Lời cảm ơn
Sau hơn hai tháng làm việc khẩn trương, Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Công đoàn XNVDTXK Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội với việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh” đã được hoàn thành bằng sự cố gắng của bản thân cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Trước tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến các Bác, các Chú trong văn phòng Công đoàn Xí nghiệp. Đ
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công đoàn Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội với việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc biệt để hoàn thành Khoá luận đúng thời hạn, em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Tăng Quyết Thắng- người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và cung cấp cho em những lời khuyên, lời chỉ giáo quý báu trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài. Đồng thời em cũng chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học- Trường Đại học Công đoàn và các bạn cùng lớp XH3A.
Là một sinh viên Khoa Xã hội học nhưng tác giả đã mạnh dạn chon đề tài Khoá luận về Công đoàn- đây là lĩnh vực chưa trải qua thực tế hoạt động và thời gian thực hiện cũng như trình độ có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến.
Em xin trân trọng cảm ơn những đóng góp quý báu đó!
Hà nội, tháng 5 năm 2004
Nguyễn Thị Thu Hiền
Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội VI (1986) đã và đang đi vào cuộc sống và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quyết định đưa đất nước đi vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH.
Ngày nay, cùng với sự phát triển chung của thế giới, kinh tế Việt Nam cũng đang từng bước đi lên nhờ những thế mạnh căn bản của mình, nhờ sự tìm tòi sáng tạo và khả năng tiếp nhận thành tựu tiên tiến của thế giới. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế muốn tồn tại và đứng vững thì phải phát huy một cách tối đa tính tự chủ, sáng tạo, nhạy bén kịp thời cho thích ứng với điều kiện mới của nền kinh tế. Do đó, Nhà nước ta đã chủ trương giao cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quyền được tự hạch toán kinh doanh để phát huy tính tự chủ của mình. Vì vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những tính toán thật chính xác, thật khoa học trong việc cân đối, sắp xếp, bố trí các loại lao động cho phù hợp với công nghệ sản xuất nhằm không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Cũng cần phải thấy rằng bên cạnh các chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành nhạy bén và kiên quyết của Chính phủ là sự nỗ lực phấn đấu kiên cường của các tổ chức chính trị xã hội, trong đó có sự đóng góp to lớn của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Tổ chức, sắp xếp lại lao động là một việc làm hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp cũng như đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp nhằm phát huy khả năng thích ứng của mỗi người lao động. Đó chính là nhiệm vụ của các cấp quản lý trong cơ quan, đơn vị, nhưng giữa các cấp quản lý và tổ chức công đoàn luôn có mối quan hệ gắn bó, hợp tác giúp đỡ nhau. Đặc biệt, cơ chế thị trường đã thúc đẩy các doanh nghiệp đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết. Vì vậy, có một số doanh nghiệp vô tình hay cố ý đã vi phạm đến quyền và lợi ích của người lao động như những vấn đề về tranh chấp lao động, quan hệ chủ thợ, điều kiện lao động, nhu cầu lợi ích của người lao động, cơ hội việc làm cho người lao động…ngày càng diễn ra phức tạp, tế nhị nhưng cũng rất gay gắt và quyết liệt.
Từ những vấn đề nêu trên đặt ra cho tổ chức Công đoàn trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình cần phải tham gia cùng với các bộ phận quản lý của cơ quan, đơn vị ở một số nội dung cơ bản. Trong đó, việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh là trách nhiệm của tổ chức Công đoàn.
Trước tình hình chung của đất nước như vậy, việc tổ chức, sắp xếp lại lao động ở Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội đã được lãnh đạo Xí nghiệp và tổ chức Công đoàn đặc biệt quan tâm. Bởi vì nó không những góp phần nâng cao hiệu ảu sản xuất, kinh doanh mà còn tạo ra một môi trường làm việc thích ứng, năng động, sáng tạo trong toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức và lao động.
Công đoàn tham gia vào công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động tức là Công đoàn đã thự hiện chức năng tham gia quản lý của mình. Thực hiện được chức năng này là Công đoàn đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở, những căn cứ và điều kiện để Công đoàn XNVDTXK Hà Nội thể hiện được vai trò, tác dụng của tổ chức Công đoàn.
Là một sinh viên Khoa Xã hội học đã được tiếp thu những kiến thức cơ bản về Xã hội học quản lý, tổ chức và kinh tế lao động. Nghiên cứu vai trò của Công đoàn trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, thực tiễn mà cả về mặt tư tưởng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Công đoàn Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội với việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh”.
Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu hoạt động của Công đoàn XNVDTXK Hà Nội trong việc tham gia với chuyên môn trong công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Qua đó, chúng ta thấy được những mặt mạnh, những điểm hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Xí nghiệp.
Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động Công đoàn Xí nghiệp trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu mô hình tổ chức và bố trí sử dụng lao động của XNVDTXK Hà Nội, thấy được những thành tích, những tồn tại và nguyên nhân của nó.
Làm rõ hoạt động của Công đoàn XNVDTXK Hà Nội trong việc tham gia phối hợp với chuyên môn trong công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tồn tại trong hoạt động Công đoàn cũng như trong việc tổ chức, sắp xếp lại lao động trong Xí nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của Công đoàn XNVDTXK Hà Nội trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Trong đó:
Chủ thể nghiên cứu: Cán bộ Công đoàn XNVDTXK Hà Nội.
Khách thể nghiên cứu: Cán bộ quản lý các cấp và công nhân, lao động làm việc ở Xí nghiệp.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội- Số 1 Trần Quý Cáp.
Thời gian: Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu về vấn đề Công đoàn với công tác tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động của XNVDTXK Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2000 trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những yêu cầu nội dung của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, Khoá luận đã dựa trên lý luận kinh tế học Mác- Lênin, lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm luận cứ khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, các hiện tượng luôn được đặt trong mối quan hệ tương tác với nhau với những mối liên hệ mật thiết với môi trường tự nhiên- lịch sử- xã hội cụ thể.
