Mục lục
Phụ lục 82
Lời mở đầu
Trên công cuộc đổi mới với xu hướng hội nhập toàn cầu hoá trên thế giới. Chính sách bảo hiểm xã hội càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, hoàn thiện nhằm phù hợp với điều kiện mới. Chúng ta đã biết chính sách bảo hiểm xã hội là công cụ bảo vệ hữu hiệu của người lao động, góp phần bảo vệ người sử dụng lao động trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường, đồng thời nó còn có vai trò tích cực đối với sự phát triển của xã hội.
Có thể nói cô
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở cơ quan bảo hiểm xã hội Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tác chi trả là khâu cuối cùng của công tác giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội có liên quan trực tiếp đến người lao động. Chỉ có chi trả nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ đến tay người lao động mới đảm bảo được quyền lợi của người lao động cũng như phát huy hết vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội. Trong công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội thì thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn được coi là trọng tâm. Mà phần lớn nguồn kinh phí được dùng để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn. Do vậy, cần phải có sự xem xét tình hình thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn, qua đó mới rút ra những mặt đã làm được và chưa làm được để từ đó mà đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác này. Xuất phát từ mục đích đó mà em đã chọn đề tài: “ Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở cơ quan bảo hiểm xã hội Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của đề tài ngoài Lời mở đầu và Kết luận gồm có ba chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm xã hội và Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Chương II. Thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở cơ quan bảo hiểm xã hội Vĩnh yên - Tỉnh Vĩnh phúc
Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Em xin chân thành cảm ơn cảm ơn cô Th.s Tô Thiên Hương cùng sự giúp đỡ của các cô, các chú tại cơ quan BHXH Vĩnh Yên -Tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp em hoàn thành bài viết của mình. Tuy nhiên, do đây là lần đầu em được làm quen với công việc thực tế, nên không thể tránh được những khiếm khuyết và thiếu sót. Vì vậy, em kính mong được sự thông cảm của các cô, các chú trong cơ quan và em mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của cô giáo và các bạn.
Chương I: Tổng quan về Bảo hiểm xã hội và Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
I. Khái quát về Bảo hiểm xã hội
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xã hội
Theo Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 đã nêu “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) được hiểu là sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm gây ra bởi các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu... thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước.
BHXH là sự cần thiết khách quan không chỉ đối với người lao động, người sử dụng lao động mà nó còn là sự cần thiết khách quan của bất kỳ quốc gia nào. Để thấy rõ được điều đó có thể xem xét thông qua vai trò của BHXH như sau:
Đối với người lao động.
Con người sinh ra ai cũng cần phải có những nhu cầu thiết yếu để tồn tại và trưởng thành. Khi lớn lên thì cần phải lao động để nuôi sống bản thân và gia đình. Khi ốm đau cần được chăm sóc về y tế. Khi về già thì cần được nghỉ ngơi. Đời sống càng phát triển đồng nghĩa với người lao động gặp phải những rủi ro ngày càng cao. Những rủi ro đó không đơn thuần như ốm đau, tuổi già mà nó bao gồm các loại rủi ro khác nhau làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động. Trong trường hợp không may rủi ro xảy ra, không những người gặp phải rủi ro cần những nhu cầu thiết yếu mà còn phát sinh những nhiều cầu mới. Trước những rủi ro, con người luôn có nhiều biện pháp để giảm thiểu tổn thất, bù đắp những thiệt hại do nó gây ra. Có thể là dùng tiền tiết kiệm, đi vay, sự giúp đỡ của gia đình bè bạn.... Nhưng mỗi biện pháp lại gắn với những điều kiện nhất định mà không người nào cũng thoã mãn. Có một biện pháp mà không ai thể phủ nhận vai trò của nó đó là BHXH, BHXH đó là sự san sẻ rủi ro của số ít người tham gia BHXH cho số đông người tham gia. Đây là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ người lao động. Người lao động chỉ cần đóng một phần nhỏ thu nhập hàng tháng của mình vào quỹ tài chính chung, như vậy người lao động sẽ chủ động trước những rủi ro, trước những khoản thu nhập bị mất do rủi ro gây ra, nhanh chóng ổn định cuộc sống của mình và gia đình.
Đối với người sử dụng lao động.
Trong mối quan hệ giữa chủ sử dụng lao động với người lao động bao giờ cũng có sự mâu thuẫn. Mâu thuẫn về tiền lương, giờ làm, điều kiện làm việc... Sự mâu thuẫn này là mâu thuẫn nội tại bên trong. Người lao động nào cũng vậy ngoài vấn đề về tài chính họ cũng cần có sự quan tâm của người thuê sức lao động của mình. Khi rủi ro không may xảy ra với người lao động, không những người lao động lâm vào tình trạng khó khăn mà chính người sử dụng lao động cũng gặp nhiều khó khăn không kém. Khó khăn đó có thể là sản xuất kinh doanh bị gián đoạn ảnh hưởng đến năng suất lao đông, hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận... Chính vì vậy người sử dụng lao động tham gia BHXH là thể hiện sự quan tâm đối với người lao động. Đây chính là động lực thúc đẩy người lao động hăng say, sáng tạo hơn trong công việc, tăng năng suất, hiệu quả công việc.
Như vậy tham gia BHXH, người lao động không những được bảo vệ trước những rủi ro mà người sử dụng lao động cũng được an toàn hơn trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường.
Đối với Nhà nước.
Đứng trên quan điểm của Nhà nước, của những người hoạch định chính sách. Thì BHXH nằm trong hệ thống An sinh xã hội, An sinh xã hội bao gồm một loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội đối với các thành viên vủa mình. Mỗi nước đều xây dựng một hệ thống An sinh xã hội khác nhau, nhưng có hai điểm chung đó là:
Một là: An sinh xã hội là một trong những điều kiện đảm bảo cho xã hội phát triển lành mạnh.
Hai là: BHXH là bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống An sinh xã hội. Có thể nói không có BHXH thì không thể có một nền An sinh xã hội vững mạnh.
Ngoài ra, việc thực hiện chính sách BHXH còn tạo ra một quỹ tài chính tập chung do sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đây là nguồn tài chính tương đối lớn để phát triển kinh tế thông qua việc đầu tư nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Cũng chính BHXH giải quyết được mâu thuẫn nội tạng bên trong giữa người sử dụng lao động và người lao động. Đồng thời, BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, tạo sự công banừg trong xã hội. Góp phần ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Cũng có thể hiểu vai trò của BHXH dưới ba góc độ Kinh tế, Chính trị và Xã hội.
Xét về mặt Kinh tế: BHXH chính là bảo đảm thu nhập đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro. Đồng thời huy động đưộc một khoản tài chính lớn để đầu tư phát triển kinh tế.
Xét về mặt Chính trị: BHXH là sự liên kết giữa những người lao động xuất phát từ lợi ích chung tạo một nền xã hội ổn định là điều kiện cho một nền chính trị vững mạnh.
Xét về mặt Xã hội: BHXH là chính sách lớn của Nhà nước nhằm phân phối lại thu nhập tạo sự công bằng xã hội. Thông qua đó bảo vệ lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo sự ổn định xã hội.
Như vậy, sự ra đời của BHXH là mong muốn không chỉ của cá nhân, tập thể mà là sự mong muốn của toàn xã hội. Tất cả đều khẳng định vai trò quan trọng của BHXH trong cuộc sống. Do đó, ta có thể khẳng định sự ra đời của BHXH là sự tất yếu, là sự cần thiết khách quan.
2. Bản chất chức năng và tính chất của bảo hiểm xã hội
a. Bản chất của BHXH.
BHXH là sự tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi nền kinh tế xã hội phát triển đến một mức nào đó thì hệ thống BHXH sẽ được hình thành và phát triển. Hay nói cách khác có thể thông qua sự phát triển của hệ thống BHXH mà đánh giá sự phát triển của xã hội. Một xã hội phát triển cao, giàu có khi chính các thành viên trong xã hội đó được quan tâm và phát triển toàn diện thể hiện qua hệ thống BHXH.
