I/ LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam của chúng ta có những trang sử vô cùng đặc biệt: hơn một nghìn năm Bắc thuộc, tiếp đó là chịu sự đô hộ của thực dân phong kiến, rồi lại bị đế quốc phương Tây xâm lược. Nhưng chưa bao giờ nhân dân ta chịu khuất phục trước bọn cướp nước. Bằng sự quyết tâm và ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam, cùng sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1975 cuối cùng non sông đất nước cũng thu về một mối. Đảng ta vẫn luôn trung thành với tư tưởng cua chủ t
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3599 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Vào thời kỳ này CNXH vẫn là hệ thống trên phạm vi toàn thế giới. Mới thoát khỏi chiến tranh, chưa có nhiều kinh nghiệm về quản lý kinh tế trong thời bình, do đó vào thời kỳ từ 1976 đến 1985 trên phạm vi cả nước đã áp dụng mở rộng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp như bao nước XHCN khác. Chính quyết định này đã đưa nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trong suốt một thời gian. Nhanh chóng nhận ra sai lầm, Đảng ta đã tiến hành sửa đổi đường lối của mình. Đại hội VI (tháng 12-1986) là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nươc ta, trong đó có đổi mới kinh tế. Đại hội VII (tháng 9-1991), Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đại hội IX (tháng 4-2001) đã tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và bổ sung các chính sách đổi mới kinh tế. Nền kinh tế nước ta sẽ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuẩn bị cho tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới được thiết lập nên chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình CNH-HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN.
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh chóng, những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau , tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước của chúng ta phải chủ động sang tạo tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đảu nhanh quá trình CNH-HĐH, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng , phát triển bền vững.
I/NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN
1)Khái niệm:
*Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao.”
Khái niệm CNH-HĐH trên được Đảng xác định rộng hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng kỹ thuật và công nghệ cao.
Như vậy, CNH theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây, mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao động, kỹ năng sản xuất…
Hiện đại hoá cũng không có nghĩa chỉ là đưa khoa học - công nghệ - kỹ thuật thông tin - vi điện tử hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, mà là quá trình vận dựng tất cả những phương tiện đó vào tổng thể hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, nó đòi hỏi phải thực hiện cách mạng công nghệ trong các cơ cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý, cân đối, tạo lập cơ chế quản lý xã hội ở trình độ chuyên môn cao với phương pháp quản lý hiện đại.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải hoàn thiện cơ cấu - tổ chức - vận hành xã hội, chuyên môn hoá chức năng ngày càng sâu của các thể chế, nâng cao chất lượng các phương tiện thông tin đại chúng và chất lượng cuộc sống: dân chủ hoá đời sống xã hội trong khuôn khổ một Nhà nước pháp quyền, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và dân đức thông qua việc phát triển nền giáo dục quốc gia.
*Đặc điểm CNH-HĐH ở nước ta:
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: CNH được gắn liền với HĐH vừa thực hiện nội dung của CMCN, vừa tranh thủ ứng dụng thành tựu của cách mạng khoa học- công nghệ tiếp cận kinh tế tri thức để HĐH những ngành, những khâu, lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
- Thứ hai: CNH-HĐH nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH và tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Thứ ba: CNH-HĐH trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước.
- Thứ năm: CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển.
2)Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH:
- Mỗi phương thức sản xuất xã hội phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Muốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến thì nhất thiết phải tiến hành CNH-HĐH, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
- Do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động của nước ta để thúc đầy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, giúp CNXH tồn tại và phát triển manh mẽ. Và CNH chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, sau đó quá trình hiện đại hóa sẽ khiến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế trong thời kì hội nhập.
- Khi đã mạnh về kinh tế thì tất yếu sức mạnh về chính trị cũng tăng. Trong bối cảnh tư bản chủ nghĩa rất mạnh và luôn nhăm nhe phá hoại CNXH, muốn giữ độc lập chủ quyền cho đất nước phải không ngừng tăng cương an ninh quốc phòng. Và biện pháp hữu hiệu nhất đó chính là CNH-HĐH.
3)Tác dụng của CNH-HĐH:
- CNH có tác dụng to lớn trong việc ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng thẩm mỹ của hàng hóa, hình thành, mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất XNCH.
- Củng cố và kiện toàn Nhà Nước XHCN, tăng cường khối liên minh công-nông-trí thức, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, phát triển nền văn hóa mới XHCN.
- Tạo ra lực lượng sản xuất mới, tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên.
- CNH góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đủ sức hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, phát triển mở rộng đất nước trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.