Trong quá trình nghiên cứu, Khoá luận cũng luôn dựa vào lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh, đặt con người vào vị trí trung tâm, coi giá trị con người là cao nhất.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài một cách khách quan, khoa học và mang tính đặc thù của ngành Xã hội học, Khoá luận còn sử dụng một số phương pháp xã hội học cụ thể sau đây để làm rõ vấn đề nghiên cứu:
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Căn cứ vào các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, các Nghị quyết của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Công đoàn ngành Đường sắt.
Đồng thời, khoá luận còn căn cứ vào các báo cáo tổng kết hàng năm của XNVDTXK Hà Nội, các số liệu thống kê về đội ngũ CNVC và lao động của Xí nghiệp và một số thống kê khác có liên quan để tìm ra các mối liên hệ và các mối tương quan xã hội.
Kế thừa có chọn lọc các thông tin của những công trình, những đề tài nghiên cứu khoa học của một số tác giả đi trước. Qua những thông tin thu thập được, tiến hành phân tích đánh giá vấn đề phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
5.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn trực tiếp đối với một số đối tượng là cán bộ công đoàn, cán bộ quản lý, công nhân, viên chức và lao động của Xí nghiệp nhằm khai thác những thông tin chi tiết cần thiết góp phần phản ánh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu. (Xem phụ lục)
Ngoài các phương pháp cụ thể nêu trên, khoá luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp quan sát, thống kê, so sánh…
6- Giả thuyết nghiên cứu
Công đoàn XNVDTXK Hà Nội đã phát huy tác dụng tích cực trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Giả thuyết nghiên cứu của đề tài được trình bày ở mô hình sau đây:
Công đoàn tham gia tổ chức , sắp xếp lại lao động
Tổ chức thi đua góp phần hoang thiện tổ chức lao động
Tham gia công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động
Tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh
Tham gia xây dựng tiêu chuẩn lao động và phân loại lao động
Tham gia xây dựng định mức lao động
Tham gia xây dựng tổ chức sử dụng lao động hợp lý
Tham gia tổ chức đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động
Tham gia làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động
7- Các lý thuyết liên quan
Để giải quyết các yêu cầu nội dung của đề tài một cách khoa học, đúng đắn, tác giả đã vận dụng các lý thuyết xã hội học có liên quan sau đây.
7.1 Lý thuyết cấu trúc chức năng
Lịch sử của lý thuyết này gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như August Comte, Herbert Spencer, Emile Durkheim, Tolcolt Parsons.
Về mặt thuật ngữ, thuyết chức năng còn được gọi là thuyết chức năng- cấu trúc hay thuyết cấu trúc- chức năng. Dù với tên gọi nào, các tác giả của lý thuyết này đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững.
Các luận điểm gốc của thuyết cấu trúc- chức năng đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc, bất kỳ sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Đối với cấu trúc xã hội hiện đại của chủ thuyết chức năng, đại diện là T. Parson- nhà Xã hội học người Mỹ (1920- 1979), vừa nhấn mạnh tính hệ thống của nó, vừa đề cao vai trò quan trọng của hệ giá trị, chuẩn mực xã hội trong việc tạo dựng sự thống nhất, ổn định trật tự xã hội.
T.Parsons đã lý luận rằng: bất kỳ một hệ thống hành động nào đều có những nét nổi bật chung và phải nằm trong một hệ thống nhất định. ông đã trình bày phân tích chức năng- cấu trúc với tư cách là một phương pháp, ông cho rằng: Phân tích cấu trúc điều tra chức năng tức là đóng góp từng phần việc cho việc giữ gìn ổn định của một cấu trúc. Tuỳ theo điều kiện là đã hoàn thành đóng góp hay chưa mà cấu trúc được giữ ổn định hay thay đổi khi ta xem xét nó vào một thời điểm nhất định.
Lập luận của ông đưa ra rằng: Giữa cấu trúc và chức năng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt chức năng sẽ làm cấu trúc của nó. Cấu trúc xã hội đảm bảo tính cân bằng cho xã hội về mặt chức năng.
Thuyết chức năng hướng vào giải quyết bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện, hiện tượng xã hội nào, những người theo lý thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần cấu tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xét quan hệ của chúng với nhu cầu chung của sự tồn tại và phát triển sự kiện, hiện tượng đó.
Mặt khác, thuyết này đòi hỏi phải tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của cấu trúc xã hội.
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài cho thấy hoạt động Công đoàn ngành Đường sắt cũng như Công đoàn Việt Nam nói chung và Công đoàn XNVDTXK Hà Nội nói riêng đều phải nằm trong một hệ thống nhất định. Trong mỗi thời điểm nhất định, tuỳ theo những yêu cầu cụ thể mà tổ chức công đoàn phải có những chức năng riêng nhằm đảm bảo hệ thống luôn được thống nhất, ổn định và bền vững.
7.2 Lý thuyết vai trò
Đây là lý thuyết được dùng rất nhiều trong Xã hội học. Trong lịch sử Xã hội học có nhiều quan niệm, định nghĩa về vai trò và người ta cho rằng: “danh sách các định nghĩa vai trò dường như muốn dài vô tận”- Claessens. Tuy nhiên, về cơ bản người ta có thể chia làm ba phương diện của khái niệm vai trò: Thứ nhất vai trò như là phương diện động lực của vị thế/ địa vị (gắn với địa vị); Thứ hai vai trò như là mẫu hành vi (gắn với hành vi); Thứ ba vai trò như là tổ hợp kỳ vọng hướng vào chủ nhân của địa vị (gắn với cá nhân).
Theo từ điển Xã hội học: Vai trò là “tập hợp những kỳ vọng ở trong xã hội gắn với hành vi của những người mang các địa vị…ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng hành vi”- Dahrendorf.
Lý thuyết về vai trò thực ra là nói đến các nhóm khái niệm trực thuộc với nhau và sau đó tạo thành lý thuyết vai trò như là hệ thống khái niệm: Vai trò, địa vị (thân thể), kỳ vọng (kỳ vọng- có thể- nên- phải), hình thức thưởng phạt (tích cực, tiêu cực), nhóm quy chiếu, hành vi (được kỳ vọng và thực tế).
