Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin và các yêu cầu đặt ra trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại

LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã bước vào kỷ nguyên thông tin, kỷ nguyên của Internet và World Wide Web với sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tác động đến mọi bình diện của xã hội, làm thay đổi sự tương tác giữa người cán bộ thư viện với vốn tài liệu, nguồn lực thông tin và người đọc. Sự xuất hiện của mạng máy tính kỹ thuật lưu trữ và chuyển dạng tài liệu đã dẫn đến việc hình thành các thư viện hiện đại, làm biến

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin và các yêu cầu đặt ra trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi sâu sắc quá trình tổ chức, thu nhập, xử lý và phục vụ của các cơ quan thư viện thông tin. Thực tế dó đã đòi hỏi người cán bộ thư việc thông tin phải có những năng lực mới. Để đào tạo được đội ngũ cán bộ thư viện thông tin đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của thực tế là trách nhiệm của các cơ sở đào tạo. Trên thực tế trong những năm gần đây đào tạo cán bộ thư viện thông tin là một trong những chuyên ngành đào tạo có nhiều sự biến động. Trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại, có nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức đã và đang đặt ra đối với công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin. Tính chất nghề thư viện đã có nhiều thay đổi so với trước đây và sẽ còn tiếp tục thay đổi với việc áp dụng các phương tiện và công nghệ thông tin hiện đại. Làm thế nào để tìm ra được các mô hình và giải pháp thích hợp cho công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin để các sản phẩm đào tạo đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong thực tế. Đó là một vấn đề có tính chất chiến lược và được toàn ngành thư viện thông tin hết sức quan tâm. Tìm hiểu, nghiên cúu và đánh giá đúng thực trạng công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở Việt Nam trong các cơ sở đào tạo cũng như công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức nghề nghiệp tại các thư viện và cơ quan thông tin, thu thập các ý kiến nhận xét về kết quả đào tạo của các trường đào tạo cán bộ thư viện thông tin trong bối cạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá là những vấn đề cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu về công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở Việt Nam. Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài tập trung vào nghiên cứu công tác đào tạo chuyên nghiệp ở trình độ đại học. 3. Mục tiêu của đề tài - Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp, phương thức và mô hình thích hợp về đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra của xã hội thông tin hiện đại. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo nghề thư viện thông tin tạo ra các sản phẩm đào tạo có đầy đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầy của thực tế. 4. Phương pháp nghiên cúu Phương pháp luận được sử dụng trong đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử , nghiên cứu xây dựng mô hình và giải pháp về đào tạo cán bộ thư viện trong điều kiện xã hội thông tin đặt trong hoàn cảnh thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là: Tổng hợp, phân tích tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, Khảo sát thực tế tại các cơ sở đào tạo và một số thư viện, cơ quan thông tin, Phỏng vấn, điều tra bằng an két. Đối tượng phỏng vấn, điều tra là các cán bộ lãnh đạo trong các thư viện và cơ quan thông tin cùng các chuyên gia trong ngành. Tổng hợp, phân tích các kết quả phỏng vấn, điều tra được. 5. Nội dung nghiên cứu. Đề tài được hoàn thành với 176 trang. Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, phụ lục, nội dung đề tài được chia thành 3 chương: - Chương 1: Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin và các yêu cầu đặt ra trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại. - Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo cán bộ thông tin thư viện ở Việt Nam. - Chương 3: Mô hình và giải pháp về đào tạo cán bộ thông tin thư viện ở Việt Nam trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại. Phần phụ lục bao gồm: Các nguyên tắc chỉ đạo chương trình giáo dục thông tin thư viện chuyên nghiệp-2000 của IFLA, các chương trình đào tạo của Việt Nam và nước ngoài, mẫu phiếu điều tra. Trong quá trình thực hiẹn đề tài chúng tôi đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiẹn giúp đỡ của Bộ Văn Hoá Thông Tin, Trường Đại học Văn Hoá Hà Nội,, Khoa Thư viện Thông Tin, Phòng Nghiên cứu khoa học của trường, các trung tâm thông tin, thư viện và nhiều bạn đồng nghiệp. Nhân đây chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Bộ Văn Hoá Thông Tin, Trường Đại học Văn Hoá Hà Nội, Các Quý Cơ quan và bạn hữu đã tận tình giúp đỡ và cho chúng tôi những lời chỉ bảo quý báu. Mặc dù đã nỗ lực về mọi mặt, nhưng do thời gian và kinh phí có hạn, cho nên công trình của chúng tôi sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi rất mong được những ý kiến góp ý của các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này. Nhóm nghiên cứu CHƯƠNG I: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ THƯ VIỆN THÔNG TIN VÀ CÁC YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI THÔNG TIN HIỆN ĐẠI 1. Khái quát về công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở trên thế giới và ở Việt Nam. 1.1 Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin trên thế giới. Thư viện đã xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên và nghề thư viện cũng ra đời với sự phát triển của thư viện. Nhưng bộ môn thư viện học, với tư cách là một bộ môn khoa học có đối tượng nghiên cứu rõ ràng mới chỉ hình thành vào cuối thế kỷ XIX. Việc đào tạo nghề thư viện một cách có hệ thống và quy mô cũng chỉ được bắt đầu tiến hành vào thời điểm đó. Trong một thời kỳ dài do tính chất của thư viện còn khá đơn giản chủ yếu là tàng trữ nên chức năng chủ yếu của người cán bộ thư viện là quản lý thư viện, quản lý kho sách. Kho sách thư viện không lớn lắm vì thế người cán bộ thư viện có thể dễ dàng nắm bắt để phục vụ người đọc. Đến thế kỷ XVII, cùng với sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản, các thư viện công cộng và một số thư viện chuyên ngành đã thành lập kéo theo sự phát triển của nhu cầu đọc đại trà. Lúc bấy giờ kho sách của các thư viện đã tăng lên, số lượng người đọc đông thêm, nhu cầu của những đọc mở rộng, tính chất của công tác thư viện phải được đào tạo về chuyên môn. Việc đào tạo nghề thư viện một cách một cách có hệ thống và quy mô cũng chỉ được bắt đầu tiến hành vào thế giữa thế kỷ XIX ở các nước phát triển. Việc thành lập các hiệp hội thư viện và việc tổ chức đào tạo nghề thư viện đánh dấu sự công nhận của xã hội đối với nghề thư viện và qua đó nó cũng thể hiện sự phát triển của nghề thư viện với tư cách là một nghề độc lập. Vào năm 1876 Hội thư viện Mỹ (ALA) là tổ chức hội thư viện đầu tiên được thành lập. Tiếp theo đó, Hội thư việ Anh được thành lập vào năm 1877, Giới cán bộ thư viện Đức năm 1900, Hội cán bộ thư viện Đan Mạch năm 1905, Hội cán bộ thư viện Pháp năm 1906… Vào thời điểm đó chưa có sự quản lý nhà nước về sự nghiệp thư viện. các hội và các hiệp hội thư viện đã nhận trách nhiệm đào tạo cán bộ thư viện. Hình thức đào tạo chủ yếu lúc bấy giờ là các lớp huấn luỵện ngắn ngày do các nhóm thư viện hoặc các hội thư viện đứng ra tổ chức. Hình thức này đã được áp dụng phổ biến ở trên thế giới cho đến giữa thế kỷ XX. Mỹ là quốc gia có lịch sử đào tạo cán bộ thư viện thông tin sớm nhất thế giới. Năm 1987 Menvil Dewey đã thành lập trường đào tạo cán bộ thư viện đầu tiên. Đó là trường dạy nghề thư viện đầu tiên của Mỹ và cùng là trường đầu tiên trên thế giới. Việc đào tạo nghề thư viện một cách có hệ thống và quy mô cũng chỉ được bắt đầu của Dewey chú trọng vào khía cạnh kỹ thậut thực hành của ngành thư viện. Trong một thời gian dài, công tác đào tạo cán bộ thư viện ở Mỹ đã thực hiện theo hướng này. Cho đến ngày nay, mô hình và phương pháp đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở Mỹ vẫn được đánh giá là có chất lượng cao, đứng vào loại hàng đầu thế giới. Ở Châu Âu đến đầu thế kỷ XX một số trường đào tạo nghề thư viện mới được thành lập. Chẳng hạn như ở Đức, Trường chuyên ngành như Viện ở Lepdích được thành lập năm 1915, ở Anh trường Lưu trữ và thư viện nằm trong Trường đại học tổng hợp Luân Đôn được thành lập năm 1919, ở Achentina Trường thư viện ở Buênôs-Airex được thành lập năm 1922, ở Pháp trường thư viện nằm trong trường Đại học Thiên chúa giáo ở Paris được thành lập năm 1925 , Trường thư viẹn hoàng gia ở Xtốckhôm của Thủy Điển được thành lập năm 1926…. Trên thế giới, trong lĩnh vực nghề nghiệp thư viện thông tin, người ta phân chia thành hai hình thái đào tạo: Đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp, đào tạo chuyên nghiệp. Đặc trưng phân biệt của hình thái đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp đào tạo chuyên nghiệp là tính pháp lý của văn bằng cấp sau khoá học. Vì thế những khoá học này còn được gọi là khoá học không có cấp vị, còn đào tạo chuyên nghiệp là loại hình đào tạo có kèm theo văn bằng. Học viên qua các khoá này được cấp văn bằng xác nhận một cấp học tương ứng. Vì thế các khoá học đào tạo chuyên nghiệp còn được gọi là khoá học có cấp vị. Đào tạo bồi dưỡng là một hình thức đào tạo quan trọng được các nước trên thế giới hết sức quan tâm. IFLA đã thành lập một tiểu ban chuyên theo dõi về công tác đào tạo bồi dưỡng. Đào tạo bồi dưỡng còn được gọi là đào tạo liên tục. Tiểu ban này có nhiệm vụ khuyến khích và thúc đẩy các chương trình đào tạo về khoa học thư viện thông tin quốc tế, giúp cho người cán bộ TVTT trên toàn thế giới có thể trao đổi thông tin, phát triển các kỹ năng nghề nghiệp, thúc đẩy công tác giáo dục thường xuyên. Tính đến nay IFLA đã 5 lần tổ chức hội nghị quốc tế về vấn đề đào tạo bồi dưỡng. Trong ngành thông tin thư viện loại hình đào tạo không cấp vị mà người ta vẫn quen gọi là đào tạo bồi dưỡng (kiến thức cơ bản hoặc nâng cao) có tầm quan trọng đặc biệt. Đối với các nước phát triển khái niệm đồng nghĩa với dạng đào tạo này là đào tạo thường xuyên. Và vấn đề đào tạo thường xuyên hiện đang trở thành biện pháp hàng đầu của công nghệ giáo dục mới. Các hội thư viện thông tin của các nước IFLA và UNESCO đã quan tâm đến vấn đề này từ lâu và các tổ chức này đã coi đó là một trong những phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn lực thông tin thư viện và không ngừng nâng cao chất lượng của các cán bộ công tác trong lĩnh vực này. Về đào tạo chuyên nghiệp, trong hệ thống đào tạo nhân lực ngành thông tin, thư viện hiện nay trên thế giới hiện có ba cấp vị : Cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Hiện nay hầu hết ở các nước phát triển đều có đào tạo cả ba cấp vị này. Tại Mỹ việc đào tạo văn bằng thạc sĩ và tiến sĩ nghề thư viện đã xuất hiện từ những năm 50. Ở các nước phát triển khác như Pháp, Anh, Nga, ôxtrâylia, Nhật bản... việc đào tạo sau đại học đều có cả hai trình độ: thạc sĩ và tiến sĩ. Năm 1971 IFLA đã tiến hành kỳ họp thứ 37 ở Livơpul. Chủ đề được đưa ra là "Tổ chức nghề thư viện" trong đó vấn đề được chú ý nhiều nhất là vấn đề đào tạo cán bộ thư viện. Từ năm 1977, Tiểu ban Trường thư viện và công tác đào tạo cán bộ thư viện của IFLA đã tiến hành chương trình nghiên cứu "Sự tương đương của việc đào tạo cán bộ thư viện". Mục đích của chương trình này là thông qua các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực đào tạo cán bộ thư viện. Bức tranh về đào tạo cán bộ thư viện trên thế giới vào những năm 70-80 của thế kỷ XX rất phong phú đa dạng. Mặc dù UNESCO và IFLA đã nỗ lực trong việc đề xuất ra một phương pháp đào