Ta đã biết BHXH chính là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro không mong muốn làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Như vậy, bản chất của BHXH thể hiện ở một số nội dung sau đây:
Thứ nhất: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội. Khi nền kinh tế phát triển thì hệ thống BHXH ngày càng được hoàn thiện, hay nói cách khác kinh tế chính là nền tảng của BHXH.
Thứ hai: Bên trong BHXH có ba mối quan hệ. Người được BHXH (người lao động), Người tham gia BHXH (người lao động và người sử dụng lao động), tổ chức đúng ra nhận nhiệm vụ tổ chức quản lý hệ thống BHXH (thường là Nhà nước).
Thứ ba: Những rủi ro làm giảm, mất khả năng lao động mất việc làm là rủi ro ngẫu nhiên, không mong muốn của con người. Như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...Nhưng cũng có thể là những rủi ro không phải là ngẫu nhiên như tuổi già, ...
Thứ tư: Khi tham gia BHXH người lao động và người sử dụng lao động phải đóng góp một phần thu nhập để tạo lên quỹ tiền tệ tập chung nhằm trang trải cho những mất mát tổn thất cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Ngoài ra quỹ BHXH còn có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Thứ năm: Mục tiêu của BHXH được ILO cụ thể hoá là đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để họ đảm bảo nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, được chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật, xây dựng điều kiện sống phù hợp với nhu cầu của dân cư đặc biệt là người già, người tàn tật, và trẻ em.
b. Chức năng của BHXH
Xét một cách toàn diện thì BHXH có một số chức năng sau:
Thứ nhất: BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động, mất việc làm theo những điều kiện xác định.
Những điều kiện xác định ở đây là những điều kiện chắc chắn sẽ xảy ra như tuổi già, chết. Và những điều kiện không chắc chắn như ốm đau, mất việc làm, tai nạn. Đây chính là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế hoạt động của hệ thống BHXH .
Thứ hai: BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Quỹ BHXH có sự đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động. Theo quy luật số đông bù số ít BHXH sẽ phân phối lại theo cả chiều dọc và chiều ngang, phân phối lại giữa người giàu và người nghèo, người mạnh khoẻ đang đi làm với người đã nghỉ việc. Chức năng này thực hiện sự công bằng xã hội.
Thứ ba: Góp phần khuyến khích, kích thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động của xã hội.
Khi người sử dụng lao động tham gia BHXH cho người lao động, người lao động thực sự cảm thấy an tâm, gắn bó với công việc. Khi mạnh khoẻ, người lao động được trả lương, khi gặp rủi ro ốm đau, thai sản, khi về già được nhận trợ cấp. Từ đó, họ sẽ làm việc hăng say hơn, phát huy sự sáng tạo của cá nhân do vậy sẽ tăng năng suất lao động của cá nhân, kéo theo là tăng năng suất lao động xã hội.
Thứ tư: BHXH gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội.
BHXH giải quyết, điều hoà mâu thuẫn nội tại bên trong giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thông qua BHXH, cả hai bên đều nhận được lợi ích và cảm thấy được bảo vệ. Từ đó, họ sẽ gắn bó với nhau hơn. Còn phía Nhà nước khi thực hiện chính sách BHXH và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH. Công việc này đem lại hiệu quả vô cùng lớn đối với đất nước, nó không những góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trước những khó khăn gây ra bởi các rủi ro mà nó kéo theo một loạt các lợi ích khác đó là góp phần ổn định và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, chính trị, kinh tế.
c. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với người lao động là chính sách lớn của Nhà nước. Do vậy BHXH có một số tính chất cơ bản sau:
Một là: Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Qua vai trò chức năng của BHXH đã nói ở trên. Sự ra đời của BHXH là nhu cầu cần thiết khách quan, là sự tất yếu của bất kỳ xã hội nào. Cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, BHXH sẽ được hình thành và phát triển.
Hai là: BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian.
Rủi ro xảy ra đối với người lao động phát sinh một cách ngẫu nhiên theo thời gian và không gian. BHXH được hình thành để bù đắp tổn thất do những rủi ro ngẫu nhiên đó gây ra. BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành lên quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ...
Ba là: BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.
Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia, được quản lý chặt chẽ sử dụng đúng mục đích và được tính toán kỹ lưỡng và cụ thể. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để chi trả trợ cấp cho người lao động theo các chế độ BHXH với những điều kiện nhất định.Tuy phần đóng góp của người lao động là nhỏ song quyền lợi họ nhận được lại lớn hơn rất nhiều khi không may họ gặp phải rủi ro. Xét về mặt kinh tế, người lao động sẽ được bù đắp phần thu nhập bị mất và ổn định cuộc sống của họ cùng gia đình. Nhà nước sẽ giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, ngoài ra còn dùng số tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH để đi đầu tư phát triển kinh tế.
Về mặt xã hội, BHXH là chính sách xã hội lớn của Nhà nước. Với những lợi ích của BHXH đem lại việc thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Ngoài ra BHXH còn có tính dịch vụ thể hiện ở việc BHXH được thực hiện theo nguyên tắc “có đóng mới có hưởng”. Xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của BHXH ngày càng cao.
3. Đối tượng của bảo hiểm xã hội
a. Đối tượng của BHXH.
Chúng ta đã biết BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất do người lao động bị giảm hoặc bị mất việc làm, mất khả năng lao động vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn lao động, già yếu, thai sản...Chính vì vậy đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động có tham gia BHXH.
b. Đối tượng tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH bao gồm người lao động và người sử dụng lao động. Song tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà có quy định khác nhau về đối tượng tham gia BHXH. Người lao động có thể là tất cả mọi người lao động cũng có thể là một bộ phận người lao động nào đó. Người sử dụng lao động là các cá nhân, tổ chức, tập thể, Nhà nước... có thuê người lao động làm việc cho mình.
Các nước thường thực hiện hai loại hình BHXH đó là BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc. BHXH tự nguyện áp dụng đối với những người lao động tự do, thu nhập không ổn định. Còn lao động bắt buộc áp dụng cho các đối tượng làm công hưởng lương tại các tổ chức, doanh nghiệp nhất định.
Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH thì ngoài người lao động, người sử dụng lao động còn có cơ quan BHXH dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Cơ quan BHXH sẽ quản lý, sử dụng nguồn tài chính do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp đảm bảo thực hiện quyền lợi cho người lao động. Mối quan hệ này quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống BHXH.
4. Các quan điểm cơ bản của bảo hiểm xã hội
Xây dựng hệ thống BHXH phải dựa vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nước đồng thời thống nhất các quan điểm sau đây:
4.1 Chính sách BHXH là bộ phận cấu thành và quan trọng nhất trong chính sách xã hội.
Mục đích của BHXH nhằn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập do giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là một loại chính sách đối với con người, nó bảo vệ con người một cách toàn diện và hữu hiệu nhất. BHXH đáp ứng những nhu cầu hiển nhiên của con người, như nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn về lao động... Ngoài ra BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực kinh tế của một quốc gia. Tổ chức và thực hiện chính sách BHXH tốt sẽ là động lực thúc đẩy sự sáng tạo của cá nhân người lao động, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4.2 Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH cho người lao động.
Người lao động muốn ổn định sản xuất kinh doanh, ngoài việc quan tâm lựa chọn máy móc hiện đại, phù hợp để đưa vào sản xuất còn phải quan tâm đến trình độ tay nghề và đời sống của người lao động làm việc cho mình. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trả lương cho người lao động khi họ làm việc bình thường. Khi người lao động chẳng may gặp rủi ro trong đó có rất nhiều rủi ro gắn liền với điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp. Không ai khác chính người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với rủi ro mà người lao động có thể gặp phải. Do đó người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH cho chính người lao động của mình. Có như vậy, người lao động mới an tâm sản xuất, phát huy sự sáng tạo góp phần tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
4.3. Người lao động bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, nghề nghiệp, tôn giáo.
Có thể hiểu như sau BHXH được áp dụng đối với tất cả mọi người lao động. Mọi người lao động đều bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền hưởng trợ cấp BHXH. Khi không may, người lao động gặp phải rủi ro trước hết đó là sự rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu người lao động muốn được BHXH tức là được sự hỗ trợ của số đông người, dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì trước hết phải tự mình gánh chịu trực tiếp. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và lịc sử của mỗi quốc gia.
