MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do xuất phát điểm từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, với 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn, cho thấy Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo, lạc hậu... vì thế phát triển công nghiệp chế biến nông sản mà đặc biệt là CNCBNSXK là một nội dung quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. Nó trực tiếp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động,
119 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2393 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nâng cao giá trị nông phẩm hàng hóa và do đó thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng chỉ rõ: Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản [9]. Tại Hội nghị của BCH TW Đảng lần thứ 4 - khóa VIII đã nhấn mạnh: “ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển nguồn nguyên liệu nông sản, thủy sản, sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng…” [12, tr.55].
Bình Phước là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đất đai màu mỡ, phần lớn là đất đỏ bazan chất lượng tốt rất thuận lợi phát triển các loại cây công nghiệp nhiệt đới dài ngày như cao su, điều, cà phê,… Đây là những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chủ lực có tỷ suất hàng hóa cao. Nhiều cơ sở chế biến nông sản xuất khẩu trên địa bàn đã được xây dựng và hoạt động, tuy nhiên so với tiềm năng thì công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở tỉnh còn quá mỏng, phát triển nhỏ lẻ manh mún, tự phát, sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường, khai thác chưa hiệu quả tiềm năng vốn có, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở sơ chế, sản phẩm đơn điệu. Thêm vào đó là tình trạng tranh mua tranh bán, gian lận, trốn thế đã gây ra sự mất cân đối giữa các khâu sản xuất - chế biến và tiêu thụ, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế - xã hội cũng như thương hiệu nông sản Bình Phước. Chính vì vậy việc nghiên cứu vấn đề “Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Bình Phước” là cần thiết và được chọn làm đề tài luận văn cao học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là một nước nông nghiệp nên vấn đề phát triển công nghiệp chế biến ở nước ta đã được nhiều người quan tâm. Trong những năm gần nay đã có một số luận văn, luận án lấy chủ đề này làm đề tài nghiên cứu như:
- Luận văn thạc sĩ của Lê Minh Quang (2000) - Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền Giang hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ của Đỗ Quốc Bình (2000) - Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị của Bua Không Nam Ma Vông (2001) -Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
- TS. Mai Thị Thanh Xuân, Ths. Ngô Đăng Thành (2006): Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết có liên quan như:
- Nguyễn Kế Tuấn, (2004) “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu” Kinh tế và phát triển, số 82, tr6 - 8
- Nguyễn Quốc Hùng (2002), “Giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta hiện nay”, Ngân hàng, số 9
- Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Công nghiệp chế biến với việc nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu”, Nghiên cứu kinh tế số 10
Nhìn chung tất cả các công trình nghiên cứu và bài viết nói trên với cách tiếp cận và giải quyết vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau chủ yếu nêu lên sự cần thiết phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Chưa có công trình nào nghiên cứu CNCBNSXK, đặc biệt là CNCBNSXK trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy đề tài mà luận văn lựa chọn nghiên cứu không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ lợi thế của CNCBNSXK ở Bình phước hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp góp phần đưa CNCBNSXK ở Bình Phước phát triển, từng bước chủ động trong xu thế hội nhập và hội nhập hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích vai trò của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế nói chung và của một tỉnh nông nghiệp như Bình Phước nói riêng.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của việc phát triển CNCBNSXK của tỉnh Bình Phước
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản để phát triển CNCBNSXK của Bình Phước trong thời gian tới (đến năm 2015).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Bình Phước mà trong đó đặc biệt chú trọng công nghiệp chế biến cao su, hạt điều và tinh bột sắn (bột mì).
- Phạm vi nghiên cứu: từ năm 2000 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hình thành trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước. Đồng thời luận văn cũng tham khảo, kế thừa và sử dụng có chọn lọc thành quả nghiên cứu của một số tác giả có liên quan.
Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mácxít, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Cùng với việc nêu ra những đặc trưng, vị trí, vai trò của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu trong phát triển kinh tế - xã hội, luận văn cũng chú trọng phân tích và làm rõ các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế ngành với phát triển kinh tế vùng và quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở phân tích, thực trạng CNCBNSXK ở Bình Phước thời gian qua, luận văn trình bày một số giải pháp cơ bản để phát triển CNCBNSXK ở Bình Phước giai đoạn đến năm 2015
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU
1.1. CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1.1. Một số đặc trưng của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu
Theo Nghị định 75/CP của Chính phủ ngày 27 - 10 -1993 về quy định hệ thống ngành kinh tế quốc dân cấp I và Quyết định 143 - TCTK/PPCH ngày 22-12-1993 của Tổng cục Thống kê về hướng dẫn việc thi hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân cấp II, II, IV thì các ngành công nghiệp ở Việt Nam được chia thành bốn nhóm như sau:
- Công nghiệp khai thác mỏ;
- Công nghiệp chế biến;
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt;
- Công nghiệp xây dựng.
Với phân loại này, công nghiệp chế biến là một ngành kinh tế - kỹ thuật độc lập, thuộc nhóm ngành thứ hai trong bốn nhóm ngành của công nghiệp, có chức năng làm biến đổi hình thái tồn tại (tức chế biến) các sản phẩm đầu ra của các ngành công nghiệp khác.
Như vậy, có thể hiểu công nghiệp chế biến là hoạt động làm biến đổi hình dạng của đối tượng lao động từ nguyên liệu thành các sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng. Với cách hiểu như vậy, công nghiệp chế biến là bước đi sau, kế tiếp của công nghiệp khai thác.
Theo cách phân loại phổ biến hiện nay thì công nghiệp chế biến lại bao gồm: công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm; công nghiệp dệt và may mặc; công nghiệp chế biến lâm sản và đồ gỗ; công nghiệp sản xuất giấy và in; công nghiệp hóa dầu; công nghiệp luyện kim; công nghiệp chế biến các khoáng sản không phải kim loại..., trong đó các ngành chế biến sản phẩm của nông nghiệp được gọi là công nghiệp chế biến nông sản.
Như vậy, công nghiệp chế biến nông sản là một phân ngành của công nghiệp chế biến, nó thực hiện các hoạt động bảo quản gìn giữ, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng và giá trị nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp (gồm cả nông, lâm sản và thủy sản) bằng phương pháp công nghiệp. Nói cách khác, nếu công nghiệp có ba vị trí trong cơ cấu kinh tế nông thôn là: đứng trước sản xuất nông nghiệp, song song với sản xuất nông nghiệp và đứng cuối quy trình sản xuất nông nghiệp thì công nghiệp chế biến nông sản đứng ở vị trí thứ ba. Công nghiệp chế biến nông sản xuất hiện đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Công nghiệp chế biến nông sản lại cũng rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, trình độ kỹ thuật - công nghệ... Nếu căn cứ vào công dụng của sản phẩm cũng như nguyên liệu chế biến thì công nghiệp chế biến nông sản bao gồm các ngành hẹp như: ngành chế biến lương thực; ngành chế biến trái cây, thức uống; ngành chế biến các loại cây công nghiệp; ngành chế biến thức ăn gia súc, gia cầm; ngành sản xuất chế biến đường, bánh kẹo; ngành chế biến thịt sữa và các sản phẩm từ thịt, sữa; ngành chế biến rau quả...
Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu là một bộ phận của công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất những sản phẩm cung cấp cho thị trường ngoài nước.
Là một bộ phận của công nghiệp chế biến nông sản, nên ngoài những đặc điểm chung thì công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu có những đặc trưng riêng mà việc nhận thức đúng đắn chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đúng vị trí, vai trò đó là:
Thứ nhất, nguồn nguyên liệu của CNCBNSXK xuất phát từ lợi thế tuyệt đối (điều kiện tự nhiên...) và lợi thế so sánh (chi phí cơ hội thấp) của nền kinh tế trong phân công lao động quốc tế, trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Mỗi một quốc gia đều có một nguồn lực nhất định và lượng tài nguyên sẵn có như nguồn lao động, nguồn đất đai, tài nguyên và khoáng sản, nguồn vốn, công nghệ và truyền thống, kinh nghiệm về sản xuất kinh doanh, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết thuận lợi... Nguồn lực đó có giới hạn và luôn gắn liền với sự khan hiếm. Muốn sản xuất ra một mặt hàng nào đó với số lượng bao nhiêu, nhiều hay ít, giá thành sản phẩm và chất lượng hàng hóa như thế nào... nền kinh tế đó phải có sự lựa chọn, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý nhằm phát triển sản xuất và thu được lợi nhuận tối đa. Xét trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội thì đương nhiên các nước sẽ lựa chọn, tiến hành sản xuất chuyên môn hóa ra những mặt hàng có lợi thế lớn nhất, vừa phát huy được các lợi thế sẵn có, lại vừa tiết kiệm được nguồn lực, sẽ đạt được lợi ích tối đa...
Lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chính là nguồn gốc của thương mại quốc tế. Với những nước có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh trong việc sản xuất các mặt hàng nông sản thì ở đó sẽ tập trung phát triển nông nghiệp phục vụ xuất khẩu và đặc biệt là CNCBNSXK. CNCBNSXK chính là điều kiện giúp cho các nước khai thác lợi thế hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, sản phẩm của CNCBNSXK phải gắn liền với nhu cầu của thị trường quốc tế nên khó tính, đòi hỏi sức cạnh tranh cao.
Do tâm lý, tập quán tiêu dùng cũng như mức thu nhập, sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, môi trường... khác nhau nên nhu cầu tiêu dùng, sử dụng nông sản chế biến cũng có xu hướng khác nhau. Xã hội càng phát triển lượng nông sản chế biến xuất khẩu ngày càng tăng. Hiện nay có hai xu hướng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển dễ nhận thấy đó là: tăng cường sử dụng các loại nông sản tươi sạch; tăng cường sử dụng các loại nông sản đã qua chế biến. Hai xu hướng này làm cho các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, về đảm bảo chất dinh dưỡng, đảm bảo thời hạn sử dụng, đảm bảo quy trình kỹ thuật chế biến,... ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn. Điều này vừa có lợi cho CNCB nông sản nước ta trong cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài (do phần lớn sản phẩm nông nghiệp của ta vẫn mang tính sản phẩm tự nhiên), nhưng đồng thời cũng tạo ra những tác động bất lợi khác, đặc biệt là do công nghệ lạc hậu, không giải quyết được những yêu cầu mới nảy sinh.
Thứ ba, quy trình công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu phải theo quy định môi trường.
Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu thường được tiến hành qua hai giai đoạn: giai đoạn sơ chế - bảo quản và giai đoạn chế biến công nghiệp. Đặc trưng này thường do đặc tính sinh hóa của nguồn nguyên liệu quy định.
- Giai đoạn sơ chế và bảo quản được tiến hành ngay sau khi thu hoạch, có thể nằm ngoài các xí nghiệp chế biến, chủ yếu sử dụng lao động và phương pháp thủ công với phương tiện bảo quản và vận chuyển chuyên dùng. Giai đoạn sơ chế và bảo quản có mục tiêu nhằm hạn chế mức độ tổn thất sau thu hoạch và đảm bảo chất lượng nguyên liệu nông sản đưa đến xí nghiệp chế biến. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, thứ hạng sản phẩm ở giai đoạn sau.
- Giai đoạn chế biến công nghiệp diễn ra trong các xí nghiệp nhà máy chế biến. Nó sử dụng lao động kỹ thuật cùng với máy móc thiết bị công nghệ cao hơn Do đó, đây cũng là giai đoạn quyết định chất lượng sản phẩm chế biến và mức độ gia tăng giá trị của sản phẩm.