Xét ở góc độ xã hội, vai trò xã hội là mô hình hành vi xã hội được xác lập một cách khách quan căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị trí, vị thế nhất định, để thực hiện quyền hạn và trách nhiệm tương ứng với các vị trí, vị thế đó…Như vậy, vai trò xã hội thể hiện những đòi hỏi của xã hội đối với các vị thế xã hội. Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực giá trị xã hội trong các xã hội khác nhau; các chuẩn mực và giá trị xã hội không đồng nhất, vì vậy vai trò xã hội cũng không đồng nhất.
Trong “thuyết hành động” của Parsons xuất phát từ nhận định cho rằng trong mọi hoàn cảnh đều có những đòi hỏi mong đợi đối với từng chủ thể hành động, bản thân chủ thể biết và tự hướng theo những đòi hỏi này. Sự liên kết những đòi hỏi về hành động chuẩn mực này được Parsons gắn cho khái niệm là vai trò. Như vậy, vai trò là những đòi hỏi đối với tính quy luật và bền vững của hành động xã hội. Đó là khuôn mẫu định hướng chung được tạo ra giữa xã hội và các cá thể hoặc nói một cách khác, những đòi hỏi của hệ thống xã hội được chuyển tới hệ cá nhân thông qua vai trò. Mỗi vai trò đều chứa đựng một khuôn mẫu chuẩn mực chủ chốt đối với một vị trí cụ thể trong một xã hội cụ thể. Việc thực hiện vai trò được giám sát bởi những nhóm chuẩn mực cơ bản.
Việc vận dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu cho thấy vai trò của Công đoàn thực chất là những hoạt động của Công đoàn được xác lập căn cứ vào sự lãnh đạo của Đảng và yêu cầu đòi hỏi của công nhân, viên chức, lao động đối với tổ chức này. Thực tế, Công đoàn đã có một vị thế nhất định trong xã hội nên Công đoàn phải thực hiện quyền hạn và trách nhiệm tương ứng với các vị thế đó. Để có thể đảm bảo và nâng cao vai trò của mình, Công đoàn tổ chức và thực hiện tốt các hoạt động đồng thời cũng là các chức năng của Công đoàn: tham gia quản lý, bảo vệ lợi ích và giáo dục CNVC và lao động.
Khi xem xét vai trò của Công đoàn XNVDTXK Hà Nội ta cần phải căn cứ vào các kỳ vọng mà CBCNV chức lao động của Xí nghiệp đối với Công đoàn Xí nghiệp thông qua các hoạt động đã được Công đoàn thực hiện như thế nào? Công đoàn có đứng ra bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động hay không? Công đoàn có tham gia với Ban giám đốc, các phòng, ban chuyên môn để quản lý, trong đó có quản lý về mặt tổ chức lao động hay không…, từ đó đánh giá vai trò của Công đoàn Xí nghiệp.
7.3 Lý thuyết hệ thống
Thuyết cấu trúc chức năng của Parsons đã bao hàm cả thuyết hệ thống, tuy nhiên chưa có khái niệm đầy đủ về hệ thống xã hội. Trong khi đó, điểm xuất phát quan trọng của việc nghiên cứu xã hội học chính là nghiên cứu ca nhân con người trong tương tác nhóm cộng đồng xã hội với tất cả tính hệ thống và hoàn chỉnh của nó. Vì vậy, cấu trúc xã hội là vấn đề trọng tâm mà khoa học Xã hội học quan tâm.
Lý thuyết hệ thống của T.Parsons cho rằng không có hệ thống xã hội nhất định thành bất biến. Mọi hệ thống xã hội đều biến đổi và thực chất của quá trình biến đổi đó là sự thay đổi hình thái ổn định cân bằng xã hội này bằng hình thái ổn định cân bằng xã hội khác. Do đó, cấu trúc xã hội nói chung cũng như cơ cấu đội ngũ CNVC nói riêng bao giờ cũng chỉ mang tính ổn định tương đối.
Theo T. Parsons cho rằng tất cả các hệ thống bao gồm các hệ thống xã hội phải thích nghi với nhau, về mặt nội bộ phải liên kết với nhau, có nghĩa là nói đến các mối quan hệ giữa những hệ thống với nhau. Sự liên kết của hệ thống là quan hệ, cấu kết của các hệ thống và các hệ thống con phải phối hợp ăn ý với nhau nhưng phải xác định được ranh giới giữa chúng.
Ranh giới giữa các hệ thống không những chỉ làm rõ sự khác nhau giữa chúng, mà còn tạo ra khả năng biến đổi các hệ thống đó khi có điều kiện và có thể thích nghi được, tuy nhiên giữa các hệ thống còn phải có sự cân bằng.
Đối với quan hệ bên trong hệ thống, thì trong một xã hội các hệ thống còn cần phải duy trì một trạng thái cân bằng và phải cơ động để góp phần vào sự tồn tại chung của hệ thống.
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài cho thấy XNVDTXK Hà Nội được xem như là một hệ thống, trong đó hệ thống con của nó là các bộ phận cấu thành nên Xí nghiệp. Giữa các hệ thống con này có sự liên kết hợp tác, thích ứng với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là giữa tổ chức Công đoàn và các phòng ban chuyên môn của Xí nghiệp luôn có sự phối hợp với nhau nhằm tạo nên một hệ thống cân bằng, phát triển vì mục tiêu chung của tổ chức trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Song giữa chúng cũng có ranh giới.
8. Kết cấu của khoá luận: Gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp và vai trò của Công đoàn trong việc tham gia công tác này.
Chương 2: Hoạt động của Công đoàn XNVDTXK Hà Nội trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Chương 3: Kết luận và khuyến nghị.
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về tổ chức, sắp xếp lại
lao động và vai trò của công đoàn trong việc tham gia công tác này.
Khái niệm, ý nghĩa của việc tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Khái niệm “tổ chức, sắp xếp lao động”.
Tổ chức, theo từ điển Tiếng Việt, là những công việc sắp xếp bố trí cần thiết đối với các bộ phận của cơ chế “làm cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng chung nhất định” [3]. Khái niệm tổ chức dùng ở đây được xem xét như một quá trình nhằm tác động một cách có mục tiêu tới đối tượng.
