Lời nói đầu
Ngày nay trong bối cảnh lịch sử của thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và đặc biệt là yêu cầu đổi mới toàn diện của Nhà nước ta, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phầnvận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến toàn bộ đời sống xã hội, tạo nên những chuyển dịch lớn trong cơ cấu lao động xã hội, cơ cấu giai cấp công nhân nói chung và hoạt động Công đoàn nói riêng. Vì thế mà đòi hỏi công tá
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đường sắt Việt Nam đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vận động công nhân của Đảng và tổ chức Công đoàn phải có những chuyển biến mới, phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh Chính trị, phẩm chất Cách mạng, năng lực trí tuệ và tổ chức thực hiện phù hợp điều kiện thực tại, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những vấn đề trên đã đặt ra cho tổ chức Công đoàn nhiệm vụ Chính trị nặng nề trong giai đoạn Cách mạng mới, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất và bản lĩnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và sẵn sàng đón nhận những thử thách ngày càng cao của giai đoạn tiếp theo.
Thực tế cho thấy, ở đâu cán bộ Công đoàn có năng lực, có bản lĩnh thì ở đó công tác Công đoàn được thực hiện tốt, thu hút đông đảo công nhân viên chức lao động tham gia hoạt động do Công đoàn tổ chức, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho người lao động.
Tuy nhiên, hiện nay hệ thống Công đoàn còn nhiều lúng túng, trong công tác cán bộ còn nhiều bất cập, chưa có biện pháp tạo nguồn bổ sung cán bộ, việc sử dụng tiếp nhận cán bộ còn nhiều chắp vá, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, không kịp bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, nhất là cán bộ mới chuyển sang làm công tác Công đoàn.
Công đoàn đường sắt Việt Nam là một ngành đã có đóng góp đáng kể cho sự ổn định và phát triển của đất nước ta. Để tiếp tục đẩy mạnh công nhiệp hoá, hiện đại hoá Công đoàn đường sắt Việt Nam đã phải có sự cộng tác của cả hệ thống Công đoàn, phải có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Công đoàn ngành như thế nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đây cũng chính là lý do mà em chọn đề tài khoá luận “ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đường sắt Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Mục tiêu đề tài.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ Công đoàn và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
- Đề ra giải pháp khắc phục những tồn tại của công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đường sắt Việt Nam trong những năm vừa qua.
- Đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đường sắt Việt Nam trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cơ sở lý luận của đề tài.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các văn kiện của Đảng ta thông qua các quan điểm đại hội, các chỉ thị nghị quyết của bộ chính trị, ban chấp hành trung ương. Dựa vào các văn kiện đại hội Công đoàn Việt Nam, các chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng của ban cán sự đảng bộ Công đoàn đường sắt Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khoá luận lấy việc luận giải cơ sở khoa học của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khoá luận nghiên cứu tác động của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt trên phạm vi toàn quốc, cơ cấu tổ chức các Công đoàn cơ sở trong hệ thống Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, chủ yếu là phương pháp điều tra, khảo sát thống kê, tổng kết thực tiễn, đồng thời kết hợp phương pháp lôgic lịch sử, phân tích tổng hợp và những tích luỹ, suy nghĩ của bản thân qua thời gian thực tập.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm 3 phần chính:
Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn hình thành cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phần thứ hai: Thực trạng đội ngũ cán bộ Công đoàn ở Công đoàn đường sắt Việt nam trong những năm qua.
Phần thứ ba: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đường sắt Việt nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đề tài được hoàn thành với sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo trong cơ quan Công đoàn ngành đường sắt, sự hướng đẫn tận tình của đồng chí trưởng ban tổ chức Công đoàn đường sắt Việt nam cùng toàn thể các Thầy cô trong khoa, đặc biệt là dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Thầy giáo Nguyễn Anh Tuấn phó trưởng khoa Công đoàn Trường Đại học Công đoàn.
Mặc dù sự hướng dẫn tận tình của quý cơ quan đơn vị, tập thể và các cá nhân, bản thân em cũng cố gắng học hỏi và nghiên cứu. Song do nội dung của đề tài quá rộng, khả năng bản thân còn hạn chế, thời gian nghiên cứu tìm hiểu lại không nhiều, do vậy khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, em xin chân thành cảm ơn và em rất mong nhận được sự chỉ đạo của các đồng chí trong cơ quan Công đoàn đường sắt Việt nam cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo để khoá luận của em được hoàn thiện hơn và có thể đưa vào thực tế để áp dụng.
Sinh viên thực hiện: Phạm Hoài Phương
Phần thứ nhất
Những vấn đề lý luận cơ bản về cán bộ, công tác cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về giai cấp công nhân cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1. Giai cấp công nhân theo quan điểm của Mác- Lênin.
“ Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động hoạt động sản xuất trong trong các ngành công nghiệp thuộc trình độ kỹ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế xã hội tuỳ thuộc vào chế độ xã hội đương thời: ở các nước tư bản, họ là những người không có, hoặc về cơ bản có tư liệu sản xuất chủ yếulà cùng nhau hợp tác lao động cho mình”(1).
Trải qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Quần chúng nhân dân (kể cả công nhân và nông dân) đã tuyển những cán bộ chính trị cho tổ chức mình về lãnh đạo phong trào. Vì vậy, Lênin đã khẳng định :
“ Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị nếu không đào tạo ra những hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”(2).
1. Trích: Những vấn đề về chủ nghĩa Mác- Lênin, nhà xuất bản sự thật.
2. Trích: V.I Lênin toàn tập tiếng việt, Tập 4 NXB tiến bộ Matxcơva 1974, trang473.
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa Mác- Lênin đã đúc rút được giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất. Bởi vậy, việc tuyển dụng cán bộ từ công nhân ưu tú, công nhân lâu đời và giai cấp nông dân là người bạn cùng chịu áp bức, bóc lột đã cùng giai cấp công nhân đứng lên làm cách mạng.
Stalin chỉ ra rằng “ Giai cấp công nhân phải tự đào tạo lấy những người kỹ thuật, trí trức riêng của mình trong sản xuất, những người có thể tự bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân tức là của giai cấp thống trị trong sản xuất. Không một giai cấp thống trị nào không cần đến những người trí thức của mình”.(3)
2. Vị trí, tầm quan trọng của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Cán bộ là người đem chủ trương đường lối của Đảng và chính phủ tuyên truyền cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời tập hợp những vướng mắc của dân chúng phản ánh lại cho Đảng và Nhà nước để Đảng và nhà nước định ra chính sách cho đúng.Thực chất cán bộ là người giữ một chức vụ nào đó trong tổ chức. Do đó, nói đến cán bộ là nói đến chủ thể hành động, nói đến nhân tố quyết định con người. Cán bộ là khâu then chốt, khâu trọng yếu trong toàn bộ, trước hết là đội ngũ lãnh đạo, quản lý là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, quyết định vận mệnh của đất nước. Ngay từ ngày đầu thành lập Đảng, LêNin rất coi trọng công tác cán bộ, người trực tiếp chỉ đạo tổ chức, đào tạo, rèn luyện đội ngũ “ cán bộ chuyên nghiệp”, của Đảng một cách thường xuyên, phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Lấy đội ngũ cán bộ để làm nòng cốt tiến hành cuộc cách mạng tháng Mười thành công, lật đổ chế độ Nga Hoàng, thiết lập chính quyền xô viết và lãnh đạo xây dựng đất nước. Từ thực tiễn cách mạng Lê Nin đã khẳng định “ nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đã là then chốt, nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định xã hội chỉ là mớ giấy lộn”.(4)
Stalin cũng cho rằng “ con người cán bộ là những vốn quý nhất, có ý nghĩa quyết định nhất, trong tất cả những vốn quý ở trên đã nêu biết rằng cán bộ quyết định hết thảy”(5).
3,5. Trích: Stalin: Những vấn đề về chủ nghĩa Mác- Lênin NXB sự thật, trang 526.
4. Trích: Stalin những vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lê Nin, NXB sự thật, trang 473.
Như vậy, vị trí quan trọng của cán bộ là ở chỗ đảm bảo cho tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, không có cán bộ thì đường lối của Đảng có hay đến mấy cũng không thành hiện thực. Muốn áp dụng vào thực tiễn một đường lối chính trị đúng thì phải có cán bộ, những người am hiểu về đường lối chính trị của Đảng, nhìn nhận đường lối đó, biết áp dụng đường lối đó.
Tầm quan trọng của công tác tổ chức cán bộ được thể hiện trên hai khía cạnh cụ thể:
- Tổ chức cán bộ đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện đường lối và nhiệm vụ chính trị.
- Tổ chức cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
3. Chủ nghĩa Mác Lê Nin về tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ.
Tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ phù hợp với sự phân công của tổ chức, thước đo đánh giá cán bộ yếu hay tốt, hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm vụ mà tổ chức giao cho. Bởi vì cán bộ là khâu then chốt là quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Do đó việc lựa chọn cán bộ phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn nhất định mang tính nguyên tắc, tính Đảng, tính quần chúng.
Theo Stalin “Lựa chọn cán bộ, thứ nhất phải xét phẩm chất chính trị, tức là về mặt chính trị họ có đủ trách nhiệm không, thứ hai là phải theo năng lực công tác chuyên môn tức là phải xét họ có thích hợp với một công tác cụ thể nào không” (6).
Hiểu theo cách nói của Stalin về phẩm chất chính trị của cán bộ là phải có lập trường quan điểm rõ ràng tuyệt đối trung thành với quần chúng nhân dân, hết sức tận tâm, tận tụy phục vụ nhân dân, được quần chúng tín nhiệm. Bên cạnh phẩm chất chính trị còn có năng lực, chuyên môn, nắm chắc chuyên môn của mình phụ trách, đồng thời có khả năng am hiểu chuyên môn kỹ thuật có liên quan giúp cho công tác nghiệp vụ của mình mà tổ chức giao phó.
6. Trích: Lê Nin toàn tập NXB tiến bộ, Matxcơva, năm 1974, trang 347.
Việc lựa chọn cán bộ có những căn cứ là cơ sở tiêu chuẩn để lựa chọn trên những công việc cụ thể, bố trí sử dụng cán bộ. Vì vậy phải xuất phát từ thực tế từ quá trình hoạt động của quần chúng, được trưởng thành từ phong trào giáo dục và đào tạo, qua thử thách tuyển chọn, đề bạt, sàng lọc cán bộ thì việc tuyển chọn cán bộ sẽ đúng người đứng việc, thực sự là vấn đề quyết định thành công của tổ chức.
Lê Nin chỉ ra rằng: “Hết sức bền bỉ, hết sức thận trọng, chúng ta chú ý tìm cho ra và lấy công tác để thử thách những nhà tổ chức thực sự, những người có óc sáng suốt và có bản lĩnh thực tiễn, những con người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội vừa có khả năng lặng lẽ khơi đà cho công tác (Mặc dù sự ổn định và hỗn loạn của người khác), công tác mà số đông những người trong phạm vi tổ chức Xô Viết đều kiên quyết và đồng lòng cùng làm. Đó là những người mà sau khi chúng ta đã thách thức họ đến hàng chục lần bằng cách cho ho trải qua những nhiệm vụ đơn giản nhất đến những nhiệm vụ khó khăn nhất, chúng ta sẽ đề bạt họ lên những trọng trách lãnh đạo của nhân dân, trọng trách lãnh đạo của công tác quản lý”(7).