Nông sản chế biến xuất khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng tiêu dùng quốc tế, vì vậy đòi hỏi sản xuất chế biến ở cả hai giai đoạn phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt về tiêu chuẩn môi trường. Cụ thể là các sản phẩm phải đảm bảo độ an toàn, kích thước, kiểu dáng và các yêu cầu về đóng gói nhãn mác; quy định về phương pháp chế biến sản phẩm nhằm hạn chế chất thải ô nhiễm và lãng phí tài nguyên không tái tạo. Đây là những quy định và tiêu chuẩn đối với quy trình công nghệ, quá trình chế biến nông sản xuất khẩu nhằm bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ sức khỏe, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường. Việc áp dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt là một khó khăn lớn đối với những doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, nhất là trong xu thế hội nhập các tiêu chuẩn này được áp dụng rất khác nhau ở các nước, chính vì vậy nó có thể tạo ra những rào cản trong xuất khẩu.
Trong bối cảnh gia tăng các vấn đề môi trường toàn cầu, nhu cầu về các sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng cao thì việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường là một trong những công cụ để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, uy tín doanh nghiệp và quốc gia, song đó cũng là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp.
Thứ tư, CNCBNSXK phát triển trong sự gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp nên mang tính thời vụ cao.
Nguyên liệu chính của CNCBNSXK là nông phẩm, giá trị của nguyên liệu thường chiếm từ 70- 80% giá thành sản phẩm. Vì vậy, quy mô cơ cấu và tốc độ phát triển của CNCBNSXK phụ thuộc rất lớn vào quy mô, tính chất và trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, là một bộ phận của ngành chế biến các sản phẩm của nông nghiệp nên CNCBNSXK lại góp phần đảm bảo đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo động lực cho nông nghiệp phát triển. Tác động này sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường. Vì vậy, nếu thế mạnh của nông nghiệp nước ta là sản xuất nhiều loại nông phẩm nhiệt đới thì việc phát triển CNCBNSXK sẽ tạo điều kiện khai thác ngày càng tốt và có hiệu quả hơn thế mạnh đó.
Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp hiện nay thường phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, sinh thái nên nguồn nguyên liệu cung cấp cho CNCBNSXK cũng phụ thuộc các điều kiện đó. Lúc được mùa nguyên liệu cung cấp nhiều, khi mất mùa nhà máy thiếu nguyên liệu. Khi vào vụ thu hoạch nhà máy hoạt động hết công suất, sau mùa vụ nhà máy đóng cửa. Điều này phản ánh tính chất thời vụ của CNCBNSXK, do đó đã làm cho một lượng vốn lớn đầu tư vào lĩnh vực này hiệu quả đầu tư không cao.
Thứ năm, sản phẩm của CNCBNSXK rất phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng và mức độ chế biến.
Do tác động của các nhân tố liên quan đến sản xuất nông nghiệp, về trình độ kỹ thuật và công nghệ của ngành chế biến nông sản, về nhu cầu, thị hiếu, cũng như sức mua của thị trường ngoài nước... nên nông sản được chế biến thành nhiều loại khác nhau, phù hợp với từng đối tượng tiêu dùng khác nhau. Nói tóm lại, thông qua công nghiệp chế biến, từ một sản phẩm nông, lâm, thủy sản có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, có những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm nông nghiệp, từ đó nâng cao mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội. Đặc trưng này càng nổi bật hơn nữa ở nước ta do đa dạng hóa hệ sinh thái.
Các đặc trưng trên quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất; phản ánh mối quan hệ giữa trình độ khoa học - công nghệ với thị trường. Cần nhận thức đúng đắn các đặc trưng trên và mối quan hệ giữa chúng để tác động có hiệu quả đến sự phát triển của CNCBNSXK.
1.1.2. Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu
* Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội:
Thứ nhất, công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu tạo sự đa dạng của giá trị sử dụng, kéo dài vòng đời của nông phẩm, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Sản xuất càng phát triển thì nhu cầu xã hội về nông sản chế biến ngày càng tăng và một khi nhu cầu đã phát triển thì nó lại là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Công nghiệp chế biến nông sản tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng đa dạng. Từ hạt điều qua chế biến ta có nhân hạt điều, dầu từ vỏ hạt điều, ván ép; từ mủ cao su qua chế biến có được các sản phẩm mủ ép, keo dán, vỏ ruột xe...
Tuy nhiên, một khi trình độ công nghệ chế biến còn kém phát triển thì các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu chỉ được tiêu dùng dưới dạng thô, hoặc sơ chế. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự nghèo nàn đơn điệu về chủng loại giá trị sử dụng. Khi công nghiệp chế biến phát triển, sản phẩm được chế biến đa dạng hơn, hấp dẫn hơn, do đó đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, nó làm tăng sức mua của xã hội cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy công nghiệp chế biến đã có vai trò “khuếch đại” giá trị sử dụng và đồng thời làm tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp, làm cho nó trở thành dạng sản phẩm mới, cạnh tranh được trên thị trường, nâng cao được hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp. Lương thực - thực phẩm là những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống con người. Khi thu nhập còn thấp thì nhu cầu tiêu dùng của con người về lương thực - thực phẩm mới chỉ dừng lại ở dạng sản phẩm thô hoặc sơ chế; còn một khi thu nhập tăng lên, mức sống được cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng của con người sẽ không dừng lại ở đó, mà thay vào đó là các mặt hàng lương thực, thực phẩm đã qua chế biến, thậm chí qua chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh chế cao, với chủng loại đa dạng, chất lượng ngày càng tốt, và đặc biệt là phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Hơn nữa, do nhịp sống của xã hội công nghiệp ngày càng khẩn trương hơn thời gian dành cho việc tự chế biến thực phẩm bị giảm đi, thì người ta càng cần nhiều các sản phẩm dùng ngay. Những sự thay đổi đó không chỉ là kết quả của sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản, mà nó cũng lại đặt ra yêu cầu cho việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản trở nên cần thiết và cấp bách hơn. Chính CNCB nông sản xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng nông sản. Sự tác động của CNCB nông sản xuất khẩu đã làm tăng giá trị sử dụng của nông sản, từ đó kích thích làm tăng cầu về sản phẩm nông nghiệp. Việc đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nông nghiệp hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, trong kinh tế thị trường, CNCBNSXK nâng cao giá trị thương phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông phẩm, của nền kinh tế
Đặc trưng chủ yếu của nông nghiệp tự nhiên, tự cung tự cấp là hầu hết nông phẩm sản xuất ra được tiêu dùng dưới dạng thô trong từng hộ gia đình. Số còn lại được sơ chế bằng phương pháp thủ công lạc hậu nên giá trị thấp và chủng loại giá trị sử dụng cũng rất ít. Trong kinh tế thị trường, để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa cần phải phát triển công nghiệp chế biến nông sản, đặc biệt là CNCBNSXK.
Theo Michael Dower, trong hoạt động kinh tế của mỗi vùng, mỗi ngành hay toàn bộ nền kinh tế nói chung đều bao gồm các hoạt động thuộc ba lĩnh vực chính là: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, hay công nghiệp... (hoạt động sản xuất chính); các hoạt động vận tải, chế biến... (hoạt động sản xuất thứ sinh); và hoạt động dịch vụ (hoạt động sản xuất thứ ba - hỗ trợ). Những loại hình hoạt động này có thể coi là những bước riêng biệt trong quá trình mà hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất ra và tới tay người tiêu dùng. Quá trình này được coi là một “chuỗi” các hoạt động kinh tế, trong đó mỗi mắt xích sẽ bổ sung thêm vào giá thành và vào giá trị sản phẩm hoặc dịch vụ một lượng giá trị. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành, sau khi tinh chế giá trị của nông sản trên thị trường thế giới có thể tăng lên từ 4 - 10 lần so với giá trị lúc chưa chế biến [13, tr.18]. Tính ra một tấn cà phê hòa tan trên thị trường quốc tế có giá trị bằng 10 tấn cà phê hạt, trong khi đó chỉ cần 3 đến 4 tấn cà phê hạt đã chế biến được một tấn cà phê hòa tan. Một tấn hạt điều thô bán được khoảng 800 USD, nhưng qua chế biến xuất khẩu thu được 4.800 USD [26, tr.136]. Điều đó cho thấy, hoạt động chế biến, xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nông sản hàng hóa. Nắm được nhiều “mắt xích” hơn trong “chuỗi” kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, để thực hiện được điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả doanh nghiệp và Nhà nước.
Tại Việt Nam, hầu hết các hoạt động kinh tế, nhất là tại các vùng nông thôn đều có xu hướng chỉ dừng lại ở giai đoạn đầu của “chuỗi” kinh tế ấy (tức chỉ dừng lại ở sản xuất ra sản phẩm thô, hoặc chỉ sơ chế). Còn giai đoạn sau của “chuỗi” (như chế biến, xuất khẩu...) hầu như rất ít được thực hiện, và nếu có cũng chỉ diễn ra chủ yếu ở các thị trấn, thị xã và các thành phố. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp ở nông thôn, đặc biệt là người nông dân, do chỉ dừng lại ở giai đoạn đầu nên họ chỉ có thể nhận được giá trị cơ sở cho những sản phẩm đầu tiên, trong khi đó giá trị gia tăng chủ yếu lại chỉ có được các khâu cuối. Nếu muốn kinh tế nông nghiệp mạnh lên rõ ràng chúng ta phải dựa vào sự phát triển của công nghiệp chế biến xuất khẩu để chiếm giữ được nhiều “mắt xích” hơn trong “chuỗi” kinh tế ở nông thôn. Bằng cách này, chúng ta sẽ bổ sung thêm giá trị cho hàng hóa và dịch vụ ở chính vùng nông thôn, và đây cũng là lời giải cho cái vòng luẩn quẩn của nông nghiệp, nông thôn - đó là: được mùa thì giá thấp, mất mùa thì không có gì bán - kết quả nông nghiệp, nông thôn nghèo vẫn luôn nghèo.
Khi nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, kỹ thuật và máy móc chế biến nông sản còn thô sơ thì vai trò tạo giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến chưa phát huy đầy đủ. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến thì ngành chế biến nông sản xuất khẩu luôn đóng vai trò quan trọng. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu kỹ thuật Mỹ, đầu thế kỷ XX, trong 100 USD mà người tiêu dùng mua sản phẩm từ nông nghiệp thì có 60 USD là giá trị do người nông dân làm ra, 40 USD là giá trị do ngành chế biến tạo nên. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, tỷ lệ này đã thay đổi rất lớn: chỉ có 20 USD là do nông dân làm ra, còn 78 USD là nhờ công đoạn chế biến [25]. Như vậy công nghiệp chế biến đã làm tăng giá trị của cùng một sản phẩm nông nghiệp lên 4 lần. Công nghệ chế biến càng tinh xảo, hiện đại, phong phú thì sản phẩm càng hấp dẫn và giá trị tăng thêm càng lớn.
Thứ ba, CNCBNSXK tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động mà chủ yếu là ở nông nghiệp, nông thôn.
Giải quyết việc làm tăng thu nhập là mục tiêu của nhiều nước. Việc phát triển CNCBNSXK sẽ góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn.