tạo thống nhất trong đào tạo cán bò thư viện nhưng trên thực tế trong các cơ quan đào tạo cán bộ thư viện chưa có được sự thống nhất thực sự do nhiều nguyên nhân khác nhau: sự phát triển của kinh tế xã hội của các nước khác nhau, đặc tính nghề nghiệp của hệ thống giáo dục, nền tảng tư tưởng của việc tổ chức sự nghiệp thư viện, quan điểm khác nhau về nghề nghiệp và thậm chí các khuynh hướng phát triển nghề nghiệp cũng không thể đồng nhất ở tất cả các nước trên thế giới. Tuyên ngôn của UNESCO về các thư viện công cộng năm 1972 đã đặt ra các yêu cầu về đào tạo chuyên nghiệp bắt buộc dối với cán bộ thư viện. Sau đó UNESCO đã xuất bản cuốn “Sách chỉ dẫn cho các trường thư viện và thông tin trên thê giới". Trong lần xuất bản vào năm 1985, cuốn sách đã thống kê hơn 600 trường thư viện đào tạo cán bộ thư viện của 92 nước. Hiện nay con số này không dừng lại ở đó. Theo con số thống kê trong "Bách khoa toàn thư về dịch vụ thông tin thư viện", hơn 70 chương trình giáo dục khoa học thư viện được áp dụng trong các trường học ở Mỹ và Canada đã được Hội thư viện Mỹ (ALA) phát triển và sự hội tụ của nghề thư viện với khoa học thông tin đã được phản ánh thông qua các chương trình đào tạo. Tại Canađa ở miền Bắc nước Mỹ người ta rất chú trọng đến vấn đề kỹ thuật trong công tác thư viện. Để trở thành người cán bộ thư viện, người ta phải học một trong bảy chương trình do hội thư viện Mỹ thiết lập Khoá đào tạo thư viện đầu tiên được tiến hành tại trường đại học tổng hợp Mc.Gill vào năm 1904. Chương trình đào tạo sau đại học bắt đầu được tiến hành vào năm 1931 . Vào những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều trường đã đổi tên do ảnh hưởng của sự phát triển của khoa học thông tin. Ở Anh đào tạo thư viện có phần khác biệt so với Bắc Mỹ. Hội thư viện Anh có một vai trò quan trọng trong công tác đào tạo cán bộ thư viện. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, Hiến chương Hoàng gia Anh đã ban đặc quyền cho Hội thư viện Anh "tổ chức các kỳ thi về thư viện học và cấp bằng". Năm 1964 Hội thư viện Anh đã ban hành một chương trình giảng dạy mới gồm 2 năm học liên tục cho những người chưa tốt nghiệp và 1 năm cho những người đã tốt nghiệp một bằng đại học khác. Bằng của Hội thư viện Anh có thể được cấp thông qua viết luận mà không phải thi. Vào thập kỷ 60 ở Anh có 6 trường đào tạo cán bộ thư viện trong đó trường Đại học tổng hợp Luân đôn là trường có lịch sử lâu đời nhất. Ở Anh hiện có 17 trường đào tạo cán bộ thư viện thông tin. Cũng như các nước tư bản khác, các trường đào tạo cán bộ thông tin thư viện của Anh tiến hành theo hai dạng : đào tạo cử nhân cho các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có đủ tiêu chuẩn và đào tạo cho những người đã tết nghiệp một bằng đại học khác. Hầu hết các trường cấp bằng đại học thứ nhất cho các sinh viên sau 3 hoặc 4 năm học. Nhiều trường cấp chứng chỉ tốt nghiệp đại học và cấp bằng thạc sĩ hoặc cao hơn là bằng tiến sĩ. Tất cả các trường đào tạo cán bộ thư viện ở Anh đều phải tuân theo quy chế của Hội thư viện Anh. Ở Đức có nhiều trường đào tạo cán bộ thư viện thông tin bậc đại học. Về chương trình tuỳ theo mục tiêu đào tạo các trường có các chương trình tương ứng. Ví dụ: trường Thư viện của Thư viện quốc gia Bavar ở Muynich chỉ đào tạo cán bộ cho các thư viện khoa học. Tại Đức có hai hình thức đào tạo đại học chuyên ngành thông tin thư viện. Hình thức đào tạo phổ biến được áp dụng ở Đức là đào tạo cho các người đã tốt nghiệp đại học các ngành khác sau đó vào học hai năm: một năm lý thuyết, một năm thực hành. Sau khoá học học sinh được cấp bằng thạc sĩ Và một hình thức khác là tuyển chọn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đủ điều kiện theo học. Sau khoá học học sinh được cấp bằng cử nhân thông tin thư viện. Thời gian học là 4 năm. Tại Ôxtrâylia có 1 1 trường đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện với 3 cấp bậc cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Ở Trung quốc hiện có 50 trường đại học tổng hợp và cao đăng có đào tạo về khoa học thư viện. Hai cơ sở đào tạo lâu đời nhất là Trường đại học Tổng hợp Vũ Hán và Trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh. Ngay từ năm 1964 Khoa thư viện Trường đại học tổng hợp Bắc kinh đã bắt đầu đào tạo chương trình thạc sĩ. Từ năm 1991, Trung Quốc đã có 2 trường đào tạo cấp bằng tiến sĩ thông tin thư viện. (Trường đại học Vũ Hán có quyền đào tạo tiến sĩ thõng tin, trường đại học Bắc kinh : tiến sĩ thư viện). Ở Thái Lan: Việc đào tạo cử nhân Thư viện bắt đầu từ 1959 tại khoa nghệ thuật của Trường đại học Chubalóngkorn. Hiện nay có 6 trường đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học. Ở Inđônêxia: Hiện có 3 trường đại học đảm nhiệm việc đào tạo cán bộ Thư viện bậc Đại học. Việc đào tạo cán bộ Thư viện bậc đại học bắt đầu từ 1985. Ở Malaixia: Việc đào tạo cán bộ Thư viện bậc Đại học ở Malaixia được tiến hành từ năm 1957. Hiện có 3 trường đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học. Ở Philipin: Việc đào tạo cán bộ bậc đại học xuất hiện rất sớm, từ năm 1916 tại trường Đại học Philipin. Hiện ở Philipin có 26 trường đào tạo cán bộ Thư viện bậc đại học. Do qui mô to lớn của việc đào tạo này nên những người tốt nghiệp đại học thư viện ở Philipin có thể được gọi với cái tên khác nhau: cử nhân khoa học về khoa học thư viện (BSLS); cử nhân khoa học thư viện (BSI); cử nhân nghệ thuật chuyên ngành thư viện (ABLS); cử nhân khoa học giáo dục chuyên ngành thư viện (BSELS). Ở Camơrun. cho đèn những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ XX, vẫn chưa có trường đào tạo cán bộ thư viện. Các cán bộ thư viện được đào tạo ở Anh, Canađa, Pháp, Nigiêria và Mỹ. Mãi đến năm 1986 Bộ Đại học của Camơrun mới đưa ra quyết định thành lập một trường đào tạo cán bộ thư viện. Về chương trình đào tạo hiện nay mỗi nước và mỗi trường dạy nghề thư viện đều có xây dựng một chương trình đào tạo riêng. Các chương trình đó có những nét đặc thù chung về một số môn học cốt lõi nhưng các trường cũng không phải tuân thủ đào tạo theo một chương trình thống nhất. Hầu hết các chương trình đều có hai phần : Phần cốt lõi (Bao gồm các môn học bắt buộc) và phần tự chọn cho phép học sinh tự lựa chọn các môn học mà họ cần. Thông thường ở những nước có Hội thư viện thông tin, Hội sẽ có trách nhiệm kiểm soát các chương trình đào tạo này. Những nước không có hội thư viện, việc đào tạo do các trường đảm nhiệm dưới sự kiểm soát và chỉ đạo của các Bộ chủ quản. Năm 1976, IFLA đã đưa ra "Các tiêu chuẩn cho các trường dạy nghề thư viện" trên khắp thế giới. Theo quy định của tiêu chuẩn này một chương trình hạt nhân đã được đề xuất bao gồm 12 môn học chính sau: 1. Thư viện trong xã hội và thư viện là một cơ quan truyền thống 2. Thư mục 3. Biên mục và phân loại 4. Phục vụ tra cứu và phục vụ người đọc 5. Lựa chọn và bổ sung 6. Quản lý thư viện 7. Lịch sử thư viện 8. Thông tin (nghiên cứu về sách ) 9. Các phương pháp nghiên cứu 10. Tư động hoá thư viện 11. Thông tin học và tư liệu 12. Trụ sở và trang thiết bị thư viện Việc tuân thủ theo các tiêu chuẩn của IFLA về vấn đề xây dựng các chương trình hạt nhân trong các trường đào tạo cán bộ thư viện thông tin trên thế giới không hoàn toàn đồng nhất. Có trường áp dụng có trường không áp dụng. Hoặc có môn học theo chuẩn có môn học không theo. Ví dụ như ở Mỹ hầu hết các trường đều loại môn thư mục ra khỏi chương trình hạt nhân mà chỉ để môn học đó ở phần tự chọn không bắt buộc. Theo con số thống kê nghiên cứu của các nhà thư viện học Mỹ: Môn học về công tác tra cứu được 44 trong số 47 trường đưa vào chương trình hạt nhân. Môn học về biên mục được 40 trong số 47 trường đưa vào chương trình hạt nhân. Môn học thư viện trong xã hội được 37 trong số 47 trường đưa vào chương trình hạt nhân của mình. Đây là ba chuyên đề được các trường dạy nghề thư viện ở Mỹ quan tâm áp dụng nhiều nhất. Còn các chuyên đề, môn học khác thuộc 12 môn học theo tiêu chuẩn của IFLA chỉ được chưa đến một nửa các trường đưa vào chương trình bắt buộc. Có 4 chuyên đề, môn học bị tất cả các trường ở Mỹ loại bỏ là : lịch sử thư viện, Thư tịch, Phương pháp nghiên cứu và lựa chọn sách. Trong khi đó một số trường lại đưa vào chương trình hạt nhân của mình các môn học mới như : Tìm kiếm dữ liệu trực tuyến và phân tích hệ thống thông tin. Đến tháng 12 năm 2000, IFLA đã phê chuẩn sửa đổi các tiêu chuẩn này thành “Các nguyên tắc chỉ đạo chương trình giáo dục thư viện thông tin chuyên nghiệp”. (Có thể tham khảo thêm trong Phụ lục l). IFLA đã khuyến cáo các chương trình đào tạo thư viện cần bao gồm 10 môn học hạt nhân như sau: 1 - Môi trường thông tin, các đao đức và chính sách thông tin, lịch sử của lĩnh vực này. 2- Sự hình thành thông tin, giao tiếp và sử dụng 3- Các nhu cầu thông tin định mức và các dịch vụ trả lời chỉ định . 4- Quy trình chuyển giao thông tin 5- Sự tổ chức, tìm kiếm, bảo quản và giữ gìn thông tin 6- Sự nghiên cứu, phân tích và giải thích về thông tin 7- Việc áp dụng các kỹ thuật thông tin và truyền thông vào các sán phẩm và dịch vụ thông tin thư viện. 8- Việc quản lý tài nguyên thông tin và quản lý tri thức. 9- Việc quản lý các cơ quan (tổ chức) thông tin 10 Sự ước định về chất lượng và số lượng của các kết quả sử dụng thông tin thư viện. Về hình thức và phương thức đào tạo: ở các nước tiên tiến người ta đã áp dụng rất sâu rộng công nghệ thông tin vào công tác đào tạo. Chẳng những các phương tiện hiện đai được sử dụng vào việc giảng dạy mà ngay cả các hình thức học cũng hết sức phong phú nhờ các công nghệ mới. Ngoài việc học tại trường tại lớp học sinh còn có thể nhận được sự giáo dục và đào tạo theo hình thức đào tạo từ xa, học qua thư. học theo các phương tiện multimedia, học qua mạng và học thông qua vô tuyến truyền hình... Hiện nay ở các nước phát triển có hai xu hướng đào tạo chính là đào tạo đơn mục đích và đào tạo theo chuyên ngành. Đào tạo đơn mục đích là dạng đào tạo truyền thống chú trọng trang bị cho học viên các kiến thức nghiệp vụ thư viện thông tin đơn thuần, nói một các khác đó là cách đào tạo các kỹ năng chuyên ngành thông tin thư viện. Cách đào tạo theo kiểu này bị coi là cổ điển không năng động. Còn đào tạo theo chuyên ngành là một dạng đào tạo mới được áp dụng trong những năm gần đây. Trong mô hình đào tạo này người ta lấy chủ đề chuyên môn (Kinh tế, thương mại, luật pháp, công nghệ, y tế, nghệ thuật, văn học...) làm trọng tâm. Học sinh sẽ phải học một chuyên ngành do họ lựa chọn, sau đó học thêm các kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ thông tin thư viện. Đào tạo theo hướng này tỏ ra thích ứng hơn với xu hướng chuyên môn hoá trong thực tế hiện nay. Để thúc đẩy công tác nghiên cứu, giảng dạy và các hoạt động trong đào tạo khoa học thông tin thư viện tại nhiều nước phát triển trên thế giới người ta đã thành lập các hội giáo dục khoa học thư viện thông tin, hội các trường đào tạo cán bộ thư viện thông tin. Có những hội đã thu hút được nhiều cơ sở đào tạo và cá nhân tham gia. Tiêu biểu như ALISE (Hội giáo dục khoa học thư viện thông tin) của Mỹ. Vào năm 1995 hội đã có số thành viên tham gia đông kỷ lục: 701 cá nhân và 59 trường đào tạo cán bộ thư viện ở Mỹ và Canađa. Những tổ chức nghề nghiệp chuyên sâu này thực sự giúp cho các người làm công tác giảng dạy và các cơ sở đào tạo có một tiếng nói chung, tạo ra nhiều cơ hội để không ngừng nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin, chia sẻ các vấn đề thực tiễn nghề nghiệp đặt ra. 1.2. Công tác đào tao cán bộ thư viện thong tin ở Việt Nam So với các nước trên thế giới, việc đào tạo cán bộ thư viện xuất hiện ở Việt Nam khá muộn. Trong lịch sử, thư viện ở Việt Nam bắt đầu được thành lập từ thế kỷ Xi nhưng việc đào tạo nghề thư viện chỉ mới thực sự bắt đầu được tiến hành vào thế kỷ XX. Trước thế kỷ XX, nghề thư viện được coi