau khi in, các sản phẩm phải hoàn thiện các công việc như gấp sách (gấp 1vạch, 2 vạch, 3 vạch), khâu sách hoặc dập ghim, sau đó được đóng bìa và tiến hành cắt xén, tạo ra sản phẩm hoàn thành.
Tuy chia làm ba phân xưởng nhưng phân xưởng tạo mẫu,chế bản, phân xưởng in, phân xưởng hoàn thiện có mối quan hệ mật thiết với nhau, sản phẩm của phân xưởng này là đầu vào của phân xưởng kia. Do vậy tổ chức quản lý trong ba phân xưởng phải phối hợp đồng bộ, hiệu quả, đảm bảo sản xuất liên tục, đúng quy trình công nghệ và có chất lượng cao.
3.2 Quy trình công nghệ và đặc điểm sản phẩm, thị trường
Là một doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực in ấn nên sản phẩm của đơn vị chủ yếu là các ấn phẩm văn hóa như sách báo, tạp chí,..Quy trình sản xuất liên tục, khép kín, để có sản phẩm cuối cùng phải qua nhiều giai đoạn công nghệ khác nhau, thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 11: Quy trình sản xuất trong xí nghiệp
Kế hoạch
sản xuất
Tạo mẫu,chế bản(bình bản)
Đơn đặt hàng
(mẫu tài liệu)
Phơi bản
In ấn phẩm
Hoàn thiện (Gấp, khâu, ghim, cắt xén,bao gói)
Khi nhận đơn đặt hàng, doanh nghiệp tiến hành tạo mẫu, chế bản: đánh máy, trình bày, tách màu điện tử, sắp đặt tranh ảnh...Bộ phận bình bản sẽ bố trí các loại chữ, hình ảnh, đặt trang in phù hợp, và cho hiện hình ảnh lên các bản kẽm, các bản này sẽ được phơi bằng máy, gọi là phơi bản, sau đó sẽ chuyển cho các máy in để in hàng loạt theo các chế bản khuôn in đó. Sau khi in, phân xưởng hoàn thiện sẽ tiến hành các công việc như gấp, đóng ghim, khâu, cắt xén, bao gói để được sản phẩm hoàn thành.
Doanh nghiệp chủ yếu sản xuất theo các đơn đặt hàng. Thị trường chính của doanh nghiệp là Hà nội và các tỉnh phía Bắc. Khách hàng quen thuộc của doanh nghiệp là các nhà xuất bản, các tổng cục, các đơn vị và cá nhân khác. Trong những năm qua, doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo được uy tín đối với khách hàng.
4. Tổ chức bộ máy và công tác kế toán của xí nghiệp
4.1 Tổ chức bộ máy kế toán
Là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ máy kế toán được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý.
Tổ chức bộ máy kế toán theo phương thức trực tuyến. Cấp dưới theo sự chỉ đạo của cấp trên trực tiếp, giúp cho thông tin thống nhất, nhanh chóng. Bộ máy kế toán được khái quát theo sơ đồ sau
Sơ đồ số 12: Tổ chức bộ máy kế toán
Trưởng phòng
kế toán
Kế toán lao động, tiền
Lương TSCĐ
Kế toán thanh toán, vật tư, thành phẩm
Thủ quỹ
Thủ kho
Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận như sau:
* Trưởng phòng kế toán:
Trưởng phòng kế toán bao quát toàn bộ công tác kế toán trong công ty, trực tiếp chỉ đạo các nhân viên trong bộ máy kế toán, phân công, sắp xếp công việc cho từng người. Trưởng phòng kế toán tổng hợp số liệu, tính giá thành sản phẩm, lập báo cáo tài chính, báo cáo quản trị theo định kỳ.
* Kế toán thanh toán: thực hiện các phần hành kế toán về thu chi tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản phải thu, phải trả, và các phần hành vê vật tư, thành phẩm...
* Kế toán lao động, tiền lương và bảo hiểm xã hội: Có nhiệm vụ tính toán chính xác, kịp thời tiền lương, BHXH và các khoản phải trả khác cho người lao động căn cứ vào bảng chấm công, đơn giá lương và hệ số lương, đồng thời thực hiện các phần hành kế toán về TSCĐ và một số công việc liên quan khác.
* Thủ quỹ, kiêm thủ kho: Quản lý tiền của đơn vị, làm các công việc liên quan đến tiền như thu quỹ, chi quỹ, các dịch vụ chuyển đổi giữa tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, và ngược lại,...Thủ quỹ còn thực hiện các nhiệm vụ của thủ kho như nhập, xuất kho, ghi thẻ kho, phiếu giao nhận hàng,.