Sự phát triển của công nghiệp chế biến, nhất là những ngành có hệ số đầu tư thấp và trung bình như trong lĩnh vực nông nghiệp và ngành nghề ở nông thôn, sẽ cho phép thu hút thêm lao động tại chỗ trên địa bàn nông thôn ngày càng nhiều. Cho nên nếu tăng cường đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa thì sẽ tạo điều kiện cho nhiều người tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Sự phát triển công nghiệp chế biến, nhất là CNCBNSXK sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động sản xuất nông sản nguyên liệu, thu gom, bảo quản, vận chuyển, sơ chế nông sản,... góp phần khắc phục tình trạng “nông nhàn”, tạo ra sự biến đổi về cơ cấu lao động theo hướng tích cực.
Sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu đã làm giảm sức ép về lao động dư thừa ở nông thôn. Sự phát triển công nghiệp chế biến không những tạo thêm việc làm mà còn cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ người lao động. Phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển các vùng tập trung chuyên canh sản xuất nông sản nguyên liệu sẽ thúc đẩy việc cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao động ở nông thôn.
Như vậy, phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói chung và CNCBNSXK nói riêng đã tác động tích cực đến việc tổ chức, phân công lại lao động, thay đổi cơ cấu lao động theo hướng tỷ trọng lao động kỹ thuật tăng nhanh hơn tỷ trọng lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, khi mà vấn đề lao động và việc làm đang là một sức ép lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, góp phần phát triển phân công lao động xã hội, phân công lao động quốc tế.
CNCB nông sản, nhất là CNCBNSXK tồn tại và phát triển trên cơ sở nguồn nguyên liệu trong nước là chủ yếu. Nguồn nguyên liệu này được sản xuất trong môi trường không gian nhất định gắn với điều kiện nhất định về tài nguyên (mặt nước, khí hậu....). Sự phát triển của CNCB nói chung, CNCBNSXK nói riêng cho phép khởi động và phát huy tiềm năng lợi thế của mỗi vùng, mỗi khu vực trong việc sản xuất khai thác nguyên liệu. Nó tạo điều kiện phát huy truyền thống sản xuất và chế biến riêng có của mỗi vùng, mỗi địa phương. Sự kết hợp với các phương pháp sản xuất hiện đại làm cho lợi thế về tiềm năng và truyền thống sản xuất mở rộng. Đây là cơ hội để sản phẩm chế biến nông sản vượt ra khỏi thị trường nội địa xâm nhập vào thị trường quốc tế.
Trên thương truờng, lợi thế so sánh của mỗi nước được phát hiện. Việc tập trung vào sản xuất những mặt hàng có lợi thế xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất không có lợi được diễn ra. Phân công lao động và hợp tác sản xuất giữa các nước do đó xuất hiện.
CNCB nói chung và CNCBNSXK nói riêng đòi hỏi:
+ Quy mô của mỗi vùng sản xuất nguyên liệu thích hợp, nhu cầu chế biến theo phương pháp công nghệ và tính liên tục và tính liên tục của việc sản xuất những nguyên liệu đó.
+ Kỹ thuật – công nghệ đảm bảo hạn chế thấp nhất mức hao phí nguyên liệu, nhưng lại đưa ra thị trường những sản phẩm chế biến tốt nhất, hợp lý nhất và có tính cạnh tranh cao.
+ Một thị trường ổn định và có hiệu quả cao.
Những đòi hỏi này tất yếu dẫn đến hợp tác giữa các nước về vốn, kỹ thuật – công nghệ, thị trường cùng đầu tư, sản xuất, chế biến.... Những khu chế xuất mà ở đó có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành ở nhiều nước. Những hợp tác đầu tư cho việc bảo vệ, sản xuất và mở rộng vùng nguyên liệu với nước ngoài cũng ra đời và phát triển. Hợp tác quốc tế trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản ở phạm vi quốc tế, tạo điều kiện khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của các nước, mà nó còn góp phần tích cực vào phân công lao động quốc tế.
* Vai trò đối với địa phương và vùng kinh tế:
Thứ nhất, CNCBNSXK tạo ra phân công lao động mới trong nông nghiệp, hình thành ngành nghề mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Cơ cấu kinh tế nông thôn là một phạm trù kinh tế tổng hợp, phản ánh mối liên hệ bản chất giữa các bộ phận cấu thành một thực thể kinh tế nhất định ở nông thôn. Khu vực kinh tế này cung cấp lương thực thực phẩm nuôi sống toàn xã hội; cung cấp nguyên liệu cho CNCB nông sản; cung cấp sức lao động cho thành thị và các ngành kinh tế; là thị trường rộng lớn của các sản phẩm công nghiệp. Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm: nông nghiệp (theo nghĩa rộng); công nghiệp nông thôn (công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống); dịch vụ (dịch vụ sản xuất và đời sống). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, nâng cao năng suất lao động tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội là yêu cầu khách quan của sự phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Do tính đồng bộ và liên ngành cao, việc phát triển CNCB nông sản, đặc biệt là CNCB nông sản xuất khẩu không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao mà còn tạo phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế quốc dân. Nó thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành nghề liên quan, từ nông nghiệp cho tới các ngành công nghiệp cơ khí, các ngành công nghiệp phụ trợ.
Các nước nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng, bước đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn đặt ra vấn đề kết hợp giữa sản xuất và chế biến, giữa trồng trọt, chăn nuôi và ngành nghề; giữa thâm canh và mở rộng kinh doanh tổng hợp. Trong đó gắn sản xuất với chế biến, đa dạng ngành nghề là con đường tốt nhất để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển.
Kinh nghiệm thế giới cũng như trong khu vực cho thấy nếu chỉ có thuần nông, không gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và phát triển mạnh ngành nghề ở nông thôn thì nông dân không thể giàu có. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng bao hàm việc phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông sản trong nông thôn mà đặc biệt là CNCB nông sản xuất khẩu.
Phát triển CNCB nông sản trong đó có CNCB nông sản xuất khẩu không chỉ tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy mở rộng, phát triển công nghiệp và dịch vụ, mà còn kéo theo sự phát triển các ngành kết cấu hạ tầng - kỹ thuật như: giao thông vận tải, bưu điện, điện lực... dẫn đến hình thành cơ cấu kinh tế mới là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
Thứ hai, khai thác hiệu quả, tiềm năng kinh tế của địa phương, vùng kinh tế.
Đối với các tỉnh có điều kiện thuận lợi, có ưu thế hơn hẳn trong việc sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp thì phát triển CNCBNSXK là một hướng đi đúng nhằm phát huy tốt lợi thế so sánh, khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế của địa phương. CNCB nông sản thúc đẩy mạnh mẽ các hộ nông dân sản xuất cho thị trường, đặc biệt là cho xuất khẩu, thay vì cho gia đình họ như trư._.ớc đây. Đến lượt nó, động lực sản xuất nông sản xuất khẩu khiến những vùng đất bỏ hoang được khai khẩn, cải tạo, tận dụng.
CNCB nông sản xuất khẩu tạo điều kiện cho sản xuất của các hộ nông dân thoát khỏi tình trạng sản xuất manh mún, năng suất thấp, tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất các loại nông sản có giá trị xuất khẩu cao. Những hoạt động này tạo cơ hội cho các hộ nông dân sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn nguồn lao động dư thừa ở nông thôn. CNCBNSXK phát triển còn giúp nông dân duy trì. Phát triển những loại nông sản là đặc sản riêng có của từng vùng. Theo đó các tiềm năng đặc biệt của từng địa phương, từng vùng về thổ nhưỡng, khí hậu, giống, kỹ năng, kinh nghiệm, bí quyết sản xuất của nông dân được khai thác cho sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu với hiệu quả kinh tế cao, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ ba, tham gia hiệu quả vào phân công lao động vùng.
CNCB nông sản xuất khẩu phát triển sẽ tác động thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cơ cấu kinh tế nông thôn, một bộ phận lao động nông nghiệp sẽ được chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác ở nông thôn là chế biến nông sản xuất khẩu, phục vụ tiêu thụ nông sản đã qua chế biến xuất khẩu. Quá trình phát triển CNCB nông sản xuất khẩu là quá trình phân công lại lao động xã hội giữa nông nghiệp và công nghiệp, từ đó tham gia hiệu quả vào phân công lao động trong vùng.
Thứ tư, CNCBNSXK góp phần giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu của địa phương.
Việc phát triển CNCB nông sản xuất khẩu sẽ góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đây là một trong những mục tiêu cơ bản.
Trong nền kinh tế mở, sự phát triển của CNCB nông sản, trong đó có nông sản xuất khẩu là con đường hiệu quả làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Vai trò này của CNCB nông sản lại càng quan trọng đối với các nước kém phát triển.
Trên thị trường quốc tế, xuất khẩu sản phẩm thô chỉ là giải pháp tạm thời, bởi vì giá bán thấp và không ổn định, điều kiện thương mại bất lợi, thế mạnh thuộc về người có vốn, tài nguyên bị cạn kiệt dần, môi trường bị ô nhiễm và hệ sinh thái bị mất cân bằng. Trên thế giới cho thấy không một nước nào giàu lên và phát triển kinh tế bền vững chỉ nhờ xuất khẩu thô mà không xây dựng CNCB.
CNCBNSXK mang lại một nguồn ngoại tệ khá lớn góp phần giảm bớt sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, gián tiếp góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định thị trường truyền thống và khai thác các thị trường mới. Mặt khác, nếu CNCB nông sản phát triển tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao và đa dạng đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch nước ngoài thì có thể tăng lượng sản phẩm CNCB nông sản xuất khẩu tại chỗ một cách đáng kể và có hiệu quả.
CNCB nông sản phát triển góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu để tích tụ vốn nhanh chóng mở rộng quy mô và nâng cao trình độ sản xuất trong nước, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập, tăng khả năng nhập vật tư, thiết bị để tạo ra hàng hóa, dịch vụ có giá trị tăng lên, chất lượng cao, có sức cạnh tranh cả ở thị trường nội địa và thị trường thế giới, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Chính CNCB nông sản xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm bớt sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp, sự phát triển của CNCB nông sản còn làm tăng cầu về sản phẩm của nông nghiệp.
Như vậy, CNCB nông sản xuất khẩu vừa có vai trò trực tiếp vừa có vai trò gián tiếp tới sự phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo ra cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, là khâu đột phá để CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU
Sự ra đời và phát triển của công nghiệp chế biến nông sản nói chung và công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu nói chung bao giờ cũng chịu sự tác động mạnh mẽ bởi nhiều yếu tố. Do luận văn chỉ giới hạn sự nghiên cứu CNCB nông sản xuất khẩu ở một địa phương cụ thể - tỉnh Bình phước, nên để phù hợp với đối tượng nghiên cứu luận văn xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CNCB nông sản xuất khẩu theo tiêu chí: địa phương - vùng, bao gồm cả các nhân tố có ảnh hưởng đến việc tạo lập môi trường kinh tế - xã hội có liên quan.