Vấn đề “Lựa chọn nhân tài và kiểm tra việc chấp hành” (Lê Nin) là một nguyên tắc và nhiệm vụ của Đảng và chính quyền. Coi đây là nhiệm vụ thường xuyên quan tâm hàng đầu của tổ chức cán bộ. Trên cơ sở đó có kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ đầy đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đáp ứng với nhu cầu của sự nghiệp cách mạng đồng thời có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng quy hoạch cán bộ cho tổ chức.
4. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý cho cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên.
7. Trích: Tuyển tập tiếng việt NXB sự thật – Hà Nội, năm 1962, trang 618.
Đây là một nhiệm vụ thường xuyên mang tính bắt buộc của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị, nhằm trau dồi, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, có như thế mới trang bị cho cán những tri thức mới, phương pháp luận khoa học, tiếp thu những kiên thức của nhân loại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của tổ chức, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể, vận dụng một cách sáng tạo, lịnh hoạt để giải quyết những vấn đề yếu kém của cán bộ nhằm nâng cao chất lượng của cán bộ. Lê Nin đã dạy “Học – Học nữa – Học mãi”, học trong sách học trong cuộc sống, trong công tác, trong kinh nghiệm của tập thể, kinh nghiệm của quần chúng, kinh nghiệm của nước bạn, lý luận gắn với thực tiễn, thực tiễn luôn soi sáng những lý luận đó là phương pháp để trau dồi tư duy lý luận và năng lực thực tiễn làm cho thực tiễn thêm sinh động và phong phú.
Như vậy, người cán bộ một mặt được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ văn hoá, lý luận chính trị, khoa học kỹ thuật mặt khác luôn tự trau dồi, học hỏi để tự mình nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân giúp cho bản thân thành thạo trong lĩnh vực mình phụ trách, đồng thời phải am hiểu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, phương pháp tổ chức quản lý liên quan đến tổ chức mình.
Để chứng minh cho điều nói trên, Lê Nin đã chỉ rõ “ Muốn quản lý thì người phải thông thạo chuyên môn, phải biết một cách đầy đủ, chính xác, tất cả những điều của sản xuất, phải hiểu được điều kiện kỹ thuật của nền sản xuất đó, phải có trình độ khoa học kỹ thuật nhất định”.
Như vậy, chất lượng cán bộ là vấn đề then chốt, quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Vì vậy, để đảm bảo cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội, cần phải nắm vững những quan điểm cơ bản, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về công tác cán bộ.
Đảng cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn lấy tiêu chuẩn người cán bộ mà chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra trong mọi thời kỳ cách mạng: “ Có lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, có tinh thần trách nhiệm và giải quyết những hoàn cảnh khó khăn, tôn trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, luôn chăm lo đến lợi ích quần chúng, có tinh thần tập thể cao, thương yêu đoàn kết với đồng bào, đồng chí, có tính tổ chức kỹ luật tốt… cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khiêm tốn giản dị, không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất và năng lực công tác của bản thân”(8). Lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Đảng ta vận dụng những quan điểm đó một cách sáng tạo khoa học vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử.
8. Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ – NXB Sự thật 1974, Trang26.
Vận dụng và bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin đó là tư tưởng Hồ Chí Minh – người đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta, nhờ đó trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh chống thù trong giặc ngoài và xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta luôn chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
II. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1. Tầm quan trọng của cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Công tác cán bộ chính là việc xác định các tiêu chuẩn cho mỗi chức danh, tuyển chọn cán bộ theo tiêu chuẩn, lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ. Vì lẽ đó, từ khi ra đời đến nay Đảng luôn xem công tác cán bộ là một vấn đề quan trọng, giữ vị trí quan trọng đối với toàn sự nghiệp cách mạng của mình. Đảng đã từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn Cách mạng. Thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên đó, Đảng lãnh lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất trong lịch sử giành lại độc lập tự do, thống nhất đất nước, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc tổ quốc đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn cho thấy, khi Đảng đã có đường lối chính trị đúng đắn thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư chất và năng lực cao sẽ đóng vai trò quyết định việc tổ chức thực hiện, biến đường lối chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Vì thế, nghị quyết hội nghị lần thứ III ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá khẳng định “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
2. Những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chủ Tịch đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, đến lựa chọn, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Người luôn cho rằng vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng và đối với công cuộc xây dựng Đảng. Người dạy: “ Cán bộ là cài gốc của mọi công việc”(9), “Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công”. Người chăm lo giáo dục cán bộ về những nhiệm vụ cách mạng và động viên mọi người hăng hái thực hiện những nhiệm vụ ấy. ở mỗi bước phát triển của cách mạng căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, Người đã ân cần chỉ ra phương hướng phấn đấu và rèn luyện của cán bộ.
* Tiêu chuẩn cán bộ.
Một yêu cầu không thể thiếu được của người cán bộ là sự gắn bó mật thiết với quần chúng, gần gũi với công nhân, tri thức, gần gũi với cấp dưới cơ sở, sâu sát với công việc cụ thể. Thực tế Lê nin cho rằng: Bất kỳ cán bộ nào nếu sa vào “vũng lầy quan liêu đáng nguyền rủa” là đã “ tự treo cổ mình”.
Như vậy tiêu chuẩn lựa chọn, đề bạt cán bộ là một trong những quan tâm của công tác cán bộ, nắm vững và xác định đúng quan điểm này sẽ tạo cho hệ thống chính trị một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực, phẩm chất công tác có hiệu quả và là tiền đề định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng quy hoạch cán bộ.
9.10. Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ – NXB Sự thật 1974, Trang26.
Tiêu chuẩn người cán bộ mà chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đối với cán bộ, có thể áp dụng trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam là: “ có lòng trung thành với sự nghiệp Cách mạng của Đảng của nhân dân, có tinh thần cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần kiệm liêm chính chí công vô tư, khiêm tốn giản dị, không ngừng học tập nâng cao trình độ năng lực, phẩm chất của bản thân”(10). Để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, để người cán bộ thực sự là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của dân thì người cán bộ phải:
“ có đạo đức có tài, có phẩm chất chính trị và năng lực lãnh đạo trong đó đức là gốc”. Người nhấn mạnh: “ cái làm nền tảng trước hết là đạo đức cách mạng, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng một cách vẻ vang”. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, Người đặc biệt coi trọng việc giữ gìn và nâng cao đạo đức Cách mạng.
Công tác cán bộ nói chung, tiêu biểu cán bộ nói riêng, có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu, đòi hỏi người cán bộ trong tình hình hiện nay:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và cương quyết đấu tranh chống tham nhũng.
+ Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
+ Năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm, giám chịu trách nhiệm.
Các tiêu chuẩn có mối quan hệ mật thiết với nhau coi trọng cả đức và tài được chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Trên cơ sở tiêu chuẩn chung, các cấp các ngành cần chủ động xây dựng tiêu chuẩn của ngành mình, đơn vị mình đó là căn cứ để làm tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
Hồ Chủ Tịch chỉ rõ: “ việc huấn luyện học tập không phải là một việc đơn giản muốn làm thì phải hiểu cho rõ”(11) và Người chỉ ra những vấn đề cần phải trả lời trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là “ huấn luyện ai? ai huấn luyện? huấn luyện như thế nào ? huấn luyện gì ? huấn luyện như thế nào ? và tài liệu huấn luyện.
11. Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, NXB Sự thật 1974, Trang 27.
Người dùng trong công tác huấn luyện thì cần huấn luyện về lý luận, phải dùng lý luận Mác- Lênin cho người. Người biết lý luận mà không thực hành thì vô ích. Học lý luận mà để áp dụng vào việc làm, làm mà không có lý luận thì không khác gì đi vào trong đêm tối, vừa chậm vừa hay vấp váp. Ngoài lý luận phải dùng về công tác, về văn hoá và về chuyên môn. Huấn luyện cần thiết thực chu đáo hơn tham nhiều.Việc cốt yếu là phải lấy người cấp dưới lên huấn luyện rồi trả lại cho cấp dưới, để họ huấn luyện cho cấp dưới nữa. Huấn luyện phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, phải nhằm đúng nhu cầu và cần chú trọng việc cải tiến tư tưởng. Đi đôi với việc huấn luyện là phải nâng cao và hướng dẫn tự học nâng cao kiến thức thông qua việc đọc nghiên cứu tài liệu.
Công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy Đảng phải nuôi dưỡng cán bộ, như người làm vườn vun trồng cây cối quý báu phải trọng nhân tài, phải trọng cán bộ, trong mỗi người có ích cho công việc của chúng ta. Đảng phải biết rõ cán bộ một cách cho đúng và phải khéo léo dùng cán bộ bởi vì : Không có ai cái gì cũng tốt, vì vậy chúng ta phải khéo léo dùng người, sữa chữa những khuyết điểm cho họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người .
Đào tạo, bồi dưỡng người cán bộ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cách mạng từ đó cung cấp những cán bộ ưu tú cho Đảng để không bao giờ thiếu cán bộ.
Hồ Chí Minh căn dặn: Phải dùng lòng nhân ái để giúp đỡ lãnh đạo cán bộ luôn luôn kiểm tra và để thúc đẩy giáo dục cán bộ các cơ quan, lãnh đạo hiểu cán bộ để có thể đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ có kết quả cao nhất.
3. Những quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định : Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, tư tưởng của Người về cán bộ đặt trên nền “ cán bộ là gốc của mọi công việc... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(12).
12. Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ – NXB Sự thật 1974, Trang26.
Có nghĩa là muốn thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng cần có đội ngũ cán bộ cách mạng và xem xét mọi vấn đề liên quan đến cán bộ và công tác cán bộ gắn với nhiệm vụ của Cách mạng do đó Đảng thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
3.1. Công tác cán bộ gắn với đường lối và nhiệm vụ chính trị.
Vấn đề cán bộ có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với đường lối chính trị, với tổ chức, với phong trào cách mạng của quần chúng, trong những mối quan hệ ấy cán bộ vừa là "quả" vừa là "nhân" của phong trào . Bởi vì người cán bộ có vai trò trong sự nghiệp Cách mạng của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đường lối và nhiệm vụ chính trị là căn cứ để làm tốt công tác cán bộ đó là đào tạo, bồi dưõng, sử dụng, quy hoạch, xác định chức danh, tiêu chuẩn, quản lý cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ. Đường lối nhiệm vụ chính trị đúng đắn sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất và năng lực. Nếu đường lối nhiệm vụ chính trị sai sẻ đẩy hàng loạt cán bộ đến sai lầm và khuyết điểm. Chính vì lẽ đó đòi hỏi đường lối và nhiệm vụ chính trị cần được xây dựng trên cơ sở khoa học và hợp lòng dân. Những tác động trở lại của cán bộ cũng có ý nghĩa quyết định đối với bản thân đường lối. Khi đã có đường lối đúng thì tất cả vấn đề là tổ chức thực hiện.