4)Mục tiêu, quan điểm CNH, HĐH :
*Mục tiêu tổng quát:
Là mục tiêu lâu dài, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ra sức phấn đấu để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp (có ngành công nghiệp tiến bộ vượt trội hơn các ngành khác).
*Mục tiêu cụ thể:
Đến năm 2010, tỉ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 15-16%, công nghiệp khoảng 43-44%, dịch vụ chiếm 41-42%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.
*Quan điểm
- Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với hợp tác, mở rộng, hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngooài, xây dựng một nền kinh tế mở cửa hội nhập hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay thế sản phẩm nhập khẩu cho có hiệu quả.
- CNH-HĐH là sự nghiệp của tòan dân, được mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy yếu tố con người làm chủ đạo, tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống người dân, tăng cường dân chủ, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
- Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HĐH, kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu có tính chất quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư phát triển và công nghệ, đầu tư có chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong phát triển mới ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình qui mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
- Kết hợp chặt chẽ toàn diện, phát triển kinh tế quốc phòng.
Như vậy, với những phân tích ở trên ta đã nhận thức rõ tính tất yếu và tầm quan trọng của CNH-HĐH. Đảng và Nhà Nước ta trong suốt hơn 10 năm qua đã lãnh đạo nhân dân cả nước xây dựng một đất nước XHCN tự chủ, vững mạnh, tiên tiến, hiện đại bằng cách tiến hành CNH-HĐH. Hơn 10 năm với nhiều chấn chỉnh, sửa đổi, với nhiều chính sách, biện pháp, đất nước ta đã thu được không ít thành công, thành tựu. Vậy thực trạng CNH-HĐH của Việt Nam hiện nay ra sao? Xin mời theo dõi tại chương II.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
- Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững;
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ;
- Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có.
- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ;
- Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1)Trạng thái xuất phát mới của đất nước sau hơn 10 năm đổi mới:
- Định hình cơ chế phát triển kinh tế mới: cơ chế thị trường - như một tất yếu không thể đảo ngược.
Cơ chế thị trường theo định hướng XHCN là hạt nhân phát triển mới của đất nước, một hình thức phát huy nội lực trong nước, gắn kết nước ta với khu vực và thế giới. Xuất hiện một lớp chủ thể kinh tế sản xuất - kinh doanh mới, có năng lực cạnh tranh độc lập, với trình độ và bản lĩnh ngày càng được nâng cao. Về mặt kinh tế, đây sẽ là một lớp nhân vật chính trên sân khấu phát triển hiện đại của nước ta.
- Tiềm lực và phát triển kinh tế được nâng cao một bước quan trọng
+ Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, bước vào một giai đoạn khởi đầu tăng trưởng nhanh, tuy chưa có nhiều yếu tố ổn định.
+ Quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng và phát triển với chất lượng mới.
+ Cơ cấu kinh tế biến đổi mạnh theo hướng nâng cao chất lượng và phù hợp hơn với quỹ đạo phát triển mới.
- Nền tảng xã hội của sự phát triển trong giai đoạn mới
+ Quan hệ lao động - việc làm thay đổi theo hướng dần hình thành cơ chế phân bố thông qua thị trường lao động.
+ Mức sống cho toàn bộ xã hội được nâng cao.
+ Cơ hội phát triển cho con người phát triển được tạo ra một cách rộng rãi hơn.
+ Hình thành lối sống mới mang tính cộng đồng dân tộc và quốc tế.
+ Quá trình đô thị hoá được đẩy mạnh theo xu hướng hiện đại hoá.
Quá trình đổi mới đã chứng minh rằng:
+ lợi thế phát triển hiện thực lớn nhất của nước ta là nguồn nhân lực
+ điều kiện cơ bản để phát huy được lợi thế đó là có một cơ chế kinh tế đúng
2)Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt Nam:
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH-HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một số điểm sau đây:
a/ Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn.
+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang nỗ lực gia nhập WTO, v.v…
+ Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
+ Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ thuật, tri thức, thị trường...) trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển quan trọng.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm: toàn cầu hoá kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng… của thế giới cho công cuộc CNH-HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còn có thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH-HĐH. Một lợi thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo, có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
b/ Khó khăn
- Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội, v.v. là những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến khích cao, v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đang phát triển (lạc hậu, nghèo) và đang chuyển đổi (thể chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình CNH-HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá đặt nền kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm.
- Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi trường sống là hệ quả của CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kể đồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. Ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu.
Cô
3)Thực trạng Việt Nam hiện nay: )
Qua hơn 10 năm thực hiện CNH-HĐH, đến nay đất nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
- công nghiệp phát triển với tốc độ khá cao (trên 10%/ năm) bao gồm cả công nghiệp khai thác, chế biến, chế tác.