là một nghề mang tính kinh nghiệm và kỹ thuật đơn thuần. Công tác đào tạo cán bộ thư viện không thực sự được chú trọng. Người làm công tác thư viện thường chỉ được hướng dẫn trước khi đảm trách công việc. Việc đào tạo cán bộ phụ trách thư viện cho Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp được tiến hành tại Pháp. Tính đến năm 1960, ở Việt Nam mới có một lớp tập huấn do chuyên gia Liên xô sang giảng dạy. Hiện nay công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thư viện được tiến hành dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. Cũng như các nước trên thế giới ở Việt Nam có hai hình thái đào tạo: Đào tạo chuyên nghiệp và bồi dưỡng nghề nghiệp. Đào tạo chuyên nghiệp hay còn gọi là đào tạo theo các văn bằng. Công tác đào tạo chuyên nghiệp nghề TVTT là do các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp nghề TVTT đảm nhiệm. Về văn bằng hiện tồn tại bốn trình độ cơ bản sau: trung học, cao đẳng, cử nhân và thạc sĩ. Việc đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học hiện do các trường trung học và cao đẳng văn hoá nghệ thuật tại các địa phương đảm nhiệm. Cả nước có 23 trường trung học và 2 trường cao đẳng văn hoá nghệ thuật nhưng chỉ có một số trường có đào tạo cán bộ thư viện bậc trung cấp, điển hình như: các trường văn hoá nghệ thuật Ờ các tỉnh thành phố Hải Phòng, Thanh Hoá, Bình Định, Đà Năng, Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Mỉnh… Về trình độ cao đẳng hiện Việt Nam có 2 Trường cao đẳng văn hoá nghệ thuật tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tiến hành đào tạo cán bộ thư viện trình độ cao đẳng. Về trình độ đại học hiện có bốn cơ sở đào tạo cán bộ TVTT bậc đại học (nặng về nghiệp vụ thư viện) bao gồm: Khoa Thư viện Thông tin Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, Bộ môn Thông tin Thư viện trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Khoa Thông tin Thư viện trường Cao đẳng Văn hoá thành phố HỒ Chí Minh, Khoa Thư viện Thông tin học trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó còn có một số trường đào tạo cán bộ quản trị thông tin như: Khoa Thông tin học và quản trị thông tin trường Đại học dân lập Đông Đô... Hầu hết cả bốn trường quốc lập kể trên đều đào tạo cử nhân thư viện dưới hai hình thức: Chính quy và tại chức. Các sinh viên theo học tại các trường này đều học chung một chương trình của trường đó không có phân ban theo các chuyên ngành. Về trình độ trên đại học: Việt Nam bắt đầu đào tạo cao học thư viện từ năm 1991. Hiện nay có hai cơ sở đào tạo thạc sĩ thư viện. Đó là Trường Đại học Văn hoá Hà Nội và Đại học khoa học xã hội và nhân văn quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Tại Việt Nam chưa có đào tạo văn bằng tiến sĩ thư viện học. Ở Việt Nam hoạt động đào tạo bồi dưỡng được áp dụng cho các đối tượng là cán bộ hiện đang công tác trong lĩnh vực TVTT nhằm trang bị các kiến thức và kỹ năng gắn với chuyên đề cụ thể: Biên mục, phân loại, định từ khoá, phân tích nhu cầu tin. khai thác sử dụng lnternet, hướng dẫn sử dụng phần mềm CDS/ISIS, tự động hoá trong công tác thư viện, xử lý bao gói thông tin, tài liệu điện tử, quản trị mạng, ngôn ngữ Siêu văn bản... Các khoá học này có thể do các cơ sở đào tạo hoặc một số trung tâm thông tin và thư viện lớn như: Trung tâm thông tin tư liệu khoa học & công nghệ quốc gia, Viện thông tin khoa học xã hội, Thư viện quốc gia Việt Nam, Thư viện quân đội trung ương... Các lớp học này thường được tổ chức trong thời gian khoảng từ 1 tuần đến 1 tháng nhằm giới thiệu và hướng dẫn sử dụng những công nghệ mới cho các cán bộ thông tin thư viện hoặc những người quan tâm đến các vấn đề này. Ngoài ra cũng có một số nơi tổ chức các đào tạo sơ cấp thư viện dưới dạng các lớp cơ sở thư viện học, cơ sở thông tin thư viện học. Sau các khoá học này, học viên được cấp chứng chỉ. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ THÔNG TIN THƯ VIỆN Ở VIỆT NAM 1. Đào tạo chuyên nghiệp 1.1. Đào tạo cán bộ thư viện thông tin bậc trung học và trình độ cao đẳng. Trong thời gian dài từ năm 1961 đến năm 1976 việc đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học do Khoa Thư viện trường Lý luận và nghiệp vụ (Đại học Văn hoá Hà Nội ngày nay) đảm nhiệm. Đã có 10 khoá với gần 400 sinh viên trung cấp thư viện được đào tạo tại đây. Từ năm 1976, Khoa Thư viện thôi không đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học nữa. Nhiệm vụ này được chuyển sang cho một số trường văn hoá nghệ thuật của các tỉnh thành phố. Hiện nay có 13 trường cao đẳng và trung học Văn hoá Nghệ thuật tham gia vào việc đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học. Tiêu biểu như Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà và 11 trường trung học khác. Hệ trung học học tập trung trong 2 năm. Từ năm 2000 trở về trước các trường đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học tự xây dựng một chương trình đào tạo riêng. Việc đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học không được tiến hành thường xuyên liên tục tại các trường như việc đào tạo ở các trình độ khác. Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thông qua Chương trình đào tạo trung cấp thư viện áp dụng chung cho tất cả các trường. Tuy nhiên do tính chất không đào tạo thường xuyên nên các trường trung học chưa hình thành một đội ngũ cán bộ giảng dạy có tính chuyên nghiệp. Phần lớn cán bộ giảng dạy của các trường trung học văn hoá nghệ thuật được mời thỉnh giảng từ các thư viện tỉnh, thành phố. Mỗi trường trung học đào tạo cán bộ thư viện chỉ có một cán bộ chuyên trách về vấn đề tổ chức lớp, mời giáo viên và trực tiếp tham gia giảng dạy một vài môn học. Tại Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh công tác đào tạo cán bộ thư viện bậc trung học được mở ở cả hai hệ: chính quy và tại chức. Ngoài các lớp học được tổ chức tại trường, trường còn liên kết với một số Sở giáo dục các tỉnh như Sóc Trăng, An Giang, Lâm Đồng để mở một số lớp trung học thư viện cho các cán bộ thư viện trường học còn rất cao. Những lớp đã mở thường có sĩ số trên 80 học sinh. Các dạng đào tạo theo đơn đặt hàng này đã được trường quan tâm từ mấy năm gần đây. Về đào tạo cán bộ thư viện trình độ cao đẳng: Hiện nay có hai cơ quan đào tạo cán bộ thư viện trình độ cao đẳng. Đó là: Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh và Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội. Việc đào tạo cán bộ thư viện bậc cao đẳng được tiến hành thường xuyên tại trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh. Trường đã xây dựng được một chương trình đào tạo hệ cao đẳng riêng áp dụng chung cho cả hệ chính quy và tại chức. Thời gian đào tạo là 3 năm. Mục tiêu đào tạo trình độ cao đẳng được trường xác định là: đào tạo cán bộ thư viện – thông tin có kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ bậc cao đẳng, có định hướng chính trị đúng và phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng thực hiện các công đoạn trong quy trình công nghệ của một trung tâm thư viện – thông tin lớn hoặc có khả năng quản trị độc lập một cơ sở thư viện – thông tin vừa và nhỏ. Để tạo điều kiện cho sinh viên có thể học tiếp ở trình độ cao hơn khi xây dựng chương trình trường có tính đến sự liên thông với chương trình đào tạo trình độ đại học (Có thể tham khảo thêm trong phần phụ lục). Tính đến năm 2004 trường đã chiêu sinh được 8 khoá. Trên thực tế Trường Cao đẳng nghệ thuật Hà Nội có tham gia vào việc đào tạo cán bộ thư viện nhưng với hệ cao đẳng trường mới đang chuẩn bị bắt đầu. 1.2. Đào tạo cán bộ thư viện thông tin trình độ đại học. Như phần trên đã trình bày hiện nay có 5 cơ sở đào tạo cán bộ TVTT trình độ đại học. Đó là: Khoa Thư viện Thông tin thuộc Đại học văn hoá Hà Nội, Bộ môn Thông tin Thư viện thuộc Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Thông tin thư viện thuộc Trường Cao đẳng văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Thông tin học và quản trị thông tin thuộc đại học dân lập Đông Đô. Trong các cơ sở đào tạo cán bộ TBTT trình độ đại học, Khoa Thư viện Thông tin là một khoa đào tạo cán bộ thông tin thư viện bậc đại học ra đời sớm nhất. Năm 1961 Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và phủ Thủ tướng đã ra quyết định thành lập khoa Thư viện. Nhiệm vụ ban đầu của khoa là đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học và trung học. Nếu xét trong cả quá trình thì việc đào tạo cán bộ thư viện tại khoa cũng có thời kỳ bị gián đoạn. Từ khi thành lập đến nay khoa đã ._.chiêu sinh được 35 khoá chính quy, 8 khoá tại chức tại trường và nhiều lớp tại chức các đối tượng khắp cả nước. Khoa Thông tin Thư viện Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã từng thực hiện 3 phương án: - Đào tạo cán bộ thư viện cho các Thư viện công cộng đại chúng và Thư viện khoa tổng hợp. Các khoá 1, 3, 6, 7, 8, 10 đến 31 (tính đến năm 1998) được tổ chức đào tạo trực tiếp tại trường với thời gian là 4 năm, nền tảng khoa học cơ bản là văn hoá, lịch sử, giáo dục học và tâm lý học. - Đào tạo cán bộ thư viện cho các thư viện khoa học và chuyên ngành. Để thực hiện phương án này, trường đã gửi sinh viên học ba năm khoa học cơ bản tại các trường đại học khác như: Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Bách khoa và trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Sau đó về trường học 1,5 năm nghiệp vụ thư viện, thư mục. Các khoá 2, 4, 5 được áp dụng đào tạo. - Đào tạo cán bộ thư viện cho các thư viện chuyên ngành khoa học tự nhiên, được thực hiện trực tiếp tại trường trên nền tảng khoa học cơ bản là toán, lý, hoá với thời gian 4, 5 năm (áp dụng chỉ một lần đối với sinh viên khoá 9). Từ năm 1961 đến năm 1998 mục tiêu đào tạo của trường Đại học Văn hoá Hà Nội chủ yếu là đào tạo cán bộ cho thư viện khoa học tổng hợp. Từ năm 1988 đến nay, trường Đại học Văn hoá Hà Nội chỉ đào tạo cán bộ thư viện theo một chương trình đan xen giữa các môn chuyên ngành thư viện thông tin thư mục với các môn khoa học cơ bản khác mà nền tảng là khoa học xã hội và nhân văn. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số nét cơ bản về khoa thông tin thư viện với công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin hiện nay. Về đội ngũ cán bộ, hiện tại Khoa Thư viện Thông tin có 15 cán bộ, trong đó có 1 phó tiến sĩ, 5 thạc sĩ và 2 người hiện đang theo học sau đại học. Đây là một số lượng khá khiêm tốn. Với đội ngũ như vậy thực tế là chưa mạnh và có phần giảm sút so với trước đây (có thời khoa đã từng có 4 tiến sĩ, 6 thạc sĩ). Nhưng bù lại, Khoa Thư viện Thông tin đã thu hút và nhận được sự cộng tác giúp đỡ của nhiều phó tiến tĩ và các chuyên gia thông tin thư viện đầu ngành. Nhờ vậy việc đào tạo được đảm bảo hơn. Trong một vài năm gần đây, nhà trường đã bắt đầu quan tâm đến việc nâng cao trình độ bồi dưỡng kiến thức cho giảng viên bằng cách cử cán bộ đi học sau đại học ở trong và ngoài nước. Năm 1998, Trường đã tổ chức mời một giáo sư tiến sĩ chuyên ngành thông tin – thư viện của Úc sang giảng dạy và giới thiệu về những xu hướng mới trong dịch vụ thông tin thư viện. Hình thức học hỏi trao đổi kinh nghiệm này là một điều kiện tốt giúp cho các giảng viên có thể cập nhật thêm kiến thức mới, góp phần làm phong phú hơn chương trình và nội dung các bài giảng của mình. Về phương thức đào tạo: Khoa Thư viện Thông tin đã tiến hành giảng dạy lý thuyết song song với thực hành. Ngoài các buổi học trên lớp, sinh viên còn được tổ chức đi tham quan, nghe báo cáo ngoại khoá và đi thực tập (năm thứ ba: 6 tuần, năm thứ tư: 12 tuần) tại các thư viện và trung tâm thông tin. Với những môn học gắn liền với xử lý tài liệu (như mô tả thư mục, phân loại, định chủ đề, mô tả nội dung tài liệu, tổ chức kho…), tìm tin, lưu trữ tin,… các giảng viên luôn luôn chú trọng cho sinh viên thực hành tại chỗ. Từ năm 1996, Khoa Thư viện