Vận dụng quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đòi hỏi các cấp, các ngành, từng cơ quan đơn vị cần xác định đúng nhiệm vụ chính trị cho cơ quan đơn vị mình và cho từng cán bộ. Có xác định nhiệm vụ chính trị mới có thể thành cán bộ tốt. Khi cán bội thực hiện đường lối và nhiệm vụ chính trị thì tổ chức và người làm công tác tổ chức cán bộ cần theo dõi kiểm tra, nhắc nhở, uốn nắn họ tránh tình trạng làm công tác cán bộ theo kiểu quản lý chung chung không hiểu người, không hiểu việc của cán bộ. Khi nhiệm vụ Cách mạng thay đổi, đường lối chính trị thay đổi, công tác cán bộ cũng cần được đổi mới cho phù hợp.
3.2. Công tác cán bộ phải gắn liền với tổ chức.
Cán bộ là nhân tố chủ yếu, nhân tố hàng đầu, nhân tố "động " nhất của tổ chức, tổ chức là do con người lập ra, con người là nhân tố chủ yếu cấu thành tổ chức. Vì vậy nói đến cán bộ là không thể không nói đến tổ chức.
Công tác cán bộ và công tác tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, có nhiệm vụ chính trị mới lập ra tổ chức, có tổ chức mới bố trí công tác cán bộ không vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Vì vậy muốn làm tốt công tác cán bộ thì phải căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu tổ chức để đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ. Không vì cá nhân mà lập ra để giải quyết tại chỗ; không vì có cán bộ mà sinh ra tổ chức làm cho bộ máy tổ chức cồng kềnh, khó quản lý cán bộ. Xây dựng một tổ chức phải dựa trên cơ sở đầy đủ các yếu tố cơ bản để nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đặt ra.
3.3. Công tác cán bộ phải gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng.
Phong trào Cách mạng là toàn bộ hoạt động xã hội của các tổ chức đoàn
thể trong hệ thống tổ chức chính trị- xã hội phong trào Cách mạng của quần chúng và công tác cán bộ có mối quan hệ "cán bộ xây dựng phong trào, phong trào đẻ ra cán bộ đó là quy luật khi nói về cán bộ".
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phong trào Cách mạng là do quần chúng nhân dân sáng tạo, nhằm xoá bỏ cái cũ, cái lạc hậu để xây dựng cái mới, cái tiến bộ phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Phong hoạt động cách mạng của quần chúng và công tác cán bộ có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Phong trào Cách mạng quần chúng là cái nôi sản sinh, nuôi dưỡng, rèn luyện tốt cán bộ cho Đảng. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì không xây dựng và duy trì được phong trào Cách mạng của quần chúng và cũng không thể có phong trào Cách mạng sôi nổi liên tục nếu không có đội ngũ cán bộ tốt. Cán bộ có đầy đủ bản lĩnh và năng lực sẽ thúc đẩy phong trào đi lên. Vì vậy muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì khi tiến hành công tác cán bộ thì phải lấy cán bộ trưởng thành từ phong trào Cách mạng quần chúng để đào tạo, bồi dưỡng, nhiệm vụ vào cương vị của tổ chức.
3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ dựa trên cơ sở giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Coi sự nghiệp Cách mạng là của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất chính trong giai đoạn hiện nay. Giáo dục chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là giáo dục cho giai cấp công nhân viên chức, lao động nắm được triết học Mác- Lênin, chỉ cho giai cấp công nhân về hoạt động đấu tranh giai cấp và quy luật vận động phát triển đồng thời dạy cho giai cấp công nhân biết quản lý Nhà nước, kinh tế chủ nghĩa cộng sản khoa học, dạy cho giai cấp công nhân các phương pháp đấu tranh giành chính quyền và giữ chính quyền.
3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng nắm công tác cán bộ là nguyên tắc.Vì Đảng là đội tiên phong của giai cấp thống trị xã hội, mà cán bộ Đảng là vai trò then chốt có tính quyết định trong việc thực hiện đường lối của giai cấp cho nên Đảng nắm công tác cán bộ và quản lý cán bộ là một nguyên tắc không thể thay đổi. Những chủ trương chính sách, đánh giá bố trí, sử dụng, điều động, khen thưởng, kỷ luật cán bộ do cấp uỷ Đảng có thẩm quyền quyết định, nghiêm túc chấp hànhcác quyết định của cấp uỷ về cán bộ và công tác cán bộ, cá nhân chấp hành quyết định của tập thể, tổ chức Đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức Đảng cấp trên.
III. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn.
1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng.
Để góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì hoạt động công đoàn cần có sự đổi mới mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng. Để đáp ứng với tình hình đất nước thì việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cần được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, vừa mang ý nghiã chiến lược, tạo nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ, vừa nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn, thực hiện nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
* Đào tạo: Là việc tổ chức giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn việc giáo dục đạo đức nhân cách với việc cung cấp các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nhằm chuẩn bị cho người học thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định. Có nhiều loại hình đào tạo như: Đào tạo tập trung, đào tạo tại chức, đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn…
- Đào tạo lại: Những người đã được đào tạo, song do quá trình phát triển của xã hội, của công nghệ mới và yêu cầu của tiến trình sản xuất công tác sẽ phải đào tạo thêm một số học phần để hoàn chỉnh kiến thức nâng cao trình độ đáp ứng nhu cầu đặt ra.
- Tự đào tạo: Là quá trình tự thân vận động để lĩnh hội kiến thức hoặc tham gia hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút ra những kinh nghiệm. Một người đang tham gia hình thức đào tạo kiến thức nào cũng phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo thì mới đạt kết quả đào tạo. Những người có nhu cầu và khẳ năng học tập mà không có khẳ năng đến trường lớp, có thể tự đào tạo các chương trình “ đào tạo từ xa”, “ tự học có hướng dẫn”, qua các phương tiện thông tin đại chúng… hoặc tự mình tìm kiếm học tập để nâng cao trình độ.
* Bồi dưỡng: Là tăng cường thêm về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm để nâng cao chất lượng, nâng cao năng lực sản xuất, công tác cho người học. Thời gian tổ c._.hức bồi dưỡng thường ngắn hơn so với đào tạo. Đối tượng tham gia học tập đã có ít nhiều về ngành nghề chuyên môn nhất định. Các dạng bồi dưỡng là: Bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng, bồi dưỡng chuyên đề…
2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ và cán bộ Công đoàn.
Mỗi người cán bộ là một tấm gương cho quần chúng noi theo về lòng trung thực với lý tưởng XHCN, về tính tổ chức và tính kỷ luật nghiêm ngặt nhất, về nhiệt tình cách mạng sôi nổi, say sưa trong công tác. Điều đó đòi hỏi bản thân mỗi cán bộ những nỗ lực thường xuyên và lớn nhất, một tinh thần trách nhiệm nghiêm túc trong việc tự trau dồi, rèn luyện để không ngừng nâng cao kiến thức ngang tầm đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ. Việc nâng cao trình độ kiến thức cho cán bộ, Đảng viên là điều hết sức cần thiết. Thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ được nâng cao trí tuệ, hiểu biết quy luật vận động, nắm bắt được thực tiễn.
Thực tế đã khẳng định trình độ học vấn, trình độ chính trị và trình độ giác ngộ cách mạng của cán bộ càng cao thì chất lượng của cán bộ đó càng cao. Do đó mọi cán bộ không kể cương vị công tác như thế nào, không kể là cán bộ lâu năm hay cán bộ mới đều phải nỗ lực học tập.
Vấn đề cán bộ giữ một vị trí quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nói riêng, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển luôn lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Vì vậy Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp cách mạng ở mỗi giai đoạn.
Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chiến lược cán bộ: Nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp về chủ nghĩa Mác- Lênin và tưởng Hồ Chí Minh, về quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, về xây dựng Đảng, về quản lý Nhà nước theo cơ chế mới. Từ nay đến năm 2005, phần lớn cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao cấp về lý luận và có kiến thức Đại học về một chuyên ngành nhất định.
Nghị quyết số 05/NQ-TLĐ ngày 30 tháng 11 năm 2000 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã đặt ra phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong đó có nội dung về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn như sau:
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn nhằm tập trung nâng cao trình độ cho lực lượng cán bộ đang hoạt động, nhất là cán bộ Công đoàn ở cơ sở, cán bộ Công đoàn không chuyên trách, cán bộ Công đoàn ngoài quốc doanh. Đồng thời chuẩn bị đội ngũ cán bộ Công đoàn cho lâu dài.
- Đào tạo cán bộ Công đoàn những năm tới phải căn cứ vào sự phát triển của tổ chức, nhu cầu cán bộ, quy hoạch cán bộ, yêu cầu chuẩn bị cán bộ chủ chốt, giữ nguồn trong các kỳ Đại hội. Phải phân loại cán bộ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ để có hình thức đào tạo thích hợp. Hàng năm phải có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp, nhất là cán bộ chuyên trách. Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ ngắn ngày, tạo điều kiện cho tất cả cán bộ Công đoàn không chuyên trách, từ uỷ viên ban chấp hàng Công đoàn trở lên, nhất là cán bộ mới tham gia hoạt động ban chấp hành Công đoàn lần đầu, được tập huấn về nội dung và phương pháp hoạt động Công đoàn.
- Mỗi cán bộ Công đoàn phải có kế hoạch tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.
3. Tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ Công đoàn.
* Về công tác cán bộ:
Dự thảo các văn kiện Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ về thực trạng và chiến lược cán bộ như sau:
Trình độ kiến thức và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu của thời kỳ mới; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm, một số tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước để xãy ra những mâu thuẫn với nhân dân, chậm được giải quyết, gây bất bình trong nhân dân; tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa tốt.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng đã đặt ra chiến lược cán bộ: Xây dựng cho được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới, trước hết là đội ngũ cốt cán của Đảng và Nhà nước các cấp, đặc biệt là ở cấp chiến lược, thực sự vững vàng về chính trị, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng phải làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị đội ngũ cán bộ lâu dài; hàng năm có đánh giá, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch.
Đổi mới việc đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở dựa vào tiêu chuẩn, chú trọng cả phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực trí tuệ và hoạt động thực tiễn của cán bộ, lấy hiệu quả công tác làm thước đo chủ yếu; có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm, theo một quy trình chặt chẽ dựa vào nhân dân để nhân dân giới thiệu, góp ý và giám sát cán bộ…
* Về công tác Công đoàn:
Hội nghị ban chấp hành Công đoàn Tổng liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ 5- khoá VIII đã thảo luận báo cáo đoàn chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về tình hình cán bộ Công đoàn; công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong thời gian qua và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn trong thời gian qua. Trong đó ghi rõ: “ Đội ngũ cán bộ Công đoàn đều trưởng thành từ phong trào công nhân và Công đoàn, có nhiệt tình tâm huyết, được quần chúng tín nhiệm. Là những người có phẩm chất đạo đức, tin tưởng, biết vận dụng đường lối quan điểm của Đảng và phong trào công nhân, hoạt động Công đoàn. Có tránh nhiệm luôn cố gắng trong nhiệm vụ được giao, gắn bó với tổ chức Công đoàn, gắn bó với người lao động, được đào tạo về chuyên môn, chính trị, công tác Công đoàn, tích cực học tập nâng cao trình độ mọi mặt, bước đầu thích ứng với điều kiện hoạt động Công đoàn trong nền kinh tế thị trường. Đội ngũ cán bộ Công đoàn đã giữ vững vai trò quyết định đẩy mạnh phong trào công nhân và hoạt động phong trào Công đoàn trong thời gian qua, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước”.