Sắp xếp là “xếp theo một trật tự coi là hợp lý nhất” [4].
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là một hành động diễn ra giữa người với giới tự nhiên. Con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể, sử dụng công cụ lao động để tác động vào thế giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất của tự nhiên, biến những vật chất đó làm cho chúng trở lên có ích cho đời sống của mình. Vì thế lao động là điều kiện không thể thiếu của đời sống con người; là một tất yếu vĩnh viễn, là kẻ môi giới trong sự trao đổi chất giữa tự nhiên và con người; lao động chính là việc sử dụng sức lao động.
Luật lao động nước CH XHCN Việt Nam khẳng định: “Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con ngườ tạo ra của cải, vật chất và các giá trị tinh thần xã hội”. [5]
Từ đó cho thấy tổ chức, sắp xếp lao động trong doanh nghiệp là tổng thể các biện pháp, thủ thuật nhằm sử dụng có hiệu quả các yếu tố của quá trình lao động với mục đích nâng cao hiệu quả các yếu tố đầu vào, các yếu tố sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổ chức lao động là quá trình kết hợp ba nhóm yếu tố chủ yếu tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ, đó là: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Đây là quá trình phát sinh ra các mối qun hệ, trong đó quan hệ giữa người với người là quan trọng nhất, vì nó không chỉ là quan hệ hợp tác hay phối hợp mà còn là quan hệ chia sẻ lợi ích.
Việc tổ chức, sắp xếp lại lao động cũng chính là việc quản lý nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các yêi cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý con người như vậy bao gồm nhiều chức năng phức tạp. Bởi vì con người chịu ảnh hưởng của các yếu tố: sinh lý, tâm lý, xã hội. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành nhân cách từng con người. Do đó, muốn quản lý con người phải vừa là nhà tổ chức, vừa là nhà tâm lý, vừa là nhà xã hội học và vừa phải là nhà chiến lược.
Như vậy, mục đích của tổ chức lao động khoa học là nhằm đạt hiệu quả lao động cao đồng thời bảo đảm sức khoẻ, an toàn và phát triển toàn diện cho người lao động; góp phần củng cố các mối qun hệ xã hội giữa những người lao động và phát triển các tập thể lao động giỏi. Mục đích đó được xác định xuất phát từ sự đánh giá cao vai trò của con người trong quá trình tái sản xuất xã hội.
ý nghĩa của việc tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp
Để không ngừng tăng năng suất lao động, tăng tích luỹ cho xã hội, các doanh nghiệp phải tiến hành công tác quản lý, tổ chức, sắp xếp lại lao động cho phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình nhằm có thể khai thác được mọi tiềm năng sẵn có, sử dụng tối đa các trang thiết bị máy móc. Đây là biện pháp nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nhất sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tổ chức lao động một cách khoa học là một trong những nhân tố quan trọng nhất. Hồ Chủ Tịch đã dạy: “…muốn phát triển sản xuất thì trước hết phải nâng cao năng suất lao động và muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức lao động tốt”. [8]
Đối với các đơn vị, doanh nghiệp sau khi có phương hướng nhiệm vụ sản xuất thì tổ chức lao động là công tác có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, là nhân tố đảm bảo tiết kiệm tối đa lao động sống và nâng cao hiệu quả sử dụng các tư liệu sản xuất.
Bố trí sử dụng lao động hợp lý liên quan đến kết quả sản xuất, kinh doanh, đến sự sống còn của doanh nghiệp, của CNVC và lao động, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến công tác này nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
ở nước ta, nguồn lao động rất dồi dào, khả năng tiềm tanggf về sức lao động rất to lớn, nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, tình hình tổ chức sản xuất, sử dụng lao động còn nhiều mặt tồn tại. Trong thời kỳ đổi mới, đất nước chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhất là quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh đã gây nên một sức ép đối với nền sản xuất xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo ra một sức ỳ lớn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, khu vực kinh tế quốc doanh được ưu tiên phát triển quy mô thu hút nhiều lao động nhưng hoạt động lại kém hiệu quả. Hoặc nguồn nhân lực dồi dào nhưng lại thiếu nghiêm trọng những điều kiện vật chất như vốn đầu tư, cơ sở hạ tầng…để sử dụng tối đa tiềm năng lao động, do đó không phát huy được năng lực sản xuất.
Từ thực tế đó đặt ra một tất yếu khách quan là phải đổi mới cơ chế quản lý, bên cạnh việc thực hiện hạch toán kinh doanh trong đơn vị còn cần phải thực hiện tổ chức, sắp xếp lao động, cân đối năng lực sản xuất vào nguồn lao động. Việc quan trọng trong các doanh nghiệp là phải sắp xếp lại lao động, phải đảm bảo cho người lao động luôn có đủ việc làm với năng suất cao, đây là mâu thuẫn gay gắt trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp đang tìm biện pháp để xử lý vấn đề này.
Trong các doanh nghiệp, dựa trên cơ sở của trang thiết bị công nghệ, công suất máy móc cũng như mục tiêu của doanh nghiệp mà từ đó bố trí, sắp xếp lại lao động cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh tạo ra năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Đây cũng chính là yêu cầu quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp để từ đó có thể mở rộng sản xuất và phát triển thu hút được nhiều lao động.
Tổ chức, sắp xếp lao động hợp lý còn góp phần tiết kiệm nguồn nhân lực cho xã hội, từ đó tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, tạo cơ hội cạnh tranh chiếm lĩnh và mở rộng thị trường.
Mặt khác, việc tổ chức, sắp xếp lại lao động còn góp phần tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý. Cơ cấu lao động được coi là tối ưu khi lực lượng lao động đảm bảo đủ số lượng, ngành nghề, chất lượng, giới tính, lứa tuổi. Đồng thời phải được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và các cá nhân với nhau, bảo đảm mọi người đều có việc làm, mọi khâu, bộ phận đều có người phụ trách và sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên phạm vi toàn doanh nghiệp.