Thông tin đã được trường cho phép tổ chức một thư viện thực hành riêng. Nhờ vậy việc thực hành của sinh viên có nhiều thuận lợi và chất lượng đào tạo cũng được nâng lên. Không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc dạy kiến thức, dạy nghề, thực hiện phương châm của Bộ giáo dục và đào tạo “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, Khoa Thông tin – Thư viện đã rất chú trọng đến việc hướng dẫn cho sinh viên tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học. Ngoài việc định kỷ ra các đề tài khoá luận, luận văn cho sinh viên năm thứ ba, thứ tư, các giảng viên còn hướng dẫn cho sinh viên thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu tập trung vào những vấn đề mới, những vấn đề cấp bách của ngành. Hội thảo khoa học của sinh viên được tổ chức hàng năm. Một số em đã đạt giải cao trong cuộc thi nghiên cứu khoa học toàn quốc. Bên cạnh phương thức đào tạo, một yếu tố không thể không nhắc đến khi bàn về công tác đào tạo của bất cứ một ngành nghề nào là: chương trình đào tạo. Về chương trình đào tạo: Khoa học Thông tin – Thư viện đã cố gắng không ngừng đổi mới và hoàn thiện chương trình đào tạo của mình trong suốt quá trình hoạt động từ trước đến nay. Đặc biệt từ năm 1992, với việc đổi tên khoa thư viện thành thông tin, thư viện, nhiều môn học đã được xây dựng và triển khai đưa vào giảng dạy như: Tin học, thông tin học đại cương, định chủ đề tài liệu, mô tả nội dung tài liệu, tìm tin và phổ biến thông tin… Trong vài năm gần đây học sinh còn được học thêm môn tin học tư liệu, hệ quản trị CDS/ISIS và công nghệ thông tin… nhiều chuyên đề mới được mở ra và chương trình đào tạo mới đã phần nào đáp ứng được yêu cầu cảu thực tế. Năm 2002, trước yêu cầu bức thiết của thực tế và sự biến động cơ bản của nghề thư viện thông tin dưới sự tác động của công nghệ thông tin và truyền thông, theo quyết định số 3440/QĐ BGD&ĐT của Bộ giáo dục và đào tạo Hội đồng ngành thư viện đã được thành lập để xây dựng chương trình khung giáo dục đại học chuyên ngành thư viện thông tin cho các cơ sở đào tạo nghề thư viện thông tin ở Việt Nam. Dưới sự chủ trì của trường Đại học Văn hoá Hà Nội, với sự tham gia của 19 nhà chuyên môn, các cán bộ giảng dạy và các chuyên gia đầu ngành trong cả nước, một chương trình khung đã được xây dựng với 120 đơn vị học trình, 27 môn học (gồm 10 môn cơ sở và 17 môn chuyên ngành) và 16 nhóm học phần tự chọn. Khi xây dựng chương trình khung Hội đồng ngành thư viện đã xác định mục tiêu đào tạo cán bộ thư viện thông tin ở bậc đại học có trình độ lý luận và nghiệp vụ về tổ chức các hoạt động trong các thư viện và cơ quan thông tin tư liệu ở trung ương và địa phương, về kiến thức có khả năng nắm vững cơ sở lý luận và phương pháp luận của thư viện học, thông tin học và thư mục học; về kỹ năng có kỹ năng thực hành thành thạo các khâu nghiệp vụ của hoạt động thư viện, thông tin tư liệu có khả năng sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Nếu đối chiếu với những yêu cầu đặt ra đối với người cán bộ thư viện thông tin đã phân tích ở trên mục tiêu này đã bao quát và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn. Trong chương trình mới nhiều môn học và học phần mới đã được xây dựng: Pháp chế thư viện thông tin, Nhập môn công nghệ thông tin, mạng thông tin máy tính, thư viện điện tử, xuất bản điện tử. Một số môn học đã được tài thành lập như sử sách và thư viện. Tên gọi và nội dung một số môn học đã được mở rộng đổi mới như: Biên mục mô tả, Tổ chức và bảo quản kho tài liệu, Định chủ đề và định từ khoá, Lưu trữ thông tin và bộ máy tra cứu… Với những bổ sung và sự đổi mới này chương trình khung đã phần nào được cập nhật, rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, đón đầu được sự phát triển của nghề nghiệp trong tương lai. Về cơ sở vật chất: Trong những năm gần đây, để bắt kịp với sự phát triển của công nghệ thông tin và để trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ mới Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã xây dựng được một dàn máy tính với gần bốn chục máy. Khoa thông tin thư viện cũng có máy riêng. Nhà trường đã cho phép một số bộ phận nối mạng Internet để phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập của giáo viên cũng như học sinh. Bên cạnh đó Khoa thông tin thư viện còn tổ chức riêng một thư viện thực hành với trên 6000 tài liệu, hơn 300 tư liệu nghiệp vụ và hàng trăm các khoá luận, luận văn của sinh viên các khoá. Đó chính là những phương tiện hỗ trợ rất đắc lực cho việc đào tạo của trường và của khoa. Về công tác nghiên cứu khoa học: Để không ngừng cập nhật kiến thức mới và thực hiện phương châm gắn liền lí luận với thực tiễn, các cán bộ giảng viên trong khoa đã có nhiều cố gắng tích cực tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học. Một số đề tài đã và sẽ được nghiệm thu và đem áp dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng các bài giảng. Đó là những mặt mạnh của Khoa Thư viện Thông tin so với một số cơ sở đào tạo khác. Tuy nhiên cũng còn không ít điều tồn tại trong công tác đào tạo khiến chúng ta không thể bỏ qua được. Điều nổi cộm kiến chúng ta đã nhiều lần băn khoăn trăn trở là mặc dù khoa thông tin – thư viện đã có hơn 40 năm đào tạo nhưng vẫn chưa xây dựng được một hệ thống các giáo trình phong phú và đầy đủ, vẫn có những môn học, học sinh chỉ hoàn toàn học theo những lời giảng của thầy cô. Các tài liệu tham khảo chuyên ngành vốn không có nhiều lại nằm phân tán trong nhiều cơ quan thông tin thư viện. Những tư liệu viết về những vấn đề mới phần lớn là của các nước ngoài. Trong khi đó vì kinh phí hạn hẹp, hiện nay Trường Đại học Văn hoá Hà Nội chưa nhập bất cứ một tạp chí ngoại văn nào. Điều kiện trao đổi, sưu tập và dịch thuật các tư liệu tham khảo chưa được quan tâm thoả đáng. Vì thế không nói đến học sinh mà ngay cả giảng viên cũng gặp không ít khó khăn khi cần đọc và tham khảo tài liệu. Việc nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên chủ yếu phụ thuộc vào sự cố gắng nỗ lực của các cá nhân. Về phương thức đào tạo, mặc dù có quan tâm đến việc cho học sinh đi tìm hiểu thực tế nhưng do kinh phí hạn hẹp nên học sinh ít có điều kiện tiếp xúc với các cơ quan thông tin thư viện. Thật đáng buồn là trong nhiều năm nay, học sinh chuyên ngành thông tin – thư viện mặc dù đã học đến năm thứ ba học kỳ hai chưa một lần được đến thư viện quốc gia hoặc các trung tâm thông tin, thư viện lớn. Tinh thần và ý thức nghề nghiệp phải chăng vì thế chưa được bồi đắp trong sinh viên? Bên cạnh đó, việc lên lớp của các giảng viên hiện tại vẫn chỉ có một hình thức đơn điệu chủ yếu là giảng viên nói và sinh viên nghe với công cụ quen thuộc là bảng đen và phấn trắng. Việc sử dụng và áp dụng các phương tiện và công nghệ hiện đại trong công tác giảng dạy vẫn còn xa vời đối với các giảng viên Khoa Thông tin – Thư viện. Như ở trên đã đề cập, trong những năm gần đây, Khoa Thông tin – Thư viện đã được tổ chức lại một thư viện thực tập riêng và thư viện thực hành này đã hỗ trợ khá đắc lực cho công tác đào tạo của khoa nhưng thư viện đó nhìn chung cũng chưa thật xứng đáng với yêu cầu và tính chất của nó. Thư viện mới chỉ đơn thuần là một nơi chứa các sách và tài liệu thực hành phục vụ cho các môn xử lý tài liệu. Khoa Thông tin thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội cũng là một cơ sở đào tạo lớn ở Việt Nam. Tiền thân của Bộ môn Thông tin Thư viện học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là tổ thư viên thuộc khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1973, theo quyết định của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp việc đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học được chuyển giao từ trường lý luận nghiệp vụ sang Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tổ thư viện thuộc khoa Sử của trường. Khoảng trong 10 năm từ 1973 đến 1982 tổ thư viện Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã đào tạo được 7 khoá với 250 sinh viên tốt nghiệp ra trường. Từ năm 1982, việc đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học lại được trao trả về Trường Đại học Văn hoá Hà Nội. Từ đó cho đến năm 1994 việc đào tạo cán bộ thư viện bậc đại học bị gián đoạn. Trong thời gian này trung tâm thông tin của trường có thỉnh thoảng mở các lớp tại chức. Có 117 học sinh đã tốt nghiệp đại học tại chức tại trung tâm trong 11 năm đó. Năm 1995, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Trường Đại học Quốc gia Hà Nội ra quyết định cho thành lập lại tổ bộ môn thông tin thư viện trực thuộc ban giám hiệu. Từ đó đến nay, Bộ môn Thông tin Thư viện liên tục tuyển sinh đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện. Ban đầu Bộ môn đã nhận học sinh từ mọi khối thi A, B, C, D. Từ năm 1998 Bộ môn chỉ nhận học sinh thi tuyển đầu vào 2 khối: C và D. Về đội ngũ giáo viên, cán bộ giảng dạy: Bộ môn hiện có 19 người, trong đó có 2 tiến sĩ, 4 giáo viên kiêm nhiệm trong trung tâm thông tin của trường và các giáo viên thỉnh giảng. Tính đến nay bộ môn đã chiêu sinh được 10 khoá. Bộ môn cũng đã mở được một số lớp tại chức ở Hà Nội và địa phương. Được sự quan tâm đầu tư của nhà trường, Bộ môn đã xây dựng được một chương trình đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện với 120 đơn vị học trình, chia làm 3 khối: Khối kiến thức cơ bản, khối kiến thức nghiệp vụ và khối kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu. Nhìn chung chương trình do Bộ môn xây dựng đã cập nhật được các vấn đề mới và chú trọng trang bị cho sinh viên các kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Việc phân bổ chương trình cân đối giữa ba phần: Kiến thức thư viện thư mục, ứng dụng tin học và kiến thức thông tin tư liệu. (Có thể tham khảo thêm trong phần phục lục 1). Ngoài các giờ học lý thuyết và thực hành trên lớp sinh viên của trường đại học khoa học xã hội và nhân văn quốc gia phải đi thực tập 2 tháng tại các cơ quan thông tin, thư viện (ít hơn so với Trường Đại học Văn hoá Hà Nội và Khoa Thư viện Thông tin học của trường Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh). Về cơ sở vật chất: do được tổ chức đào tạo trong môi trường của đại học quốc gia nên trang thiết bị và cơ sở vật chất khoa được sử dụng trong quá trình đào tạo tương đối đầy đủ và hiện đại. Trường Đại học quốc gia Hà Nội đã nối mạng Internet từ năm 1998 và riêng bộ môn thông tin thư viện cũng được trang bị máy tính và máy quét Scaner. Tuy bộ môn đến nay chưa có một thư viện thực hành riêng nhưng được sự hỗ trợ đắc lực của trung tâm thông tin tư liệu của trường nên việc thực hành của sinh viên nhìn chung là đảm bảo. Quan hệ hợp tác của bộ môn với các bộ phận khác ở trong trường và các cơ quan trong ngành nhìn chung rất mở rộng. Nhờ vào vị thế và uy tín của trường nên quan hệ hợp tác của bộ môn với nước ngoài cũng được triển khai. Việc cử và tạo điều kiện cho cán bộ giảng viên của bộ môn đi học và tham quan ở nước ngoài để nâng cao trình độ rất dễ dàng và có nhiều thuận lợi. Về phương thức đào tạo: nhìn chung Bộ môn Thông tin Thư viện Trường Đại học Khoa học và Nhân văn cũng không có gì khác xa lắm so với Trường Đại học Văn hoá Hà Nội. Do thời gian đào tạo không liên tục nên số lượng các giáo trình đã được biên soạn tại bộ môn cũng không nhiều. Song vì nhiều lý do khác nhau, một phần do phương tiện vật chất của trường Đại học Quốc gia Hà Nội tương đối đầy đủ hiện đại và một phần do bộ môn chú trọng đào tạo công nghệ mới nên khả năng sử dụng các phương tiện hiện đại và công nghệ thông tin của các sinh viên tốt nghiệp của bộ môn có phần cao hơn so với các cơ sở đào tạo khác. Bên cạnh hai cơ sở đào tạo kể trên Khoa thư viện và thông tin học của Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh là một trong năm cơ sở đào tạo chuyên nghiệp ngành thông tin thư viện lớn ở nước ta. Khoa được thành lập năm 1984. Đội ngũ cán bộ giảng dạy hiện có 8 người, trong đó chỉ có 1 tiến sĩ, 3 thạc sĩ. Về chương trình đào tạo, hiện khoa đã xây dựng được một chương trình đào tạo chuyên ngành thư viện thông tin gồm 2 bộ phận: các môn chuyên ngành bắt buộc, các môn tự chọn. (Có thể tham khảo thêm trong phần phụ lục). Chương trình này đã cập nhật được những môn học mới, gắn liền với công nghệ hiện đại. Nhưng bên cạnh đó không ít các môn hiện nay hầu hết các trường đào tạo ngành thư viện thông tin đều rút xuống thành chuyên đề thì khoa vẫn để nguyên chẳng hạn như: Thư mục văn hoá nghệ thuật, thư mục khao học kỹ thật, công tác địa chí… Điều đáng chú ý là trong chương trình đào tạo của Khoa Thư viện Thông tin học đã triển khai đưa đào tạo về lưu trữ học cho sinh viên của mình. Với các môn học tự chọn, khoa xây dựng tương đối hợp lý, bổ sung thiết thực cho các môn học bắt buộc. Chẳng hạn như: các phần Bảng phân loại BBK của thư viện thành phố Hồ Chí Minh, Bảng phân loại PTB, Bảng phân loại 19 dãy.. Các chuyên đề về thông tin học được nêu trong chương trình tương đối phong phú và phù hợp với thực tế. Ngoài việc học lý thuyết và thực hành ở trên lớp, cũng giống như các cơ sở đào tạo khác học sinh của khoa còn phải đi thực tập tại các cơ sở cơ quan thông tin, thư viện. Công tác biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo của trường bắt đầu được triển khai trong những năm gần đây. Số lượng các giáo trình đã được biên soạn cũng còn rất hạn chế. Ở Việt Nam, Khoa thư viện thuộc Trường Cao đẳng văn hoá cũng đóng góp một phần vào việc đào tạo cán bộ TVTT trình độ đại học. Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1976 trực thuộc Bộ Văn hoá thông tin và Khoa Thư viện đã được thành lập ngay sau khi trường có quyết định thành lập. Do chưa có đủ tư cách pháp nhân để đào tạo bậc đại học nên về chương trình đào tạo và nội dung đào tạo trường áp dụng theo Trường Đại học Văn hoá Hà Nội. Bằng Đại học chính quy và tại chức đều do Trường Đại học Văn hoá Hà Nội cấp. Khoa hiện có 6 người, trong đó có 5 thạc sĩ, 4 giảng dạy kiêm nhiệm trong trường và mời cộng tác viên. Giáo trình chủ yếu là sao chụp và mua của các trường khác. Đối tượng tuyển sinh là khối C. Tất cả bốn cơ sở đào tạo trên dù tên gọi có khác nhau, chương trình đào tạo có khác nhau đôi chút nhưng cùng hướng tới mục tiêu đào tạo cán bộ TVTT với nội dung cốt lõi là đào tạo cán bộ thư viện. Cùng tham góp vào việc đào tạo cán bộ TVTT bậc đại học còn có Khoa Thông tin học và quản trị thông tin thuộc Đại học Đông Đô. Mục tiêu đào tạo của cơ sở đào tạo này có phần khác biệt hơn so với bốn cơ sở nói trên. Khoa Thông tin học và quản trị thông tin được thành lập ngày 14 tháng 9 năm 1996 cùng với việc thành lập Trường Đại học Dân lập Đông Đô. Mục tiêu đào tạo của khoa là đào tạo các cử nhân khoa học có trình độ lý luận về khoa học thông tin và nghiệp vụ chuyên môn về quản trị thông tin, đáp ứng ngành rộng, có khả năng làm việc trong các tổ chức thông tin, tư liệu, thư viện, văn phòng thuộc mọi lĩnh vực quản lý nhà nước, kinh tế thương mại, khoa học, công nghệ giáo dục và đào tạo. Thời gian học cũng là 4 năm. Sinh viên được tuyển đầu vào với 3 khối: A, D, và C. Là một cơ sở đào tạo dân lập nên phần lớn đội ngũ cán bộ giảng dạy của khoa hiện nay là kiêm nhiệm thỉnh giảng từ các cơ quan và các cơ sở đào tạo khác. Về chương trình đào tạo Khoa Thông tin học và quản trị thông tin đã xây dựng được một chương trình độc lập tương đối hoàn chỉnh với 47 đơn vị học trình cho khối kiến thức cốt lõi, 55 đơn vị học trình cho khối kiến thức chuyên môn và 21 đơn vị học trình cho các chuyên đề tự chọn (Có thể tham khảo thêm trong phần phụ lục). Về cơ sở vật chất do mới được thành lập và chưa có được trụ sở cố định nên khoa chưa có điều kiện đầu tư nhiều. Vì những sai sót mắc phải, với lý do kiện toàn tổ chức và đảm bảo chất lượng đào tạo, Khoa Thông tin học và quản trị thông tin cũng đã bị Bộ Giáo dục và đào tạo không cho phép đào tạo cán bộ thông tin học trong một thời gian. Tuy nhiên nếu xét tới công tác đào tạo cán bộ TVTT bậc đại học ở Việt Nam chúng ta cũng không thể không nhắc tới cơ sở đào tạo này. 1.3. Đào tạo cán bộ thư viện trình độ thạc sĩ Hiện nay ở Việt Nam có hai cơ sở đào tạo cán bộ thư viện – thông tin trình độ thạc sĩ. Đó là Trường Đại học Văn hoá Hà Nội và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã có bề dày đào tạo thạc sĩ khoa học thư viện 13 năm còn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu đào tạo thạc sĩ thư viện học từ năm 2003. Năm 1991, tại Trường Đại học văn hoá Hà Nội, ngay sau khi Khoa Sau đại học được thành lập trường đã tuyển sinh cao học thư viện. Khoa Sau Đại học chịu trách nhiệm quản lý, tuyển sinh, theo dõi đầu vào, đầu ra đảm nhiệm các quy chế đào tạo, nội dung chương trình đào tạo. Chất lượng đào tạo thạc sĩ thông tin thư viện ở Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đang ngày càng được nâng cao. Tính đến nay Trường Đại học văn hoá Hà Nội đã có 6 khoá học viên ra trường với 113 người được cấp bằng thạc sĩ khoa học thư viện. Nhiều người trong số họ đã và đang trở thành những cán bộ chủ chốt, hoặc cán bộ nghiệp vụ hàng đầu của các cơ quan thông tin thư viện trong cả nước. Chương trình đào tạo cao học thư viện đã được xây dựng và được nhà trường chính thức thông qua năm 1998 (có thể tham khảo thêm trong phần phụ lục). Theo quy định hiện hành học sinh muốn theo học phải thi đầu vào ba môn: Cơ sở thông tin học, triết học, và ngoại ngữ chường trình C. Ngoài các kiến thức chuyên ngành học viên còn phải học thêm các môn học bổ trợ như: phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp giảng dạy đại học, triết học… Việc đào tạo thạc sĩ thư viện được tiến hành dưới dạng đào tạo tại chức. Thời gian kéo dài 3 năm. Mỗi năm học 4 tháng chia làm 2 kỳ. Cuối khoá học các học viên phải hoàn thành một luận văn nghiên cứu về một vấn đề nào đó do mình tự chọn. Chương trình đào tạo cao học thông tin – thư viện đã được cải tiến một bước, giúp học viên tiếp cận được những thành tựu nghề nghiệp hiện đại: thiết kế các CSDL, ứng dụng các chuẩn nghiệp vụ quốc tế, khai thác mạng thông tin – thư viện thông dụng trong nước và quốc tế,… Đội ngũ cán bộ giảng dạy sau đại học tiếp tục phát triển do nhà trường đã chú ý tới hợp tác với các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan: công nghệ thông tin, quản lý,… cơ sở vật chất từng bước được đầu tư và phát triển. Đặc biệt kỳ thi tuyển sinh sau đại học được tổ chức ngày càng chặt chẽ, nghiêm túc hơn, đảm bảo nâng cao chất lượng đầu vào của đào tạo sau đại học. Tuy nhiên so với yêu cầu phát triển của sự nghiệp thư viện thông tin trong giai đoạn đổi mới, đào tạo sau đại học vẫn còn bộc lộ khá nhiều điểm yếu, làm hạn chế đáng kể chất lượng đào tạo. Đa số thạc sĩ thư viện thông tin được đào tạo trong nước vẫn chỉ thành thạo các kỹ năng nghiệp vụ truyền thống, yếu về các kỹ năng tổ chức các sản phẩm và dịch vụ thông tin, tài liệu tỏng xã hội toàn cầu hoá ngày nay. Số lượng đề tài luận văn tốt nghiệp có liên quan trực tiếp tới các kỹ năng xử lý thông tin, tài liệu hiện đại chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng số đề tài luận văn tốt nghiệp đã bảo vệ thành công. Về chương trình cao học thông tin thư viện dù đã được chỉnh lý năm 2000 và có những bước tiến rất lớn so với chương trình cũ (1991), nhưng nhìn chung vẫn nặng về lý thuyết, nhiều kỹ năng nghề nghiệp hiện đại chưa được chú ý đúng mức, thậm chí có nhiều phần còn trùng lặp với chương trình ở bậc đại học. Có lẽ do chưa ổn định được chương trình và nội dung giảng dạy nên đã quá trình đào tạo liên tục 13 năm mà học viên vẫn phải “học chay” tất cả các môn chuyên ngành đều chưa có giáo trình. Về phương pháp giảng dạy dù đã được cải tiến một bước, nhưng vẫn còn lạc hâu, nặng nề về thuyết trình lý thuyết, ít hình ảnh trực quan và đặc biệt là rất ít thời gian thực hành, thảo luận. Môn nặng về thực hành nhất trong chương trình cao học là “Mạng thông tin thư viện cũng chỉ đạt tỷ lệ 1/3 giờ học được thực hành. Về phía học viên, phần lớn chưa chủ động, tích cực trong học tập. Mặc dù khi tuyển vào học viên phải thi ngoại ngữ nhưng nhìn chung khả năng sử dụng ngoại ngữ của các thạc sĩ thư viện học còn yếu, hạn chế trong việc tham khảo tài liệu nước ngoài. Về cơ sở vật chất: Nhìn chung còn thiếu và điều đó đã ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng giảng dạy và học tập. Khoa Sau đại học trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã có một phòng máy gồm 1 máy chủ và 7 máy tính cá nhân, tuy nhiên chất lượng máy tính kém, dung lượng bộ nhớ nhỏ, cấu hình không tương thích với việc khai thác các dịch vụ thông tin hiện đại do phần lớn các máy được mua từ những năm 1996 – 1997. Lượng máy quá ít, chất lượng kém đã làm giảm hiệu quả của các giờ thực hành vốn đã ít ỏi. Hệ thống tài liệu tham khảo chuyên ngành rất nghèo nàn. Về đội ngũ cán bộ giảng dạy sau đại học tương đối đông đảo với hơn 20 cộng tác viên nhưng phần lớn được đào tạo ở Nga từ năm 1995 trở về trước nên còn yếu về kỹ năng tổ chức các sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện hiện đại. Trường Đh Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh trên thực tế mới bắt đầu triển khai đào tạo thạc sĩ thư viện học. Chương trình đào tạo của trường này về cơ bản giống như chương trình của trường Đại học Văn hoá Hà Nội. Do việc bố trí thời gian chưa thật thoả đáng nên số lượng người tham dự khoá đào tạo còn rất hạn chế. 2. Đào tạo bồi dưỡng Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thư viện, các trường đào tạo cán bộ thư viện và các thư viện, cơ quan thông tin lớn ở Việt Nam đã rất quan tâm đến việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghề thư viện. Trong phạm vi tiểu mục này chúng tôi tập trung vào tìm hiểu công tác đào tạo bồi dưỡng tại một số cơ quan tiêu biểu trong ngành thư viện thông tin hiện nay. 2.1. Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1957 trên cơ sở Thư viện Trung ương xứ Đông Dương. Đây là thư viện lớn nhất toàn quốc. Thư viện quốc gia có quan hệ với gần 300 tổ chức, thư viện của gần 100 nước trên thế giới. Thư viện quốc gia được đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hoá thông tin. Tuy không phải là cơ sở đào tạo chuyên nghiệp nhưng thư viện quốc gia đã đóng một phần không nhỏ vào việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ thư viện ở Việt Nam. Một trong những chức năng quan trọng thư viện quốc gia hiện đang đảm nhiệm là đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho hệ thống thư viện công cộng. Ngay từ khi mới thành lập, Thư viện quốc gia đã tổ chức được nhiều lớp học sơ cấp, trung cấp cho các cán bộ thư viện tỉnh thành phố và thư viện cơ sở. Chỉ tính riêng cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 Thư viện quốc gia đã tổ chức được trên 70 lớp ngắn hạn cho hơn hai nghìn người cho các thư viện công đoàn, thư viện các lực lượng vũ trang, thư viện trường học, thư viện các hợp tác xã nông nghiệp và các cơ quan. Năm 1961 khi cơ sở đào tạo chuyên nghiệp là Khoa thư viện Trường lý luận và nghiệp vụ được thành lập và sau đó nhiều cơ sở đào tạo chuyên ngành thư viện thông tin xuất hiện, tính chất đào tạo của thư viện quốc gia thay đổi và hiện nay chủ yếu thư viện chỉ còn đào tạo với hình thái đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ. Với vị trí thư viện đầu ngành có trách nhiệm hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ cho các thư viện địa phương nên việc đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cá nhân cán bộ thư viện tỉnh, thành phố, huyện thị và đặc biệt là đào tạo cán bộ tin học cho toàn hệ thống thư viện công cộng là một trong những công tác trọng tâm cảu thư viện quốc gia. Hiện nay phòng quản lý nghiệp vụ được giao chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về