- nông nghiệp đã đi vào vòng chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH. Vấn đề CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đã được đề cập nhiều và đang được tiếp tục nghiên cứu giải pháp.
- chính sách khoa học-công nghệ (KH-CN): đã tìm hướng đổi mới quản lý KH-CN và tìm hiểu về kinh tế tri thức, dọn đường đưa KH-CN (cùng giáo dục đào tạo) đóng vai trò nền tảng và động lực của CNH-HĐH.
- các mặt hoạt động khác (cải cách hành chính, cải cách thể chế chính trị, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN v.v…) đang được triển khai, có nhửng kết quả rỏ rệt.
Tuy nhiên nếu so sánh với mục tiêu chiến lược “đến năm 2010 tạo được nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” thì phần việc mấy năm qua thực hiện còn chậm trể và thiếu đồng bộ.
- đã qua 1/2 thời kì chiến lược và nếu tính từ năm 1994 đề xuất nhiệm vụ CNH-HĐH đến nay đã hơn 10 năm, nhưng một số vấn đề mấu chốt về CNH-HĐH vẫn chưa được nghiên cứu dầy đủ.
- cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ v.v…Những chuyển dịch cơ cấu này cũng chính là những thước đo tổng hợp của kết quả thực hiện CNH-HĐH. Hiện còn những vấn đề còn đang lúng túng, mới chỉ rõ về phương hướng nhưng không cụ thể về giải pháp, ví dụ như CNH nông nghiệp và nông thôn, gắn kết công nghệ mới, công nghệ cao vào phát triển công nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ…
- Nói chung, trong tổ chức thực hiện vẫn thiếu cái nhìn bao quát về các khía cạnh liên quan đến nhau trong đường lối CNH-HĐH. Tuy trong chủ trương có nêu nhưng các điều kiện tiền đề của CNH-HĐH còn chưa hội tụ đủ. Những mối quan hệ giữa CNH-HĐH, giữa kinh tế và công nghệ, giữa kinh tế, công nghệ và các mặt văn hóa xã hội khác, giữa CNH-HĐH và hội nhập quốc tế…chưa được tổ chức nghiên cứu và quá trình CNH-HĐH chưa được làm rõ, để có thể trong mỗi bước đi gắn kết CNH với HĐH, kinh tế với công nghệ, vừa thực hiện vừa tạo tiền đề v.v…Công việc mang tính chiến lược và quy hoạch này cần phải tiếp tục nghiên cứu, nhất là trong điều kiện chúng ta còn vừa thiếu những tiền đề thuận lợi, lại vừa chủ trương CNH- HĐH rút ngắn thời gian .
Trong 10 năm qua, từ lúc nêu ý tưởng về CNH-HĐH (1994), hình thành đường lối CNH- HĐH (1996) cho thời kì mới, hoàn thiện đường lối và cụ thể hóa một bước (2001) trong Chiến lược phát triển 10 năm, chúng ta có thể khẳng định được những đánh giá bước đầu sau :
- Sau khi vượt qua được thời kì khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, năm 1994 chúng ta đề xuất để đẩy tới một bước quá trình CNH kịp thời, đúng lúc, mặc dù các điều kiện kinh tế còn chưa đầy đủ, nhưng thời cơ phát triển nhanh, đuổi kịp các nước không thể bỏ lỡ .
- Trong bối cảnh đổi mới kinh tế trong nước, toàn cầu hóa và phát triển khoa học công nghệ trên thế giới, chủ trương gắn kết CNH và HĐH vào một quá trình, ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển là đúng đắn và khả thi, có thể đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. Từ đó , có cơ sở để đưa ra quan điểm CNH rút ngắn thời gian, tuy việc cụ thể hóa quan điểm đó vẫn cần nghiên cứu tiếp .
- Trong việc triển khai thực hiện CNH-HĐH,việc coi trọng CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn (nhất là trong giai đoạn đầu) và việc đẩy nhanh phát triển khoa học và công nghệ là xác đáng, đây cũng là những vấn đề khó giải quyết trong các nhiệm vụ CNH-HĐH ở nước ta .
- Những công việc đã triển khai thực hiện theo hướng CNH-HĐH tuy có chậm trễ và thiếu đồng bộ, song đã mang lại, hoặc hứa hẹn mang lại nhiều kết quả tích cực. Điều này cũng chứng tỏ đường lối CNH-HĐH đề ra là đúng hướng và khả thi, cần tiếp tục hoàn chỉnh và đẩy mạnh .
- Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích trong hơn 10 năm qua, song cả về lí luận và thực tiễn còn cần cập nhật, rút kinh nghiệm và làm rõ một số vấn đề về CNH-HĐH để trong thời gian tới có thể thực sự đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH trong khi thời gian cần phải trở thành một nước công nghiệp không còn xa nữa.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG – GIẢI PHÁP
Như vừa nêu trên đây khi trình bày đại thể tiến trình CNH-HĐH ở Việt Nam từ nay đến 2010, một quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta là công cuộc CNH-HĐH đất nước không chỉ gồm những hoạt động kinh tế, mà bao quát một phạm vi rộng lớn, đúng với nghĩa CNH-HĐH toàn bộ đất nước, chứ không chỉ riêng nền kinh tế.
1) Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn (NN&NT):
Do còn là một nước nặng về NN, tỷ lệ dân số sống ở các vùng nông thôn chiếm phần lớn, cho nên Việt Nam tất yếu phải dành nhiều ưu tiên cho phát triển NN&NT trên con đường phát triển của mình. Trong nhiều năm qua, Đảng ta đã khẳng định CNH-HĐH NN&NT là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH-HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khoá IX về "Đẩy nhanh CNH-HĐH NN&NT thời kỳ 2001-2010" được ban hành ngày 18/3/2002 đã đề ra chủ trương toàn diện về CNH-HĐH NN&NT ở nước ta trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của cả quá trình là xây dựng một nền NN sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu KH-CN tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở NN và đổi mới các chính sách phát triển NN&NT. Theo đó, cần mở rộng các điều kiện tiếp cận của các chủ thể kinh tế NT đến các thị trường, coi sự vận hành của cơ chế thị trường trong việc phân bổ nguồn lực và cạnh tranh thị trường là động lực kinh tế quan trọng thúc đẩy phát triển NT. Các chính sách phát triển NN&NT cần tập trung giải quyết những khó khăn của các chủ thể kinh tế NT về các vấn đề đất đai, thị trường tiêu thụ, nguồn vốn, KH-CN, lao động, v.v. Trong đó, chính sách đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được đổi mới theo hướng khuyến khích việc lưu chuyển đất đai từ người sử dụng này tới người sử dụng khác, từ mục đích sản xuất này tới mục đích sản xuất khác theo quy hoạch và quy định của pháp luật; không nên hạn chế việc tích tụ đất đai vào tay những người sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào NN và tạo mặt bằng sản xuất cho các hoạt động công nghiệp ở NT. Chính sách tài chính, tín dụng cần hướng tới việc tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho NN, NT, phù hợp với yêu cầu CNH-HĐH, trong đó chú trọng đổi mới cơ cấu vốn đầu tư của nhà nước phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN, NT
- Thứ hai: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh trong NN&NT trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần tạo lập và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh ở NT như các hộ gia đình, các trang trại, các hợp tác xã, và các loại hình doanh nghiệp khác trên cơ sở bình đẳng. Về lâu dài, cần có một đạo luật duy nhất điều chỉnh tất cả các loại hình tổ chức này. Cần khuyến khích phát triển rộng rãi các doanh nghiệp dân doanh ở NT, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi đây là lực lượng chủ lực tạo việc làm mới, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu lao động ở NT. Bên cạnh đó, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn.
- Thứ ba: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển NN, NT. Theo đó, cần đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển ngành và vùng theo nguyên tắc xác định các hướng sản xuất- kinh doanh trên cơ sở lợi thế so sánh của ngành và vùng. Cần có kế hoạch phối hợp giữa các ngành chuyên môn ở từng vùng, đồng thời có kế hoạch phối hợp hoạt động của các ngành chuyên môn với các cấp chính quyền ở nông thôn liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính công. Quy hoạch ngành và vùng cần được xây dựng gắn kết và đồng bộ với các quy hoạch khác ở nông thôn như: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, làng, xã, thị trấn; quy hoạch xây dựng các trung tâm thương mại, chợ, khu, cụm công nghiệp, làng nghề… ở nông thôn.
- Thứ tư: Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào phát triển NN và kinh tế NT, nâng cao năng suất của từng người lao động NN, nâng cao thu nhập của từng hécta đồng ruộng, của từng hộ nông dân. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc nhập khẩu các công nghệ hiện đại, các loại giống tốt, đầu tư cho việc hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng dụng KH-CN mới vào thực tiễn sản xuất- kinh doanh trong NN, NT, có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển KH-CN phục vụ NN, NT và thực hiện xã hội._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0182.doc