Dự thảo văn kiện Đại hội IX của Đảng đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; trước tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Những điều đó đặt ra cho tổ chức Công đoàn nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất và kiên định để đáp ứng yêu cầu mới.
Đội ngũ cán bộ Công đoàn bao gồm cán bộ lãnh đạo và cán bộ thực hiện, cán bộ chuyên trách và không chuyên trách công tác Công đoàn.
Cán bộ lãnh đạo ở các cấp Công đoàn được bầu cử dân chủ từ dưới lên hoặc do bổ nhiệm. Trong đó, một bộ phận chuyên trách Công đoàn, còn phần lớn hoạt động không chuyên trách, thực hiện vai trò đại diện cho người lao động theo nhiệm kỳ và sự tín nhiệm của quần chúng.
- Cán bộ thực hiện chủ yếu là cán bộ chuyên trách ở các cơ quan Công đoàn, làm công tác phong trào, chuyên môn, nghiệp vụ…
- Ngoài ra còn có lực lượng công nhân viên chức chuyên nghiệp phục vụ trong các cơ quan Công đoàn.
4. Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
Nghị quyết số 05/NQ-TLĐ khoá VIII ngày 30 tháng 11 năm 2000 đã đưa ra phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ Công đoàn như sau:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức trong thời kỳ mới. Từ đó, phải xây dựng một đội ngũ cán bộ Công đoàn chuyên trách đủ về số lượng có trình độ, năng lực, phẩm chất, có bản lĩnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn.
- Quán triệt quan điểm về giai cấp công nhân, quan điểm về công tác cán bộ nữ của Đảng trong xây dựng độ ngũ cán bộ và công tác cán bộ Công đoàn.
Nâng cao giác ngộ giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào Công đoàn để lựa chọn cán bộ, đào tạo cán bộ Công đoàn.
- Công tác cán bộ phải thực hiện đồng bộ các mặt từ tuyển chọn, bố trí, phân công công tác, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đánh giá, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu và thực hiện chính sách cán bộ.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn là trách nhiệm của cấp Đảng và Nhà nước, của các cấp Công đoàn và của mỗi người cán bộ. Hết sức tôn trọng việc tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của mỗi cán bộ Công đoàn, kết hợp chặt chẽ giữa tự học tập, hoăc ở trường và tự học tập rèn luyện trong thực tiễn công tác.
- Đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ, sự phân cấp quản lý cán bộ của Đảng trong hệ thống. Đồng thời phát huy trách nhiệm và quyền của tổ chức Công đoàn theo luật pháp. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
5. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn trong thời gian tới, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn đuợc đặt ra như sau.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ Công đoàn trong thời kỳ mới. Đảm bảo đủ nguồn cán bộ cho mỗi kỳ đại hội Công đoàn các cấp.
- Từng bước nâng cao chất lượng cán bộ Công đoàn về mọi mặt, đặc biệt là tiêu chuẩn cán bộ về trình độ chuyên môn công tác Công đoàn và kỹ năng hoạt động Công đoàn, đảm bảo cán bộ Công đoàn có đủ tầm đáp ứng yêu cầu của Đảng, của Công đoàn trong giai đoạn cách mạng mới.
IV. công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò, Nhiệm vụ của công đoàn và Cán bộ công đoàn.
Trong nhiều bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, đặc biệt là những bài nói chuyện của Người ở Trường cán bộ Công đoàn năm 1957, huấn thị của Người tại hội nghị cán bộ Công đoàn năm 1959 và bài nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn Việt Nam (7.1969) đã thể hiện rất rõ những quan điểm của Người về tổ chức Công đoàn và cán bộ Công đoàn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là:
- Công đoàn phải tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta là của giai cấp công nhân Việt Nam. Không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, “Đảng mà không có giai cấp công nhân thì cũng không làm được gì”. Bởi thế Công đoàn phải hiểu và tuyên truyền sâu rộng chính sách chung của Đảng trong hàng ngũ giai cấp công nhân. Công đoàn phải giáo dục cho giai cấp công nhân thái độ của người làm chủ nước nhà, làm cho công nhân phải hiểu được rằng “tương lai của công nhân và tương lai của xí nghiệp phải dính liền”(13) . Công nhân phải bảo vệ chế độ của ta, phải hiểu lao động là vẻ vang, phải tự nguyện, tự giác giữ kỷ luật lao động, giữ gìn của công, chống tham ô lãng phí. Cải thiện sinh hoạt phải dựa trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Công tác giáo dục phải gắn với nhiệm vụ cụ thể, tránh chung chung chính trị suông.
- Công đoàn phải vận động quần chúng lao động tham gia xây dựng nề kinh tế quốc dân.
13. Hồ Chí Minh – tuyển tập NXB sự thật 1960, trang 611.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, từ sản xuất nhỏ, từ hai bàn tay trắng đi lên nên còn khó khăn rất nhiều và lâu dài, cho nên Công đoàn cần thấy hết tình hình khách quan đó mà ra sức vận động công nhân, lao động sản xuất, đi đôi với thực hành tiết kiệm, vượt mọi khó khăn để xây dựng CNXH. Trên cơ sở đó cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của giai cấp công nhân nói riêng và nhân dân nói chung.
- Muốn cho phong trào Công đoàn mạnh cần có cán bộ Công đoàn tốt.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ Công đoàn phải là người hiểu biết sản xuất, đời sống, nguyện vọng của công nhân viên chức; phải hiểu chính sách của Đảng, phải hiểu về quản lý kinh tế khoa học kỹ thuật. Cán bộ Công đoàn “ Phải giỏi cả về chính trị, thạo về kinh tế”(14) thì mới lãnh đạo được đội ngũ công nhân ngày càng phát triển lại có trình độ cả về tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật. “cán bộ Công đoàn phải tham gia lao động gần gũi với công nhân, viên chức”(15)phải biết dựa vào quần chúng, phát huy sức sáng tạo của quần chúng, học tập kinh nghiệm của quần chúng…thì mới làm tròn được nhiệm vụ của mình.
- Cán bộ Công đoàn phải là trung tâm của đoàn kết, phải có trách nhiệm cao, vì lợi ích giai cấp, vì lợi ích cách mạng. “Muốn giáo dục tốt công nhân, trước hết đội ngũ Công đoàn phải đoàn kết nhất trí”(15)phải là nòng cốt của khối đoàn kết trong hệ thống Công đoàn, phải làm gương cho công nhân noi theo.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về Công đoàn và cán bộ Công đoàn đến nay vẫn là định hướng quý báu cho sự phát triển tổ chức Công đoàn và cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn nước ta.
2. Những yêu cầu khách quan đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Sự tác động của kinh tế thị trường làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu, thành phần, quan hệ, tâm lý trong công nhân lao động.
- Mối quan hệ chủ thợ trong quan hệ lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, liên doanh đặt ra những vấn đề mới về vai trò của tổ chức Công đoàn trong mối quan hệ ba bên.
13, 14, 15. Hồ Chí Minh tuyển tập NXB sự thật Hà Nội 1960, trang 814.
- Sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nâng cao về số lượng, chất lượng đội ngũ giai cấp công nhân và mở rộng phạm vi đối tượng vận động của tổ chức Công đoàn.
- Sự phát triển với tốc độ cao của khoa học công nghệ ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao trình độ mọi mặt của công nhân, lao động nhất là đổi mới tư duy, nhận thức về lợi ích và nghĩa vụ.
- Sự đổi mới về kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị đặt ra những vấn đề mới về sự đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo cuả Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị – xã hội nhằm tạo nên sự đồng bộ của hệ thống chính trị của đất nước.
- Điều kiện hoạt động của Công đoàn (Về kinh phí, thời gian, vật chất, cơ cấu cán bộ…) là thách thức lớn đối với tổ chức Công đoàn.
3. Công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn hiện nay.
+ Về số lượng:
Lực lượng cán bộ Công đoàn của chúng ta bao gồm: Cán bộ Công đoàn chuyên trách và cán bộ Công đoàn không chuyên trách. Hiện nay toàn hệ thống Công đoàn có gần 7000 cán bộ Công đoàn chuyên trách và khoảng 280000 cán bộ Công đoàn không chuyên trách. Như vậy, số lượng cán bộ Công đoàn không chuyên trách chiếm rất ít ( 2,4%) so với tổng số cán bộ Công đoàn trong hệ thống, nhưng đây là lực lượng đóng vai trò hết sức quan trọng cần được đào tạo toàn diện những kiến thức về kinh tế và các cơ quan đơn vị.
Đội ngũ cán bộ Công đoàn không chuyên trách có đặc thù là luôn có sự thay đổi, thậm chí thay đổi rất nhanh vì vậy phải nghiên cứu hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với đặc thù này.
+ Về chất lượng:
Hội nghị lần thứ ba ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt Nam khoá VII đã xác định tiêu chuẩn chung của cán bộ Công đoàn là: Có quan điểm chính trị vững vàng, nhiệt tình công tác Công đoàn; có kiến thức về quản lý kinh tế – xã hội, luật pháp, hiểu biết về chuyên môn ngành nghề, nắm vững lý luận, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Công đoàn, có năng lực hoạt động thực tiễn; trung thực, được quần chúng tín nhiệm.
Ngoài những tiêu chuẩn chung ra, mỗi loại cán bộ có những tiêu chuẩn riêng theo yêu cầu đòi hỏi của vị trí công tác như chức năng nghiệp vụ mà người đó đảm nhận, như:
- Cán bộ lãnh đạo: Phải là những người được rèn luyện trưởng thành từ phong trào quần chúng, được quần chúng tín nhiệm lựa chọn. Có năng lực quản lý và chỉ đạo, có khả năng quy tụ đoàn kết đội ngũ cán bộ.
Cán bộ thực hiện: Phải đảm bảo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ. Có trình độ chuyên sâu theo chuyên sâu theo chuyên đề công tác. Có năng lực tổ chức nghiên cứu, tổ hợp và hướng dẫn trong phạm vi chuyên đề công tác.
Trong mỗi loại cán bộ, yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ giữa các cấp Công đoàn cũng có những đòi hỏi khác nhau. Cán bộ lãnh đạo Công đoàn cấp trên đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn cán bộ lãnh đạo Công đoàn cấp dưới. Theo hướng dẫn 1064/ TLĐ ngày 6/9/1996 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quy định:
- Cán bộ lãnh đạo Tổng liên đoàn, liên đoàn lao động tỉnh, Thành phố, Công đoàn ngành Trung ương cần có trình độ Đại học chuyên môn, nghiệp vụ và cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận và nghiệp vụ công tác Công đoàn trở lên; có khả năng tham gia xây dựng chủ trương và hướng dẫn công tác Công đoàn trong phạm vi hoạt động của mình.
- Cán bộ lãnh đạo Công đoàn cấp trên cơ sở cần có trình độ Đại học chuyên môn, nghiệp vụ, trụng cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận và nghiệp vụ công tác Công đoàn trở lên.
- Chủ tịch Công đoàn cơ sở cần có trình độ Đại học hoặc ít nhất phải có trình độ trung cấp chuyên môn nghiệp vụ hoặc tay nghề bậc cao, được bồi dưỡng cơ bản về lý luận chính trị, lý luận nghiệp vụ công tác Công đoàn trở lên.