Tổ chức, sắp xếp lại lao động còn tạo điều kiện để mỗi cá nhân người lao động phát huy được những khả năng làm việc của mình cho phù hợp. Nhà quản lý sẽ dựa trên cơ sở trình độ năng lực, khả năng làm việc của mỗi người lao động mà bó trí các công việc cho phù hợp nhằm phát huy mọi khả năng của người lao động, kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển, đẩy mạnh việc nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn của người lao động. Từ đó có điều kiện để thực hiện khát vọng chính đáng của con người. Xuất phát từ quan điểm sức lao động là vốn quý nhất của xã hội XHCN, nên tổ chức lao động ngoài việc là nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động nó còn có tác dụng không ngừng điều kiện lao động cho người lao động. Làm tốt việc đó là đã tạo điều kiện cho người lao động được làm việc liên tục, nhịp nhàng, thoải mái, ít tốn năng lượng trong quá trình lao động, đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Việc bố trí, sắp xếp lại lao động còn tạo điều kiện để người lao động luôn được phát triển về mọi mặt, đặc biệt là trình độ văn hoá, nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật. Sự phát triển toàn diện của họ là cơ sở đề xuất ý kiến, sáng kiến cải tiến kỹ thuật- công nghệ không ngừng phát triển.
Như vậy, tổ chức, sắp xếp lại lao động là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh được cân đối, nhịp nhàng, liên tục. Đó là cơ sở đảm bảo nâgn cao hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mặt khác, sắp xếp lao động một cách tối ưu còn là cơ sở cho việc phân công, bố trí lao động, cơ sở cho công tác đào tạo và quy hoạch cán bộ, là cơ sở để khai thác triệt để các nguồn khả năng tiềm tàng rong doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn tạo ra một môi trường, một động lực để kích thích sản xuất phát triển, tiết kiệm nguồn nhân lực cho xã hội, đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người lao động, kích thích họ nâng cao trình độ tay nghề, góp phần củng cố các mối quan hệ xã hội giữa người lao động với nhau và với người sử dụng lao động.
Với ý nghĩa to lớn đó, hiện nay trong hoạt động của các doanh nghiệp dù ở bất kỳ quy mô nào cũng đều phải tính đến phương án tổ chức, sắp xếp lại lao động cho phù hợp với phương án sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình.
1.1.3 Một số yêu cầu đối với doanh nghiệp trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại lao động.
Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm sức lao động là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Muốn vậy, cần phải làm tốt công tác tổ chức lao động một cách khoa học. Nhiệm vụ tổng quát của công tác này là phân bổ, sử dụng và bồi dưỡng tốt sức lao động nhằm tăng năng suất lao động và tiết kiệm sức lao động.
Tổ chức, sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề kinh tế- xã hội phức tạp. Do vậy, các ngành, các cấp phải làm tốt công tác tư tưởng đến từng CBCNVC và lao động. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện cần có sự phối hợp với các tổ chức Đảng chính quyền, các đoàn thể quần chúng, nhất là cơ sở.
Trong các doanh nghiệp điều quan trọng nhất của việc sắp xếp lại lao động là phải trên cơ sở tổ chức lại sản xuất, kinh doanh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Phải xuất phát từ thực tế của doanh nghiệp, từ các biện pháp xử lý vĩ mô của Nhà nước, yêu cầu thực tế của thị trường mà các doanh nghiệp bố trí dây chuyền sản xuất đầu tư kỹ thuật, công nghệ và tổ chức, sắp xếp lao động có kỹ thuật, có tay nghề đúng với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh, tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Điều đó cũng có nghĩa là phải tổ chức, sắp xếp lao động sao cho tránh được sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận, phòng ban, phân xưởng.
Sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp là nhằm tiết kiệm chi phí và tăng năng suất lao động. Vì vậy, cần phải làm tốt công tác tuyển chọn và sử dụng nhân viên, lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nhân viên để họ luôn thích ứng với công việc ngày càng cao, làm tốt công tác kế hoạch hoá lao động để doanh nghiệp luôn chủ động về lao động; theo dõi, tham gia giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động, điều chỉnh thường xuyên mức tiền công cho phù hợp và kích thích khả năng lao động, sáng tạo của người lao động.
Bố trí, sắp xếp lao động trong doanh nghiệp phải đảm bảo đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, chuyên môn nghiệp vụ mà họ đã được đào tạo, đảm bảo sử dụng tối đa thời gian và thiết bị, hướng người lao động đến mục đích công việc, tuân thủ quy trình công nghệ, kỷ luật lao động.
Bên cạnh đó, việc tổ chức, sắp xếp lao động còn phải đảm bảo tính an toàn và hạn chế tính đơn điệu của công việc, tạo ra môi trường làm việc thoải mái, phù hợp với tâm sinh lý, tạo bầu không khí lao động lành mạnh.
Đối với số lao động dôi dư do quá trình sắp xếp lại lao động thì sẽ tổ chức các hình thức tạo chỗ làm việc mới phong phú và đa dạng hơn như: chuyển ra làm việc ở các thành phần kinh tế khác thông qua chính sách thôi việc trợ cấp một lần, nghỉ luân phiên hoặc dài hạn khi sản xuất phát triển thì thu hút trở lại làm việc.
1.1.4 Nội dung của việc tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp
Lực lượng lao động của doanh nghiệp bao gồm mọi thành viên trong doanh nghiệp mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng mang tính chất ổn định, lâu dài. Trong điều kiện hiện nay, nguồn nhân lực của doanh nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả những người không thuộc diện doanh nghiệp quản lý nhưng có tham gia vào giải quyết nhữn._.g công việc của tổ chức, doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, lao động là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, thông qua nguồn lực này thì các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng, vì vậy việc tổ chức nguồn lực là nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực làm tăng năng suất lao động, tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận làm cho con người ngày càng thoả mãn trong lao động.
