Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp & nông thôn

Tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp & nông thôn: Lời nói đầu Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh, hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định, phải “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”. Trong những năm gần đây, nhờ có “ đổi mới... Ebook Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp & nông thôn

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp & nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
”, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy, nông nghiệp và nông thôn hiện nay đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt: Một là, kết qủa sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, cho đến nay ta chưa chủ động hạn chế được. Hai là, trình độ sản xuất và công nghệ còn thấp kém, năng suất chất lượng hàng nông, lâm, thuỷ sản, nhất là hàng chế biến xuất khẩu chưa đủ sức cạnh tranh trong hội nhập với khu vực và thế giới. Ba là, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông và thị trường giao lưu hàng hoá phát triển chậm, làm cho nông sản hàng hoá tuy chưa nhiều nhưng tiêu thụ đang rất khó khăn, người sản xuất dễ bị thua lỗ. Bốn là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm và cơ bản vẫn là thuần nông, tỷ trọng ngành nghề dịch vụ còn rất thấp. Năm là, tốc độ tăng dân số ở nông thôn còn ở mức cao và cao hơn thành thị, lao động, việc làm, thu nhập đang là vấn đề bức xúc hiện nay ở nông thôn. Đứng trước những vấn đề trên, đẩy nhanh tiến độ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là nhu cầu rất cấp thiễt. Nội dung I, Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 1. Cơ sở lí luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.1. Vấn đề lí luận chung. Mỗi một phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật ( CSVC-KT ) tương ứng. CSVC-KT của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật ( công nghệ ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội. Căn cứ để đánh giá trình độ CSVC-KT của một phương thức sản xuất là: +Trình độ của lực lượng sản xuất. + Trình độ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ. CSVC-KT của các phương thức sản xuất ( PTSX ) trước chủ nghĩa tư bản( CNTB ) là các công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu. CSVC-KT của CNTB là nền đại công nghiệp cơ khí hoá. Chỉ đến khi xây dựng xong nền đại công nghiệp cơ khí hoá, CNTB mới khẳng định được sự chiến thắng của nó đối với các PTSX trước đó. Trong lịch sử, CNTB lần đầu tiên khẳng định được địa vị thống trị của nó ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, khi mà cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất được hoàn thành: lao động thủ công được thay thế bằng lao động cơ khí hoá. Về mặt lôgic, CNXH là giai đoạn đầu của một PTSX mới cao hơn CNTB, vì vậy nó đòi hỏi phải có một CSVC-KT mới cao hơn, tức là CSVC-KT đó không chỉ là nền đại công nghiệp cơ khí mà CNTB đã đạt được vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới làm biến đổi một cách sâu sắc cơ cấu lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế. Những dạng vật chất truyền thống đang dần được thay thế bằng những dạng vật chất nhẹ, ngắn, mỏng, thấp với những tính năng và tác dụng đôi khi vượt quá sức tưởng tượng của con người. Cơ cấu kinh tế cũng đang có sự biến đổi sâu sắc: Tỷ trọng của các nghành sản xuất vật chất trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm, tỷ trọng các nghành dịch vụ và phi sản xuất vật chất khác ngày càng tăng nhanh hơn. Năng suất lao động tăng nhanh nhưng liền với đó là tính vô chính phủ trong phát triển kinh tế của CNTB cũng bộc lộ ngày càng gay gắt. Điều đó nói lên rằng, những đIều kiện vật chất mà CNTB đã tạo ra là to lớn nhưng vẫn chưa hội tụ đủ những yếu tố cần thiết cho CSVC- KT của CNXH. CSVC-KT cho CNXH đòi hỏi phải hội tụ đủ yếu tố hiện đại của cách mạng khoa học và công nghệ, yếu tố kế hoạch để khắc phục cho tính vô chính phủ của nền kinh tế TBCN. Do vậy, có thể hiểu CSVC- KT của CNXH sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học – công nghệ hiện đại, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả các nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đều phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH. Đây là một quy luật kinh tế mang tính phổ biến, xuất phát từ yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 1.2. Nội dung của công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam: Trước đây một thời gian dài với quan niệm truyền thống về công nghiệp hoá, chúng ta thường xác định nội dung của công nghiệp hoá theo trình tự: Tiến hành cách mạng khoa học – kỹ thuật để xây dựng CSVC- KT cho CNXH Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ, phải “phải tự lực cánh sinh là chính ” thì đó là một trình tự hợp lý để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, khoảng thời gian để cho một phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đối với cả những nước phát triển. Sự phát triển của một quốc gia không thể tách rời với sự phát triển của cộng đồng thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Điều này cho phép một nước đi sau không nhất thiết phải làm tất cả những công việc mà các nước đi trước đã trải qua. Thực tế cho thấy những thành tựu khoa học – công nghệ, về quản lý..v.v.. của các nước đi trước chỉ có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà những nước đi sau đã có sự chuẩn bị kỹ càng để đón nhân. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau cần phải làm những gì để tiếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà những nước đi trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của các nước NICS đã chỉ ra rằng: Việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài nhằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu của những nước đI trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với một nước lạc hậu. Với quan niệm mới như vậy, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần được sắp xếp theo một trình tự mới như sau: Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài. 1.2.1. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý: Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân công lại lao động – xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và trong từng vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động có tác động rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với khoa học và công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình CNH,HĐH cần phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau: Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số lao động công nghiệp ngày một tăng lên. Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hôị. Ba là, tốc độ tăng lao động trong các nghành phi sản xuất vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các nghành sản xuất vật chất. Đi đôi với quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới cũng dần được hình thành. Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế; gắn với vị trí, trình độ kỹ thuật công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã được hoạch định. Cấu trúc của cơ cấu kinh tế bao gồm: + Cơ cấu nghành nghề. + Cơ cấu vùng kinh tế. + Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị. + Cơ cấu thành phần kinh tế Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu sau: Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế; cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước; sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp; phù hợp với xu thế của cách mạng khoa học – công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và đem loại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 1.2.2. Đẩy mạnh cuộc cách mạng và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mơí từ nước ngoài: Cho tới nay thế giới đã 2 lần trải qua cách mạng về kỹ thuật và công nghệ, lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, được thực hiện đầu tiên ở nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ 2 với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được bắt đầu từ giữa thế kỷ XX mà nội dung của nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó có thể chỉ ra các nội dung nổi bật sau: + Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất. + Hai là, cách mạng về năng lượng: Bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người sử dụng trước kia như nhiệt đIện, thuỷ đIện, thì ngày nay con người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời. + Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay, ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần. + Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học: Các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái. + Năm là, cách mạng về điện tử và tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay loài người đang đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử. Như vậy, khái niệm công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là bí quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó khi nói tới công nghệ thì cũng sẽ bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: Khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai trò rất to lớn đối với sự nghiệp CNH,HĐH trong tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, cách thức tiến hành ở những nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các nghành kinh tế trong nước, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ, cũng có nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Thực ra việc kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là cần thiết đối với bất cứ quốc gia nào, nếu như muốn đạt trình độ phát triển cao. Song kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước NICS trong thời kỳ tiến hành CNH, xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chứng minh rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm (quy trình, phương pháp công nghệ) từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao công nghệ chỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược CNH hướng ngoại, “ hướng vế xuất khẩu”. Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau: Một là, rút ngắn khoảng cách tụt hậu của các nước chậm phát triển so với các nước phat triển. Hai là, tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh. Ba là, đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình chiến lược CNH hướng nội, “thay thế nhập khẩu” sang mô hình chiến lược CNH hướng ngoại, “hướng về xuất khẩu” thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao. ở Việt Nam sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH theo kiểu Liên Xô (cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về CNH của các nước trên thế giới và trong khu vực để chuyển sang mô hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào qua trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và trong khu vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với các nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, chậm so với Đài Loan từ 20-30 năm ở vào thời đIểm bắt đầu CNH. Vì vậy tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra, tránh để không cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển. Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn phảI xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia mang tính tổng thể lâu dài, bao cả nghiên cứu, chuyển giao, thử nghiệm và ứng dụng, bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển vững chắc và lâu bền của đất nước, Đại Hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam – 4/2001 đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: ”Phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.” 2.Về công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và hội nghị trung ương lần thứ bảy (khoá VII), công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Quá trình công nghiệp hoá nông thôn bao gồm: + Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công; + áp dụng phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp và nông thôn; + Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn. Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất – dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông nghiệp còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cảI tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ. Hiên đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn cả việc bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, y tế, và các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc, mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ và tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới. Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. II. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: 1.Vì sao phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: ở nước ta, 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực lượng lao động xã hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nếu không phát triển nông thôn thỉ không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Các nước công nghiệp phát triển hiện nay cũng đã phải giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và phát triển các đô thị, với công nghiệp hóa, hiện đại hoá và cả đô thị hoá nông thôn. Những nước chưa giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng đang phải trả giá bằng những hành động khắc phục hậu quả của lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đây. Vừa qua, không chỉ các nhà kinh tế thế giới bàn luận nhiều về vấn đề này, mà nhiều tổ chức quốc tế cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm : Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao khả năng đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh loch ngày càng lớn và thực tế là sau khi đưa vào chế biến nông nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều. Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi đó thị trường trong nước, thị trường nông thôn có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt. Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, khắc phục sự chênh loch không đáng có giữa các địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 5 triệu người đang cần có việc làm hoặc có thêm việc làm, riêng ở nông thôn, ngoài số lao động có việc làm thường xuyên, còn phải giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động lúc nông nhàn. Khắc phục tình trạng này là một nhiệm vụ đặt ra cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. ở đây cần khắc phục quan niệm cổ điển xem việc đưa máy móc thiết bị tiến hành công nghiệp hoá nông thôn là làm giảm bớt số lao động ở nông thôn. Bởi lẽ nó sẽ làm giảm số lao động trực tiếp thực hiện công việc trước đay phải làm thủ công, xong lại tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho các hoạt động khác. + Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi. 2.Thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. 