Đội ngũ cán bộ Công đoàn hiện nay hầu hết đều trưởng thành từ phong trào công nhân và Công đoàn, có nhiệt tình, tâm huyết được quần chúng tín nhiệm. Là những người có phẩm chất đạo đức, tin tưởng biết vận dụng đường lối của Đảng và phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn, tích cực học tập nâng cao trìng độ mọi mặt, từng bước thích nghi với điều kiện hoạt động Công đoàn trong nền kinh tế thị trường. ở một số cấp Công đoàn đội ngũ cán bộ Công đoàn đã được trẻ hoá.
Trình độ văn hoá chuyên môn nghiệp vụ được năng cao rõ rệt. Theo thống kê tính đến tháng 1 năm 2002 cho kết quả như sau:
Lực lượng cán bộ xuất thân từ công nhân: 45%
Độ tuổi bình quân của cán bộ Công đoàn : 45tuổi.
Qua biểu thống kê nhận thấy chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp tuy đã được nâng lên nhưng nhìn chung chưa được đồng đều, trình độ mọi mặt chưa cao. Đặc biệt đội ngũ cán bộ Công đoàn có trình độ Đại học còn quá thấp (0,4%) do đó sẽ có nhiều khó khăn trong hoạt động Công đoàn. Vì vậy cần chủ động công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, coi đó là một mặt hoạt động của tổ chức Công đoàn và là nhiệm vụ thường xuyên của Công đoàn các cấp.
Bên cạnh những mặt đạt được công tác cán bộ Công đoàn hiện nay còn bộc lộ một số mặt yếu cần khắc phục, đó là: Chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn tuy đã được nâng lên, nhưng nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ công tác Công đoàn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nền kinh tế thị trường. Cán bộ Công đoàn còn lúng túng trong công tác quản lý mới, số cán bộ Công đoàn có trình độ Đại học còn ít, hạn chế về hiểu biết kinh tế xã hội, pháp luật, ngoại ngữ, tin học, số ít còn ngại học, thậm chí đã có biểu hiện mất dân chủ, quan liêu và vi phạm kỷ luật, cán bộ Công đoàn vừa thừa vừa thiếu, tâm lý không muốn làm cán bộ Công đoàn, nhất là Công đoàn cơ sở còn phổ biến.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa kịp đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ, không kịp thời bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, chủ chốt nhất là cán bộ Công đoàn cơ sở, chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn, đấu tranh chống tiêu cực khiến cho nhiều cán bộ chưa an tâm với công tác Công đoàn.
Để đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã thông qua hệ thống trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong cả nước. Trong quá trình trưởng thành và phát triển 55 năm, Trường Đại học Công đoàn đã tạo được hàng vạn cán bộ Công đoàn ở các trình độ từ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, Đại học thể hiện qua bảng sau.(Sơ đồ: 1).
Sơ đồ 1: Sơ đồ hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Công đoàn
Tổng LĐLĐ Việt Nam
(Đoàn chủ tịch)
Ban tổ chức
Tổng LĐLĐ.
Trường ĐHCĐ.
Phân hiệu ĐHCĐ phía Nam.
Trung tâm bồi dưỡng CBCĐ miền Trung.
LĐLĐ Tỉnh, Thành phố.
CĐ ngành TW.
Ban tổ chức
(Bộ phận đào tạo)
Trường cán bộ Công đoàn.
Khoa đoàn thể trường hành chính tỉnh.
Trung tâm bồi dưỡng CBCĐ.
- Trung tâm đào tạo hướng nghiệp, giới thiệu việc làm.
Công đoàn cơ sở
Các lớp bồi dưỡng cán bộ Công đoàn cơ sở.
Việt Nam.
Biểu 1: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn tại trường Đại học Công đoàn.
Năm
Số lượng cán bộ Công đoàn đào tạo ở các khoá lớp
ĐH tập trung
ĐH tại chức
ĐH phần
ĐH dự bị
Hoàn chỉnh kiến thức ĐH
Cao cấp chính trị
Chuyên đề sau ĐH
Bồi dưỡng ngắn hạn
1996 - 1997
260
1242
77
32
196
-
-
1997 - 1998
291
1493
148
-
352
-
-
1998 - 1999
394
1927
139
-
-
-
-
10603
1999 - 2000
423
1752
293
-
133
135
-
6298
2000 - 2001
496
1670
520
-
133
135
-
7300
2001 - 2002
411
468
377
-
133
96
-
9400
Nguồn: Phòng đào tạo Trường Đại học Công đoàn.
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Trường Đại học Công đoàn đã phát triển nhanh chóng về quy mô và loại hình đào tạo. Chính vì vậy, Trường Đại học Công đoàn Việt Nam đã lập nhiều thành tích xuất sắc, tiếp tục khắng định vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ Công đoàn, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Đến nay, lưu lượng sinh viên hệ Đại học là cán bộ Công đoàn hàng năm là 2500 cán bộ, tăng gấp 7 lần so với 10 năm trước, hệ bồi dưỡng tập huấn gần 1 vạn cán bộ/ năm.
Ngoài ra, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam còn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn tại các trường, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Liên đoàn lao động Tỉnh, Thành phố, Công đoàn ngành Trung ương và các lớp đào tạo, bồi dưỡng khác.
Nhìn chung, những năm qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đã đạt nhiều kết quả như: Nâng cao trình độ, năng lực và phương pháp hoạt động cho cán bộ Công đoàn khi mới bước vào kinh tế thị trường góp phần to lớn vào việc đổi mới hoạt động Công đoàn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, những yêu cầu mới đặt ra cho tổ chức Công đoàn Việt Nam, cho cán bộ Công đoàn là rất nặng nề và là một thách thức lớn. Do đó, việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn cần được nghiên cứu, thực hiện tích cực và có hiệu quả đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phần thứ hai
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn của Công đoàn ngành đường sắt việt nam nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
i. quá trình hình thành và phát triển ngành đường sắt việt nam.
Giao thông vận tải đường sắt là một trong những ngành kinh tế giao thông ra đời sớm nhất nước ta. Mặc dù sự hình thành ngành đường sắt gắn liền với quá trình khai thác, bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp và luôn được các thế lực thống trị sử dụng như một công cụ, phương tiện phục vụ đắc lực cho ý đồ xâm lược, cai trị của chúng. Song, ngay từ lúc hình thành tà vẹt và thang ray đầu tiên đặt xuống đất này thì đường sắt cũng gắn với mồ hôi công sức và xương máu của các thế lực lao động Việt Nam và trở thành một sản phẩm lịch sử của đất nước Việt Nam.
Vượt ra ngoài ý muốn chủ quan của thực dân, đế quốc, giao thông vận tải đường sắt đã trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội – văn hoá của Việt Nam.
Lịch sử hình thành phát triển ngành đường sắt Việt Nam gắn liền với lịch sử giải phóng, xây dựng bảo vệ đất nước suốt thời kỳ cận – hiện đại hơn một trăm năm. ở bất kỳ thời điểm nào của lịch sử dân tộc, đường sắt càng hiện diện và khẳng định vị trí xứng đáng cho đời sống kinh tế – văn hoá đất nước. Sức sống của đường sắt phản ánh sức sống của dân tộc, và ngược lại, sức sống của dân tộc không thể thiếu đóng góp quan trọng của ngành đường sắt.
Đường sắt Việt Nam sau những năm đổi mới: trong bước đi ban đầu của quá trình đổi mới, giao thông vận tải dường sắt là một trong những ngành kinh tế mang tính đặc thù có phạm vi hoạt động rộng, phần lớn tài sản, phương tiện gần như nằm ngoài trời, trải suốt từ Bắc tới Nam, cơ sở vật chất cũ nát, qua hai cuộc kháng chiến không được đầu tư nâng cấp, đội ngũ công nhân viên chức lao động ( trên 6 vạn người), vận tải đường sắt mang tính xã hội cao, một số tuyến đường sắt được xây dựng trước đây chủ yếu phục vụ dân sinh chưa tính tới yếu tố kinh doanh, nay ít khách, ít hàng nhưng vẫn phải duy trì yêu cầu dân sinh, kinh tế.
Cho đến nay hơn một thế kỷ qua, cùng với năm tháng các tuyến đường sắt ngày càng vươn dài, trải rộng khắp các miền đất nước. Dọc theo các tuyến đường sắt đã mọc lên các tụ điểm dân cư ( các thị trấn, thị xã, tỉnh lị…) đã hình thành những “điểm dừng”, “ điểm đỗ”, những ga chính, ga xép, trạm cơ khí, sửa chữa dầu máy, toa xe. Những địa danh như: Hàng cỏ, Gia Lâm, Tràng thi, Tháp chùa, Dĩ An… đã trở thành những địa danh lịch sử khắc sâu trong tâm trí của những người dân Việt Nam. Đường sắt Việt Nam dã có những nhà ga, những con tàu khang trang, sạch đẹp, chất lượng phục vụ tốt; mỗi nhà ga đang trở thành những trung tâm văn hoá, thương mại, trật tự trên tàu…
Hơn một thế kỷ qua, hàng chục vạn chuyến tàu theo các cung đường đã đan dệt dọc ngang các miền đất nước, tạo nên sự giao lưu kinh tế văn hoá ngược xuôi Nam Bắc. giao thông vận tải đường sắt như một mạch máu khổng lồ đã góp phần tạo nên sức sống của nền kinh tế đất nước, góp phần xoá bỏ tình trạng ngăn cách, khép kín giữa các địa phương còn bị trói buộc bởi kinh tế trợ cấp, tự túc. Do đó mà hình thành ngày càng đậm nét thị trường dân tộc, gắn bó tình cảm cộng đồng, thống nhất quốc gia dân tộc.
Trải qua một thời gian dài, quá trình hình thành và phát triển đến nay ngành đường sắt Việt Nam có tên gọi là Liên hiệp Đường sắt Việt Nam.
Trụ sở chính hiện nay đóng tại: 118 – Lê Duẩn – Hà Nội. Liên hiệp Đường sắt có các tổ chức Đảng, đoàn thể như sau:
- Đảng uỷ đường sắt.
- Công đoàn ngành đường sắt.
- Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đường sắt Việt Nam có 4 khối ngành sản xuất kinh doanh chính là:
- Khối vận tải.
- Khối công nhiệp.
- Khối xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng.
- Khối kinh doanh, dịch vụ, trường học.
ii. tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động của Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
1. Đặc điểm tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động của Liên hiệp đường sắt Việt Nam.
Đường sắt Việt Nam là một ngành kinh tế kỹ thuật, một ngành sản xuất vật chất đặc biệt có tính đặc thù, mang tính độc lập cao, nằm trong hệ thống vận tải giao thông cả nước. Đòi hỏi chỉ huy thống nhất, tập trung cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị và hàng vạn công nhân trong ngành. Là một doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh vừa phục vụ các ngành khác, chịu trách nhiệm quản lý và khai thác toàn bộ mạng lưới đường sắt trong cả nước, cung cấp các dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách cũng như các dịch vụ khác. Đường sắt Việt Nam là một ngành có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, phát triển văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh…của đất nước.