1.2.1. Những yếu tố thuộc về địa phương (yếu tố tại chỗ)
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa thì thị trường là nhân tố quyết định đến sản xuất, nên sự hình thành và phát triển của công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu phải luôn gắn với thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào và đầu ra. Thị trường đầu ra có vai trò quyết định, song thị trường đầu vào cũng quan trọng không kém. Thị trường đầu vào cần phải có đầy đủ các yếu tố: nguyên liệu, công nghệ, lao động và vốn
1.2.1.1. Nguyên liệu nông sản
Nguyên liệu chính cung cấp cho công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu chủ yếu là những sản phẩm nông nghiệp, nó phải đảm bảo dồi dào, đa dạng, phù hợp và kịp thời. Nói cách khác, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nông nghiệp, mà trực tiếp là phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu do các ngành nông, lâm, thủy sản cung cấp. Thực tế, người ta không thể xây dựng các nhà máy chế biến quy mô lớn với thiết bị công nghiệp hiện đại tại những địa bàn sản xuất nguyên liệu phân tán, manh mún, mà chỉ có thể xây dựng nó tại các vùng sản xuất nguyên liệu chuyên canh. Mặt khác, công nghệ chế biến hiện đại nhưng nếu thiếu nguyên liệu, hay chất lượng nguyên liệu kém cũng không thể tạo được những sản phẩm chế biến chất lượng cao. Vì vậy, có thể thấy, nguyên liệu là điều kiện sống còn của công nghiệp chế biến nói chung, công nghiệp chế biến nông sản nói riêng; và ngược lại, công nghiệp chế biến phát triển sẽ thúc đẩy các vùng nguyên liệu phát triển theo.
Từ mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản nêu trên, có thể thấy sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu chỉ thật sự mạnh mẽ khi:
- Có các vùng sản xuất nông sản hàng hóa, tập trung, chuyên canh với chất lượng cao phát triển để cung cấp đầy đủ kịp thời cho công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu.
- Phải gắn với sự phát triển các vùng nguyên liệu - tức là, phải dựa vào quy mô các vùng nguyên liệu để quy hoạch phát triển các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu trên các khía cạnh xác định địa điểm, quy mô, công nghệ phù hợp.
Đó là những cơ sở để phát huy của cả công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và nền nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1.2. Trình độ công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu
Tiến bộ khoa học - công nghệ có vị trí đặc biệt đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói chung và công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu nói riêng. Vị trí của nguồn lực này càng lớn khi chúng ta bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của kinh tế tri thức. Một khi khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì nó có tác động rất lớn đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế. Cụ thể, đối với lĩnh vực nông nghiệp và chế biến nông sản, việc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất và chế biến có ý nghĩa rất lớn trong việc làm tăng sản lượng và chất lượng nguồn nguyên liệu.
Tiến bộ khoa học - công nghệ tác động mạnh đến sản xuất và tiêu dùng, tạo ra những biến đổi lớn và từ đó đặt ra những thách thức to lớn đối với công nghiệp chế biến. Nhiều loại giống mới với những đặc tính mới và chất lượng cao đã được nghiên cứu và đưa vào sản xuất, đòi hỏi công nghiệp chế biến phải nhanh chóng thay đổi sản phẩm, thay đổi công nghệ và tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất và chế biến. Trong lĩnh vực tiêu dùng, những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh thực phẩm cũng có điều kiện thực hiện tốt hơn và yêu cầu ngày càng khắt khe hơn.
Nguồn lực khoa học công nghệ bao gồm:
- Đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học - công nghệ. Đội ngũ này không chỉ thể hiện về số lượng mà quan trọng hơn là chất lượng. Khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ thế giới của đội ngũ này càng cao thì những thành tựu khoa học đạt được càng lớn, nhờ đó sẽ sáng tạo ra những công nghệ có khả năng chế biến sản phẩm tinh và đa dạng hơn.
- Cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, triển khai khoa học - công nghệ, gồm: các phương tiện để nghiên cứu như máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm, nhà xưởng...Cơ sở này càng hiện đại thì hiệu quả nghiên cứu càng cao, khả năng ứng dụng vào sản xuất càng rộng và hiệu quả ứng dụng càng lớn.
1.2.1.3. Lao động chế biến nông sản xuất khẩu
Vào khoảng giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, học thuyết về “vốn con người” xuất hiện đã làm thay đổi cách nhìn nhận về vai trò của nguồn lao động trong phát triển kinh tế. Nhiều nước đã coi đầu tư vào con người là đầu tư vào tương lai, và là sự đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã xác định “con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Thực tế đã cho thấy, nếu không có đội ngũ đông đảo công nhân lành nghề, những nhà khoa học tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, hay những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà quản lý tận tụy và có kinh nghiệm... thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và phát triển CNCBNSXK nói riêng sẽ khó đạt được hiệu quả cao. Không chỉ chất lượng nguồn lao động có tác động đến sự phát triển CNCBNSXK, mà ngay cả yếu tố lao động cũng có tác động mạnh tới sự phát triển đó.
Là ngành sử dụng nhiều lao động, lại đòi hỏi lao động đó phải tinh xảo, khéo léo, nhưng dễ dàng được đào tạo trong một thời gian ngắn...Có thể nói nguồn lao động trẻ ở nước ta là một lợi thế lớn để phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Song cần sớm khắc phục tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” hiện nay, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động để nhanh chóng đưa công nghiệp chế biến nông sản phát triển là yêu cầu sống còn đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện nay.
1.2.1.4. Cơ chế chính sách của Nhà nước
Vai trò của Nhà nước có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, và từng lĩnh vực kinh tế nói riêng, trong đó có CNCBNSXK. Vai trò của Nhà nước đối với phát triển CNCBNSXK thể hiện ở việc: quy hoạch và xác định chiến lược phát triển cho các cơ sở chế biến nông sản xuất khẩu; đưa ra và hoàn thiện hệ thống chính sách và thể chế phù hợp để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu; thành lập các tổ chức, cơ quan chuyên môn chuyên trách để thực thi và giám sát việc thực hiện quy hoạch và chiến lược phát triển của lĩnh vực này.
Thể chế chính sách luôn là tiền đề quan trọng hàng đầu cho mọi hoạt động, mọi quá trình kinh tế - xã hội mà nó điều chỉnh. Điều này cũng đúng cho quá trình xây dựng và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Sự phát triển hay yếu kém của CNCBNSXK tại mỗi quốc gia đều có nguyên nhân chủ yếu từ thể chế. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, vai trò của Nhà nước đóng góp đến 17% trong sự thành công của một nền kinh tế quốc gia, ngang với nhân tố tài chính, còn khoa học - công nghệ cũng chỉ đóng góp có 11%, nguồn nhân lực 16%.
Ngày nay, kinh tế phát triển, giao lưu quốc tế về thương mại, văn hóa mở rộng là các tác động làm cho nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp qua chế biến tăng lên và từ đó kích thích CNCBNSXK phát triển. Để CNCBNSXK phát triển theo mục tiêu đã đề ra cần có các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trên thực tế, Nhà nước ta đã sớm có chính sách phù hợp đối với sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Cụ thể là Nhà nước đã tạo ra mạng lưới thông tin, thu thập thông tin và phản hồi lại cho các doanh nghiệp về thị trường, về nguyên liệu, về khoa học- công nghệ; tiến hành đàm phán song phương và đa phương để mở rộng thị trường xuất khẩu; hỗ trợ người sản xuất nguyên liệu và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu bằng các chính sách miễn giảm thuế hay cho vay ưu đãi,... Nhờ những chính sách đó mà công nghiệp chế biến nông sản của Việt nam những năm gần đây đã có sự phát triển vượt trội so với trước.
1.2.2. Những yếu tố tác động của vùng và nền kinh tế
CNCBNS, trong đó có CNCBNSXK bao giờ cũng gắn với đặc trưng riêng của từng vùng kinh tế, từng quốc gia, nền kinh tế hay từng khu vực. Mỗi một vùng, một nước, một khu vực đều có những đặc điểm riêng về đất đai, vị trí địa lý, khí hậu, trình độ phát triển kinh tế...Mỗi một vùng đều có những lợi thế riêng để phát triển một ngành sản xuất nông nghiệp nào đó, ví dụ trồng các cây công nghiệp, cây ăn trái, cây lương thực, hay nuôi trồng thủy sản... Như ở nước ta, vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng thích hợp với cây lương thực, cây ăn trái, cây công nghiệp ngắn ngày..., vùng Đông Nam bộ có lợi thế phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, điều, cà phê... Vì vậy, có thể nói, sự phát triển CNCB nông sản trong đó có CNCBNSXK bao giờ cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Ngoài những tính quy định chung về sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thì nó còn đồng thời lại phụ thuộc vào quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội của cả nước, quy hoạch phát triển CNCB nông sản của vùng. Sự phát triển của CNCB nông sản xuất khẩu được đặt trong một cơ chế quản lý mà ở đó vùng, quốc gia là một không gian kinh tế thống nhất. Nếu thoát ly khỏi những điều trên đây thì sự phát triển CNCB nhất định sẽ gây hậu quả khó lường. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Một là, sự phát triển của CNCB nếu không dựa trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh hiện có, thì sẽ không tạo nên sự phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ.
Hai là, có thể dẫn đến sự mất cân đối trong kết cấu chung của công nghiệp, gây ra khủng hoảng cục bộ trong những ngành nghề công nghiệp chế biến nhất định.
Từ những điều vừa trình bày có thể khẳng định CNCBNSXK ở các tỉnh, địa phương chỉ có thể phát triển được trên cơ sở nền tảng công nghiệp hiện có và phải chịu sự chi phối bởi những yêu cầu, mục tiêu phát triển cơ cấu công nghiệp của vùng nói chung và dựa vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, địa phương đó nói riêng.
1.2.3. Những yếu tố tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Các nước trên thế giới ngày nay đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sôi động. Nền kinh tế của mỗi quốc gia đang trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế toàn cầu, của thị trường toàn cầu. Trong quá trình ấy thì sự hợp tác, liên minh liên kết để phát triển, cũng diễn ra sâu rộng hơn mà sự cạnh tranh để tồn tại phát triển cùng diễn ra gay gắt quyết liệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới sẽ tạo nhiều cơ hội cho hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản của Việt Nam trong đó có nông sản của Bình Phước, nhưng nó cũng đặt các doanh nghiệp này trước nhiều vấn đề khó khăn mới.
Cùng với tiến trình tự do hóa thương mại và việc phá bỏ hàng rào thuế quan thì hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải chịu sự bất bình đẳng trong quan hệ mua bán với hàng hóa công nghiệp của các nước phát triển. Việt Nam xuất khẩu nông sản, mà phần lớn là nông sản chưa qua chế biến, còn các nước phát triển thì xuất khẩu hàng công nghiệp với hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao nên giá cánh kéo đã gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Mặt khác, độ co giãn của cầu với thu nhập để đáp ứng nhu cầu hàng nông sản của thế giới có xu hướng giảm dần, vì vậy tất yếu nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam phải đối đầu với nhiều bất lợi. Theo đó chúng ta sẽ bị “thiệt kép”, vì việc bán hàng nông sản có giá cả thấp và mua máy móc thiết bị, vật tư kỹ thuật có giá cả cao. Đó là chưa kể rủi ro của vốn đầu tư vào nông nghiệp do tác động của yếu tố tự nhiên cũng như sự bị động trong tiêu thụ sản phẩm...
Việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo cho chúng ta cơ hội thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới, tuy vậy, khi trở thành thành viên chính thức của WTO thì chúng ta cũng phải mở cửa cho hàng ngoại tràn vào, vì vậy các doanh nghiệp chế biến nông sản cũng phải cạnh tranh với nhiều đối thủ mạnh hơn về khoa học- công nghệ, về tiềm lực tài chính và tính chuyên nghiệp. Dự đoán chỉ tính riêng châu Á sẽ có khoảng 1 tỷ tấn nông sản sẵn sàng xâm nhập thị trường Việt Nam. Trong điều kiện đó, nếu các doanh nghiệp chế biến nông sản trong nước không đủ mạnh thì không thể cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của nước khác trên thị trường nội địa. Mặt khác các doanh nghiệp ngoài nước cũng không chỉ đưa sản phẩm của họ vào Việt Nam, mà còn đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản tại Việt Nam, cùng mua bán nguyên liệu và sản phẩm ngay trên thị trường Việt Nam, do đó cạnh tranh trên thị trường nội địa cũng sẽ trở nên quyết liệt hơn. Tuy nhiên đây cũng là lúc để có thể sàng lọc các doanh nghiệp, để chỉ có những doanh nghiệp nào có trình độ quản lý tốt sẽ tồn tại được, còn những doanh nghiệp khác cũng có thể gặp khó khăn và cũng có thể phá sản.