Đối với công tác tổ chức lao động nói chung, các nhà quản lý trong doanh nghiệp cần phải phân tích các loại công việc, từ đó định ra cần bao nhiều người, cần các điều kiện, kỹ năng kiến thức gì để hoàn thành công việc. Phân tích công việc là để giải quyết các vấn đề: Cần thực hiện những công tác gì? Tại sao phải thực hiện công việc đó? Khi nào công việc được hoàn tất? Công việc được thực hiện ở đâu? Và thực hiện bằng biện pháp nào? Để thực hiện công việc đó cần phải hội đủ những tiêu chuẩn, trình độ nào? Để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tối ưu hoá nguồn lao động, thể hiện ở việc tuyển dụng, lựa chọ và bố trí sắp xếp nhân sự sao cho đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục đích, điều đó có nghĩa là trong sử dụng nguồn lao động, người cán bộ quản lý cần cố gắng đảm bảo cho người lao động được sử dụng đúng chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề; đồng thời quan tâm đến sở thích, sở trường, đặc điểm nhân cách và đạo đức cá nhân của họ. Việc sử dụng phải đi đôi với việc đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ông cha ta đã từng nói: “Thiên thời , địa lợi, nhân hoà”. Nhưng thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà. Muốn cho yếu tố “nhân” được “hoà” thì ta phải biết “thuật chọn người” và “thuật dùng người” kết hợp với chính sách tiền lương, tiền thưởng sẽ có tác dụng động viên tinh thần người lao động, kích thích họ hăng hái làm việc, hăng hái cống hiến cho doanh nghiệp, do vậy mà năng suất lao động tăng, trở thành động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Như vậy, muốn cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao càn phải hình thành một cơ cấu lao động tối ưu trong các doanh nghiệp.
Để đảm bảo kịp thời, đầy đủ, cân đối, liên tục số lượng và chất lượng các loại lao động, đáp ứng mọi hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh luôn biến động, công tác tổ chức, sắp xếp lao động cần thực hiện những nội dung sau:
Phân công lao động và hiệp tác lao động
Phân công lao động và hiệp tác lao động là điều kiện tiên quyết để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đây chính là những hình thức nhất định của mối quan hệ giữa con người.
Phân công lao động.
Trong quá trình lao động, phân công lao động là một quá trình phát triển của tổ chức sản xuất khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và lao động (mang tính xã hội) ngày càng cao. Thực chất của phân công lao động là chia nhỏ quá trình sản xuất, quá trình lao động ra từng bộ phận và phân công cho các bộ phận hay tập thể cho đến khi các cá nhân trong tập thể có một công việc nhất định. Phân công lao động chính là quá trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp theo khả năng lao động của họ. Phân công lao động là sự song song tồn tại của các hình thức lao động khác nhau.
Phân công lao động sẽ giúp cho việc xác định những yêu cầu kỹ thuật của công việc mà con người phải đáp ứng trở nên có căn cứ khoa học, đảm bảo sự phù hợp giữa công việc được phân công với đặc điểm và khă năng của từng người. Phân công lao động dẫn đến quá trình sản xuất được chuyên môn hoá cao, nên sẽ áp dụng được tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sử dụng được các trang thiết bị chuyên dùng, máy móc, thiết bị hiện đại có năng xuất lao động cao, đồng thời áp dụng được các mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến, tổ chức lao động khoa học, tiến tới lao động tự giác trong sản xuất, thúc đẩy quá trình xã hội hoá về lao động. Phân công lao động sẽ chuyên môn hoá được nhân công, công cụ lao động. Nhờ chuyên môn hoá nhân công sẽ giới hạn được phạm vi hoạt động của nhân viên, công nhân nhanh chóng quen với công việc, có được những kỹ năng, kỹ xảo, giảm được thời gian và chi phí đào tạo, đồng thời sử dụng và khai thác triệt để khả năng riêng của mỗi con người.
Hiệp tác lao động.
Hiệp tác lao động là sự phối hợp công tác giữa những người tham gia lao động, giữa các bộ phận trong cùng một quá trình hay các quá trình sản xuất, công tác khác nhau nhưng có quan hệ với nhau về không gian và thời gian.
Hiệp tác lao động là phương tiện mạnh mẽ nhất để tăng năng suất lao động. Hiệp tác lao động dựa trên mối quan hệ đồng chí, tương trợ, giúp đỡ nhau trong quá trình lao động, nhiều công việc đơn giản nhưng trong quá trình lao động không có sự hiệp tác chặt chẽ thì không thể đạt hiệu quả cao. Quá trình hiệp tác thúc đẩy quan hệ trong lao động, nó vừa mang tính cạnh tranh lại vừa mang tính hiệp tác, tăng “sức sống” của từng người do tiếp xúc xã hội làm xuất hiện những động cơ, những kích thích mới trong quan hệ qua lại giữa con người với nhau trong quá trình lao động, công tác, tạo bầu không khí tâm lý tốt đẹp trong tập thể lao động. Điều kiện lao động như nhau, trình độ tổ chức hiệp tác lao động tốt thì năng suất và hiệu quả lao động cũng tăng cao, đặc biệt là đối với những loại lao động thực hiện những công việc phức tạp, đòi hỏi có sự tham gia của nhiều người. Qua hiệp tác sẽ thêm quá trình phân công lao động, nó khắc phục thiếu sót do bản thân phân công lao động gây ra. Hiệp tác lao động trở thành sự cần thiết khách quan đối với công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp.
Hiệp tác lao động là một quá trình xảy ra đồng thời cùng với phân công lao động, giữa chúng tuy có những nội dung cụ thể khác nhau nhưng vẫn có mối quan hệ biện chứng với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, tác động thúc đẩy nhau. Bản thân sự phân công lao động đã bao hàm sự hiệp tác, ngược lại sự hiệp tác tự nó đã bao hàm sự phân công. Phân công lao động thì tạo ra cơ cấu tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý, hiệp tác lao động là điều kiện cần thiết để cho bộ máy ấy hoạt động được. Phân công lao động hợp lý là tiền đề để hiệp tác lao động chặt chẽ, ngược lại hiệp tác lao động chặt chẽ là sự kế tục và phát huy hiệu quả của phân công lao động, nó thúc đẩy việc phân công lao động sâu sắc hơn và hơn. Phân công lao động càng sâu thì hiệp tác lao động càng rộng và những người thực hiện càng phải hợp nhất sự cố gắng của mình nhiều hơn để đạt mục đích chung một cách có kế hoạch.