4.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố:
Tình trạng mất khả năng lao động
Tiền lương lúc đang đi làm
Tuổi thọ bình quân của Người lao động
Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH không được cao hơn hoặc bằng tiền lương lúc đi làm nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này không những thể hiện tính cộng đồng xã hội mà còn phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là trợ cấp thay thế tiền lương. Khi người lao động đi làm bình thường thì được trả lương. Khi bị ốm đau, thai sản, tuổi già không thể tham gia lao động được họ được nhận trợ cấp. Mặc dù khoản trợ cấp này không thể bằng tiền lương lúc đang đi làm nhưng nó góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Nếu trợ cấp này mà bằng với tiền lương hoặc cao hơn mức tiền lương đang đi làm thì chẳng người lao động nào muốn đi làm, và tích cực trong công việc mà họ chỉ muốn lợi dụng BHXH để hưởng trợ cấp. Như vậy, cần phải có những quy định thật hợp lý về mức hưởng sao cho vừa đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, vừa khuyến khích người lao động tích cực tìm việc làm và hăng say sản xuất.
4.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý vĩ mô chính sách BHXH, nếu không có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ bị phá vỡ.
Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình BHXH từ việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Cho đến việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách. Nếu ngân sách Nhà nước chịu trách nghiệm toàn bộ trong việc thực hiện các chế độ BHXH thì vai trò của Nhà nước là trực tiép và toàn diện. Nếu có sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước thì Nhà nước tham gia quản lý.
5. Các chế độ bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH có thể biểu hiện dưới nhiều dạng phong phú như các văn bản pháp quy, bộ luật, đạo luật, hiến pháp, kế hoạch của Nhà nước...Nhưng dù biểu hiện ở dạng nào thì chính sách BHXH sẽ khó có thể trở thành hiện thực nếu không thông qua các chế độ BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể chi tiết, là sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH cho người lao động. Các chế độ BHXH sẽ quy định một cách đầy đủ về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng của từng loại đối tượng tham gia.
Nói chung, hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm sau đây:
Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
Mỗi chế độ được chi trả đều phải căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức trợ cấp sẽ cao và ổn định.
Phần lớn các chế độ này là chi trả định kỳ
Đồng tiền làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội.
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ thì hệ thống BHXH có chín chế độ.
Chăm sóc y tế
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Tuỳ vào điều kiện của mỗi nước mà áp dụng các chế độ BHXH khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện ba chế độ và phải có một trong năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ được xây dựng theo quy định pháp luật của mỗi nước và phù hợp với tập quán cũng như điều kiện của mỗi nước.
Có thể chia chế độ BHXH làm hai loại đó là chế độ BHXH dài hạn và chế độ BHXH ngắn hạn. Đối với chế độ BHXH dài hạn, ILO đưa ra ba loại chế độ là: Hưu trí, Mất sức lao động vĩnh viễn, và Tử tuất.
Chế độ hưu trí:
Người lao động sẽ được hưởng Trợ cấp khi đủ ba điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của chế độ. Tuổi về hưu phải đặt ra cao ngang bằng điều kiện kinh tế xã hội cho phép. Nâng hoặc hạ tuổi nghỉ hưu phải dựa vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nước hoặc phải phụ thuộc vào điều kiện tài chính của quỹ BHXH.
Thứ hai: Nghỉ hưu đối với việc làm có thu nhập.
Thứ ba: Kết thúc thời gian định lượng. Thường là mười năm năm đến hai mươi năm đối với hưu trí cơ bản và thêm tỉ lệ phần trăm cho mỗi năm tăng thêm.
Có nhiều phương thức chi trả trợ cấp hưu trí ở các nước. Ví dụ:
ở Pháp: Mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức lương bình quân của 10 năm cao nhất, với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm.
ở Philipin: Mức trợ cấp hưu trí bằng 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với 4,2% - 120% tiền lương bình quân của 10 tháng lương.
ở Nhật Bản: Trả ngay một lần khi nghỉ hưu là 15 triệu Yên.
ở Mỹ: Mức trợ cấp hưu trí đồng nhất tối thiểu là 122 USD/tháng, tính trên thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu.
Chế độ mất sức lao động vĩnh viễn:
Thường đối với người lao động mất 2/3 khả năng lao động trở lên và phải được hội đồng y khoa xác nhận. Tỷ lệ hưởng trợ cấp của ILO là 40% thu nhập trước đây của một người đàn ông có vợ và hai con. Một số hệ thống bảo hiểm chấp nhận mất sức lao động từng phần đối với những người mất từ 1/3 khả năng lao động trở lên.
Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định mức trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phụ thuộc vào mức độ thương tật, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động, nhưng với điều kiện là không bị kỉ luật trong quá trình lao động hoặc không bỏ việc hay đình công. Mức trợ cấp có thể là một lần hoặc nhiều lần.
ở Anh: người lao động bị tai nạn lao động tạm thời được hưởng tám tuần, kể từ tuần thứ tám trở đi được hưởng trợ cấp 25 bảng một tuần cộng với 14,45 bảng cho vợ và 0,3 bảng cho con. Đối với trợ cấp dài hạn tối đa là 53,6 bảng /tuần cho mức thương tật là 100%.
ở Pháp: Người lao động bị tai nạn dẫn đến thương tật được trở cấp dài hạn. Nếu người lao động không thể tự kiếm sống thì được trợ cấp bằng 50% lương bình quân của 10 năm có lương cao nhất.
Chế độ tử tuất:
Cung cấp một phần thu nhập thay thế cho thành viên của gia đình người lao động được BHXH, hoặc người lao động đang hưởng trợ cấp BHXH thường xuyên khi gặp rủi ro chết.
Chế độ bảo hiểm phổ thông được chi trả từ thuế và dành cho tất cả mọi công dân và những người thường trú dài hạn.
Chế độ tử tuất gia đình có liên quan đến việc làm chỉ dành cho những người lao động. Người sử dụng lao động có thể chi trả chế độ này bằng cách thêm các quyền lợi trả vào tiền lương và cân đối phần chi trả này với quỹ BHXH.
Chế độ tử tuất gia đình có thể theo tỷ lệ thống nhất cho mỗi trẻ, hoặc có thể tăng hoặc giảm đến một con số tối đa nào đó. Chế độ này còn được kết hợp với chính sách dân số của Nhà nước.
6. Quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập chung, dùng để chi trả cho những người được hưởng BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động, mất việc làm.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng. Quỹ tiêu dùng được thể hiện ở mục đích chi trả của quỹ BHXH là cho những người hưởng BHXH, là một quỹ dự phòng thể hiện ở quỹ chi trả trợ cấp khi có rủi ro xảy ra và người lao động có thể được hưởng trợ cấp ở một thời điểm rất xa so với thời điểm đóng góp. Nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội cao đồng thời nó là điều kiện cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành không những giải quyết tổn thất do rủi ro gây ra cho người lao động, giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, đồng thời tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước và ngân sách gia đình.
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng nhìn chung nó đưộc hình thành từ các nguồn sau:
Người lao động đóng góp.
Người sử dụng lao động đóng góp.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
Các nguồn khác bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau:
Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo và phát triển quỹ BHXH.
Các nguồn tài trợ khác ở trong nước, ngoài nước và cộng đồng quốc tế (kể các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân hảo tâm).
Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo các quy định của Nhà nước.
Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu hoặc nhận thừa so với mức được hưởng.
Tuỳ vào điều kiện mỗi nước khác nhau mà quy định mức đóng, phương thức đóng là khác nhau.