Cũng phải nói rằng, tự do hóa thương mại sẽ tạo ra những biến đổi sâu sắc trong kinh tế, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia, khu vực với nhau, làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, các điều kiện, cơ hội phát triển đó không phải dành riêng cho một nước nào, mà là cho mọi nước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Điều đó có nghĩa là, các nước cùng chia nhau cơ hội, trong đó nước kém phát triển như Việt Nam sẽ chỉ giành được ít cơ hội hơn do sự chênh lệch về trình độ phát triển. Bên cạnh những thách thức mới thì Việt Nam còn phải loay hoay với những thách thức vốn có như: điểm xuất phát thấp, năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp, hệ thống giáo dục đào tạo kém, chịu nhiều sức ép hơn các nước đang phát triển khác do chưa phải là kinh tế thị trường...Điều đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận “luật chơi ” chung và tự sửa “luật chơi” cho phù hợp cam kết quốc tế, phải mở cửa thị trường trong nước, chấp nhận cạnh tranh từ bên ngoài trên hầu hết các lĩnh vực (hàng hóa, dịch vụ, nhân lực). Từ những phân tích trên cho thấy, cơ hội đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Việt Nam chỉ mới là tiềm năng, còn thách thức đã là hiện thực, chừng nào các doanh nghiệp chưa vượt qua được sẽ bị loại bỏ.
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu của Ấn Độ
Ấn Độ là một trong 50 nước trồng điều trên thế giới. Trước năm 1960 Ấn Độ mới trồng khoảng 130.000 ha, tới năm 1970 tăng lên 281.000 ha, năm 1986 là 510.000 ha và năm 2005 là 730.000 ha. Trong thời gian qua, Ấn Độ đã đẩy nhanh công tác áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong ngành điều, vừa mở rộng diện tích trồng điều, vừa tăng cường các cơ sở chế biến, người nông dân Ấn Độ đã quan tâm hơn đến các biện pháp trồng xen điều với cây tiêu, cải tạo vườn điều bằng các giống lai ghép năng suất cao. Ấn Độ đã vươn lên vị trí hàng đầu trong các nước trồng và xuất khẩu điều trên thế giới. Sản lượng điều thô năm 2005 đạt khoảng 500.000 tấn [3], [18].
Ấn Độ tuy là nước trồng nhiều điều nhưng nhìn chung kỹ thuật cao chưa được áp dụng rộng rãi nên năng suất trung bình còn thấp đạt khoảng 630 - 650kg/ha.
Tình hình phát triển công nghiệp chế biến điều ở Ấn Độ tăng rất nhanh, năng lực chế biến rất lớn (năm 1995 tổng công suất chế biến là 500.000 tấn điều thô/năm, năm 2005 là 1,2 triệu tấn/năm). Tỷ lệ tự cấp hạt điều cho công nghiệp chế biến hạt điều trong nước của Ấn Độ rất thấp, có năm chỉ đạt 17% (1965), năm cao cũng chỉ đạt 65% (1977), năm 2005, đạt khoảng 40%, trung bình đạt khoảng 40% nhu cầu nguyên liệu chế biến của các xí nghiệp trong nước. Chính vì lý do đó từ trước đến nay Ấn Độ luôn là nước nhập khẩu hạt điều thô chính của Việt Nam và của các nước khác.
Hiện nay phương hướng chung của các nước sản xuất điều trên thế giới là ngày càng giảm lượng điều thô xuất khẩu, phát triển công nghiệp chế biến trong nước và tăng lượng điều nhân xuất khẩu để thu được hiệu quả kinh tế lớn hơn.
Tiêu chuẩn và quy cách sản phẩm nhân điều tiêu thụ trên thế giới rất nghiêm ngặt, nên Ấn Độ đã phân ra 24 cấp tiêu chuẩn nhân điều xuất khẩu và thế giới dựa theo quy chuẩn đó để buôn bán nhân điều. Giá cả các cấp nhân điều chênh lệch nhau khá lớn. Nhân được ưa chuộng và giá cả cao là nhân to, trắng không bị xém vàng hay nâu cháy.
Ngoài những sản phẩm chính là nhân điều xuất khẩu, Ấn Độ cũng rất quan tâm đến chế biến các sản phẩm khác như dầu vỏ điều - năm 2005 Ấn Độ sản xuất được khoảng 300.000 tấn dầu vỏ hạt điều phục vụ xuất khẩu.
1.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một nước có nhiều nông sản xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như gạo, sắn, cao su thiên nhiên...Sắn là mặt hàng chiếm vị trí thứ hai trong cơ cấu xuất khẩu của Thái Lan với 3 triệu ha canh tác. EU tiêu thụ tới 85- 95% sắn xuất khẩu của Thái Lan. Gần đây nhu cầu sắn của thế giới có xu hướng giảm nên Chính phủ Thái Lan đã giảm diện tích trồng sắn và xây dựng vùng chuyên canh xuất khẩu sắn ở Đông Bắc, nghiên cứu các biện pháp chế biến để tạo ra sản phẩm mới. Chính phủ Thái Lan đã cấp 4,5 triệu USD cho người dân trồng sắn để chuyển sang trồng đậu nành, điều...có hiệu quả hơn. Ngoài ra cao su, đường, ngô, cà phê cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thái Lan.
Trồng và chế biến cao su là ngành kinh tế có giá trị cao ở Thái Lan. Hiện nay Thái lan là quốc gia có nền CNCB cao su đạt trình độ cao và một trong những nước xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới.
Để có được thành tích đó Chính phủ Thái lan đã có chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu cao su từ những năm 60; đã chú trọng tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng, thuận lợi và ổn định nhằm phát triển thị trường và đầu tư trong nước làm nền tảng cho sự phát triển sản xuất, xuất khẩu cao su; đã thành lập ủy ban chính sách cao su quốc gia chuyên hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển ngành cao su, đồng thời cũng xác định ngân sách để thực hiện những kế hoạch đó. Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan còn thành lập sở giao dịch cao su kỳ hạn nhằm khuyến khích các thương gia quốc tế chấp nhận mức giá cao su xuất khẩu theo chỉ đạo chung của Thái Lan. Việc này sẽ có tác dụng củng cố thị trường cao su trong nước, tạo sự ổn định và tiềm lực cho việc xuất khẩu cao su Thái Lan ra thị trường thế giới.
Đóng góp vào thành tích trên của ngành cao su còn kể đến vai trò của hiệp hội cao su Thái lan. Được thành lập vào tháng 5/1951, hiệp hội là tổ chức của các nhà sản xuất và các công ty buôn bán cao su và cũng là cơ quan đại diện của các nhà sản xuất, các công ty buôn bán cao su trong đàm phán với Chính phủ hoặc các tổ chức ngoài nước về lợi ích chung của các bên. Nhiệm vụ chủ yếu của Hiệp hội là cung cấp thông tin, kiến thức kỹ năng về CNCB cao su, giải quyết tranh chấp xảy ra giữa các thành viên hoặc giữa các thành viên và đối tác bên ngoài Hiệp hội, phối hợp với Chính phủ thực hiện nhiều hoạt động nhằm phát triển ngành công nghiệp cao su, hợp tác với các tổ chức cao su quốc tế. Hiện nay, Hiệp hội cao su Thái lan là một trong những thành viên thường trực của Hiệp hội cao su quốc tế, Hiệp hội cao su Thái Lan còn là thành viên của Câu lạc bộ buôn bán cao su Asean.
Nhằm khuyến khích nông dân chế biến tập trung để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh, Chính phủ Thái Lan hỗ trợ cho nông dân sơ chế 100% mủ cao su trên cơ sở các hộ có nhu cầu tự nguyện liên kết lại trong các tổ chức tự quản như tập đoàn, hợp tác xã...và đăng ký với Quỹ hỗ trợ trồng lại cao su (ORRAF) để được xem xét đầu tư nhà máy chế biến có quy mô, công suất thích hợp (nhà máy do ORRAF đầu tư 100% vốn và giao cho tập đoàn hoặc hợp tác xã quản lý).
Để tăng năng lực chế biến và xuất khẩu cao su, chính phủ Thái Lan còn thành lập khu công nghiệp cao su tập trung, tổ chức theo tính chất liên hoàn với mục đích xúc tiến việc chế biến thành phẩm cao su nhằm tăng hiệu quả sản xuất cao su và nâng chất lượng cao su Thái Lan đạt tiêu chuẩn quốc tế như ISO, SA, HCCP... theo yêu cầu của từng thị trường. Tăng cường đầu tư thu hút đầu tư từ Hoa Kỳ, EU để chế biến và sản xuất ra các sản phẩm cao su chất lượng cao như săm lốp xe, vòi cao su, găng tay cao su, nệm cao su... phù hợp với hai thị trường này. Chế biến loại cao su STR 20, TSR 20 để xuất sang Mỹ và châu Âu, chế biến loại cao su RSS để xuất sang Nhật và các nước châu Á khác. Ngoài ra, Thái Lan còn thành lập phòng thí nghiệm và trung tâm thông tin cao su quốc gia để kiểm tra chất lượng và thống nhất tiêu chuẩn cao su, đồng thời tiến hành thử nghiệm việc sử dụng cao su tự nhiên lẫn với asphalt để trải đường thay cho việc chỉ dùng asphalt; áp dụng mức thuế suất cao su nguyên liệu thô cao hơn mức thuế xuất khẩu các sản phẩm cao su thành phẩm nhằm khuyến khích CNCB sản phẩm cao su phát triển.
Một số bài học kinh nghiệm cho phát triển CNCBNSXK Bình Phước và Việt Nam:
Thứ nhất, cần gắn sự phát triển của nông nghiệp với công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu theo một chu trình, hệ thống khép kín.
Thành công của các nước trong phát triển công nghiệp chế biến nông sản trong đó có nông sản xuất khẩu là thực hiện chính sách gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến. Chính phủ các nước trên đều kiên trì theo đuổi chính sách tập trung mọi nỗ lực để phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng cho sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản, từ đó tạo sự biến đổi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến xuất khẩu trong tổng số hàng hóa xuất khẩu.
Việt Nam là nước có điều kiện phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, song CNCB chưa phát triển, chưa thật sự gắn kết với nông nghiệp. Vì vậy, việc gắn kết các nhà máy chế biến với sản xuất nông nghiệp mà các nước trên đã thực hiện thành công cũng sẽ là bài học kinh nghiệm thiết thực cho nước ta trong điều kiện hiện nay.
Thứ hai, áp dụng CNCB nhiều trình độ, tranh thủ hiện đại hóa công nghệ ở những khâu mũi nhọn.