2.1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng,đặc biệt là lương thực,nhưng chất lượng nông sản còn thấp,khả năng cạnh tranh yếu,hiệu quả thấp. Từ năm 1981 đến nay,nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5 % là tốc dộ phát triển khá cao.Sản xuất lương thực đã tăng nhanh,khắc phục được tình trạng thiếu lương thực và có dư để xuất khẩu.Đồng thời,trong những năm gần đây,sản xuất các mặt hàng nông sản khác đều tăng nhanh so với nhu cầu trong nước; hàng hoá cần được xuất khẩu cũng tăng nhanh.Hiện nay chúng ta chỉ còn phải nhập khẩu với số lượng đáng kể 6 mặt hàng nông sản gồm: bông,dầu thực vật,sữa bò,thịt bò cao cấp,bột giấy và gỗ. Do vậy,giá cả hàng nông sản trong nước nói chung phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu.Trong thời gian vừa qua,nhiều nơi,nhiều lúc giá một số mặt hàng nông sản như lúa gạo,hoa quả,thịt lợn,thịt gà đã xuống thấp,chủ yếu do xuất khẩu kém hiệu quả. Do vậy trong hệ thống các biện pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thì việc tiêu thụ sản phẩm phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để làm được việc này,đối với sản xuất nông nghiệp cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu và chất lượng giống,áp dụng các qui trình và công nghệ tiên tiến và đồng bộ từ sản xuất đến chế biến,bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá,trong đó phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu là yếu tố hết sức quan trọng.Đồng thời, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản nước ta,thì trên cơ sở đa dạng hoá sản xuất,tập trung phát triển những mặt hàng chiến lược dựa vào những lợi thế so sánh của cả nước và từng vùng. 2.2 Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như:lúa,cao su,cà phê, điều,mía,rau quả,lợn,bò,tôm,cá,nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán,manh mún;quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé,trước mắt có thể có hiệu quả,nhưng về lâu dài là trở ngại lón cho quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp. Trong khi các vùng chuyên canh cao su,cà phê và chè đã khá ổn định thì các vùng chuyên canh khác còn đang trong quá trình hình thành,ít về số lượng và nhỏ bé về qui mô,lại chưa ổn định.Các vùng cây ăn quả,chăn nuôi gia súc chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống,thiếu sự tác động của khoa học công nghệ,chưa đáp ứng được các yêu cầu nguyên liệu của công nghiệp. Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ dân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ và có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún,quả thật chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công,nếu không sử lý thì không thể công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,nhất là đồng bằng sông Hồng và miền Trung. 2.3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá,hoá học hoá,cơ khí hoá,điện khí hoá và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học,nhưng cơ sở hạ tầng còn thấp kém,lao động thủ công vẫn còn phổ biến,trình độ khoa học công nghệ còn thấp,thua kém nhiều nước trên khu vực và thế giới Trong nhiều năm qua,Nhà nước và nhân dân đã đầu tư lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn.Tới năm 1995,các công trình thuỷ lợi đã tưới cho 3 triệu ha đất canh tác ( chiếm 53 % ),tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho hơn 2 triệu ha; có 94 % số xã có đường ô tô tới khu trung tâm; 63 % số xã với 51 % số hộ đã có điện để dùng.Tuy vậy,chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp,cần tiếp tục tu bổ,nâng cấp và xây dựng mới.Đường được dùng cho bơm nước,các cơ sở chế biến ngành nghề và thắp sáng,nhưng mức độ sử dụng còn thấp,chất lượng đIện nông thôn kém. Trình độ cơ giới hoá còn thấp,tỷ lệ cơ giới hoá làm đất mới đạt 26 %,riêng đồng bằng sông Cửu Long đạt 60 %. Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta cũng ngày càng tăng,nhưng so với thế giới vẫn chỉ thuộc nhóm các nước trung bình. Mặc dù các loại hoá chất đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông phẩm,nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường, do vậy cần được quản lí và hướng dẫn chặt chẽ để sử dụng hợp lý. Về ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học: trong 10 năm gần đây đã tạo ra được nhiều giống lúa, ngô, rau, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nhất là các loại giống lai cho năng suất cao. Những tiến bộ khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi và thuỷ sản như :lợn có tỷ lệ lạc cao, sinh hoá có thể trọng lớn và gà công nghiệp có tốc độ sinh trưởng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn cũng đã được cung cấp rộng rãi. Tuy nhiên, trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học của nước ta còn thấp so với các nước láng giềng. 