Về phương thức đóng vẫn còn có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi của quỹ BHXH. Vì vậy mức đóng phải được tính toán một cách khoa học.
Về nguyên tắc phí BHXH được xác định theo công thức:
P= f1+f2+f3
Trong đó: P - phí BHXH.
f1- phí thuần tuý trợ cấp BHXH.
f2- phí dự phòng
f3- phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong một thời gian ngắn thường là một năm như các chế độ: ốm đau, thai sản... vì vậy số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng... Thì quá trình đóng và quá trình hưởng tương đối độc lập nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. Nếu không thực hiện được điều đó thì quỹ BHXH sẽ thâm hụt và tất yếu ảnh hưởng trực tiếp đến việc chi trả trợ cấp cho người lao động theo các chế độ không được đầy đủ và kịp thời.
Quỹ BHXH phải đảm nhận việc chi trả các khoản trợ cấp cho các chế độ BHXH mà hệ thống BHXH của mỗi nước quy định. Đây là khoản chi chủ yếu và lớn nhất. Ngoài ra còn chi cho bộ máy quản lý thực hiện như tiền lương, chi phí đào tạo, khấu hao tài sản cố định...Phần quỹ nhàn rỗi phải đem đi đầu tư sinh lời nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Việc đầu tư phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, có lợi nhuận, và có tính thanh khoản cao.
Ngoài ra, quá trình sử dụng quỹ để chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào.
Nếu quỹ BHXH được thành lập tập chung thống nhất thì việc chi trả cũng phải đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi.
Nếu quỹ BHXH được hình thành theo hai loại quỹ, quỹ ngắn hạn và quỹ dài hạn thì việc chi trả phải cụ thể hơn. Quỹ ngắn hạn dùng để chi trả cho các chế độ ngắn hạn phải được cân đối hàng năm. Quỹ dài hạn dùng để chi trả các chế độ dài hạn được cân đối trong nhiều năm.
Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ thì việc chi trả sẽ đơn giản hơn và quỹ BHXH cũng dễ cân đối hơn.
II. Công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội dài hạn
1. Vai trò của công tác chi trả và công tác quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn.
Công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Nhưng để thực hiện công việc này một cách nghiêm túc thì công tác quản lý phải được thực hiện một các nghiêm túc. Để thấy rõ điều đó ta xem xét vai trò của hai công tác này
a, Vai trò của công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn.
Chế độ BHXH là một chế độ pháp lý trong đó quy định đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời hạn hưởng...Thực hiện chi trả có thể coi là khâu cuối cùng của việc thực hiện chế độ. Trong đó chi trả các chế độ BHXH dài hạn là trọng tâm. Vì vậy, việc chi trả các chế độ BHXH dài hạn có vai trò quan trọng nhất. Không những nó mang vai trò của việc chi trả BHXH nói chung mà nó còn mang những vai trò riêng. Cụ thể:
- Thực hiện chi trả các chế độ BHXH đảm bảo cho chính sách BHXH được thực hiện, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của người lao động và mục đích của chính sách BHXH, của Nhà nước. Khi xác lập các chế độ BHXH, mục đích cuối cùng là chi trả trợ cấp._. cho người lao động trong những trường hợp nhất định. Đây cũng là nguyện vọng của những người lao động khi tham gia BHXH.
- Vì chi trả ba chế độ BHXH dài hạn là chi trả trợ cấp cho những rủi ro con người không mong muốn nhất. Nó có tác dụng góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao động trong dài hạn. Khi thực hiện chi trả các chế độ BHXH dài hạn sẽ có vai trò tích cực đối với chính người lao động cũng như đối với xã hội. Người lao động khi được hưởng trợ cấp các chế độ BHXH dài hạn sẽ gắn bó tin tưởng vào Nhà nước hơn. Còn đối với những người lao động đang đi làm sẽ tích cực tham gia BHXH, kích thích sự sáng tạo trong công việc, nâng cao năng suất cá nhân và hiệu quả kinh tế. Đồng thời góp phần ổn định xã hội gắn bó con người với nhau thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
- Chi các chế độ BHXH dài hạn đảm bảo cho quỹ BHXH được cân đối, như bất kỳ nguồn quỹ nào có thu thì phải có chi. Việc chi trả các chế độ BHXH dài hạn chiếm phần lớn trong tổng chi của quỹ BHXH. Vì vậy cần có những quy định rõ ràng về mức hưởng để đảm bảo quỹ BHXH không bị thâm hụt.
b, Vai trò của công tác quản lý chi trả các chế độ BXHH dài hạn
Vì khoản chi trả các chế độ BHXH dài hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tiền tiến hành chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH. Do đó, việc quản lý công tác chi trả có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hệ thống BHXH.
- Quản lý công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn được thực hiện đúng nguyên tắc. Đó là chi đúng đối tượng, chi đầy đủ, chi kịp thời, công khai đảm bảo an toàn tiền mặt. Đồng thời việc chi trả phải đảm bảo thực hiện theo đúng công tác kế toán, báo cáo thống kê...Đặc biệt có vai trò tích cực trong việc chống gian lận, tiêu cực trong công tác chi trả. Nếu có tiêu cực trong công tác này không những gây mất cân đối quỹ mà còn gây mất lòng tin của chính những người lao động tham gia BHXH.
- Quản lý công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đảm bảo việc thực hiện đúng thủ tục, giấy tờ xét hưởng cũng như đúng quy trình chi trả theo quy định của hệ thống BHXH. Thủ tục xét hưởng trợ cấp BHXH là rất quan trọng được Nhà nước quy định rõ ràng theo từng chế độ. Việc thực hiện đúng thủ tục đảm bảo việc chi trả đúng đối tượng đảm bảo sự công bằng.
- Quản lý công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đảm bảo cho nguồn kinh phí được chi trả đúng mục đích, cân đối các nguồn tài chính. Đảm bảo cho công tác quản lý tài chính được thực hiện một cách chặt chẽ.
Vì vai trò của công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn quan trọng như vậy, cho nên cần phải dựa vào những cơ sở nhất định để xác định mức hưởng cũng như sơ sở để quyết định chi sao cho hợp lý và hiệu quả.
Đồng thời việc chi trả cũng phải dựa vào những nguyên tắc cụ thể nhằm đảm bảo công bằng nhất đối với người lao động.
Cơ sở và nguyên tắc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
a. Cơ sở chi trả các chế độ BHXH dài hạn
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới khi chi trả các chế độ BHXH dài hạn thường căn cứ vào quy định của luật pháp hoặc các văn bản dưới luật do Nhà nước ban hành. Và thường căn cứ vào các quy định trong luật để xác định mức hưởng của từng chế độ rồi tiến hành chi trả. Do vậy, để lập lên các quy định xác định mức hưởng là rất quan trọng và thường được căn cứ vào các cơ sở sau:
Thứ nhất: Cơ sở sinh học
Điều kiện tự nhiên tập quán ở mỗi nơi khác nhau tạo lên sự khác biệt về sinh học ở con người tại mỗi nơi là khác nhau.Từ việc đi lại, ăn ở tới các quan niệm sống. Đây là cơ sở cần thiết để xác lập các chế độ sao phù hợp nhất với con người ở nơi.
Riêng đối với chế độ BHXH dài hạn, dựa vào cơ sở sinh học để xác định tuổi nghỉ hưu,vì cơ sở sinh học là một trong các yếu tố quyết định tuổi thọ của con người. Có nước có tuổi thọ cao 70 tuổi đến 80 tuổi, nhưng có nước lại chỉ có 60 tuổi đến 70 tuổi. Như vậy, phải căn cứ vào tuổi thọ, căn cứ vào tỉ lệ người về hưu hàng năm, căn cứ vào tỉ lệ sinh, tỉ lệ chết... Để xác lập mức đóng mức hưởng phù hợp với tuổi nghỉ hưu của người lao động. Từ đó ra quyết định chi cho hợp lý.