Ngày nay, sản xuất dựa trên cơ sở máy móc, thiết bị hiện đại đã tạo ra các hình thức hiệp tác và phân công lao động mới, đòi hỏi nhiều loại công nhân lành nghề khác nhau, nhiều loại cán bộ kỹ thuật, kỹ sư theo các chuyên môn khác nhau để điều khiển quá trình sản xuất. Do đó đòi hỏi phải có sự phân công lao động tỉ mỉ, chặt chẽ, chính xác, có tính toán đến tỷ lệ khác nhau, trình độ lành nghề khác nhau, đến việc đào tạo các loại lao động cho phù hợp với nhu cầu và biến động về lao động trong doanh nghiệp. Trong phân công lao động cũng cần phải đặc biệt chú ý đến cường độ lao động, tính đơn điệu của công việc. Để sự hiệp tác lao động có hiệu quả, cần phải:
Có sự quản lý để xác định các tỷ lệ lao động theo không gian, thời gian, để tổ chức sự phối hợp giữa các chức năng lao động, đảm bảo sự thống nhất ăn khớp trong quá trình lao động nhằm đạt được các mục tiêu của sản xuất.
Phải thiết lập được kỹ luật lao động trong điều kiện sản xuất công nghiệp càng hiện đại thì yêu cầu kỷ luật lao động càng cao, nếu không có kỷ luật lao động thì quá trình hiệp tác lao động dễ bị phá vỡ dẫn đến sự thiệt hại về kinh tế.
Kế hoạch hoá nguồn lao động, tuyển chọn và bố trí lao động.
Kế hoạch hoá nguồn lao động:
Kế hoạch hoá nguồn lao động là công việc của bộ phận quản lý lao động nhằm đảm bảo thường xuyên, liên tục, đầy đủ, cân đối và kịp thời về số lượng và chất lượng con người đáp ứng mọi hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh luôn biến động.
Xây dựng kế hoạch nguồn lao động có tính toán khoa học không những đảm bảo nhu cầu lao động cho trước mắt mà còn tạo nguồn lực cho tương lai, dựa trên hoạt động của tổ chức và các yếu tố môi trường, đồng thời phải dựa vào các dự báo về mọi yếu tố môi trường tác động đến tổ chức như thế nào để có sự chuẩn bị nhân sự cho phù hợp.
Nhiệm vụ của công tác kế hoạch hoá nguồn lao động là:
Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện công việc, thành tích công tác của lao động, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lao động của kỳ đã qua.
Chuẩn bị đầu vào về lao động cả về số lượng và chất lượng đáp ứng khối lượng công việc của từng bộ phận và cả doanh nghiệp khi đã có kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Xác định sự mất cân đối về lao động giữa nhu cầu của kế hoạch đối với số lao động hiện có còn tiếp tục làm việc sang năm sau (kể cả về số lượng và chất lượng nhất là về nghiệp vụ), từ đó đưa ra các giải pháp đảm bảo cân đối giữa cung và cầu.
Trong quá trình kế hoạch hoá nguồn lao động nên tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực đảm bảo số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu theo yêu cầu của công việc, bố trí, sắp xếp lao động theo phương châm “đúng người- đúng việc- đúng lúc- đúng chỗ- đúng mục đích” góp phần phát triển tài năng con người.
Tuyển chọn và bố trí lao động:
Tuyển chọn và bố trí lao động trong doanh nghiệp một cách khoa học, có hiệu quả là nhằm tìm được những người có khả năng phù hợp với yêu cầu của công việc, bố trí đúng người, đúng việc, đúng khả năng chuyên môn nghiệp vụ mà họ đã được đào tạo đảm bảo tối đa thời gian và thiết bị, hướng người lao động đến mục đích công việc, tuân thủ quy định công nghệ, kỷ luật lao động.
Tuyển chọn nhân viên là khởi đầu cho việc đảm bảo một nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, đáp ứng đúng chất lượng, đúng số người, đúng lúc, đúng chỗ. Do vậy:
Trước tiên, doanh nghiệp phải xác định được chiến lược lâu dài của mình- chiến lược lâu dài đó là xu hướng dự báo nhu cầu đối với sản phẩm của mình ít nhất là 5 năm tới hay nhiều hơn nữa trong tương lai.
Thứ hai, đó là những biến động, những chuyển biến mà có thể dự đoán trong vòng một năm như tình hình chính trị, kinh tế- xã hội, các thay đổi về nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, từ đó mà có thể giảm bớt hay tuyển thêm lao động.
Thứ ba, trong thời vụ kinh doanh phát triển đòi hỏi phải có nhiều lực lượng lao động bổ sung kịp thời.
Từ việc xác định được nhu cầu mà các nhà quản lý đưa ra các yêu cầu nội dung tuyển chọn lao động. Tiến hành trên cơ sở xác định yêu cầu của công việc, sức khoẻ tâm lý đối với công việc, khả năng tiếp tục bồi dưỡng trình độ văn hoá, chuyên môn. Khi tuyển chon cần phải chú ý đến sở thích thực sự của người tham gia tuyển chon, đặc biệt tâm sinh lý và nguyện vọng thực sự của họ.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là khi tuyển chọn cần phải xác định phương pháp tuyển chọn sao cho phù hợp.
Công tác bố trí sử dụng người trong các doanh nghiệp phải được thực hiện một cách khoa học và hiệu quả tức là phải bố trí đúng người, đúng việc, sử dụng đúng khả năng chuyên môn nghiệp vụ đã được đào tạo để họ thực hiện và hoàn thành, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao
Khi bố trí lao động,để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có những quy định cụ thể sau: Phân công cho mỗi người lao động làm việc ở nơi làm việc cố định; Phải xác định rõ công việc mà từng người phải hoàn thành và vị trí của họ trong tập thể lao động; Phải tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết trong hoạt động của người lao động; Hướng dẫn và theo dõi việc thực hiện kỷ luật lao động, kỷ luật sản xuất và quy trình làm việc; Có mức giao và thống kê, theo dõi tình hình thực hiện mức lao động. Đảm bảo sử dụng đầy đủ, tối đa thời gian và thiết bị, đảm bảo công tác luân phiên sao cho nhịp nhàng, hiệu quả.