Là một nước nghèo, muốn đuổi kịp các nước tiên tiến thì dĩ nhiên phải hiện đại hóa công nghệ sản xuất. Nhưng chúng ta không thể hiện đại hóa công nghệ của nền kinh tế ngay lập tức được, cũng như không thể cùng một lúc mà hiện đại hóa tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Trong điều kiện thiếu vốn, chúng ta chỉ có chỉ có thể đổi mới CNCB nông sản một cách từ từ. Cụ thể cần có sự lựa chọn những khâu, những mặt hàng mũi nhọn, có khả năng thâm nhập thị trường thế giới để đổi mới công nghệ trước; còn các khâu khác chưa phải yêu cầu bức bách thì vẫn có thể sử dụng công nghệ truyền thống. Đây là bài học kinh nghiệm thành công của nhiều nước mà Việt Nam cần nghiên cứu áp dụng.
Thứ ba, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu phát triển.
Để phát triển CNCB nông sản xuất khẩu, Chính phủ các nước đã sử dụng các công cụ tài chính, tín dụng...để can thiệp vào thị trường vốn và hoạt động xuất khẩu. Nhờ đó họ đã thành công trong việc hướng luồng vốn đầu tư của xã hội vào lĩnh vực CNCB nông sản. Nhờ đó, tốc độ đổi mới công nghệ của các cơ sở chế biến diễn ra khá nhanh, có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa của các nước.
Chính phủ Việt Nam cũng đã sử dụng các công cụ này để điều tiết kinh tế vĩ mô, song tác động của nó đến lĩnh vực CNCB nông sản xuất khẩu thì chưa thật rõ nét.
Thứ tư, thực hiện liên kết và hợp tác sản xuất kinh doanh.
Xu hướng sáp nhập và liên kết theo ngành dọc để nâng cao khả năng cạnh tranh hiện đang trở thành xu hướng của các nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu. Chẳng hạn, các doanh nghiệp xuất khẩu cao su của Malaixia thực hiện chiến lược sáp nhập giữa các công ty cổ phần nhỏ để thành lập các tập đoàn sản xuất cao su có quy mô lớn, đủ sức phát triển thị trường và cạnh tranh quốc tế. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay chưa có phương thức hợp tác hữu hiệu. Liên kết không dừng lại ở phạm vi trong nước mà còn mang tính quốc tế. Các nước Thái Lan, Inđônêsia, Malaixia đã thực hiện liên kết, hợp tác trong quản lý sản xuất và xuất khẩu cao su tự nhiên nhằm điều tiết giá cả trên thị trường cao su thế giới, hạn chế sự suy giảm giá cao su, tăng cường vị thế của họ trong việc cung ứng cao su cho thế giới.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU Ở BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN XUẤT KHẨU Ở BÌNH PHƯỚC
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và xã hội của Bình Phước
Tỉnh Bình Phước có vị trí là vùng chuyển tiếp, nối liền vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các tỉnh vùng Tây Nguyên và Campuchia. Vì vậy việc đánh giá đúng tiềm năng, cũng như đặc điểm kinh tế của tỉnh và trong mối quan hệ với các vùng giáp ranh có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu của tỉnh.
2.1.1.1. Thuận lợi
Bình Phước là một tỉnh miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Konpongthom (Campuchia), phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông, tỉnh Karatie và tỉnh Mandunkiri (Campuchia).
Bình Phước nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, có 2 mùa mưa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, mùa mưa thường kéo dài, lượng mưa dồi dào rất thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, điều...
Bình Phước có tổng diện tích tự nhiên là 6.885,99 km2, có 7 nhóm đất chính với 13 loại đất. Theo phân loại, đất chất lượng cao (đất đen, đất đỏ bazan, đất phù sa) có 420.213 ha, chiếm 61,17% tổng diện tích đất tự nhiên; và đất có chất lượng kém, hoặc cần đầu tư chỉ có 7.884ha, chiếm 1,15% tổng diện tích đất tự nhiên [35]. Với chất lượng như vậy, đất đai của Bình Phước là nguồn tài nguyên rất quý cho sự phát triển lâm nghiệp và nông nghiệp. Đó là một lợi thế của Bình Phước mà không phải địa phương nào cũng có được. So với các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm, đất đai của Bình Phước là loại đất sạch, dân cư phát triển chưa đều. Do đó, khi thành lập các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, chi phí giải phóng mặt bằng thấp, rất có lợi cho các nhà đầu tư.
Diện tích đất nông nghiệp của Bình Phước hiện tại là 448.763ha chiếm 65,45% diện tích đất tự nhiên. Đất nông nghiệp của Bình Phước tuyệt đại đa số là loại đất có c._.y chế biến vecni... Nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú hiện chưa sử dụng hiệu quả.
Chế biến cao su: hiện nay cả tỉnh có 12 cơ sở chế biến cao su, trong đó có 10 cơ sở của các công ty cao su, 2 cơ sở chế biến tư nhân và 1 cơ sở chế biến dầu cao su. Trong số đó chỉ có 4 cơ sở chế biến mủ cao su mới xây dựng vào những năm gần đây có thiết bị máy móc tương đối hiện đại, số còn lại thiết bị máy móc cũ, lạc hậu. Phần lớn các cơ sở chế biến của tỉnh chỉ sản xuất được cao su mủ khối theo tiêu chuẩn Việt Nam (SVR các loại) và mủ ly tâm để sản xuất các sản phẩm latex, với cơ cấu SVR 3L, 5L chiếm 55 - 60%; SVR 10- 20 (loại cao su mà hiện nay trên thị trường thế giới, nhất là ở các nước phát triển có nhu cầu rất lớn) chỉ chiếm 10 - 15%; mủ ly tâm latex 10 -15%; RSS 4 - 5%. Để đẩy mạnh xuất khẩu cao su một cách bền vững cần xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các nhà máy chế biến mủ để đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và linh hoạt trong cơ cấu chế biến, mở rộng và phát triển các sản phẩm cao su có sức cạnh tranh cao trong xuất khẩu. Song, để đầu tư đổi mới công nghệ nhằm thay đổi cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị xuất khẩu không phải là vấn đề dễ giải quyết. Vì ứng với mỗi dây chuyền công nghệ chỉ có thể sản xuất một vài chủng loại cao su. Từ thực tiễn của Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đã cho thấy trong 10 năm với sự đầu tư hàng trăm tỷ đồng thì Tập đoàn mới giảm được tỷ lệ cao su SVR 3L, 5L từ 81% xuống còn 54%; tăng được mủ cao su ly tâm từ 2,5% lên 13% [32, tr.175]. Nhìn chung, các công ty loại nhỏ và các hộ tiểu điền không có khả năng tài chính về đầu tư nhằm thay đổi cơ cấu sản phẩm. Vì vậy, để thay đổi cơ cấu sản phẩm cao su, Nhà nước phải lựa chọn một số doanh nghiệp có khả năng về tài chính và có chính sách ưu tiên vay vốn trong Quỹ hỗ trợ phát triển với sự hỗ trợ lãi suất tín dụng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này đầu tư nhằm chuyển đổi cơ cấu sản phẩm. Việc đầu tư như vậy cũng có tác dụng hỗ trợ đối với khu vực trồng cao su tiểu điền vì họ sẽ tiêu thụ được mủ cao su ổn định với giá hợp lý.
Một vấn đề tồn tại lớn trong xuất khẩu cao su của Bình Phước là xuất khẩu sản phẩm thô 100%. Điều này không những làm giảm giá trị xuất khẩu của cao su nói chung mà còn không có điều kiện và khả năng để phát triển các sản phẩm mới. Để khắc phục hạn chế này, các doanh nghiệp sản xuất cao su nguyên liệu phải đa dạng hóa sản phẩm, nhưng mặt khác rất quan trọng đó là phải có sự liên kết hoặc đầu tư vào các sản phẩm thuộc công nghiệp cao su. Đầu tư sản xuất các sản phẩm cao su, hiện không thu hút được nhiều vốn đầu tư bằng những ngành khác, bởi lẽ: hiện tại giá cao su trên thế giới đang thuận lợi cho việc tiêu thụ theo hướng xuất khẩu trong khi đó chi phí đầu tư cho ngành sản xuất các sản phẩm từ cao su quá cao. Để sản xuất các sản phẩm từ cao su, chỉ có 20- 25% là cao su thiên nhiên, còn lại 70-75% gồm cao su tổng hợp, hóa chất,... thì doanh nghiệp đều phải nhập. Vì vậy nhiều doanh nghiệp chế biến mủ cao su xuất khẩu đã không chú ý tới việc chế biến và tiêu thụ trong nước. Cần phải nhận thức một cách đầy đủ rằng thị trường thế giới luôn có những biến động khó lường, đặc biệt là đối với xuất khẩu các sản phẩm thô. Cho nên, để phát triển sản xuất và xuất khẩu bền vững cần có quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến cao su theo hướng đa dạng hóa sản phẩm.
Sản phẩm công nghiệp cao su không những có giá trị gia tăng cao hơn cao su nguyên liệu mà còn có cơ hội và khả năng đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các sản phẩm mới. Tuy nhiên vấn đề này vượt khỏi tầm giải quyết của các cơ sở chế biến mủ cao su. Vậy, cần có giải pháp đồng bộ của Nhà nước. Trong đó Nhà nước cần tập trung đầu tư các nhà máy chế biến phục vụ xuất khẩu. Vốn đầu tư cho sản xuất, chế biến, xuất khẩu cao su là rất lớn. Để có vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ trông chờ vào nguồn vốn Nhà nước mà các doanh nghiệp cần có giải pháp huy động vốn từ nhiều nguồn, đặc biệt là nguồn vốn trong dân. Một mặt Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các công ty cao su, mặt khác các doanh nghiệp cần có giải pháp để các hộ tiểu điền góp vốn bằng các vườn cao su để thu hút vốn cổ phần đầu tư. Nhà nước cần có chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với người sản xuất để đầu tư phát triển công nghiệp chế biến cao su.
Trong Đề án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới sẽ phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, trong đó đặc biệt chú ý phát triển mạnh công nghiệp chế biến cao su, hạt điều, các sản phẩm từ hạt điều. Việc xây dựng các nhà máy CNCB nông sản mới theo hướng hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm tại các vùng sản xuất nguyên liệu theo các phương án nêu trên chẳng những tạo ra được một năng lực sản xuất mới có hàm lượng kỹ thuật cao, mà còn nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành CNCBNSXK của tỉnh. Vì rút ngắn được thời gian và độ dài vận chuyển, giảm chi phí vận tải.
3.2.3. Phát triển thị trường tiêu thụ trên cơ sở tổ chức và khai thác tốt cả thị trường trong và ngoài nước
Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển thị trường nước ta đến năm 2010 là: “sắp xếp, mở rộng thị trường trong nước gắn với thị trường nước ngoài, đảm bảo lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, nhất là nông sản, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu...”. Phát triển thị trường tiêu thụ nông sản của Bình Phước cũng phải dựa trên cơ sở thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trên.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, muốn phát triển sản xuất hàng hóa nói chung, phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói riêng, cần phải coi trọng ổn định và phát triển thị trường trong nước, mà chú ý khai thác nhu cầu của thị trường trong nước cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trước mắt, có thể coi cạnh tranh ở thịt trường trong nước như một quá trình tập dượt cho hàng nông sản, nhất là nông sản chế biến của ta khi ra cạnh tranh với hàng nông sản ở thị trường khu vực và thế giới. Về lâu dài, khi đã xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì tránh được tình trạng hàng ngoại thâm nhập cạnh tranh thắng hàng nội ngay ở thị trường trong nước, tránh được tình trạng “ thua ngay trên sân nhà”.
Bình phước với công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu chủ yếu là hạt điều, các sản phẩm chế biến từ hạt điều, mủ cao su, tinh bột sắn.