Thứ hai: Điều kiện lao động và môi trường làm việc
Hai yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, tới mức độ suy giảm khả năng lao động của con người. Có ngành nghề làm việc trong môi trường thuận lợi, có ngành nghề lại làm trong môi trường độc hại và dễ xảy ra tai nạn... Do vậy, mức độ suy giảm khả năng lao động, nguy cơ bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của mỗi ngành nghề là khác nhau. Phải căn cứ vào cơ sở này để xác định tuổi về hưu phù hợp với từng ngành nghề, phù hợp với tuổi nghỉ hưu chung. Cụ thể, tuổi nghỉ hưu của nhân viên văn phòng, nghiên cứu khoa học phải khác tuổi nghỉ hưu của công nhân khai thác trong hầm mỏ, hay những ngành nghề tiếp xúc trực tiếp với hoá chất...
Thứ ba: Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước:
Hệ thống BHXH gắn liền với tình hình kinh tế của đất nước, như ta đã biết khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định thì BHXH sẽ được hình thành và phát triển. Như vậy có nghĩa là chính sách BHXH được hoạch định như thế nào, được tổ chức thực hiện như thế nào, cần phải căn cứ vào tình hình kinh tế của đất nước cụ thể là:
Khả năng, tiềm lực phát triển của đất nước
Trình độ quản lý lao động, quản lý xã hội
Các chính sách dân số của quốc gia: Tỉ lệ người đến tuổi về hưu tăng hàng năm, tỉ lệ sinh, tỉ lệ tử vong...
Chính sách lao động việc làm: tỉ lệ người lao động thất nghiệp, tỉ lệ người lao động có việc làm, tỉ lệ người lao động tự do...
Trình độ dân trí và nhận thức xã hội của dân cư.
Ngoài ra cần phải căn cứ vào thời gian tham gia đóng BHXH. Đây là căn cứ quan trọng để xác định mức hưởng sao cho đảm bảo công bằng nhất cho người lao động..
b. Nguyên tắc chi trả các chế độ BHXH dài hạn
Việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH dài hạn cần phải đảm bảo nguyên tắc: “chi đúng đối tượng, chi đầy đủ, chi kịp thời, đảm bảo công khai an toàn về tiền mặt, chấp hành đúng chế độ kế toán, báo cáo thống kê đồng thời phải được thực hiện tuân theo quy định quản lý tài chính của mỗi nước”.
- Chi đúng đối tượng là nguyên tắc quan trọng trong công tác chi trả các chế độ BHXH nói chung và các chế độ BHXH dài hạn nói riêng. Việc chi đúng đối tượng không những đảm bảo được sự công bằng mà còn làm cho chính người lao động tin tưởng hơn vào Nhà nước. Để đảm bảo nguyên tắc này công tác quản lý sự di biến động đối tượng hưởng là rất cần thiết. Đồng thời phải chú ý đến công tác giải quyết chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng.
- Chi đầy đủ, kịp thời đảm bảo công khai, an toàn về tiền mặt như vậy góp phần cho người lao động ổn định cuộc sống một cách nhanh nhất. Đảm bảo không có tiêu cực trong công tác chi trả. Công tác này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ từ cơ quan BHXH cấp trên. Từ việc lập dự toán chi, cấp kinh phí, đến khi chi trả trực tiếp đến tay người lao động. Chi đầy đủ ở đây là phải chi đúng số tiền đối tượng được hưởng, chi đúng lịch trình kế hoạch đặt ra, không gây phiền hà cho đối tượng.
- Công tác chi trả các chế độ BHXH phải thực hiện theo chế độ kế toán nói chung và theo chế độ kế toán của BHXH nói riêng. Đảm bảo thuận tiện cho công tác báo cáo thống kê. đồng thời tuân theo quy định trong quản lý tài chính theo quy định của mỗi nước. Vì việc cân đối thu chi trong BHXH được tiến hành trong dài hạn nên công tác kế toán và thống kê là vô cùng quan trọng. Do vậy, công tác chi trả phải đảm bảo các nguyên tắc kế toán cũng như các nguyên tắc thống kê.
Để làm được những điều trên việc quản lý công tác chi trả phải được tiến hành thường xuyên, ngay từ khi xét hưởng đến khi chi trả trực tiếp tới tay đối tượng. Không được lơ là thiếu đồng bộ trong công tác này.
3. Phân cấp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội
Mỗi nước đều có một mô hình tổ chức BHXH khác nhau, có nước tổ chức theo từng hệ thống BHXH riêng biệt, có nước tổ chức hệ thống BHXH thống nhất, có nước tổ chức hệ thống BHXH theo từng vùng lãnh thổ. Song nhìn chung việc chi trả thường được phân làm ba cấp: cấp trung ương, cấp khu vực (cấp tỉnh) và cấp địa phương.
Thứ nhất cấp trung ương
Đây là cấp cao nhất có bộ máy tổ chức hoàn chỉnh nhất. Thường có bộ phận chuyên trách chi trả các chế độ BHXH. Nhiệm vụ của bộ phận này là tổng hợp thống kê từ các cơ quan BHXH cấp dưới, đối chiếu phân tích các báo cáo và đóng góp ý kiến cho cơ quan chủ quản có liên quan về việc cần cải tiến thay đổi các chính sách...
Thứ hai cấp khu vực ( cấp tỉnh)
Đối với những nước có biên giới hành chính rõ ràng giữa các tỉnh các vùng thì cơ cấu tổ chức cơ quan BHXH có cơ quan quản lý cấp khu vực và có văn phòng chính cho cấp quản lý cấp khu vực. Cơ cấu tổ chức có một bộ phận quản lý chi trả riêng biệt.
Đối với cấp khu vực có cấp quản lý cấp địa phương thì cơ quan quản lý cấp khu vực có nhiệm vụ bao quát chung, quản lý, kiểm soát các cơ quan quản lý cấp địa phương ở khu vực. Mặc dù không trực tiếp chi trả nhưng trong những trường hợp cụ thể cơ quan cấp khu vực phải đưa ra các tư vấn hỗ trợ cho cơ quan quản lý cấp địa phương.
Đối với cấp khu vực không có cấp quản lý địa phương thì cấp khu vực phải trực tiếp tổ chức chi trả trợ cấp cho đối tượng. Tổ chức của cơ quan này sẽ phức tạp hơn và phải chịu mọi trách nhiệm đối với hoạt động tác nghiệp hàng ngày như một cơ quan quản lý cấp địa phương.
Thứ ba cấp địa phương
Tổ chức chi trả cho đối tượng, thực hiện chi trả theo đúng nguyên tắc kế toán, theo dõi việc tăng giảm sự biến động của đối tượng và báo cáo lên cơ quan cấp trên.
4. Phương thức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội.
Việc tổ chức chi trả do cơ quan BHXH cấp địa phương thực hiện. Có nhiều phương thức chi trả khác nhau nhưng nhìn chung có một vài phương thức chi trả sau đây:
- Chi trả trợ cấp trực tiếp cho đối tượng tại văn phòng cơ quan BHXH hoặc đến địa bàn thuộc quyền phụ trách để tiến hành chi trả trợ cấp. Với phương thức chi trả này cơ quan BHXH sẽ nhanh chóng nắm bắt các di biến động của đối tượng. Nhưng theo phương thức này cần một lực lượng chuyên trách thực hiện chi trả do vậy chi phí quản lý sẽ tăng lên.
- Chi trả trợ cấp trực tiếp qua tài khoản ngân hàng. Cơ quan BHXH trực tiếp chi trả cho đối tượng qua tài khoản cá nhân ở ngân hàng. Phương thức chi trả này nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm chi phí, song chỉ áp dụng đựợc với những nước có hệ thống tài chính phát triển và hệ thống BHXH tiên tiến.