Đội ngũ công nhân, viên chức, lao động của ngành rất đa dạng và phong phú cả về trình độ văn hoá, trình độ tay nghề, bậc thợ công nhân…những công nhân viên chức, lao động của ngành chủ yếu là những chức danh chuyên ngành như: Công nhân lái tàu, trực ban, trưởng tàu, nhân viên trên tàu, trưởng phó ga, duy tu cầu đường… công nhân cơ khí, sửa chữa, thợ hàn, thợ tiện, thợ bào, thợ phay …
Về trình độ tay nghề của công nhân nhìn chung là thấp, một số công nhân bậc thợ cao được phân công theo lĩnh vực ngành nghề; trong đó ngành vận tải chiếm ưu thế hơn về công nhân kỹ thuật.
Đầu những năm 90 do có sự chuyển đổi về cơ cấu kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã có tác động trực tiếp đến lực lượng lao động của ngành. Mặc dù vậy, ngành đã chủ động sắp xếp lại các lao động, đồng thời mở rộng sản xuất kinh doanh khối công nghiệp dịch vụ để tạo việc làm cho những lao động dư dôi, trong quá trình sắp xếp lao động, số lao động phải giảm không đáng kể.
Cụ thể hiện tại:
- Khối vận tải: 232 người
- Khối cơ sở hạ tầng: 108 người
- Khối xây dựng cơ bản: 11 người
- Khối dịch vụ: 6 người
- Riêng khối công nghiệp tăng 9 người
Hiện nay lược lượng lao động được tinh giảm, gọn nhẹ, nâng cao năng suất lao động, đồng thời mở rộng các hoạt dộng sản xuất kinh doanh đặc biệt là dịch vụ tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập công nhân viên chức, lao động của ngành.
Liên hiệp đường sắt Việt Nam trực thuộc Bộ giao thông vận tải, trực tiếp quản lý 03 xí nghiệp liên hiệp vận tải khu vực 1,2,3 và 27 đơn vị doanh nghiệp độc lập được thành lập theo quyết định 338 của Chính phủ với tổng số 42.162 cán bộ công nhân viên chức sống và làm việc rải rác, phân tàu, lưu động trải dài từ Bắc và Nam theo 3160 km đường sắt, trên 6 tuyến đường sắt trên cả nước với nhiều ngành nghề khác nhau được chia thành các hệ sau: Hệ vận tải, hệ xây lắp, hệ công nghiệp, hệ dịch vụ và phục vụ, hệ cơ sở hạ tầng.
Hiện ngành đang quản lý và khai thác 3160 Km đường sắt, 5443 toa xe, 439 đầu máy, 352 ga, 1767 cầu với tổng chiều dài 71439 m, 39 hầm với tổng chiều dài 11468 m.
Ngành đường sắt Việt Nam được Đảng và Nhà nước giao cho quản lý khai thác một tài sản lớn về con người và của cải, trong những năm trước đây sống trong cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, cơ sở vật chất của ngành càng xuống cấp, người lao động thiếu việc làm, năng suất thấp, kỷ cương trật tự, tác phong công nghiệp ngày một giảm sút. Tác động tiêu cực xã hội vào đời sống ngày càng nghiêm trọng, lương tâm nghề nghiệ._. công khai. Tập hợp lãnh đạo từng cấp Công đoàn căn cứ và tiêu chuẩn cán bộ và kết quả công tác thực tế của cán bộ để đánh giá về phẩm chất, năng lực, trình độ, sức khoẻ, tuổi đời. Khi đánh gá cần kết hợp đánh giá cán bộ với nhận xét của cơ quan quản lý cán bộ. Khi đánh giá là phân chia cán bộ thành các loại: Số có triển vọng giao nhiệm vụ cao hơn, số hoàn thành tốt tiếp tục giữ cương vị hiện tại lâu hơn, số cần bồi dưỡng thêm để đảm đương tốt nhiện vụ, số phải điều chỉnh, thay thế do sức khẻo, năng lực, tuổi cao.
Kết quả đánh giá phân loại cán bộ dựa vào sự giới thiệu của cán bộ lãnh đạo đương chức, cơ quan tổ chức và quần chúng thông qua việc thăm dò, lấy phiếu tín nhiệm, tập thể lãnh đạo từng cấp Công đoàn có trách nhiệm trực tiếp lựa chọn và quyết định chính sách cán bộ dự bị của cấp mình.
Danh sách cán bộ cần xây dựng lại được phân thành hai loại:
Một là, các cán bộ dự bị có đủ điều kiện thay thế cho cán bộ đương chức từ nay đến Đại hội Công đoàn các cấp và Đại hội IX Công đoàn Việt Nam.
Hai là, cán bộ trẻ có nhiều triển vọng để đào tạo lâu dài kế cận cho các chức vụ lãnh đạo của năm tiếp theo.
Mỗi chức danh cán bộ lãnh đạo đương chức cần chuẩn bị từ hai đến ba cán bộ dự bị cho yêu cầu thay thế ngay, có thể chọn cấp phó thay thế cho cấp trưởng hoặc cấp dưới một cấp, nhưng phải đảm bảo tiêu chuẩn và độ tuổi khi đảm nhận chức vụ còn công tác được ít nhất 5 năm trở lên. Cán bộ dự bị cho lâu dài có thể chọn riêng nhưng khi đảm nhận chức vụ phải có tuổi đời còn công tác ít nhất 10 năm trở lên.
3. Nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ Công đoàn.
Nâng cao trình độ cho cán bộ Công đoàn nói chung, cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam nói riêng là nhu cầu không thể thiếu được trong quá trình chuyển đổi. Hàng năm phải có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán bộ Công đoàn các cấp, nhất là cán bộ chuyên trách, từ uỷ viên ban chấp hành Công đoàn trở lên, nhất là cán bộ mới tham gia hoạt động ban chấp hành Công đoàn lần đầu được tập huấn nội dung và phương pháp hoạt động Công đoàn.
Mỗi cán bộ Công đoàn phải có kế hoạch tự học tập, bồi dưỡng rèn luyện để nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.
Phân công cán bộ Công đoàn cấp trên, hoặc mời cán bộ Công đoàn làm công tác đào tạo đến giảng từng chuyên đề. Làm công tác tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động Công đoàn, hoặc các Trường trung cấp Công đoàn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định hoặc các trung tâm bồi dưỡng cán bộ.
Xây dựng các quy định, quy chế phân cấp quản lý và đào tạo quy định, tuyển chọn cử cán bộ đi học, quy định chế độ chính sách ưu đãi đối với công nhân, cán bộ Công đoàn đã có thành tích trong quá trình hoạt động, ưu tiên thi tuyển đối với cán bộ Công đoàn vùng sâu, vùng xa, khu vực ngoài quốc doanh. Đánh giá việc sử dụng cán bộ sau đào tạo phải được tiến hành hàng năm.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam được quy định như sau:
- Công đoàn các Tổng công ty chịu trách nhiệm chính về công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ Công đoàn các cở sở thành viên trực thuộc Tổng công ty.
- Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam chịu trách nhiệm bồi dưỡng nghiệp vụ và các chuyên đề cần thiết cho Chủ tịch, Phó chủ tịch Công đoàn các Công ty, xí nghiệp, các Công đoàn cơ sở trực thuộc và xét chọn cán bộ gửi đi đào tạo, trong cả nước và nước ngoài.
- Công đoàn có chính sách khuyến khích cán bộ Công đoàn học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và đào tạo lại như: Trợ cấp cho cán bộ đi học, sử dụng cán bộ sau khi học xong.
- Nâng cao trí tuệ cho cán bộ nói chung, cán bộ Công đoàn nói riêng là việc làm hết sức thiết thực. Trong quá trình hội nhập, giao lưu mở cửa, chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Cơ chế thị trường chuyển dịch cơ cấu kinh tế buộc mỗi con người phải đối mặt với nhiều vấn đề cuả xã hội với những hạn chế yếu kém của bản thân. Chỉ có thể nắm bắt được kinh tế thị trường, điều khiển được nó khi có đủ kiến thức và năng lực. Do đó việc học tập thường xuyên luôn là nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi người nói chung và của cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam nói riêng.
Mỗi cán bộ Công đoàn phải có kế hoạch tự học tập, bồi dưỡng để rèn luyện, để nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… Có như vậy mới phù hợp từng người và mang lại hiệu quả thiết thực. Mỗi người phải tự soi mình và tiêu chuẩn bố trí cho mình thời gian học tập thích hợp. Học tập nâng cao nhận thức, trình độ phải trở thành nhu cầu tự thân, tự giác thường xuyên của mỗi cán bộ Công đoàn các cấp của ngành. Cán bộ phải là gương cho công nhân viên chức học tập noi theo.
4. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với từng đối tượng.
Công đoàn ngành đã phân lại đối tượng Công đoàn chuyên trách, bán chuyên trách, cán bộ chủ chốt để xây dựng nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, Công đoàn ngành phải kết hợp với Trường Đại học Công đoàn để nắm chắc chương trình, nội dung đào tạo cho phù hợp với đối tượng đã phân loại quy hoạch.
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn của ngành cần đáp ứng được yêu cầu mục tiêu là: Cán bộ Công đoàn vừa là nhà hoạt đông xã hội, vừa là nhà quản lý kinh tế – xã hội vừa là nhà hoạt đông Công đoàn.
+ Với đào tạo chính quy: Tuyển chọn cán bộ gửi đi đào tạo dài hạn (4 năm) tại Trường Đại học Công đoàn theo các chuyên ngành như quản trị kinh doanh và Công đoàn, quản trị kinh doanh, bảo hộ lao động, xã hội học…Xuất phát từ tình hình cán bộ của ngành thì các cán bộ gửi đi đào tạo dài hạn phải có hướng chọn từ các xí nghiệp Công ty Công đoàn có sở trực thuộc (những cán bộ này nhất thiết phải nằm trong diện quy hoạch kế cận).
+ Với Công tác bồi dưỡng cán bộ Công đoàn các ngành: Tập trung bồi dưỡng cho những cán bộ đương chức có trình độ Đại học chuyên môn mới được bầu vào làm chủ tịch Công đoàn. Những chủ tịch Công đoàn không chuyên trách, những uỷ viên ban chấp hành Công đoàn ngành trung ương và Công đoàn của các liên hiệp xí nghiệp, Công đoàn cơ sở nên bồi dưỡng theo các chuyên đề mà hiện nay Trường Đại học Công đoàn đang tập huấn theo các Công đoàn ngành và Liên đoàn lao động địa phương với các chuyên đề sau:
- Phương pháp hoạt động của cán bộ Công đoàn trong nền kinh tế thị trường.
- Công tác tuyên truyền công nhân, viên chức lao động.
- Bồi dưỡng công tác tổ chức cán bộ.
- Phương pháp hoạt động của Chủ tịch Công đoàn và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh.
- Bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
- Bồi dưỡng kiến thức pháp luật (Luật lao động, Luật Công đoàn, Luật doanh nghiệp), những bộ luật, pháp luật của Nhà nước ban hành.
- Bồi dưỡng kỹ năng hoạt động Công đoàn: Kỹ năng đàm phán ký kết thoả ước lao động tập thể, hướng dẫn giao kết hợp đồng lao động, giải quyết tranh chấp lao động, phương pháp thuyết phục vận động quần chúng gia nhập vào tổ chức Công đoàn.
Bồi dưỡng phương pháp đối thoại, nghệ thuật giao tiếp ứng xử với người lao động, người sử dụng lao động.