khâu công tác này. Theo định hướng của ban giám đốc thư viện quốc gia Thư viện sẽ thường xuyên tiến hành việc mở những lớp chuyên đề về các vấn đề mới trong lĩnh vực công tác thư viện như chính sách nhà nước về công tác thư viện, đầu tư và kinh tế trong công tác thư viện, tin học hoá công tác thư viện và các đầu vào thư viện… bên cạnh việc mở định kỳ các lớp và vấn đề kỹ thuật cơ bản trong công tác thư viện như xử lý tài liệu, làm tờ khai tiền máy, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thư viện. Những lớp học này thường được tổ chức dưới dạng lớp học tập trung với thời gian từ 1 tuần đến 1 tháng tuỳ theo yêu cầu và tính chất của ……………….. thông tin và hình thành “Văn hoá thông tin” ở nước ta có một ý nghĩa quốc sách, chiến lược hàng đầu trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia và hội nhập vào xã hội thông tin toàn cầu sắp tới”, ông Tạ Bá Hưng, Giám đốc Trung tâm – luôn rất quan tâm đến việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ thông tin, thư viện trong toàn hệ thống. Trung tâm đã đi đầu tiên phong trong việc tổ chức được nhiều lớp học về vấn đề áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động thông tin tư liệu và những vấn đề mới được nhiều người hoan nghênh như: “Marketing trong hoạt động thông tin tư liệu”, “Xây dựng và quản trị CSDL tư liệu bằng phần mềm CDS/ISIS”, “Xử lý bao gói thông tin”, “Tổ chức đảm bảo thông tin”, “Khai thác và sử dụng nguồn lực thông tin”, “Khai thác các dịch vụ trên Internet”, “Quản trị thông tin trong môi trường điện tử”, “Cài đặt và sử dụng Winisis”, “Xây dựng tiềm lực, tổ chức và khai thác các nguồn lực thông tin khoa học và công nghệ”… Hàng năm Trung tâm được Bộ Khoa học cung cấp một khoản kinh phí lớn cho việc mở các lớp học bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra Trung tâm còn chủ động trong việc hợp tác với nước ngoài trong việc tổ chức các khoá đào tạo. Trong khuôn khổ Dự án Mạng thông tin cho tương lai, từ năm 2001 đến 2004, Trung tâm đã phối hợp với trường quản trị thông tin thuộc Đại học tổng hợp Victoria của Niu Dilân tổ chức 9 lớp tập huấn với những chuyên đề về việc ứng dụng các công nghệ mới được toàn ngành hết sức quan tâm như: Chính sách thông tin quốc gia và nhu cầu thông tin quốc gia, Số hoá các nguồn tin, Dịch vụ thông tin, Phân tích nhu cầu tin, Trình bày thông tin đa phương tiện, Kỹ thuật số hoá nâng cao, Kỹ thuật đánh giá các dịch vụ thông tin… Trên thực tế đối tượng tham gia các lớp tập huấn tại Trung tâm đã không chỉ dừng lại trong phạm vi hệ thống thư viện khoa học kỹ thuật và các cơ quan thông tin mà còn mở rộng ra trong toàn ngành thư viện thông tin và thu hút cả giảng viên cảu các trường đại học. Tính chất các lớp đào tạo bồi dưỡng của trung tâm cũng hết sức đa dạng với các lớp cơ sở, chuyên đề và nâng cao. 2.3. Viện thông tin khoa học xã hội. Viện thông tin khoa học xã hội trực thuộc Trung tâm thông tin khoa học xã hội và nhân văn quốc gia hình thành trên cơ sở sát nhập Ban thông tin khoa học xã hội và Thư viện khoa học xã hội. Là thư viện lớn trong Trung tâm, viện giữ vai trò và nhiệm vụ hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ cho các thư viện các Viện nghiên cứu trong trung tâm. Thỉnh thoảng viện có tổ chức lớp bồi dưỡng tập huấn cho các cán bộ làm công tác thư viện, thông tin trong toàn Trung tâm. Các lớp bồi dưỡng đó thường tập trung vào những chủ đề sau: - Tổ chức công tác thông tin khoa học xã hội. - Các nguồn thông tin tài liệu khoa học xã hội. - Tổ chức các tài liệu khoa học xã hội. - Xuất bản các ấn phẩm thông tin khoa học xã hội. - Tin học trong công tác thông tin khoa học xã hội… Tuy nhiên ảnh hưởng của Viện thông tin khoa học xã hội trong lĩnh vực bồi dưỡng đào tạo nghề thư viện chủ yếu chỉ dừng lại trong phạm vi các cán bộ thư viện thông tin công tác tại Trung tâm thông tin khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. 2.4. Trung tâm thông tin thư viện y học trung ương Trung tâm thông tin thư viện y học trung ương của Bộ y tế được thành lập năm 1979 trên cơ sở Thư viện y học trung ương, hiện giữ vị trí trung tâm thông tin thư viện đầu ngành của hệ thốn._.thường xuyên suốt đời có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nghề thư viện thông tin vì những cán bộ của ngành này phải trực tiếp tham gia vào việc phục vụ cho việc học suất đời của xã hội. Họ sẽ phải đóng góp một phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội học tập - một sứ mệnh hết sức cao cả. Chất lượng của dịch vụ TVTT phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ TVTT. Năng lực của người cán bộ TVTT chỉ có thể được duy trì và hoàn thiện thông qua việc thường xuyên được đào tạo bồi dưỡng. Chính vì lý do đó đào tạo thường xuyên đã được IFLA xác định là một trong những chương trình cốt lõi. Đào tạo thường xuyên là một quá trình liên tục học tập để cập nhật các tri thức và kỹ năng trên cơ sở các kỹ năng và tri thức đã có trước của các cá nhân. Đào tạo nghề nghiệp thường xuyên là một biện pháp quan trọng để giành được ưu thế cạnh tranh của một nghề nghiệp. Trong bối cảnh công nghệ không ngừng thay đổi, đào tạo thường xuyên sẽ tạo điều kiện, khả năng bồi dưỡng cập nhật thêm cho đào tạo cơ bản, giúp cho người cán bộ TVTT nắm được những khái niệm mới, theo kíp những kiến thức và kỹ năng mới cần thiết cho việc thực thi các công việc của mình. chuẩn bị cho sự hình thành tính chất chuyên môn hoá trong nghề thư viện. Công tác đào tạo thường xuyên cần được đẩy mạnh và được sự quan tâm hơn nữa của các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, các thư viện, trung tâm thông tin lớn, các tổ chức nghề nghiệp: Hội, Liên hiệp. Để công tác đào tạo thường xuyên đạt được hiệu quả cao đòi hỏi các nhà tổ chức các lớp học phải phân tích và đánh giá được các yêu cầu và nhu cầu đào tạo thường xuyên của các cán bộ TVTT trong thực tế, bao gồm: - Sắp xếp tổ chức công việc là yếu tố liên tục thay đổi thông qua đầu vào tri thức mới, công nghệ mới và những mong đợi từ phía công chúng đối với công tác phục vụ, môi trường chính là động lực thúc đẩy và định hướng của đào tạo thường xuyên - Nhu cầu mối quan tâm của học viên - Những kinh nghiệm đào tạo nghề nghiệp có chất lượng cao để quyết định khả năng thiết kế và phân phát của các nhà cung Bên cạnh đó khi tiến hành đào tạo thường xuyên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo và các thư viện cơ quan thông tin phải xác định được các nhóm mục tiêu. - Đối với những người chưa có văn bằng đào tạo chuyên nghiệp hiện đang làm công tác thư viện hoặc có nhu cầu làm công tác thư viện cần tiến hành tổ chức các khoá đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cơ bản. Đối với các cán bộ đã được đào tạo cơ bản, tốt nghiệp một trình độ nhất định có thể tiến hành đào tạo liên tục dưới dạng cập nhật kiến thức mới, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên sâu. Đào tạo thường xuyên có thể được thực hiện bởi các cơ sở đào tạo các thư viện trung tâm, các thư viện lớn các trung tâm thông tin đứng đầu hệ thống các hội các liên hiện. Về hình thức có thể tổ chức đào tạo thường xuyên dưới các dạng tập huấn, lớp học, hội thảo... Sau khi các học viên tham dự các lớp tập huấn, lớp học có thể cấp cho họ các chứng chỉ phù hợp với nội dung và chương trình đào tạo. 2.4. Giải pháp đẩy mạnh xã hội hoá Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục và đào tạo. Để đẩy mạnh sự phát triển của giáo dục và đào tạo một trong những giải pháp hàng đầu đã được Đảng ta xác định là: Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo một trong những giải pháp hàng đầu đã được Đảng ta xác định là: Tăng cường xã hội hoá công tác giáo dục và đào tạo. Trên thực tế, Xã hội hoá công tác giáo dục đào tạo là một những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Xã hội hoá công tác giáo dục là một giải pháp tối ưu để thực hiện chủ trương về một nền "giáo dục nhân dân" vốn có của dân tộc Việt Nam. Nó góp phần giải quyết những mâu thuẫn mang tính thời đại trong công tác đào tạo nói chung và đào tạo cán bộ TVTT nói riêng của Việt Nam và thế giới. Đó là các mâu thuẫn: - Mâu thuẫn giữa tốc độ và qui mô phát triển vê nhu cầu đào tạo của xã hội với những năng lực đáp ứng của hệ thống giáo dục đào tạo của Nhà nước. - Mâu thuẫn giữa những đòi hỏi về năng lực và chất lượng cán bộ với nội dung chương trình đào tạo của nhà trường. - Mâu thuẫn giữa tính đa dạng về điều kiện, về nhu cầu, về trình độ, về lứa tuổi của người đọc với tính chặt chẽ, hàn lâm, quan liêu của hệ thống đào tạo. Để thúc đẩy công tác xã hội hoá đào tạo cán bộ TVTT có ba vấn đề cần quan tâm xem xét: - Nhu cầu thực tế về đào tao cán bộ TVTT và khả năng đáp ứng nhu cầu đó - Phương hướng và mục tiêu của xã hội hoá đào tạo cán bộ TVTT. - Các giải pháp và phương hướng đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo cán bộ TVTT ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta sẽ xem xét từng vấn đề. Thứ nhất: nhu cầu thực tế về đào tạo cán bộ TVTT và khả năng đáp ứng nhu cầu đó Theo con số thống kê của Vụ Thư viện - Bộ Văn hoá thông tin đến nay cả nước có khoảng 26.000 thư viện, tủ sách, phòng đọc với mạng lưới thư viện rộng khắp cả nước vì thế nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ TVTT được đặt ra là rất lớn. Đáng tiếc là các cơ sở đào tạo hiện nay chưa có khả năng đáp ứng được các yêu cầu đang đặt ra của thực tế. Như vậy, xét về nhu cầu đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo lại cán bộ TVTT là rất lớn, trong khi chỉ tiêu đào tạo và ngân sách cho đào tạo nói chung và chuyên ngành TVTT nói riêng là rất hạn chế. Vì vậy, một số cơ sở đào tạo cán bộ TVTT đã thực hiện Nghị quyết số: 90-CP của chính phủ về "Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá " bằng các hình thức: Thành lập trường đại học dân lập (như khoa Thông tin và Quản trị thông tin tại Trường đại học dân lập Đông Đô); ở các cơ sở đào tạo công lập ngoài việc đào tạo chính quy, tại chức, các cơ sở này mở thêm các lớp ngắn hạn, một số liên kết với các cơ sở khác mở các lớp hệ cao đẳng hoặc dưới dạng dạy nghề, mở các khoá bồi dưỡng kiến thức mới cho các cán bộ đã tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học về thư viện thông tin từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, do bị hạn chế về nhiều mặt như: lực lượng cán bộ giảng dạy mỏng, trình độ giảng viên còn hạn chế, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo, chương trình, giáo trình chưa phù hợp, phương thức đào tạo đơn giản,... nên chất lượng đào tạo chưa cao và không mở rộng được quy mô đào tạo Mặt khác, cơ chế chính sách để thực thi Nghị quyết: 90-CP của chính phủ còn nhiều bất cập như chính sách thuế, đất đai, tín dụng, huy động vốn, đầu tư, quản lý tài sản,... và chưa cụ thể hoá - nhất là đối với công tác đào tạo cán bộ ngành Văn hoá Thông tin nói chung và ngành Thư viện- Thông tin nói riêng. Thứ hai: Phương hướng và mục tiêu của xã hội hoá đào tạo cán bộ Theo quan điểm của Đảng, xã hội hoá giáo dục là huy động mọi lực lượng xã hội bao gồm các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp cùng tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, tham gia quá trình giáo dục dưới sự quản lý của nhà nước đồng thời tạo điều kiện để mọi người dân được thừa hưởng thành quả do hoạt động giáo dục đem lại tạo nên một phong trào học tập trong toàn dân, tiến tới xây dựng và hình thành một xã hội học tập. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát trên, xã hội hóa công tác đào tạo cán bộ TVTT hướng tới các mục tiêu cụ thể sau: - Phát triển các nguồn lực đào tạo cán bộ TVTT ngoài công lập - Tạo lập đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp tham gia quá trình đào tạo cán bộ TVTT - Mở rộng cơ hội và điều kiện học tập cho mọi người - Tạo sự đa dạng và phong phú về nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường tương hợp với yêu cầu của xã hội. *Phát triển các nguồn lực đào tạo cán bộ TVTT ngoài công lập. Từ trước đến nay trách nhiệm đào tạo cán bộ TVTT hoàn toàn do nhà nước đảm nhiệm. Sở dĩ có tình trạng này là vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất vì nghề TVTT hiện nay chưa phải là một nghề hấp dẫn về phương diện thu nhập. Thứ hai, phần lớn cán bộ TVTT từ trước đến nay chỉ làm việc trong các cơ quan của nhà nước. Vì hai lý do trên, các cơ sở đào tạo dân lập chưa chú ý đến ngành học này. Các cơ sở đào tạo cán bộ TVTT hiện do Bộ Văn hoá Thông tin quản lý và một vài cơ sở khác do Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Quốc phòng quản lý, chưa đáp ứng được nhu cầu học ngày càng cao của xã hội. Đơn cử như: Trường Đại học Văn hoá Hà Nội hằng năm có từ 2 đến 3 nghìn thí sinh đăng ký dự thi, nhưng chỉ có thể tuyển được khoảng 120 sinh viên, Trường Cao đẳng Văn hoá TP. HCM có từ 1 .500 đến 2.000 thí sinh đăng ký dự thi cũng chỉ có thể tuyển từ 70 đến 80 sinh viên theo chỉ tiêu hằng năm… Vì thế giảm áp lực cho các cơ sở đào tạo cán bộ TVTT công lập, việc thành lập một hệ thống dào tạo không chính quy và ngoài công lập là cần thiết và hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay, bởi vì hoạt động TVTT đã được mở rộng, thâm nhập vào mọi ngành, mọi nghề, mọi thành phần kinh tế khác nhau, và nhu cầu khai thác và sở hữu thông tin tăng nhanh về số lượng cũng như về chất lượng theo tốc độ phát triển của xã hội. *Tạo lập đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp tham gia quá trình đào tạo cán bộ TVTT: Hiện nay, đội ngũ giảng viên giảng dạy chuyên nghiệp chủ yếu được biên chế ở các cơ sở đào tạo công lập, mà số lượng giảng viên của các trường đại học chức chưa vượt quá 70 người. Đông nhất, Bộ môn Thông tin - Thư viện học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội có 19 người và 4 cán bộ kiêm nhiệm, tiếp theo là Khoa TVTT trường Đại học Văn hoá Hà Nội có 1 5 người, 5 cán bộ kiêm nhiệm. Khoa Thông -tin - Thư viện trường Cao đẳng Văn hoá Từ. Hồ Chí Minh có 6 người, 4 cán bộ kiêm nhiệm… Một lực lượng như vậy quá khiêm tốn so vớt nhu cầu đào tạo hiện nay. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay có một lực lượng khá đông đảo những chuyên gia thư viện có trình độ cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Họ là những cán bộ đã nghỉ hưu, những chuyên gia đang công tác tại các cơ quan TVTT. Đây là một tiềm năng hết sức to lớn trong việc đào tạo ngành của cán bộ TVTT. Phương thức xã hội hoá chắc chắn sẽ đánh thức được tiềm năng vừa lý thuyết vừa thực tiễn ấy và sẽ tạo ra một sự đa dạng, phong phú và thực tiễn trong công tác đào tạo cán bộ TVTT. *Mở rộng cơ hội và điều kiện học tập cho mọi người Một khi nhu cầu thông tin của xã hội tăng lên thì sự nghiệp TVTT chắc chắn sẽ phát triển và nhu cầu học tập đối với người học cũng sẽ tăng lên. Xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT sẽ mở rộng các cơ hội cho người có nhu cầu học, sẽ tạo ra một xuất phát điểm tương đối công bằng cho người học dù học ở trong những điều kiện và hoàn cảnh nào. Nó cũng sẽ cho phép người học dù họ ở trong nhưng loại trường lớp, những phương thức, những trình độ đào tạo phù hợp với năng lực và hoàn cảnh cá nhân. Với phương thức xã hội hoá, sẽ không có một cá nhân nào có năng lực và có ước muốn mà không có cơ hội tham gia hoạt động trong ngành TVTT. *Tạo sự đa dạng và phong phú về nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường tương hợp với yêu cầu của xã hội. Từ trước đến nay, nội dung chương trình đào tạo ngành TVTT còn mang nặng tính kinh viện, hàn lâm. Người học không có được nhiều sự chọn lựa về kiến thức cần cho bản thân. Các chương trình đào tạo hầu như không có thay đổi lớn tại các cơ sở đào tạo khác nhau. Tính chất bảo thủ, giáo điều vẫn còn. Nhà trường cứ đào tạo theo chương trình đã định sẵn, việc ứng dụng ra sao là do khả năng của người học. Có một khoảng cách khá lớn giữa đào tạo và ứng dụng, học viên khi tốt nghiệp thường phái mất một thời gian khá lâu mới hoà nhập được các cơ sở thực tiễn ngành TVTT. Học viên cũng có cơ hội tiếp xúc được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo và nhờ đó nội dung chương trình đào tạ sẽ luôn được điều chỉnh tương hợp với yêu cầu thực tiễn, học viên cũng biết mình phải rèn luyện, chuẩn bị những kỹ năng, kiến thức gì cho công tác sau này. Tính thực dụng trong mục tiêu đào tạo vừa là sự tiết kiệm kinh phí và thời gian đào tạo, vừa làm nên sự đa dạng phong phú cho chương trình vừa tạo hưng phấn, kích thích tính sáng tạo và luyện thói quen phản ứng trước hoàn cảnh cho học viên. Thứ ba: Các giải pháp và phương hướng đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo cán bộ TVTT ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện được các mục tiêu đã nêu ở trên cần phải xây dựng được các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy xã hội hoá trong công tác đào tạo cán bộ TVTT. Hệ thống các giải pháp đó bao gồm: - Đa dạng hoá các cơ sở và hình thức đào tạo cán bộ TVTT. - Coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở đào tạo ngoài công lập. - Áp dụng chế độ kiêm chức đối với đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp - Tạo điều kiện để học viên có thể tiếp cận được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo. - Tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của xã hội đối với công tác đào tạo cán bộ TVTT. - Đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Trong các giải pháp kể trên. đa dạng hoá các cơ sở và hình thức đào tạo cán bộ TVTT. Một nền giáo dục theo phương thức xã hội hoá là một nền giáo dục chia sẻ cho dân do dân và vì dân. Tính đa dạng về cơ sở đào tạo cũng như phương thức đào tạo là thực hiện mục tiêu đó. Sự đa dạng về cơ sở đào tạo vừa tạo thêm cơ hội cho người học vừa tạo điều kiện để mọi thành phần xã hội cùng với nhà nước phát triển sự nghiệp giáo dục. Đối với ngành TVTT, ngoài cơ sở đào tạo công lập như đã có từ trước đến nay, cần khuyến khích các trường dân lập mở ngành đào tạo TVTT, ngoài ra tạo điều kiện để các thư viện các trung tâm thông tin lớn cũng tham gia công tác đào tạo, và trở thành nơi đào tạo tay nghề cho học viên. Về phương thức đào tạo, cắn áp dụng nhiều phương thức như chính qui tập trung, đào tạo theo chế độ tín chỉ (để người học tự chọn môn học mình thích và thời điểm thuận lợi), đào tạo tại chức, đào tạo hàm thụ, bồi dưỡng huấn luyện ngắn ngày, thực tập tay nghề, chuyển giao công nghệ... các cơ sở đào tạo ngành TVTT có thể tiến hành nhiều hình thức đào tạo khác nhau như đào tạo không tập trung, đào tạo mở rộng: - Hình thức đào tạo không tập trung: Do nhu cầu học tập để chuẩn hoá đội ngũ cán bộ các ngành, các địa phương, đặc biệt là nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài phương thức đào tạo tại chức như trước đây còn có thêm phương thức đào tạo mở, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn nên quy mô đào tạo không tập trung tăng rất nhanh. - Hình thức đào tạo theo hợp đồng: ngoài đào tạo tại chức, các trường đại học, cao đẳng công lập còn thực hiện phương thức đào tạo theo hợp đồng. Đó là hình thức hợp tác giữa các trường đại học, các trung tâm đào tạo và các chính quyền địa phương để cung cấp các khoá học cao hơn. - Hình thức đào tạo mở rộng: hình thức này là nhằm huy động thêm nguồn kinh phí của người học đóng góp thêm cho đào tạo, cho phép ngành Giáo dục - Đào tạo mở rộng quy mô, đáp ứng nhu cầu của người học muốn có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học. Hiện nay, hình thức này được gọi là hệ đào tạo chính quy không cấp phát kinh phí. Bên cạnh đó cần coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở đào tạo ngoài công lập. Trong thời gian vừa qua, các nhà quản lý, tiếp nhận cán bộ chưa thật sự có sự đối xử công bằng đối với sán phẩm và dịch vụ đào tạo của các trường dân lập. Điều đó đã phần nào làm giảm uy tín và không khuyến khích phát triển hệ thống đào tạo ngoài công lập cả về phía người đầu tư lẫn người học. Có nhiều lý do dẫn tới thái độ thiếu bình đẳng trên, nhưng lý do quan trọng nhất là nhà nước chưa có một qui chế thật cụ thể đối với hoạt động của các trường dân lập dẫn đến chỗ các trường chạy theo xu hướng thương mại hoá, buông lỏng quản lý trong tuyển sinh và trong đào tạo, coi nhẹ chất lượng đào tạo. Việc coi trọng và đối xử bình đẳng đối với sản phẩm và dịch vụ đào tạo của hệ thống đào tạo ngoài công lập là cần thiết nhưng phải đi đôi với việc quản lý nghiêm minh của nhà nước cả về qui chế lẫn nội dung và chất lượng đào tạo. Ngoài ra cần áp dụng chế độ kiêm chức đối với đội ngũ giảng viên bán chuyên nghiệp. Hiện nay ở nước ta có đội ngũ khá đông các chuyên gia thư viện có học vị cao và có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy cũng như công tác, nay theo qui định của nhà nước họ đã nghỉ hưu. Đây là một vốn chất xám rất quý đối với ngành TVTT của nước ta hiện nay. Ngoài ra, còn một lực lượng lớn lao các cán bộ TVTT đầu ngành đang công tác tại các thư viện và trung tâm thông tin. Các cơ sở đào tạo kể cả công lẫn dân lập cần xây dựng một cơ chế kiêm chức hoặc hợp đồng ngoài biên chế để có thể tranh thủ được vốn kiến thức và kinh nghiệm quý giá này. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ nghỉ hưu, đây là đội ngũ có thời gian và khả năng nghiên cứu, không bị ràng buộc bởi những công việc khác, chắc chắn sẽ là một đóng góp to lớn cho sự nghiệp đào tạo cán bộ TVTT. Đồng thời cần tạo điều kiện để nọc viên có thể tiếp cận được với môi trường công tác ngay trong quá trình đào tạo. Phải đưa vào nội dung chương trình đào tạo của nhà trường chế độ kiến tập, thực tập bắt buộc đối với học viên. Chương trình này phái được áp dụng hầu hết phương án giải quyết. Với hình thức đào tạo này, học viên sẽ được rèn luyện về khả năng phản ứng và phát huy được năng lực tư duy độc lập sáng tạo, đồng thời kiểm nghiệm được tính hiệu quả của nội dung chương trình cũng như phương pháp giáng dạy của nhà trường và của giảng viên. Mặt khác các cơ sở đào tạo cần tìm mọi biện pháp tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của xã hội đối với công tác đào tạo cán bộ TVTT. Đào tạo cán bộ TVTT trong thời đại hiện nay là một quá trình đào tạo hết sức tốn kém nếu muốn sán phẩm đào tạo thích nghi ngay được với môi trường công tác. Một cán bộ TVTT trong thế kỷ XXI cần phải được trang bị rất nhiều kiến thức và kỹ năng ở trình độ cao, họ phải là người am hiểu nhiều lĩnh vực kiến thức khoa học, biết khai thác và tổ chức các kiến thức ấy một cách có hệ thống. Họ phải nắm vững các khâu công tác nghiệp vụ từ việc phát hiện, đến việc sưu tập, tổ chức, tinh chế bao gói và chuyển giao thông tin dấn các địa điểm và đối tượng sử dụng khác nhau. Họ lại phải hết sức thành thạo trong việc sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin hiện đại nhất, phải am hiểu một vài ngoại ngữ thông dụng, phải có khả năng ứng xử khéo léo và linh hoạt trước các đồng nghiệp, cũng như đối tượng công tác... Kinh phí và khả năng nhà trường chắc chăn sẽ không đủ đảm đương những yêu cầu ấy của quá trình đào tạo nếu không có được sự hỗ trợ của các tổ chức, đoàn thể, các doanh nghiệp ngoài xã hội. Đặc biệt là của các thư viện và các trung tâm thông tin. Sự giúp đỡ và hợp tác sẽ được hình thành trên nhiều bình diện: như là cơ sở thực tập, cung cấp hỗ trợ về phương diện giáo cụ, học cụ, về phương diện chuyển giao công nghệ và chuyển giao kinh nghiệm, cung cấp các điểm tham quan khảo sát thực tế cho thầy và trò các cơ sở đào tạo nghề TVTT. Điều quan trọng không thể bỏ qua khi tiến hành xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ thư viện là cần đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước hiểu