- Chi trả trợ cấp gián tiếp qua đại lý chi trả. Cơ quan BHXH sẽ uỷ quyền cho các đại lý thực hiện chi trả trực tiếp cho đối tượng tại phạm vi xác định dựa trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đại lý chi trả có thể là người sử dụng lao động, cán bộ xã phường, bưu điện, ngân hàng. Với phương thức chi trả này sẽ tiết kiệm được chi phí, nhất là trong các khu vực quản lý của cơ quan BHXH có mật độ dân cư thưa thớt, đi lại khó khăn. Phương thức này sẽ gắn trách nhiệm của người sử dụng lao động với việc thực hiện BHXH cho người lao động ( đối với trường hợp người sử dụng lao động là đại lý chi trả). Tuy nhiên với phương thức này lại khó nắm bắt tình hình thực tế của quá trình chi trả, không kịp thời giải quyết các vướng mắc và không đảm bảo đúng nguyên tắc của quản lý tài chính.
Đối với việc chi trả các chế độ BHXH dài hạn, các nước thường lựa chọn chi trả các chế độ BHXH dài hạn theo các phương thức sau:
Chi trả thực tiếp qua tài khoản cá nhân của đối tượng được hưởng ở các ngân hàng. Như đã nói ở trên phương thức này chỉ áp dụng được đối với những nước có hệ thống tài chính phát triển và hệ thống BHXH tiên tiến.
Chi trả thông qua các đại lý chi trả như đại diện các xã, phường.
Để lựa chọn phương thức chi trả nào là phù hợp nhất thì phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Như cơ sở hạ tầng, chi phí cho việc chi trả, sự thuận tiện của cơ quan BHXH và người nhận trợ cấp, sự phát triển của hệ thống BHXH và hệ thống tài chính...Vì vậy mỗi nước cần phải có sự lựa chọn phương thức chi trả sao cho phù hợp với hệ thống BHXH của nước mình.
5. Quy trình chi trả trợ cấp các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn.
Mỗi quốc gia thực hiện hệ thống BHXH là khác nhau, do đó quy trình chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở mỗi nước là khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi nước. Nhưng nhìn chung phải thực hiện một số công việc sau:
Cấp trung ương: Kiểm tra, hướng dẫn thực hiện việc chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở các cơ quan BHXH cấp khu vực (cấp tỉnh). Thông qua các Báo cáo tài chính hàng tháng, hàng quý, hàng năm mà đưa ra những điều chỉnh hợp lý. Tổ chức việc cấp kinh phí cho cơ quan BHXH cấp khu vực (cấp tỉnh) dựa vào dự toán chi do cơ quan BHXH cấp tỉnh chuyển lên. Đồng thời lập dự toán kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn trên cơ sở tổng hợp dự toán chi đã duyệt của BHXH các tỉnh. Ngoài ra, cơ quan BHXH cấp trung ương còn có nhiệm vụ báo cáo tình hình thực hiện chi trả cho cơ quan Nhà nước cấp trên.
Cấp khu vực (cấp tỉnh): Lập dự toán kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn theo hướng dẫn của cơ quan BHXH cấp trên. Chịu trách nhiệm toàn diện trong việc xét duyệt hồ sơ, giải quyết các chính sách, chế độ BHXH, và tổ chức chi trả các chế độ BHXH trên địa bàn quản lý. Thực hiện quản lý và sử dụng nguồn kinh phí chế độ kế toán, thống kê theo quy định. Cấp kinh phí và hướng dẫn việc thực hiện chi trả cho cơ quan BHXH cấp dưới dựa trên danh sách các đối tượng cơ quan BHXH cấp khu vực (cấp tỉnh) đã xét duyệt. Giải quyết các khiếu nại có liên quan đến chính sách BHXH nói chung.
Cấp địa phương: Hàng tháng, hoặc hàng năm lập dự toán chi trả các chế độ BHXH dài hạn theo hướng dẫn của cơ quan BHXH cấp trên. Tiếp nhận kinh phí cùng danh sách các đối tượng được hưởng trợ cấp, tiến hành tổ chức việc chi trả các chế độ BHXH dài hạn cho các đối tượng theo danh sách do cơ quan BHXH cấp tỉnh chyển xuống.
Theo dõi sự di biến động của các đối tượng được hưởng, từ kết quả thực chi lập các danh sách, các báo cáo tài chính theo quy định và chuyển lên cơ quan cấp trên một cách kịp thời và nhanh chóng. Ngoài ra, cơ quan BHXH cấp huyện tiếp nhận đơn từ khiếu nại của đối tượng gửi lên cơ quan BHXH cấp trên và trực tiếp giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
Chương II. Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở cơ quan bảo hiểm xã hội Vĩnh yên - Tỉnh Vĩnh phúc
I. Vài nét về bảo hiểm xã hội Việt Nam và bảo hiểm xã hội Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh phúc
1. Vài nét về bảo hiểm xã hội Việt Nam
Năm 2005 là kỷ niệm mười năm thành lập BHXH Việt Nam ( ngày 16 tháng 2 năm 1995 – ngày 16 tháng 2 năm 2005). Mặc dù cơ quan BHXH Việt Nam được thành lập tương đối muộn, song chính sách BHXH đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện rất sớm ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do vậy BHXH thực sự đã hình thành và phát triển trên một phần hai thế kỷ. Nói đến BHXH Việt Nam phải nói đến sự phát triển của nó qua hai giai đoạn
a. Giai đoạn trước năm 1995
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mặc dù nền kinh tế nước ta lúc đó gặp rất nhiều khó khăn song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 54/SL ngày 3 tháng 11 năm 1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu. Sau đó là sắc lệnh số 27/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 quy định hai chế độ ốm đau và thai sản, sắc lệnh số 76/SL và 77/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 quy định hai chế đọ hưu trí và tử tuất. Thực hiện theo điều 32 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được quốc hội thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 ban hành “ Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu họăc chết. Đối với nữ quân nhân khi có thai và khi đẻ. Đối với quân nhân dự bị và tự vệ cơ quan xí nghiệp, nhà máy bị ốm đau, bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự”
Theo Nghị định số 39/CP ngày 22 tháng 3 năm 1962 để đảm bảo nguồn chi trả cho các chế độ BHXH, Chính phủ đã quy định hàng tháng các cơ quan xí nghiệp đoàn thể phải trích nộp 4,7 % so với lương thực trả cho công nhân viên chức. Trong đó 1% để chi ba chế độ dài hạn và 3,7 % chi ba chế độ ngắn hạn, còn lại do Ngân sách Nhà nước cấp.Với sáu chế độ BHXH là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất cho công nhân viên chức.
Theo thống kê không đầy đủ thì đến năm 1960 Chính phủ và Nhà nước đã ban hành khoảng 260 văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện và sửa đổi các chế độ BHXH hiện hành. Để đảm bảo nguyên tắc “có đóng mới có hưởng” ngày 22 tháng 6 năm 1993 theo Nghị định só 43/CP nâng mức trích nộp BHXH từ 4,7 % lên 15 %. Ngày 16 tháng 6 năm 1994 Quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ luật lao động xác lập và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động khi tham gia BHXH.
Về cơ quan quản lý ban đầu theo Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 2 năm 1961 hệ thống BHXH do Tổng công đoàn Việt Nam ( nay là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) quản lý. Ngày 10 tháng 4 năm 1964 theo Nghị định 62/CP BHXH do cơ quan Bộ nội vụ ( sau này là Bộ lao động lao động và thương binh và xã hội) và Tổng công đoàn Việt Nam quản lý. Theo Thông tư liên bộ số 22/TT/LĐ quy định từ tháng 6 năm 1989 Bộ tài chính thu 8% so với tổng quỹ lương, Tổng liên đoàn lao động thu 5% so với tổng quỹ lương.
Nhìn chung trong giai đoạn này các chính sách BHXH có một số đặc điểm nổi bật sau đây:
BHXH vẫn chỉ được áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước và quân nhân, còn đại bộ phận lao động làm việc ở khu tập thể và các nhân viên chưa được tham gia BHXH. Như vậy chưa đảm bảo sự công bằng.