Trên đây là những nội dung cần thiết phải bồi dưỡng cho cán bộ Công đoàn của ngành, đặc biệt là những cán bộ ở các xí nghiệp mà trong thực tế họ rất lúng túng về phương pháp hoạt động Công đoàn.
Với đặc thù của ngành đường sắt nằm dài trên toàn quốc. Do đó Công đoàn ngành phải tăng cường các lớp đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày với số lượng học viên vừa phải. Ưu tiên mở lớp tại chỗ cho cán bộ Công đoàn vùng sâu,vùng xa, khu vực ngoài quốc doanh không có điều kiện đi học tập trung.
Tổ chức các hình thức hội thảo, hội nghị chuyên đề nhằm trau dồi kinh nghiệm hoạt động và đổi mới các phương thức hoạt động trong các tổ chức Công đoàn trong ngành. Xây dựng các mô hình, điển hình văn hoá. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các cấp Công đoàn và chính quyền, tranh thủ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và các hoạt động thực tiễn của các cấp của Công đoàn.
5. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng.
Là một ngành có địa bàn hoạt động rộng trên phạm vi toàn quốc, được phân bổ trên tất cả các vùng, lãnh thổ, thành phố, đồng bằng, miền núi xa xôi. Đặc điểm của ngành đường sắt Việt Nam là sản xuất kinh doanh đặc thù, vì vậy căn cứ vào đặc điểm của ngành, tình hình sản xuất kinh doanh của cơ sở để có hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
- Hình thức đào tạo dài hạn: Đối với cán bộ trẻ, nhiệt tình tâm huyết với công tác Công đoàn, những công nhân ưu tú, nằm trong diện quy hoạch, kế cận lâu dài.
- Đào tạo tại chức: Tuỳ theo từng điều kiện hoạt động của từng đơn vị, địa bàn đơn vị đóng để cử cán bộ đi học Đại học tại chức mở ở các Liên đoàn lao động địa phương.
- Đào tạo ngắn hạn: Đào tạo Đại học phần lý luận nghiệp vụ Công đoàn cho cán bộ Công đoàn các cấp. Đây là một hình thức đào tạo phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam hiện nay.
- Công đoàn ngành chọn những đối tượng cán bộ Công đoàn cơ sở, cấp trên cơ sở có trình độ trung cấp chuyên môn theo học lớp Đại học phần lý luận nghiệp vụ Công đoàn. Trong thời gian một tháng tập trung hoặc hai tháng tập trung một lần, mỗi lần 20 ngày, học 9 học phần theo quy định chuyên ngành Quản trị kinh doanh và Công đoàn của Trường Đại học Công đoàn.
Đào tạo theo hình thức Đại học phần lý luận, nghiệp vụ Công đoàn là hình thức thuận lợi cho người học. Phù hợp với tổ chức và đặc điểm, thời gian cho Công đoàn ngành và cơ sở nhất là Công đoàn ở các doanh nghiệp sản xuất.
6. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng.
Để có kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng phải có nguồn kinh phí phục vụ cho công tác này. Do đó, Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam chủ động trong việc xây dựng kinh phí từ nhiều nguồn như:
- Nguồn kinh phí đào tạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
- Nguồn kinh phí do cơ sở đóng góp.
Ngoài ra có thể có nhiều nguồn kinh phí của các tổ chức quốc tế tài trợ.
7. Tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch các cán bộ.
Công tác quy hoạch cán bộ phải được thực hiện thường xuyên và đồng bộ ở tất cả các cấp Công đoàn trên các mặt công việc sau:
* Tạo nguồn cán bộ:
Việc tạo nguồn cán bộ Công đoàn phải xem xét trước tiên từ đội ngũ công nhân, viên chức lao động thông qua phong trào quần chúng ở cơ sở phát hiện, lựa chọn các cá nhân điển hình tiên tiến có nhiệt tình, năng khiếu hoạt động Công đoàn để bồi dưỡng cán bộ trở thành cán bộ Công đoàn. Cần xác định rõ lực lưỡng cán bộ Công đoàn không chuyên trách là nguồn bổ sung cho lực lượng cán bộ chuyên trách, cán bộ Công đoàn cấp dưới là nguồn bổ sung cho cán bộ Công đoàn cấp trên. Đối với cán bộ nghiệp vụ trong cơ quan Công đoàn, có thể xem xét, tuyển chọn từ các cán bộ, chuyên gia giỏi, tổ chức thi tuyển từ các sinh viên tốt nghiệp Đại học chuyên ngành.
* Xây dựng tiêu chuẩn và tuyển chọn cán bộ Công đoàn.
Căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, công chức mà Đảng đã quy định và yêu cầu cụ thể của từng chức danh cán bộ Công đoàn, ngoài tiêu chuẩn chung cần có tiêu chuẩn đối với cán bộ bầu cử, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ quản lý, tiêu chuẩn cán bộ Công đoàn ở các cấp khác nhau…Việc tuyển chọn cán bộ làm công tác Công đoàn phải được tiến hành trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ và thông qua bầu cử hoặc thông qua thi tuyển ( với cán bộ làm chuyên môn quản lý ) theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước, Tổng liên đoàn. Phải thống nhất quy định về tiêu chuẩn bầu cử, tiêu chuẩn chức danh cán bộ Công đoàn các cấp và quy định thi tuyển cán bộ Công đoàn.
* Xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch cán bộ.
Hàng năm, các cấp Công đoàn phải tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Dự báo nhu cầu cán bộ của cấp mình để có kế hoạch bổ sung thay thế. Chuẩn bị lực lượng cán bộ, giữ nguồn bổ sung cho các cấp Công đoàn và các cấp uỷ Đảng, và Nhà nước khi cần. Đồng thời đánh giá kết quả công tác, quy hoạch cán bộ để bổ sung, điều chỉnh. Tổ chức các lớp bổ túc, cho những cán bộ được lựa chọn để có điều kiện thi vào trường Đại học Công đoàn.
* Đề bạt cán bộ.
Việc đề bạt cán bộ chủ yếu thực hiện ở cơ quan Công đoàn ngành và cán bộ chuyên trách.
- Bộ máy tổ chức và lãnh đạo các ban văn phòng thực hiện theo nghị quyết thường vụ.
- Việc đề bạt một số chức danh tăng cường cho các ban văn phòng chỉ thực hiện khi có chủ trưởng của ban thường vụ.
+Thường vụ xét và để bạt trưởng phó ban, chánh phó văn phòng và có trách nhiệm báo cáo với ban thường vụ trong kỳ họp gần nhất.
+ Khi cần bổ sung phó ban, phó văn phòng ( cấp phó ) ban tổ chức dự kiến giới thiệu người, trưởng ban được giới thiệu vào chức danh cấp phó của ban mìmh. Ngoài ra thủ trưởng cơ quan có thể mở rộng đối tượng giới thiệu người vào chức danh cần bổ sung trong cơ quan để thường vụ thường trực xét quyết định bổ nhiệm giới thiệu bằng phiếu kín.
Đối với cán bộ Công đoàn ở các đơn vị xí nghiệp, ở các đơn vị trực thuộc, trước khi xét quyết định bổ nhiệm, tăng cường công tác cán bộ cho cơ quan
Công đoàn ngành phải trao đổi ý kiến với cấp uỷ cơ sở và thường vụ Công đoàn với cán bộ công tác.
+ Đối với chuyên viên đang công tác ở cơ quan Công đoàn ngành trước khi quyết định bổ nhiệm thì thủ trưởng cơ quan trao đổi với cấp uỷ và Công đoàn cơ quan. Nếu cần có thể tổ chức tham khảo ý kiến rộng rãi; hình thức, đối tượng tham khảo ý kiến do thủ trưởng cơ quan quyết định, nhưng phải đảm bảo tập trung dân chủ và trách nhiệm của thủ trưởng trong công tác cán bộ; việc lấy ý kiến tham khảo bằng phiếu kín.
Ban tổ chứ tổng hợp lập hồ sơ, tờ trình rồi trình thừơng vụ, thường trực.
8. Củng cố kiện toàn công tác quản lý cán bộ.
Nêu cơ sở các quy định của Trung ương Đảng và chính phủ về công tác cán bộ. Phải cụ thể hoá bằng những quy định phù hợp với điều kiện và tình hình quản lý cán bộ Công đoàn để áp dụng trong toàn thể hệ thống. Bao gồm: Những quy định về phân cấp quản lý cán bộ Công đoàn; tuyển chọn cán bộ, nâng ngạch và chuyển ngạch; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đánh giá cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ, quản lý hồ sơ cán bộ Công đoàn là cơ sở để thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng cán bộ, phục vụ tốt cho công tác quy hoạch cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ Công đoàn.
9. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn nhằm tập trung nâng cao trình độ cho những cán bộ đang hoạt động, nhất là cán bộ Công đoàn ở cơ sở, cán bộ Công đoàn không chuyên trách, cán bộ Công đoàn ngoài quốc doanh, đồng thời chuẩn bị đội ngũ cán bộ Công đoàn lâu dài.
Đào tạo cán bộ Công đoàn những năm tới phải căn cứ vào sự phát triển của tổ chức, nhu cầu cán bộ, quy hoạch cán bộ, yêu cầu chuẩn bị cán bộ chủ chốt, dự nguồn trong các kỳ Đại hội. Phải phân loại cán bộ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ để có hình thức đào tạo thích hợp. Hàng năm phải có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp nhất là cán bộ chuyên trách. Mở các lớp tập huấn cán bộ ngắn ngày, tạo điều kiện cho cán bộ Công đoàn không chuyên trách, từ uỷ viên ban chấp hành Công đoàn cơ sở trở lên nhất là cán bộ mới tham gia ban chấp hành Công đoàn lànn đầu, được tập huấn về nội dung và phương pháp hoạt động Công đoàn.
Củng cố tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo trong hệ thống Công đoàn. Trước mắt cần thống nhất chỉ đạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn từ Công đoàn ngành trung ương đến Công đoàn cơ sở.
Có kế hoạch đầu tư nâng cao chất lượng giảng viên trong hệ thống Công đoàn ngành, đảm bảo năng lực cho cán bộ Công đoàn xứng đáng là nguời cán bộ Công đoàn giỏi trong hoạt động quản lý, hoạt động kinh tế và họat động Công đoàn.
Xây dựng đội ngũ Đảng viên kiêm chức là cán bộ Công đoàn có trình độ năng lực và kinh nghiệm ở các Liên đoàn lao động Tỉnh, Thành phố và các Công đoàn ngành Trung ương để làm công tác tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động Công đoàn.
Xây dựng các quy định, quy chế để quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong toàn hệ thống như: Quy định phân cấp quản lý và phân cấp đào tạo, quy định tuyển chọn, cử cán bộ đi học, quy định chế độ khuyến khích đối với công nhân, cán bộ Công đoàn có thành tích trong quá trình học tập. Ưu tiên thi tuyển cán bộ Công đoàn vùng sâu, vùng xa, khu vực ngoài quốc doanh…Đưa vào nền nếp công tác xây dựng, thực hiện kế hoạch và báo cáo kịp thời và công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, đánh giá việc sử dụng cán bộ sau đào tạo hàng năm ở các Công đoàn xí nghiệp, Công đoàn cơ sở, Công đoàn ngành Trung ương. Hàng năm phải có kế hoạch tăng cường nguồn lực, đầu tư khoảng 10% đến 19% nguồn tài chính Công đoàn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí cho đào tạo cho cán bộ Công đoàn ở các cấp.