theo luật giáo dục là: Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lý về giáo dục, chính phủ là cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất về giáo dục. Bộ Giáo dục Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục. Quản lý về giáo dục phải đảm bảo 3 phương diện: Hoạch định chiến lược phát triển giáo dục và kế hoạch phát triển giáo dục cho từng thời kỳ. Xây dựng hành lang pháp lý cho sự triển khai; Chỉ đạo việc thực hiên kế hoạch; Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm. Tuy nhiên việc quản lý thống nhất của nhà nước phải đảm bảo chính sách và cơ chế quản lý thông thoáng và linh hoạt. Đồng thời các cơ sở đào tạo ngoài công lập cũng có trách nhiệm tuân thủ nghiêm minh các quy định của pháp luật về lĩnh vực Giáo dục đào tạo và phải chịu sự quản lý nhà nước. Để đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT trong cơ chế thị trường hiện nay cần phải có cách nhìn và cách làm năng động, có thể coi công tác đào tạo là một dạng sản xuất đặc biệt theo quy luật Cung - Cầu (trước đây coi sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo thuộc nhóm phúc lợi xã hội). Về phía Cung cần có các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học như: Cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, chương trình, giáo trình, tài liệu tham khảo phù hợp, đội ngũ cán bộ giảng dạy có chuyên môn cao, có chê chính sách về đào tạo hợp lý, làm tốt Maketing nhu cáu của xã hội,... Về phía cầu được lựa chọn chương trình học phù hợp học phí hợp lý, thời gian học linh hoạt, không phân biệt đối tượng tuyển sinh,... Tuy nhiên tất cả quy trình tuyển sinh, đào tạo phải theo quy chế chung của Bộ Giáo dục - Đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo. Chính thị trường sử dụng sản phẩm của đào tạo là nơi kiểm định chất lương đào tạo kém hay tốt và là động cơ kìm hãm hay thúc đẩy công tác đào tạo phát triển. Xã hội hoá công tác đào tạo cán bộ TVTT là một phương thức cần thiết và chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao trong điều kiện hiện nay của xã hội Việt Nam. Nó cũng là con đường để sự nghiệp TVTT nước ta có cơ hội tiếp cận hội nhập và tranh thủ được sự trợ giúp của sự nghiệp TVTT quốc tế. 3. Một số ý kiến đề xuất: 3.1 Kiến nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hoá Thông tin. - Bộ Văn hoá Thông tin và Bộ Giáo dục và các cơ sở đào tạo đào tạo nên quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng kiến thức cho những người làm công tác giảng dạy ngành thư viện thông tin. Cần phải quan tâm hơn nữa đến việc sắp xếp lại theo chức danh học vị để khuyến khích động viên các cán bộ giảng viên không ngừng học hỏi nâng cao trình độ. Bộ Văn hoá Thông tin và Bộ Giáo dục và Đào tạo các cơ sở đào tạo đào tạo cần có sự khuyến khích và đầu tư thoả đáng cho việc biên soạn, xuất bản các giáo trình và tài liệu tham khảo cho học sinh. - Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hoá Thông tin cần sớm cho phép một số cơ sở đào tạo có đủ điều kiện tổ chức việc đào tạo nghiên cứu sinh cấp bằng tiến sĩ. Đây chính là những cơ hội và điều kiện cho người làm công tác thư viện thông tin và các cán bộ giảng dạy có thể nâng cao trình độ. - Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ văn hoá thông tin cần quan tâm cho phép các cơ sở đào tạo chuyên ngành thông tin thư viện đẩy mạnh việc hợp tác với nhau trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Cần sớm đặt ra một kế hoạch thích hợp và tích cực trong việc cử các cán bộ giảng dạy chuyên ngành thông tin thư viện ra học tập tu nghiệp ở nước ngoài, cấp kinh phí cho cán bộ giảng viên có thể tham dự các cuộc hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm và bổ sung kiến thức mới ở trong và ngoài nước. 3.2 Kiến nghị với các cơ sở đào tạo nghề thư viện thông tin. - Để tạo ra các sản phẩm năng động thích ứng điều kiện thực tế hiện nay và chuẩn bị cho xã hội thông tin hiện đại các cơ sở đào tạo cần mở rộng mục tiêu đào tạo. Không thể chỉ đặt hướng đích địa chỉ cửa sản phẩm đầu ra là các thư viện và cơ quan thông tin chuyên nghiệp mà cần chú ý đến thị trường rộng lớn là mọi cơ quan tổ chức có tổ chức hoạt động thư viện thông tin. Cần chú ý tới việc đào tạo ra các cán bộ có khả năng chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên ngành và bên cạnh đó có thể tham khảo thêm gợi ý của UNESCO về hướng đào tạo các cán bộ có khả năng làm việc liên thông cả ba lĩnh vực: thư viện, thông tin và lưu trữ. - Về chương trình đào tạo: Các cơ sở đào tạo cần thường xuyên rà soát và xem xét lại để xây dựng được các chương trình đào tạo chuyên ngành thư viện thông tin phù hợp với các mục tiêu đặt ra, phù hợp với sự phát triển của đời sống kinh tế, khoa học, xã hội có khả năng hoà nhập với khu vực và quốc tế. Cần xây dựng chương trình theo định hướng công nghệ và dự trên công nghệ. Bên cạnh đó cần phải chú trọng hơn nữa đến việc đào tạo ngoại ngữ cho các cử nhân thư viện thông tin. - Về phương thức đào tạo cần bổ sung thêm các hình thức giảng dạy mới có sử dụng các phương tiện hiện đại để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chú trọng thêm về việc rèn luyện các kĩ năng thực hành cho học sinh. Tăng cường thêm các buổi tham quan ngoại khoá giúp học sinh có hiệu biết đầy đủ và toàn diện hơn về thực tế nghề nghiệp. - Để hỗ trợ cho việc giáng dạy và học tập của giáo viên và học sinh các cơ sở đào tạo cần có những định hướng và sự đầu tư nhất định cho việc xây dựng các thư viện thực hành theo đúng tính chất và yêu cầu của - Để tạo điều kiện cho việc sử dụng các tài liệu chuyên ngành thông tin thư viện vào nhiều mục đích khác nhau, các cơ sở đào tạo cần sớm liên kết với các thư viện và trung tâm thông tin lớn để sao chụp, trao đổi và xây dựng một mục lục liên hợp các tài liệu nghiệp vụ. - Các cơ sở đào tạo cần có kế hoạch nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu thực tế của các cơ quan thông tin, thư viện để xây dựng được những định hướng đúng và bổ sung thêm trong công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin. - Đối với các cán bộ thư viện thông tin đã tốt nghiệp từ nhiều năm trước, các cơ sở đào tạo nên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, bổ túc kiến thức mới. Việc đào tạo liên tục nghề thư viện thông tin cần được các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp xem xét lại một các nghiêm túc và đầy đủ hơn. - Các cơ sở đào tạo đặc biệt là Trường đại học Văn hoá Hà Nội nên sớm tổ chức đào tạo văn bằng hai về thư viện thông tin cho những người đã có một bằng đại học ngành khác có nhu cầu làm việc tại cơ quan thư viện thông tin. Đây là một nhu cầu đặt ra trong thực tiễn cần được quan tâm. - Các cơ sở đào tạo có đủ điều kiện cần sớm mở ra các chương trình đào tạo tiến sĩ ngành thư viện thông tin học. Để tạo điều kiện cho việc trao đổi và hợp tác về nhiều bình diện các cơ sở đào tạo nghề thư viện thông tin ở Việt Nam có thể quan tâm hơn đến việc tổ chức một hội nghề nghiệp của những người làm công tác giáo dục đào tạo và cho xuất bản một tờ tạp chí hoặc tập san chuyên ngành về giáo dục đào tạo cán bộ thư viện thông tin riêng. 3.3 Kiến nghị với các thư viện, cơ quan thông tin. Để đào tạo ra đội ngũ những người làm công tác TVTT có chất lượng cao đòi hỏi các thư viện và cơ quan thông tin phải có những đóng góp nhất định về nhiều mặt: - Hỗ trợ các cơ sở đào tạo trong quá trình đào tạo cán bộ TVTT thông qua việc nhận sinh viên về thực tập, tạo điều kiện cho các giảng viên và sinh viên đến tham quan, học tập, nghiên cứu. - Đặt ra các chính sách khuyến khích tiếp nhận các sinh viên đạt các thành tích cao trong học tập. - Thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ cho cán bộ công tác tại đơn vị mình bằng nhiều biện pháp khác nhau: cử cán bộ đi học tập, tổ chức các lớp bồi dưỡng đào tạo tại chỗ, tổ chức các cuộc tham quan, tạo điều kiện cho cán bộ của mình tham gia nghiên cứu khoa học và tham dự các cuộc hội thảo. - Riêng đối với các thư viện đầu ngành, đứng đầu hệ thống và cơ quan thông tin lớn cần quan tâm đến việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho các thư viện thành viên thuộc hệ thống đó. - Cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, các thư viện, cơ quan thông tin trên mọi bình diện. KẾT LUẬN Công tác đào tạo cán bộ TVTT đang đứng trước những vận hội và thử thách của xã hội thòng tin. Nền kinh tế tri thức của Internet và thư viện điện tử. Trong xã hội thông tin, thông tin và tri thức đã trở thành chiếc chìa khoá để phát triển kinh tế xã hội. Bước vào thế kỷ XXI, cùng với nhân loại, Việt Nam đang sống trong một thời kỳ có nhiều biến động, công nghệ thông tin phát triển và thay đổi hàng ngày. Sự hình thành và phát triển của xu thế toàn cầu hoá, xu thế chuyển dịch sang nền kinh tế dựa trên tri thức, xu thế giao lưu văn hoá toàn cầu và xu thế đổi mới công nghệ thông tin với tốc độ cao đã và đang đặt ra cho các thư viện và cơ quan thông tin những thách thức mới, yêu cầu mới. Nội dung hoạt động mới của thư viện và các cơ quan thông tin đã gắn liền với sự xuất hiện các vật mang tin mới và việc sử dụng ngày càng sâu rộng công nghệ thông tin hiện đại. Nếu như vào đầu những năm 1990 Thư viện điện tử được coi là một hình ảnh của tương lai thì từ năm năm trở lại đây điều đó đã trở thành hiện thực. Nhiều thư viện điện tử và thư viện số đã được xây dựng ở các nước phát triển. Thư viện Quốc hội Mỹ đã tiến hành một chương trình thư viện số khổng lồ nhằm chuyển đổi vốn tư liệu in truyền thống sang nguồn tin điện tử linh hoạt và nếu công việc thực hiện đúng tiến độ kế hoạch thì trong thế kỷ XXI độc giả những người dùng tin khắp nơi trên thế giới sẽ có thể bật máy tính, tìm đến cơ sở dữ liệu và truy nhập tới kho tư liệu số hoá của Thư viện Quốc hội Mỹ. Ngoài ra, nhiều thư viện đại học ở Mỹ và các nước phát triển khác cũng đang tìm cách đưa các sưu tập thư viện vào máy tính và đưa lên mạng để bạn đọc truy nhập sử dụng rộng rãi. Các chuyên gia thông tin thư viện đã và đang có tham vọng tập hợp tư liệu số từ nhiều nơi, thậm trí, trên phạm vi toàn cầu thông qua internet, để mọi người ở bất kỳ nơi nào cũng có thể truy nhập được. Xu thế liên kết mạng, sự phát triển của các nguồn tin điện tử, sự hình thành các thư viện điện tử. phát triển các công điện tứ đã trở thành xu thế chung của thế giới. Tại nhiều nước trên thế giới việc thực hiện chính sách thông tin quốc gia đã đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ điện tử, sử dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Internet trong dịch vụ thư viện thông tin và trong công tác giáo dục đào tạo khoa học thư viện thông tin. Tính chất và yêu cáu của nghề nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi nhưng người cán bộ thư viện thông tin mãi sẽ vẫn là linh hồn và nhân tố giữ vai trò quyết định trong hoạt động thư viện thông tin. Vì thế các cơ sở đào tạo và những người làm công tác giáo dục phải có trách nhiệm chuẩn bị đào tạo ra một thế hệ những cán bộ thư viện thông tin mới có khả năng bắt kịp với sự phát triển và yêu cầu của thực tiễn. Công tác đào tạo cán bộ thư viện thông tin sẽ bị tụt hậu, sản phẩm đào tạo sẽ không được thực tế chấp nhận nếu như các cơ sở đào tạo và những người tham gia vào hoạt động này không thực sự đổi mới về mọi bình diện, cách tân hệ thống và nội dung đào tạo và bồi dưỡng ngành nghề này. Với các mô hình và một hệ thống các giải pháp được đề xuất trong đề tài chúng tôi hy vọng các cơ sở đào tạo ngành TVTT, những người xây dựng chiến lược, các nhà quản lý công tác đào tạo sẽ lựa chọn được phương thức và biện pháp thích hợp để đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ TVTT thích ứng với yêu cầu của thực tế Việt Nam và đòi hỏi của xã hội thông tin hiện đại. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33456.doc
Tài liệu liên quan