4.2 Tổ chức hạch toán kế toán
Chế độ kế toán:
Xí nghiệp in I thực hiện chế độ kế toán theo quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT của Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành ngày 01/11/1995 và các thông tư sửa đổi số 10 TC/CĐKT ngày 20/3/1997, số 120/1999/TT-BTC ngày 07/10/1999, số 105/2003/TT-BTC ngày 24/11/2003. Niên độ kế toán bắt đầu từ 1/1 và kết thúc vào 31/12
* Hệ thống chứng từ: tuân thủ theo mẫu của Bộ Tài chính ban hành, ngoài ra còn sử dụng một số mẫu do doanh nghiệp tự thiết kế cho phù hợp với đặc điểm riêng của xí nghiệp: ví dụ phiếu giao việc, phiếu giao hàng...
* Hệ thống tài khoản sử dụng: doanh nghiệp sử dụng khoảng một nửa số tài khoản do Bộ Tài chính ban hành: không sử dụng các tài khoản liên quan đến ngoại tệ, dự phòng, đầu tư tài chính,...trong các tài khoản ngoài bảng thì chỉ sử dụng tài khoản 009 để theo dõi nguồn vốn khấu hao, tài khoản 002 để theo dõi nguyên vật liệu (giấy) do khách hàng gửi đến
* Hệ thống sổ sách tại xí nghiệp
Phù hợp với đặc điểm sản xuất, quy mô và yêu cầu quản lý, xí nghiệp áp dụng hình thức kế toán “Nhật ký chung”. Đây là hình thức có đặc trưng cơ bản là tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được ghi vào sổ nhật ký, đặc biệt là nhật ký chung, theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản kế toán của nghiệp vụ đó, sau đó lấy số liệu trên các sổ nhật ký để ghi sổ cái theo từng nghiệp vụ phát sinh. Sổ sách của doanh nghiệp bao gồm sổ nhật ký chung (không dùng nhật ký đặc biệt), sổ cái các tài khoản và sổ, thẻ kế toán chi tiết.
Sổ nhật ký chung được ghi thường xuyên, theo trình tự thời gian, sổ cái được ghi định kỳ một tháng một lần. Cuối tháng, cuối quý, cuối năm, số liệu trên bảng tổng hợp chi tiết và sổ cái được kiểm tra, đối chiếu và lập bảng cân đối số phát sinh, lập báo cáo tài chính.
Sơ đồ số 13: Trình tự ghi sổ tại xí nghiệp in I
Chứng từ gốc
Sổ nhật ký chung
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Sổ cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo
tài chính
Ghi chú
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
* Phương pháp kế toán hàng tồn kho:
Nguyên tắc đánh giá: Ghi sổ theo giá gốc (Gồm giá mua trên hoá đơn cộng với chi phí thu mua vận chuyển)
Phương pháp xác định hàng tồn kho cuối kỳ: Giá bình quân cuối kỳ
Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Kê khai thường xuyên
II . Đặc điểm chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm
Đặc điểm chung về chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm tại xí nghiệp
Xét trong mối quan hệ với giá thành sản phẩm thì chi phí sản xuất, kinh doanh được chia thành 5 khoản mục chi phí. Trong đó, giá thành sản xuất (giá thành phân xưởng) được hình thành trên 3 khoản mục chi phí sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Các yếu tố chi phí này, tuỳ theo đặc điểm ngành nghề, quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất mà sẽ có đặc điểm khác nhau, cơ cấu khác nhau từ đó đòi hỏi công tác quản lý, hạch toán, phân tích chi phí khác nhau.
Tại xí nghiệp in I, một xí nghiệp chuyên về lĩnh vực in ấn, sản phẩm chủ yếu là sách báo, tạp chí .. Quy trình công nghệ được bố trí thành các bước rõ ràng, sản phẩm mang tính đặc thù riêng, lại được sản xuất qua nhiều công đoạn khác nhau và được thực hiện khép kín trong phân xưởng sản xuất từ khâu đầu đến khâu cắt xén, đóng gói, và cuối giai đoạn tạo ra sản phẩm. Điều đó tạo ra những nét đặc thù riêng trong chi phí, giá thành sản phẩm, cụ thể:
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu,.. tham gia trực tiếp vào qúa trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong xí nghiệp in chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm (đến 80%). Bao gồm các loại chi phí về giấy in, mực in các màu, bản kẽm, xăng, nhớt, dầu hoả,...Trong đó chi phí về giấy in là lớn nhất (chiếm đến 85% trong tổng số chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp)
* Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương,.. Trong giá thành sản phẩm, chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng khoảng 6 đến 7%.
* Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi toàn phân xưởng ngoài hai khoản chi phí trên: bao gồm chi phí về nhân viên phân xưởng, nhiên liệu, động lực, điện nước, khấu hao, dịch vụ mua ngoài... Trong tổng giá thành sản xuất thì chi phí sản xuất chung chiếm tỷ trọng khoảng 12%
Ta có thể thấy sự biến đổi cơ cấu ba khoản mục chi phí trên trong tổng giá thành sản xuất qua bảng phân tích sau:
Bảng 1: cơ cấu chi phí
Chỉ tiêu
Quý 3- 2003
Quý 4-2003
Chênh lệch
Chi phí NVL TT
81,5 %
80,05 %
- 1,45 %
Chi phí NCTT
6,5 %
7,15 %
+ 0,65 %
Chi phí SXC
12 %
12,8 %
+ 0,8 %
(nguồn: phòng kế toán tài vụ)
Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm
Đối tượng hạch toán chi phí
Một vấn đề quan trọng trong lý luận và thực tiễn của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm là xác định đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành sản phẩm, đây là bước công việc đầu tiên mà các nhà quản lý phải làm nhằm hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh tính giá thành sản phẩm đúng đắn, chính xác, kịp thời. Xác định đối tượng hạch toán chi phí chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là việc xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí
Tại xí nghiệp in I, quy trình công nghệ phức tạp, chu trình sản xuất ngắn, khép kín, và liên tục, sản xuất hàng loạt theo các đơn đặt hàng với số lượng, chủng loại yêu cầu mẫu mã, thẩm mỹ khác nhau. Do đó, doanh nghiệp xác định đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt. Tuy nhiên, không phải mọi đơn đặt hàng đều được tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm, một số đơn đặt hàng nhỏ lẻ, số lượng không nhiều hoặc không có yêu cầu đặc biệt về mẫu mã, chất liệu, quy cách (chất liệu giấy, màu in, tranh ảnh) thì không được lập thẻ tính giá thành mà đối tượng tập hợp chi phí lúc này là toàn bộ phân xưởng, do đó đối tượng tính giá thành là các trang in tiêu chuẩn hoặc được quy về các trang in tiêu chuẩn (khổ 13 cm x 19 cm)
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm .
Phương pháp hạch toán chi phí là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để phân loại và tập hợp chi phí sản xuất trong giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí . ở đây, xí nghiệp xác định đối tượng tập hợp chi phí là các đơn đặt hàng, nội dung chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí là: kế toán mở thẻ, sổ chi tiết cho từng đơn đặt hàng, phản ánh các chi phí liên quan đến các đơn đặt hàng đó. Cuối mỗi tháng, tập hợp chi phí tính giá thành sản phẩm cho các đơn đặt hàng đă hoàn thành, những đơn đặt hàng chưa hoàn thành, thì coi như chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Thực chất của phương pháp tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp in I là sự kết hợp giữa phương pháp trực tiếp (tính chi phí trực tiếp cho từng đơn đặt hàng) và phương pháp tổng cộng chi phí (tập hợp chi phí của các bộ phận, các công đoạn sản xuất). Do đó trình tự hạch toán có thể được thể hiện qua các bước sau:
B 1: Tập hợp chi phí có liên quan trực tiếp đến từng đơn đặt hàng
B 2: Tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đơn đặt hàng có liên quan (theo tiêu thức là chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp)
B 3: Xác định đơn đặt hàng hoàn thành, tính giá thành sản phẩm, đơn đặt hàng chưa hoàn thành coi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
III. Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh
Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Đặc điểm và phân loại
Là một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chuyên về lĩnh vực in ấn, sản phẩm là các ấn phẩm văn hoá nên chi phí về nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn, hơn nữa xí nghiệp sản xuất theo các đơn đặt hàng với yêu cầu khác nhau của khách hàng về thẩm mỹ, cách thức, mẫu mã, chất lượng, điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải có nguồn nguyên vật liệu đa dạng phong phú về chủng loại, kích cỡ màu sắc, chất lượng...Cho thấy tầm quan trọng của việc quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu nhằm tập hợp chính xác, đầy đủ, chi phí nguyên vật liệu trong việc tính giá thành sản phẩm đồng thời tìm ra các biện pháp sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu góp phần giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Nguyên vật liệu được chia ra các loại như sau:
* Nguyên vật liệu chính: Giấy in, mực in các màu: Trên thực tế, nguyên vật liệu giấy của xí nghiệp rất đa dạng và phong phú về chủng loại: Giấy couche, giấy Bãi Bằng, giấy Tân mai, giấy indo trắng, giấy offset, Giấy poluye, các loại bìa... Mỗi loại giấy lại khác nhau về định lượng và khuôn khổ. Ví dụ như giấy couche
- Giấy couch 230 g/m2 , khổ 79 x 109 cm
- Giấy couch 150 g/ m2 , khổ 92x 86 cm
- Giấy couch 115 g/ m2, khổ 65x 88 cm
.. v.. v..
Việc lựa chọn nguyên liệu giấy để sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về chất lượng, tính chất kỹ thuật, màu sác..đồng thời phải phù hợp với chi phí , sao cho đảm bảo yêu cầu kỹ thuật vừa có giá thành hợp lý.
Về mực in, cũng có rất ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3098.doc