Nghiên cứu đáp ứng phương pháp giảng dạy tích cực để cán bộ vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, vừa đóng góp giải pháp thực tiễn, làm phong phú thêm lý luận và kỹ năng nghiệp vụ Công đoàn.
10. Tổ chức thực hiện chế độ chính sách chế độ.
Chính sách cán bộ Công đoàn là một bộ phận trong chính sách chung của Đảng và Nhà nước. Công đoàn ngành và các cấp Công đoàn cần thực hiện đúng, đầy đủ chính sách chung cho cán bộ Công đoàn thuộc trách nhiệm quản lý của mình đồng thời có các chế độ đãi ngộ thích hợp cho cán bộ Công đoàn trong lĩnh vực cụ thể để khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ Công đoàn hoạt động như:
*Thực hiện nâng lương thường xuyên hàng năm.
- Việc xét nâng lương thường xuyên, hàng năm đối với cán bộ Công đoàn chuyên trách thực hiện theo thông tư hướng dẫn số 03/ TCCP-BCTL ngày 11/3/1996 của Bộ trưởng- Trưởng ban tổ chức Chính phủ và hướng dẫn số 739/ TLĐ ngày 15/6/1996 của Đoàn chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
- Việc phân cấp: Quyết định lương, thực hiện theo văn bản số 1225/TLĐ ngày 12/9/1994 của Đoàn chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam cụ thể như sau:
Lương ngạch chuyên viên, cao cấp từ hệ số 4,92 trở lên: Công đoàn ngành xét đề nghị Tổng liên đoàn và Tổng liên đoàn xét đề nghị ban tổ chức Trung ương quyết định.
Lương ngạch chuyên viên cán sự nhân viên và các trường hợp do Tổng liên đoàn uỷ quyền thì Công đoàn ngành quyết định.
* Phụ cấp trách nhiệm và chính sách cán bộ:
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch, Trưởng phó ban Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam thực hiện theo văn bản số 684/TLĐ ngày 24/8/1993 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
+ Chủ tịch, Phó chủ tịch Công đoàn chuyên trách Tổng Công ty thực hiện theo văn bản số 145/TLĐ ngày 28/12/1996 của Đoàn chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam:
- Chủ tịch Công đoàn chuyên trách ở các cơ sở, doanh nghiệp hưởng lương chuyên viên nghiệp vụ cộng với phụ cấp chênh lệch để bằng lương Phó giám đốc, Phó chủ tịch Công đoàn chuyên trách hưởng lương chuyên viên, nghiệp vụ và được phụ cấp chức vụ bằng mức phụ cấp trách nhiệm của Trưởng phòng doanh nghiệp.
- Chủ tịch Công đoàn chuyên trách ở các đơn vị sự nghiệp cơ quan được hưởng phụ cấp chức vụ bằng phụ cấp chức vụ Phó giám đốc. Phó chủ tịch Công đoàn chuyên trách được hưởng phụ cấp chức vụ bằng mức phụ cấp chức vụ Trưởng phòng.
- Những doanh nghiệp có biên chế chuyên trách nhưng Chủ tịch Công đoàn không thực hiện chuyên trách thì Chủ tịch Công đoàn được hưởng phụ cấp trách nhiệm bằng 10% lương cấp bậc, chức vụ đang làm do doanh nghiệp chi trả.
- Những doanh nghiệp chưa đủ tiêu chuẩn bố trí cán bộ chuyên trách thì Chủ tịch Công đoàn được hưởng một khoản trợ cấp trách nhiệm từ 0,3 – 0,5 mức lương tối thiểu và do cơ sở chi trả.
- Cán bộ được hưởng phụ cấp trách nhiệm, khi thôi giữ chức vụ đó không được bảo lưu hệ số phụ cấp chức vụ.
III. Một số đề xuất, kiến nghị với nhà nước, tổng liên đoàn lao động, Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
1. Đối với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
- Cần xây dựng các đề án kế hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong thời kỳ tới, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng và ban hành chính sách bảo vệ cán bộ Công đoàn, tạo nguồn kinh phí cho Công đoàn này được phát triển thêm nữa.
2. Đối với Trường Đại học Công đoàn.
- Cần phối hợp chặt chẽ với Công đoàn ngành trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam tại trường, phối hợp mở các lớp Đại học tại chức, đào tạo ngắn ngày, các lớp bồi dưỡng mở tại cơ sở của ngành. Cung cấp tài liệu giáo trình hỗ trợ giảng viên cho Công đoàn ngành trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn.
3. Đối với Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
- Công đoàn ngành tiến hành rà soát lại trình độ tiêu chuẩn của cán bộ Công đoàn từ tổ trưởng Công đoàn đến Công đoàn ngành. Trên cơ sở quy định của ban tổ chức Trung ương, pháp lệnh công chức, quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, của ngành về công tác cán bộ và kết quả khảo sát lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Những cán bộ không đủ tiêu chuẩn về trình độ thì yêu cầu bắt buộc phải phẩn đấu vươn lên hoặc bố trí công việc khác cho phù hợp.
- Phân cấp rõ ràng và giao trách nhiệm cụ thể hơn cho các cấp Công đoàn trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn hàng năm.
- Cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi tay nghề, thi cán bộ Công đoàn giỏi cho tất cả cán bộ Công đoàn từ cấp thường vụ Công đoàn cơ sở trở lên, qua đó đánh giá được thực chất cán bộ Công đoàn để từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
- Đầu tư thêm kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng với nguồn trích từ ngân sách của Công đoàn và huy động từ các nguồn khác.
Qua quá trình thực tập, nghiên cứu đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành đường sắt Việt Nam, có thể nói rằng ngành đường sắt đã rất thành công trong việc tìm ra hướng đi thích hợp cho mình để tồn tại và phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã làm cho bộ máy tổ chức, hoạt động Công đoàn; thu nhập của cán bộ, công nhân, viên chức và lao động cùng lợi nhuận của Ngành tăng lên rõ rệt. Những kết quả đó có phần đóng góp không nhỏ của tổ chức Công đoàn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, ngành đường sắt vẫn có một số mặt còn tồn tại. Mong rằng những ý kiến đề xuất trên sẽ góp phần khắc phục những hạn chế đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nâng cao công tác Công đoàn, thúc đẩy hoạt động sản suất kinh doanh của ngành ngày càng phát triển và thành công hơn nữa trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn.
Kết luận
" Công tác đào tạo , bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" là một đề tài mang tính chất tổng quát cao, nghiên cứu trong phạm vi toàn ngành. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp hiện nay và đối với Công đoàn đường sắt Việt Nam.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu không nhiều nội dung đề tài đề cập đến quá lớn, phạm vi rộng. Trong khi đó trình độ năng lực của bản thân còn hạn chế, vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến chỉ dẫn, đóng góp của các nhà hoạt động thực tiễn, các thầy giáo, cô giáo, các đồng chí làm công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy Nguyễn Anh Tuấn – Giảng viên, Phó trưởng khoa Công đoàn- Trường Đại học Công đoàn cùng tập thể cán bộ công nhân viên ngành đường sắt Việt Nam, Khoa Công đoàn, Phòng đào tạo Trường đại học Công đoàn đã giúp đỡ em hoàn thiện khoá luận này.
Hà Nội, Tháng 5 năm 2003.
SVTH: Phạm Hoài Phương
Tài liệu tham khảo
1. Những vấn đề về chủ nghĩa Mác - LêNin, NXB Sự thật.
2. LêNin toàn tập Tiếng Việt T44.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật, Hà Nội 1981.
4. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Sự thật, Hà Nội 2002.
5. Hồ Chí Minh về công tác Cán Bộ, NXB Sự thật, Hà Nội 1997.
6. Nghị quyết Trung Ương 3 khoá VIII.
7. Văn kiện đại hội Công đoàn lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam.
8. Nghi quyết 3B TLĐLĐVN khoá VII.
9. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH- HĐH Đất nước.
10. Những hiểu biết cần thết đối với Cán Bộ Công đoàn, NXB LĐ HN 1999.
11. Giáo trình lý luận và nghiệp vụ Công đoàn 3 tập, NXB Lao Động 1999.
12. Nghị quyết 05/TLĐ Ban chấp hành TLĐ khoá VIII.
13. Báo cáo số 53/TLĐ và 1064/TLĐ về tình hình cán bộ Công đoàn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công đoàn.
14. Báo cáo tóm tắt một số vấn đề đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công đoàn trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, mã số 98/86/TLĐ.
15. Các báo cáo tổng kết công tác Công đoàn ngành, Công đoàn cơ sở trực thuộc ngành đường sắt Việt Nam từ năm 1997 đến 2002.
16. Nghị quyết số 01/NQ của Ban chấp hành Đảng uỷ Đường sắt Việt Nam ngày 02/01/2002.
….
Mục lục
Nội dung
Trang
Lời nói đầu
01
Phần thứ nhất
Những vấn đề lý luận cơ bản về cán bộ, công tác cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân, Cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1. Giai cấp công nhân theo quan điểm của Mác-Lênin.
04
2. Vị trí, tầm quan trọng của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
5
3. Chủ nghĩa Mác-Lênin về tiêu chuẩn cán bộ
6
4. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý cho cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên.
7
II. Quan điểm của Chủ tịch hồ chí minh và của đản cộng sản việt nam về cán bộ và công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
1. Tầm quan trọng của cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
2. Những quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
9
3. Những quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
12
III. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn.
1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng.
15
2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ và cán bộ Công đoàn.
16
3. Tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ Công đoàn.
18
4. Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
20
5. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
21
IV. công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò, Nhiệm vụ của công đoàn và Cán bộ công đoàn.
22
2. Những yêu cầu khách quan đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
23
3. Công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn hiện nay
24
Phần thứ hai
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn của Công đoàn ngành đường sắt việt nam nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
i. quá trình hình thành và phát triển ngành đường sắt việt nam.
30
ii. tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động của Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
1. Đặc điểm tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động của Liên hiệp đường sắt Việt Nam.
2. Hệ thống tổ chức và hoạt động của công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
35
3. Các mặt họat động Công đoàn trong thời gian qua.
37
III. thực trạng đội ngũ cán bộ Công đoàn hiện nay và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
1. Về cơ cấu số lượng.
43
2. Về trình độ cán bộ Công đoàn.
45
3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt.
49
4. Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
55
5. Đánh giá kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
65
Phần thứ ba
Phương hướng, biện pháp và những đề xuất, kiến nghị nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
70
I.phương hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam trong những năm tới.
71
I. những biện pháp nâng cao.
2. Nắm vững mục tiêu, phương hướng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
73
3. Nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ Công đoàn.
78
4. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với từng đối tượng.
80
5. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng.
82
6. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng.
7. Tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch các cán bộ.
83
8. Củng cố kiện toàn công tác quản lý cán bộ.
9. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn.
85
10. Tổ chức thực hiện chế độ chính sách chế độ.
87
III. Một số đề xuất, kiến nghị với nhà nước, tổng liên đoàn lao động, Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam.
1. Đối với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
88
2. Đối với Trường Đại học Công đoàn.
89
3. Đối với Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam.
89
Nhận xét của cơ sở thực tập
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0081.doc