Nguồn chi các chế độ BHXH lấy chủ yếu từ ngân sách Nhà nước. Tạo lên gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Trong khi hoạch định các chính sách kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước đã đan xen các chính sách xã hội khác như chính sách ưu đãi với người có công với cách mạng, chính sách tinh giảm biên chế, chính sách sinh đẻ có kế hoạch...với chính sách BHXH. Nên không đảm bảo quan hệ hợp lý giữa thu và chi BHXH.
Việc quản lý không thống nhất, quản lý chồng chéo nhau.
Mặc dù có nhiều hạn chế song các chính sách BHXH giai đoạn này đã góp phần ổn định chính sách cho người được hưởng đảm bảo những điều kiện thiết yếu về vật chất cho họ và gia đình.
b. Giai đoạn sau năm 1995.
Để cụ thể hoá các điều khoản của Bộ luật lao động, chính phủ đã ký Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước và mọi người lao động làm việc trong tổ chức doanh nghiệp có mười lao động trở lên theo loại hình bắt buộc. Để bảo đảm tốt các chế độ BHXH và phù hợp với cơ chế quản lý mới về BHXH, đồng thời với việc ban hành Điều lệ BHXH, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16 tháng 2 năm 1995 về việc thàng lập BHXH Việt Nam.
Đây là giai đoạn nước ta chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, do vậy yêu cầu đổi mới BHXH được đặt ra cấp bách. Sau khi Điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP, Chính phủ đã ban hàh thêm nhiều văn bản pháp quy để hoàn thiện hơn chính sách BHXH cũng như việc hướng dẫn thi hành chính sách BHXH. Đáng kể nhất là Quyết định số 20/2002/QĐ - TTg ngày 24 tháng 01 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế sang BHXH Việt Nam, nhằm đáp ứng tốt hơn cho người tham gia BHXH, Bảo hiểm y tế... Ngày 9 tháng 1 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ - CP, để sửa đổi, bổ sung cho Điều lệ BHXH. Và được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp có từ một lao động chở lên đã có vai trò tích cực trong việc mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH.
Nhìn chung giai đoạn này BHXH có một số điểm cơ bản sau:
Phạm vi đối tượng BHXH đã được mở rộng đến tất cảc các doanh nghiệp có từ một lao động trở lên.
Quỹ BHXH được quản lý một cách thống nhất, chặt chẽ. Do cơ quan BHXH Việt nam quản lý.
Các chế độ BHXH ngày càng được hoàn thiện, mở rộng trong đó quy định khá rõ trách nhiệm của các bên tham gia, các điều kiện để xác lập mức hưởng...
Bảo hiểm y tế đã được sát nhập vào hệ thống BHXH góp phần đảm bảo quyền lợi hơn cho người lao động.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam được tổ chức, quản lý thống nhất từ trưng ương đến địa phương.
Theo Nghị định số 100/2002/NĐ - CP ngày 06 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ. BHXH Việt Nam được tổ chức quản lý như sau:
Chính phủ
Hội đồng quản lý
Tổng giám đốc
Các phó
Tổng giám đốc
Các ban chức năng (Ban Chế độ, chính sách, kế hoạch-tài chính, thu, chi,..)và văn phòng, các trung tâm (TT nghiên cứu KH BHXH, CNTT,...), báo và tạp chí BHXH
BHXH
64 tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
Các phòng chức năng: phòng chế độ, chính sách; thu; giám định chi;....
BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
2. Một số nét cơ bản về bảo hiểm xã hội Vĩnh yên - Tỉnh Vĩnh phúc.
Thị xã Vĩnh yên trực thuộc Tỉnh Vĩnh phúc với diện tích là 523.039 ha. Dân số 72.111 người. Với tỉ lệ người trong độ tuổi lao động là hơn 2/3. Thị xã Vĩnh yên với chín xã, phường, có quốc lộ số 2 chạy qua giao thông thông suốt thuận tiện cho việc giao dịch buôn bán với các tỉnh bạn.
Cơ quan BHXH Vĩnh yên được thành lập theo Quyết định số 07a.QĐ/TC CB ngày 15 tháng 6 năm 1995 của Giám đốc BHXH Việt Nam về việc thành lập BHXH huyện, thị xã trực thuộc BHXH Tỉnh Vĩnh phú (cũ).
Ban đầu sau khi thành lập BHXH Vĩnh yên trực thuộc BHXH Tỉnh Vĩnh phú (cũ). Năm 1997 sau khi tách Tỉnh Vĩnh Phú ra làm hai Tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thì cơ quan BHXH Vĩnh Yên trực thuộc BHXH Tỉnh Vĩnh phúc. Hiện nay cơ quan BHXH Vĩnh yên với bác Phạm Văn Tín làm giám đốc, trụ sở đặt tại Khu công sở Phường Đống Đa Thị xã vĩnh yên. Cơ sở hạ tầng khang trang, thuận tiện thoải mái. Lúc đầu cơ quan BHXH Vĩnh Yên chỉ có tám cán bộ, rồi còn bảy. Sau khi thực hiện quyết định về việc sát nhập Bảo hiểm y tế với BHXH công việc có nhiều và nặng nề hơn, nhưng cơ quan BHXH Vĩnh Yên không có thêm cán bộ mới. Hiện nay, cơ quan BHXH Vĩnh Yên vừa tiếp nhận một nhân viên mới, đưa con số cán bộ trong cơ quan lên tám người. Song cơ quan BHXH Vĩnh Yên luôn ổn định cơ cấu tổ chức để làm tốt công việc được giao
Nhiệm vụ của cơ quan BHXH Vĩnh Yên.
- Đầu năm cơ quan phải lập dự toán thu BHXH ( 23%), và thu Bảo hiểm y tế tự nguyện. Hàng tháng, hàng quý phải lập báo cáo kết quả thu (danh sách các tổ chức thực hiện việc đóng BHXH, tổng số tiền thu) gửi lên cơ quan BHXH Tỉnh Vĩnh Phúc và chuyển số thu được vào tài khoản của cơ quan BHXH Tỉnh theo quy định.
- Tiếp nhận và cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng được cấp thẻ Bảo hiểm y tế trên địa bàn theo danh sách của BHXH Tỉnh gửi xuống và cấp sổ BHXH cho các đối tượng mới tha gia theo danh sách của BHXH Tỉnh.
- Đầu năm cơ quan phải lập dự toán chi. Tổ chức chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp một lần cho các đối tượng tham gia BHXH. Tổ chức chi trả trợ cấp hàng tháng, một lần cho các đối tượng hưởng lương hưu. Hàng tháng, hàng quý lập báo cáo tổng hợp chi, báo cáo các trường hợp chết, hết hạn hưởng BHXH. Lập báo cáo về hình thức chi trả, các Ban đại diện chi trả gửi lên cơ quan BHXH Tỉnh.
- Kiểm tra việc thực hiện công việc như công tác thu chi của cán bộ công chức trong cơ quan, của các đại lý thu chi. Kiểm tra công tác tài chính, việc thực hiện các chế độ cho đối tượng hưởng....Đảm bảo không có tiêu cực.
- Giải thích, tăng cường mở rộng phạm vi tham gia BHXH, Bảo hiểm y tế tự nguyện.
- Tham gia các chương trình, phong trào của các ngành có liên quan và cơ quan BHXH cấp trên.
Quyền hạn.
- Cơ quan BHXH Vĩnh Yên chỉ được phép thu chi trong phạm vi mình quản lý theo đúng quy định.
- Cơ quan BHXH Vĩnh Yên có quyền chấm dứt việc chi trả đối với những đối tượng theo quyết định của BHXH Tỉnh.
- Cơ quan BHXH Vĩnh Yên ký hợp đồng với các đại lý chi trả các chế độ BHXH và có quyền chấm dứt hợp đồng nếu xét thấy đại lý chi trả có dấu hiệu sai trái.