2.4. Công nghiệp chế biến nông lâm sản đã có bước tiến bộ đáng kể nhưng còn nhỏ bé và có trình độ thấp. + Về chế biến nông sản. Nhìn chung, công nghiệp chế biến nông sản của nước ta đã bước đầu vượt qua được những khó khăn của thời kì đầu chuyển sang cơ chế thị trường và đã có một số tiến bộ. Những năm vừa qua, là thời kì tập trung cao cho công nghiệp chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và công suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng nhanh, đặc biệt là công nghệ chế biến mía đường. Các doanh nghiệp cũng đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận thị trường trong và ngoài nước,bố trí lại sản xuất,đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt hàng (3 loại chè đen và 4loại chè hương),nay đã có 45 mặt hàng chè tham gia vào thị trường;về cà phê, ngoài cà phê nhân đã có các mặt hàng cà phê hoà tan, cà phê rang xay xuất khẩu;mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn. Sản lượng công nghiệp chế biến nông sản cũng đã tăng đáng kể: sản lượng ngô,gạo qua chế biến là 12,5 triệu tấn,tăng 4,5 triệu tấn so với 5 năm trước đó;đường mật các loại 393.000 tấn,tăng 70.000 tấn. Đặc biệt là gạo chất lượng cao đã tăng rất nhanh chiếm 75 %, làm thay đổi hẳn cơ cấu và giá trị gạo xuất khẩu ở nước ta. Như vậy, giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục tăng với tốc độ cao, giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4 % năm, giá trị sản lượng chế biến thực phẩm tăng 12,7 % năm. Tuy nhiên,trong lĩnh vực chế biến nông sản cũng còn nhiều mặt yếu kém, nổi bật là: tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn thấp,chỉ đạt 30 % sản lượng mía,gần 60 % chè, dưới 20 % rau quả. Phần lớn các cơ sở chế biến lúa, gạo,chè được xây dựng đã lâu, thiết bị và quy trình công nghệ lạc hậu.Tuy nhiên, hiện nay đã có một số nhà máy mới được xây dựng có máy móc thiết bị tương đối hiện đại,nhất là các cơ sở liên doanh hay đầu tư vốn nước ngoài, nhưng số lượng các cơ sở này chưa nhiều.Chất lượng nông sản chế biến chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém,làm cho nông dân nước ta phải chịu nhiều thua thiệt. + Về chế biến lâm sản Đến nay, công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng lưới toàn quốc, gồm hơn 800 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 271, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 473,doanh nghiệp liên doanh với nước ngoàI là 30. Tuy các doanh nghiệp đã cố gắng đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị công nghệ mới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản phẩm,nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta đang ở trình độ thấp, sản xuất chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, nguyên liệu chủ yếu là gỗ rừng tự nhiên;tỷ lệ thành phẩm thấp;sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại từ gỗ nguyên chiếm tỷ lệ 68,5 % ; đồ mỹ nghệ 3,0 %.ván nhân tạo chỉ đạt11,3%. Mặc dù vậy,việc kết hợp sử dụng nhân công với tay nghề truyền thống cao, hàng lâm sản chế biến của nước ta đã cạnh tranh chiếm lĩnh có hiệu quả thị trường của một số mặt hàng,như thị trường đồ gỗ ngoàI trời ở EU. 2.5. Ngành nghề nông thôn đang phát triển nhanh ,đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn,nhưng công nghệ,kỹ thuật,chất lượng sản phẩm còn thấp. Hiện nay ở nông thôn nước ta có nhiều cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo và sửa chữa cơ khí, rèn đúc, xây dựng,dệt, may,thêu ren,làm đồ gốm,sứ,thuỷ tinh,da, nhựa,giấy,thủ công mỹ nghệ và dịch vụ.Cả nước có khoảng 300 làng nghề,trong đó có hơn 100 làng nghề truyền thống.Đại đa số các hộ và cơ sở ngành nghề phân tán rảI rác khắp nơI trong nước dưới các hộ và cơ sở chuyên ngành nghề và các hộ kiêm. Qua điều tra ở 9 tỉnh cho thấyhiện có tới 15,tổng số hộ hoặc cơ sở chuyên và 24,3 % hộ kiêm ngành nghề,thu hút số lượng lao động lớn.Trong đó,60,6 % số hộ và cơ sở này được hình thành từ năm 1989 trở lại đây,tốc độ tăng bình quân 8,6 %/ năm,riêng 4 năm gần đây tăng 10 %/ năm. Bình quân môĩ cơ sở chuyên ngành nghề tạo ra được việc làm ổn định cho 25 lao động,còn mỗi hộ chuyên ngành nghề cho 4-6 lao động.Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề là 430 nghìn đồng/ tháng, ở hộ chuyên : 236 nghìn đồng/ tháng,bằng 1,6 – 3,9 lần so với lao động thuần nông. Các hộ ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động gia đình.Trình độ văn hoá và ngành nghề của người lao động thấp.Bên cạnh một số nghệ nhân có tay nghề cao,thì 55 % lao động trong các cơ sở chuyên ngành chưa qua đào tạo,36 % không có chuyên môn kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và các ngành nghề ở nông thôn rất thấp,chỉ có 18,6 % các cơ sở có nhà xưởng kiên cố;85 % có sử dụng điện;37 % công việc được cơ khí hoá,còn 63 % làm bằng tay. Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp,chủ yếu là vốn tự có.Bình quân một cơ sở có 370 triệu đồng,1 hộ chuyên : 36 triệu đồng ,1 hộ kiêm:10 triệu đồng,trong đó,vốn vay c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10235.doc
Tài liệu liên quan