Đối với mủ cao su từ trước đến nay xuất khẩu sản phẩm sơ chế vẫn là chủ yếu, và xuất khẩu một phần lớn còn dưới dạng tiểu ngạch. Vì vậy trong thời gian tới cần mở rộng thị trường xuất khẩu chính ngạch đặc biệt là vào thị trường Mỹ, hạn chế xuất khẩu tiểu ngạch vì sự bất ổn về giá cả và phương thức thanh toán của thị trường này. Để phát triển tiềm năng thế mạnh về cao su, Bình Phước cần nhanh chóng đầu tư các cơ sở chế biến sâu, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao đáp ứng như cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Hạt điều đã qua chế biến là một món ăn giàu chất dinh dưỡng và mang hương vị đặc trưng vốn được nhiều người ưa thích, song thời gian qua lượng nhân điều đã qua chế biến tiêu thụ ở thị trường trong nước là không đáng kể từ 1,81% đến 2,2% so với sản lượng điều nhân đã qua chế biến. Cụ thể là năm 1995 tiêu thụ trong nước là 600 tấn chiếm 2,2%, năm 2005 là 2.075 tấn chiếm 1,87%. Mặc dù sau 10 năm, lượng điều nhân tiêu thụ trong nước đã tăng lên 4,15 lần, song đây là con số quá khiêm tốn so với tiềm năng của thị trường trong nước. Nguyên nhân chính dẫn đến số lượng nhân điều qua chế biến tiêu thụ trong nước còn hạn chế là vì: Các doanh nghiệp ít quan tâm hoặc còn bỏ ngỏ thị trường nội địa; đầu tư quảng bá các sản phẩm còn hạn chế; phần lớn lượng nhân điều tiêu thụ trong nước chất lượng thấp không đạt tiêu chẩn xuất khẩu; bao bì nhãn mác ít hấp dẫn; đặc biệ là chưa có thương hiệu nổi tiếng...
Thị trường tiêu thụ nội địa đối với nhân điều qua chế biến là rất lớn, vì vậy đây là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp có thể khai thác hiệu quả trong thời gian tới. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần phải làm tốt các khâu: nâng chất lượng sản phẩm và bao bì đóng gói tiện dụng, hấp dẫn người tiêu dùng; tăng cường tiếp thị sản phẩm, mở rộng mạng lưới bán hàng; liên kết hợp tác với cá cơ sở chế biến bánh kẹo nổi tiếng để sản phẩm chế biến từ hạt điều có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Đối với việc phát triển thị trường nước ngoài, quan điểm của Đảng ta là chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở ra các thị các thị trường mới. Theo quyết định số 266/2003/QĐ -TTg của Thủ tướng chính phủ, ngày 17/12/2003 về “Đề án phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2004 - 2005, các thị trường trọng điểm cần xúc tiến thương mại mạnh mẽ là Mỹ, EU (các nước cũ và mới) Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Nga, Trung Đông, Châu Phi và Mỹ Latinh. Cần tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là đối với mặt hàng mà xuất khẩu còn lệ thuộc lớn vào một số ít thị trường hay một khu vực thị trường như chè, rau quả, cao su.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Bình Phước là cao su, nhân điều và tinh bột sắn, thị trường tiêu thụ thế giới là rất lớn. Hiện nay tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp đối với các sản phẩm này là còn hạn chế, phần lớn là xuất khẩu qua trung gian, vì vậy trong thời gian tới để tăng tỷ trong xuất khẩu trực tiếp, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó cần chú ý:
+ Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã bao bì, hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở ứng dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất chế biến.
+ Tăng cường nghiên cứu thị trường nước ngoài, nắm vững quy mô, tiềm năng, giá cả, đặc tính thị trường...để có sự lựa chọn thị trường phù hợp cho mặt hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo thị trường ổn định, không bị thua thiệt, lỡ cơ hội trong kinh doanh.
+ Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, tháo gỡ những vướng mắc làm cản trở việc xuất khẩu của các cơ sở chế biến.
Mặt khác, ở tầm quản lý vĩ mô thuộc chức năng của Chính phủ, cũng cần có biện pháp tích cực nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các địa phương tăng cường khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Cụ thể là hiện nay, việc tiếp cận nguồn vốn của quỹ hỗ trợ xuất khẩu còn gặp một số khó khăn do doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ theo quyết định hiện hành về đảm bảo tiền vay theo Quyết định số 133/QĐ - TTg ngày 10/9/2001. Do vậy, Chính phủ cần bổ sung Quyết định số 133 theo hướng nới lỏng các quy định đảm bảo tiền vay, có định hướng ưu tiên cho các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, được địa phương và Hiệp hội ngành xác nhận
3.2.4. Xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu theo hướng gắn với liên kết vùng kinh tế
Công tác quy hoạch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển không chỉ trên phạm vi nền kinh tế, mà cả trên phạm vi từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Chất lượng của của công tác quy hoạch có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển CNCB nông sản vì nếu quy hoạch không tốt thì thường phải trả giá rất đắt. Để có một quy hoạch phát triển CNCB nông sản xuất khẩu có hiệu quả, cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản như:
-Đảm bảo sự phù hợp giữa phân bố sản xuất, phân bố dân cư và phân bố hệ thống hạ tầng ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn;
-Phát huy được lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, gắn được sản xuất, chế biến với thị trường;
-Vừa đạt hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài, vừa đạt hiệu quả cục bộ và hiệu quả tổng thể;
-Giải quyết được tổng thể, có tính định hướng lớn của ngành, xác định phân bổ ngành trong một cấu trúc không gian tối ưu và đảm bảo có tính khả thi cao.
Như vậy, khi xây dựng quy hoạch phát triển CNCB nông sản xuất khẩu cần chú ý đến các yêu cầu trên để có được một quy hoạch phù hợp điều kiện thực tế. Hạn chế hiện nay của Bình Phước là chưa có quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến nông sản, đặc biệt là CNCBNSXK chủ lực như cao su; hạt điều và các sản phẩm từ hạt điều; và tinh bột sắn và các sản phẩm từ bột sắn. Cần nhanh chóng xây dựng quy hoạch phát triển CNCBNSXK, gắn với vùng nguyên liệu và gắn với quy hoạch VKTTĐPN.
3.2.5. Xây dựng và phát triển thương hiệu
Thương hiệu là tài sản quan trọng của doanh nghiệp, nhất là đối với những thương hiệu mạnh thì nó là một tài sản lớn, có tầm quan trọng đặc biệt quyết định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải tính đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu, nhất là đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.
Xây dựng và phát triển thương hiệu là yêu cầu tất yếu trong xu thế hội nhập. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động trên thương trường hiện nay đương đầu với một hình thức cạnh tranh mới, thay vì cạnh tranh sản phẩm hay giá cả, đó là cạnh tranh bằng nhãn hiệu/thương hiệu.
Ở Bình Phước tuy đã xuất hiện một số doanh nghiệp có thương hiệu thành công, có nhiều chương trình tuyên truyền và xây dựng và quảng bá thương hiệu. Nhưng nhìn chung nhận thức về thương hiệu, hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực CBNSXK còn chưa đầy đủ. Trong tổng số 106 doanh nghiệp (chế biến cao su, hạt điều và tinh bột sắn) thì chỉ có hơn 10 doanh nghiệp là đã đầu tư xây dựng thương hiệu, số còn lại hầu như chưa coi trọng đến vấn đề thương hiệu. Vì vậy để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, mở rộng thị trường và xuất khẩu bền vững thì buộc các doanh nghiệp CBNSXK của tỉnh cần nhanh chóng xây dựng và phát triển thương hiệu.
3.2.6. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến quy định về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường
Ngành chế biến hạt điều, cao su, tinh bột sắn là những ngành xuất khẩu chiếm ưu thế của tỉnh song đây cũng là những ngành sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Nguồn gây ô nhiễm chính từ các nhà máy chế biến này là khí thải chứa bụi và nhiều thành phần độc hại gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường xung quanh (như các hợp chất của Anacardic (C22H22O3) chứa 70 - 80% trong vỏ hạt điều...), hơi dầu, chất thải của các nhà máy chế biến mủ cao su, tinh bột mì. Các chất thải, khí độc, hơi dầu phát tán trong không khí, ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và môi trường.
Phần lớn các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu của tỉnh phát triển một cách tự phát, chưa có quy hoạch, xây dựng xen kẽ trong khu dân cư, công nghệ xử lý nước thải chưa đạt yêu cầu, vì vậy cần phải có giải pháp xử lý kịp thời nhằm giảm thiểu hậu quả đến sức khỏe cộng đồng và môi trường. Đặc biệt là sau sự kiện nhà máy tinh bột sắn của Vedan tại Bình Phước vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn.
Để có thể đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường trong nước cũng như khách hàng quốc tế, doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về vấn đề này. Chiến lược kinh doanh dài hạn mới có thể tính đến hướng thay đổi của người tiêu dùng về những sản phảm thân thiện cũng như yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của các nước nhằm hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường qua biên giới. Trong tương lai, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như các quy định về môi trường sẽ được áp dụng rộng rãi và sản xuất của một nước sẽ bị ràng buộc bởi các quy định của các nước khác trên cơ sở hài hòa các tiêu chuẩn sản phẩm.
3.2.7. Các giải pháp hỗ trợ cho sản xuất nguyên liệu và chế biến nông sản xuất khẩu
Mục tiêu của chính sách là nhằm nâng cao chất lượng sản xuất nông nghiệp tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho CNCB nông sản nói chung và chế biến nông sản xuất khẩu nói riêng. Hiện tại, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm hỗ trợ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chế biến nông sản, nâng cao tỷ trọng hàng nông sản chế biến sau để tăng nguồn thu cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để đẩy mạnh chiến lược tăng tốc đối với CNCB nông sản, nhất là sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi phải bổ sung một số chính sách như sau:
-Thành lập quỹ bảo hiểm cho người sản xuất nguyên liệu.
Đối tượng cung cấp nguyên liệu cho CNCB nông sản là cá thể, hộ gia đình nông dân và doanh nghiệp. Do đặc thù của ngành nông nghiệp và nghiệp vụ kinh doanh nông sản phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên và quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi nên rất nhiều trường hợp và nông dân và các doanh nghiệp bị thiên tai, gây thiệt hại lớn đến sản xuất kinh doanh. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, song các chính sách hiện hành vẫn chưa đủ mạnh, vì vậy hậu quả của thiên tai dịch bệnh xảy ra thường xuyên, và nông dân vẫn là người chịu thiệt thòi nhất. Thiết nghĩ, đã đến lúc phải thành lập quỹ bảo hiểm cho sản xuất nông nghiệp. Bình Phước là địa phương ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt, nhưng với đặc tính là cây giòn dễ gãy nên cao su thường bị gãy đổ hàng loạt khi có lốc xoáy, hay gió to. Cây điều là loại cây rất nhạy cảm với thời tiết, khi vào mùa trổ hoa gặp sương muối hoặc mưa lớn là điều mất mùa, vì vậy đã có nhiều năm lên tục điều mất mùa, năng suất diều giảm hơn một nửa. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ giúp người nông dân yên tâm sản xuất và nhà máy chế biến nông sản sẽ có hy vọng đủ nguyên liệu để duy trì hoạt động.
- Lựa chọn mục tiêu ưu tiên trong hỗ trợ công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu.