Hiện nay, cơ quan BHXH Vĩnh yên được tổ chức như sau:
Giám đốc
Phó giám đốc
Bộ phận Quỹ
Bộ phận kế toán
Bộ phận quản lý thu
Bộ phận chế độ chính sách
Bộ phận tổ chức hành chính
Bộ phận giám định chi
Mỗi bộ phận đều có nhiệm vụ riêng, được giám sát chặt của Giám đốc BHXH Vĩnh yên. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận được quy định cụ thể như sau:
- Bộ phận Quỹ: Quản lý quỹ khi nhận tiền của BHXH Tỉnh cấp. Tiến hành chi lương, trợ cấp theo phiếu chi có sự xác nhận của Giám đốc
- Bộ phận kế toán: Cập nhật số thu, tổng chi hàng tháng hàng quý. Lập báo cáo gửi lên cơ quan BHXH cấp Tỉnh, đồng thời hàng năm phải lập dự toán chi BHXH.
- Bộ phận quản lý thu: Lập dự toán thu, tổ chức thực thu BHXH. Theo dõi việc tăng giảm lương, tăng giảm số lao động, số lao động chuyển đến số lao động chuyển đi.
- Bộ phận giám định chi: Theo dõi, giám sát việc khám chữa bệnh có đúng người đúng bệnh hay không. Ngoài ra con tiến hành cấp sổ bảo hiểm y tế và phiếu khám chữa bệnh cho đối tượng.
- Bộ phận chế độ chính sách: Giải quyết các thắc mắc về chế độ chính sách, tiếp nhận giải quyết các khiếu nại có liên quan
- Bộ phận tổ chức hành chính: Giải quyết những vấn đề có liên quan đến cơ cấu tổ chức hành chính. Tiếp nhận cán bộ mới được điều chuyển đến. Đây là bộ phận phụ trong cơ quan, nên có cán bộ tiếp nhận công việc này và làm thêm công việc thu một số đơn vị theo quy định.
- Giám đốc: là người đứng đầu cơ quan chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên và trước pháp luật mọi hoạt động của cơ quan.
- Phó giám đốc: Là người giúp việc của giám đốc thay mặt giám đốc khi giám đốc đi công tác.
Kết quả hoạt động của cơ quan BHXH Vĩnh Yên
Kể từ ngày đi vào họat động, cơ quan BHXH Vĩnh yên luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặt ra. Hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thu do BHXH Tỉnh cấp, chi trả các chế độ BHXH kịp thời trước ngày mùng 10 hàng tháng. Mọi công tác đều đạt kết quả tốt đặc biệt đã tích cực mở rộng phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm y tế toàn dân, cuối năm không hề có nợ đọng BHXH, không có gian lận trong chi trả trợ cấp. Riêng năm 2004, tổng thu đã đạt trên 586.000 nghìn đồng, tăng 101,9 % so với dự toán thu. Tính đến cuối năm đã cấp được hơn 26.000 thẻ Bảo hiểm y tế và hơn 33.000 phiếu khám chữa bệnh. B HXH Vĩnh Yên đã tiến hành ký hợp đồng với tất cả các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước trên địa bàn. Cử cán bộ thường xuyên trực tiếp xuống cơ sở đôn đốc việc thu nộp Bảo hiểm y tế học sinh. Tiến hành chi trả cho 5.184 đối tượng với tổng chi hơn 30 tỷ đồng. Trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là gần 23 tỷ đồng, chi từ nguồn quỹ là hơn 7 tỷ đồng.
Cơ quan BHXH Vĩnh Yên sớm áp dụng khoa học kỹ thuật vào công việc do vậy mà có thể đẩy nhanh tiến trình của công việc, đặc biệt công tác quản lý tài chính được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo an toàn.
Trong thời gian tới cơ quan BHXH Vĩnh yên phải nỗ lực hơn nữa trong công việc, tiến hành cơ cấu lại bộ máy một cách hợp lý cho phù hợp với tình hình mới.
Phương hướng hoạt động trong thời gian tới :
- Công tác thu
Hoàn thành chỉ tiêu thu năm 2005 do BHXH Tỉnh cấp là 7.033.819 nghìn đồng.
Trong đó xác định thu BHXH và BHYT là nhiệm vụ trọng tâm, thu BHXH, Bảo hiểm y tế không đạt coi như không hoàn thành nhiệm vụ chính. Tăng cường bám sát cơ sở chỉ đạo thu ngay từ ngày đầu, tháng đầu không để dồn vào cuối năm.
Tuyên truyền sâu rộng BHXH, Bảo hiểm y tế tới các đơn vị chưa tham gia BHXH và các đơn vị mới thành lập.
Báo cáo kết quả thu đúng theo quy định.
- Công tác cấp sổ BHXH, thẻ Bảo hiểm y tế và phiếu khám chữa bệnh.
Tiếp tục cấp sổ BHXH, thẻ Bảo hiểm y tế, và phiếu khám chữa bệnh cho các đối tượng chưa cấp và các đối tượng mới tham gia.
- Công tác chi trả BHXH.
Tổ chức tiến hành chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH kịp thời. Chi trả kịp thời cho các cơ sở khám chữa bệnh đã ký hợp đồng khám chữa bệnh để đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ Bảo hiểm y tế. Với dự toán chi năm 2005, nguồn ngân sách nhà nước là 22.946.880 nghìn đồng, nguồn từ quỹ BHXH là 8.639.067 nghìn đồng.
Tổ chức kiểm tra việc chi trả của các Ban đại diện chi, cũng như của các cán bộ trực tiếp tiến hành chi trả đảm bảo không có gian lận trong chi.
- Công tác quản lý tài chính.
Tăng cường công tác quản lý tài chính từ khâu tiếp nhận nguồn kinh phí từ BHXH tỉnh cấp, phân bổ nguồn chi một cách hợp lý. Thường xuyên nâng cao nghiệp vụ cho kế toán cơ quan. Thường xuyên kiểm tra hoạt động tài chính, thực hiện nề nếp công tác duyệt quyết toán.
- Công tác khác.
Tiếp tục đưa khoa học công nghệ vào công việc. Tích cực tham gia các phong trào của các ngành có lên quan và tham gia phong trào thi đua của BHXH Tỉnh.
Tăng cường đưa Bảo hiểm y tế tự nguyện vào các tầng lớp dân cư, tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại.
Nhiệt tình trong việc giải thích các chế độ BHXH cho đối tượng tham gia.
Kỷ luật nghiêm khắc đối với những trường hợp gian lận. Có những chương trình khuyến khích cán bộ công chức hăng say làm việc.
II. Thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở BHXH Vĩnh yên - Tỉnh vĩnh phúc
1. Cơ sở chi trả và nguồn chi trả các các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở BHXH Vĩnh yên Tỉnh vĩnh phúc.
BHXH Việt Nam hiện nay thực hiện các chế độ BHXH dài hạn là chế độ trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tử tuất và trợ cấp một lần. Ngoài ra, ngân sách Nhà nước còn tiến hành chi trả trợ cấp mất sức lao động và mất sức lao dộng theo quy định 91.
a. Cơ sở chi trả
Căn cứ vào Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ. Cùng với Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2003 vè việc sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH. Cơ sở chi trả các chế độ BHXH dài hạn được quy định như sau:
Một là: Chế độ hưu trí:
Gồm có trợ cấp định kỳ hàng tháng và trợ cấp một lần
Đối với trợ cấp định kỳ hàng tháng có hai loại là trợ cấp định kỳ hàng tháng mức đầy đủ và trợ cấp định kỳ hàng tháng mức không đầy đủ.
Trợ cấp định kỳ hàng tháng mức đầy đủ được quy định như sau:
Nam đủ 60 tuổi, Nữ đủ 55 tuổi có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên
Nam đủ 55 tuổi, Nữ đủ 50 tuổi có đủ 20 năm đóng BHXH và được kết hợp với một trong các trường hợp sau:
Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại
Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
Đủ 10 năm công tác ở Miền Nam, hoặc ở Lào trước ngày 30 tháng 4 năm 1945, hoặc ở Campuchia trước ngày 31 tháng 8 năm 1989
Nam đủ 55 tuổi đến nhỏ hơn 60 tuổi, Nữ đủ 50 tuổi đến nhỏ hơn 55 tuổi có 30 nă._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36237.doc