Các chính sách ưu đãi của Nhà nước hiện nay còn mang tính dàn trải, thiếu tập trung, trong khi nguồn lực lại hạn chế, do đó hiệu quả thực tế của các chính sách thấp. Với nguồn lực có hạn, quỹ hộ trợ cần tập trung ưu tiên cho một số lĩnh vực ngành hàng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như gạo, cao su, cà phê, điều, thủy sản,...Đó là những sản phẩm có khả năng phát triển, có thị trường và thu nhập lớn. Cần ưu tiên hỗ trợ đầu tư đối với hoạt động chuyển giao công nghệ để chuyển dần cơ cấu xuất khẩu sản phẩm sơ chế sang sản phẩm tinh chế, chất lượng cao, tạo giá trị gia tăng ngày càng lớn; đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản.
- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ gián tiếp đối với doanh nghiệp.
+ Về tín dụng:
Hiện nay hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Quỹ hỗ trợ phát triển là một hình thức trợ cấp, ưu đãi về lãi suất đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhất là khi Việt nam đã trở thành thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân thủ hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM). Như vậy, nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu này của Quỹ có thể sẽ không được tiếp tục. Và Việt Nam phải chấp nhận bãi bỏ hoàn toàn các khoản trợ cấp xuất khẩu có tác động làm méo mó thương mại. Tuy vậy, Nhà nước lại không thể bỏ mặc các doanh nghiệp chế biến nông sản, mà phải có biện pháp hỗ trợ cá doanh nghiệp đó, nhất là các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Tuy vậy, Nhà nước lại không thể tiến hành hỗ trợ trực tiếp mà phải hỗ trợ bằng các biện pháp gián tiếp, thông qua các chính sách về vốn, về lãi suất, hỗ trợ thông qua các hình thức đầu tư cho các đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ...Song song với việc hỗ trợ xuất khẩu, Chính phủ cần quan tâm tới việc hỗ trợ hình thành và phát triển các hiệp hội làng nghề, ngành nghề hoặc hiệp hội doanh nghiệp. Đây là các tổ chức sẽ giúp sức cho các doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất là khi không còn hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ trong tương lai.
+ Về thuế:
Theo quy định mức nhập khẩu đối với các mặt hàng nông sản trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành là tuân thủ nguyên tắc: những mặt hàng nông sản trong nước đã xuất khẩu đảm bảo nhu cầu trong nước cần có chính sách bảo hộ hợp lý thì áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cao hoặc trung bình; những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được và các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào quan trọng đối với các ngành sản xuất khác thì áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp. Theo nguyên tắc này mức thuế suất thuế nhập khẩu hạt điều loại chưa bóc vỏ là 30% và loại đã bóc vỏ là 40%. Việc áp dụng các mức thuế này là nhằm mục đích, bảo hộ hợp lý, góp phần khuyến khích sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản trong nước. Tuy nhiên, việc xác định mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nông sản xuất khẩu thế mạnh hiện nay như trên là quá cao. Như đã trình bày ở phần thực trạng, CNCB hạt điều ở nước ta hiện nay đã vượt ra khỏi khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước, nhập khẩu hạt điều thô là tất yếu. Năm 2007 chúng ta nhập khẩu khoảng 1.000 tấn và 6 tháng đầu năm 2008 đã nhập khẩu khoảng 150.000 tấn và tình trạng phải nhập khẩu hạt điều thô còn phải kéo dài nhiều năm tới. Nhà nước cần phải giảm mức thuế đối với hạt điều thô nhập khẩu để khuyến khích phát triển sản xuất và chế biến, vì đây là những ngành hàng tạo nhiều việc làm có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao.
- Phát triển nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực là giải pháp rất quan trọng để phát triển CNCBNSXK một cách có hiệu quả và bền vững, đây là một trong những giải pháp có tính chiến lược lâu dài. Để phát triển nguồn nhân lực cần phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ rằng đây không phải là công việc của Nhà nước mà phải là công việc của các doanh nghiệp và các hộ sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu. Phát triển nguồn nhân lực phải bao gồm nhiều cấp độ, trình độ và với những lĩnh vực cũng như các yêu cầu cụ thể khác nhau. Trước hết để giải quyết những vấn đề trước mắt của thực tế, cần tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực cho CNCB nông sản xuất khẩu theo hướng sau:
- Gia tăng quy mô đào tạo đội ngũ lao động trồng trọt, thông qua chương trình khuyến nông (dưới dạng chương trình hỗ trợ vùng). Chương trình này cần triển khai rộng rãi đến các hộ tiểu điền để thông qua đó mà nâng cao năng suất cây trồng.
- Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cùng với các doanh nghiệp để đào tạo công nhân trong các ngành biến nông sản xuất khẩu. Đội ngũ công nhân này phải được đào tạo và đào tạo lại về các kỹ năng chuyên môn, thực sự là đội ngũ công nhân lành nghề nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
- Đào tạo để năng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh xuất khẩu. Đồng thời cần đào tạo và có chính sách, giải pháp để thu hút đội ngũ chuyên gia nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu ứng dụng phát triển sản phẩm, sớm thương mại hóa được sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới.
KẾT LUẬN
Chế biến nông sản xuất khẩu là một bộ phận của CNCB nông sản. Nó thực hiện những hoạt động bảo quản, chế biến, xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị và giá trị sử dụng nông sản nguyên liệu thông qua quá trình cơ - nhiệt - hóa. Nó có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy sự phát triển toàn diện nền nông nghiệp hàng hóa một cách có hiệu quả; tăng kim ngạch xuất khẩu; giải quyết việc làm; tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác ở nông thôn.
Trong những năm qua, công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu của tỉnh Bình Phước đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên so với tiềm năng hiện có thì công nghiệp chế biến nông sản của tỉnh còn hạn chế nhiều mặt, chưa có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Điều đó do nhiều nguyên nhân như: sự mất cân đối giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; thiết bị máy móc chưa đồng bộ, phần lớn thiết bị lạc hậu; tình hình sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản xuất chưa đảm bảo môi trường,...
Để phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh; thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bình Phước, cần đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong sự đột phá đi lên của tỉnh nhà. Bình Phước cần phát huy hơn nữa năng lực của các thành phần kinh tế, kết hợp quy mô vừa và nhỏ, kỹ thuật thủ công nửa cơ khí và cơ khí, công nghệ hiện có và công nghệ hiện đại; phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; hướng tới giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; nâng cao tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp tinh chế...
Từ những phương hướng đã nêu, cần sử dụng những giải pháp: Tiếp tục xây dựng và mở rộng các vùng tập trung chuyên canh, ứng dụng tiến bộ của cách mạng sinh học vào sản xuất, đảm bảo khối lượng, chất lượng nông sản nguyên liệu cho CNCBNSXK; Tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở chế biến nông sản hiện có theo hướng liên doanh, liên kết, gia công; đầu tư xây dựng những cơ sở chế biến mới theo hướng hiện đại nhằm sản xuất những sản phẩm mới có nhiều tiềm năng, có giá trị cao; Tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; Thực hiện một số chính sách hợp lý để tạo điều kiện, tác động, thúc đẩy phát triển CNCBNSXK góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh 1
Nguyễn Duy Anh (2006), Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm điều xuất khẩu của Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế đối ngoại, Đại học quốc gia, Hà Nội.
Báo 2
Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước từ năm 2001 đến năm 2006.
Bộ 3
Bộ Nông nghiệp và PTNN, PAO TCP/vie/8821, (2000), Hỗ trợ chính sách cạnh tranh nông nghiệp trong ASEAN, nghiên cứu tính cạnh tranh của mặt hàng điều Việt Nam, Hà Nội.
Bộ 4
Bộ Nông nghiệp và PTN (2000), Báo cáo phát triển cây điều ở Việt Nam đến năm 2010, Bình Thuận.
Bộ 5
Bộ Nông nghiệp và PTN (2005), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định 120/1999/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án phát triển cây điều đến năm 2010, Hà Nội.
Biên 6
Phạm Văn Biên, Nguyễn Thanh Bình (2000), hiện trạng nghiên cứu và phát triển sản xuất Điều và định hướng phát triển giai đoạn 1999 - 2010, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển điều Việt Nam, Bình Thuận.
Bua 7
Bua Không Nam Ma Vông (2001), Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Chiến 38
Nguyễn Minh Chiến (2007), Cây cao su góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và ổn định dân cư ở Bình Phước.
Dang 9
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bình Phước (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ VI (nhiệm kỳ 1997- 2000).
Dang 10
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bình Phước (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (nhiệm kỳ 2001 - 2005).
Dang 11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bình Phước (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2005 - 2010).
Dang 35
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII), NXB CTQG, Hà Nội.
Dang 8
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB CTQG, Hà Nội.
Do 12
Michael Dower (2001), Bộ cẩm nang đào tạo và thông tin về phát triển nông thôn toàn diện, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Giao 13
Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hùng 14
Nguyễn Quốc Hùng (2002), “Giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, (9).
Hoa 15
Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Khải 16
Hoàng Sỹ Khải, Nguyễn Thế Nhã (1995), Những vấn đề chủ yếu về sản xuất điều ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Kỷ 17
Phí Văn Kỷ, Nguyễn Tiến Mạnh, Trần Thị Thu Hương (2000), Cây điều ở Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
Lê 18
V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, NXB Tiến bộ, Matxơva.
Lực 19
Bùi Công Lực (2007), “Cây điều và hoạt động sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu điều Bình Phước năm 2007 - Thực trạng và giải pháp”.
Lĩnh 20
Nguyễn Hồng Lĩnh (2006), “Một số giải pháp nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 12 (114).
Niên 21
Niên giám thống kê (1995 - 2005), NXB Thống kê, Hà Nội.
Niên 22
Niên giám thống kê (1997 -2007), Bình Phước.
Ninh 23
Bạch Đình Ninh (2000), “Đẩy mạnh chế biến nông sản - khâu quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (8).
Phương 24
Đỗ Thanh Phương (1998), Đặc điểm và phương hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Tây Nguyên ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Sáng 25
Phạm Văn Sáng (2000), “Quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm tại Đồng Nai”, Nghiên cứu lý luận, (9).
Sở 26
Sở Công nghiệp tỉnh Bình Phước (2005), Báo cáo tình hình thực hiện sản xuất công nghiệp năm 2005.
Sở 27
Sở Công nghiệp tỉnh Bình Phước (2006), Báo cáo tình hình thực hiện sản xuất công nghiệp năm, 2006.
Sở 28
Sở Công nghiệp tỉnh Bình Phước (2007), Báo cáo tình hình thực hiện sản xuất công nghiệp năm 2007.
Sở 29
Sở Công nghiệp tỉnh Bình Phước (2008), Dự thảo Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Bình Phước giai đoạn 2006 - 2015, tầm nhìn 2020.
Thành 30
Đinh Văn Thành (2007), Thị trường cao su xuất khẩu tự nhiên của Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội.
Tuấn 31
Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (82).
Uy 32
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2006), Quy hoạch ngành điều tỉnh Bình Phước giai đoạn 2006 - 2020.
Uy 36
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2000), Báo cáo tổng quan tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước năm 2000.
Uy 40
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước thời kỳ 2006 - 2020.
w 37
www.mof.gov.vn, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: liên kết để tạo sức bật mới.
w 39
www.vietlinh.vn, Nông sản mạnh lúa gạo, điều, cà phê, tiêu, mía đường.
w 41
www.khcnbinhphuoc.gov.vn.
Xuân 33
Mai Thị Thanh Xuân, Ngô Đăng Thành (2006), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Xuân 34
Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Công nghiệp chế biến với việc nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, (10).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvts0030.doc