Tóm lại, việc tuyển chọn và bố trí người lao động trong cơ sở, doanh nghiệp hợp lý là nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và ổn định sức lao động.
Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho công nhân lao động.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động là rất cần thiết. Bởi vì, thông qua việc nâng cao trình độ chuyên môn sẽ khả năng làm việc của người lao động trong tương lai và đáp ứng được nguyện vọng của những người lao động muốn thay đổi công việc của mình. Đồng thời, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động còn là tạo điều kiện để họ thực hiện những trách nhiệm và nhiệm vụ do có sự chuyển đổi mục tiêu, cơ cấu, công nghệ và những thay đổi về chính sách pháp luật. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn còn là để bù đắp những chỗ thiếu, chỗ trống trong doanh nghiệp.
Để làm tốt công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có kế hoạch, chương trình đào tạo cụ thể cho phù hợp, mời các chuyên gia giảng dạy hoặc gửi người đi học tại các trung tâm, cơ sở chuyên ngành.
Định mức lao động.
Định mức lao động bao gồm tất cả các phương pháp, công việc nhằm xây dựng, tổ chức thực hiện, theo dõi, kiểm tra, sửa đổi thay thế các mức lao động. Bản chất của định mức lao động là làm thế nào để xác định được hao phí thời gian lao động để hoàn thành một công việc hay sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trong điều kiện tổ chức lao động xác định.
Vì vậy, định mức lao động có vai trò rất quan trọng. Nó là cơ sở để tổ chức lao động một cách khoa học, sắp xếp lao động, sắp xếp, bố trí dây chuyền sản xuất.
Định mức lao động được xây dựng trên cơ sở thời gian hoàn thành từng chi tiết của một sản phẩm. Định mức lao động càng chi tiết, càng chính xác, sắp xếp có khoa học, các bước công việc được tiến hành thứ tự không chồng chéo, từ chi tiết đến tổng thể, thì càng có lợi cho quá trình sản xuất. Căn cứ vào định mức đó người ta tính được dây chuyền sản xuất cần bao nhiêu lao động, trình độ, tay nghề, phục vụ ra sao, cán bộ điều hành sản xuất, cán bộ quản lý như thế nào…
Có thể nói định mức lao động là công cụ, phương tiện để nhằm nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm được chi phí về lao động trong sản xuất, do vậy sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tổ chức và phục vụ nơi làm việc
Nơi làm việc là một phần diện tích sản xuất mà ở đó công nhân hay một nhóm công nhân sử dụng máy móc, thiết bị nguyên vật liệu và những tư liệu sản xuất khác để chế tạo sản phẩm hoặc phục vụ quá trình sản xuất.
Tổ chức và phục vụ nơi làm việc là cung cấp các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho nơi làm việc và tạo điều kiện để tiến hành quá trình lao động sản xuất một cách liên tục và đạt hiệu quả cao. Tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình lao động của con người, nó cho phép sử dụng hiệu quả sức lao động và công suất của máy móc, thiết bị.
Cải thiện điều kiện lao động
Điều kiện lao động là tổng hợp các yếu tố môi trường sản xuất, kinh doanh, những yếu tố đó tác động lên cơ thể người lao động làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động, ảnh hưởng đến khả năng làm việc, đến năng suất lao động.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải coi trọng công tác cải thiện điều kiện làm việc của người lao động, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, trang bị các phương tiện bảo vệ cá nhân…nếu làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện đảm bảo cho người lao động yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao năng suất lao động cho doanh nghiệp và cũng là đảm bảo quyền lợi của người lao động.
1.1.5 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp.
Tổ chức, sắp xếp lại lao động là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là nhằm tạo điều kiện phát triển của mỗi cá nhân người lao động.
ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác tổ chức lao động trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đảng, Nhà nước ta coi trọng việc hợp lý hoá tổ chức sản xuất và tổ chức lao động, thực hiện một bước chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất, tăng cường quản lý lao động, chú trọng củng cố kỹ thuật lao động; lấy việc cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức lao động là yêu cầu cấp bách để sử dụng tốt hơn lực lượng lao động hiện có và đẩy mạnh tốc độ tăng năng suất lao động. Vì vậy, một trong những sự kiện lớn được cả nước quan tâm và phấn khởi, ngày 05/07/1994 Chủ tịch nước ký lệnh số 35/L- CTN công bố Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 về lao động, về sử dụng và quản lý lao động.
Bộ luật Lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong việc sử dụng và quản lý lao động, góp phần CNH- HĐH đất nước vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ngày nay, kỹ thuật và công nghệ không ngừng phát triển đến một trình độ cao đòi hỏi tổ chức lao động cũng phải thay đổi với một trình độ thích ứng.
Bộ luật Lao động đã quy định trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các ngành, các doanh nghiệp trong việc áp dụng những kết quả nghiên cứu kinh nghiệm tiên tiến về tổ chức lao động khoa học và đào tạo những chuyên gia về tổ chức lao động.
Hiện nay, trong các cơ sở, doanh nghiệp đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp những vấn đề về tổ chức lao động khoa học có sự tham gia của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ sản xuất, các cán bộ lao động, định mức, các nhà sinh lý học, các chuyên gia về mỹ thuật, công nghiệp và những người sản xuất giỏi cũng đóng góp vai trò tích cực trong việc tổ chức lao động một cách khoa học, hiệu quả trong cơ sở, doanh nghiệp.
Vai trò của Công đoàn trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề Công đoàn tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động ở cơ sở.
Khi nói tới vai trò của một tổ chức tức là nói đến sự tác động của tổ chức đó đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng mà tổ chức đó rồn tại và phát triển.
Lênin đã nói: “Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa cộng sản”. Với vị trí là một tổ chức chính trị, xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân Việt Nam, trong mọi giai đoạn cách mạng Công đoàn Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng tổ chức mình lớn mạnh về mọi mặt, qua đó động viên, tập hợp, đoàn kết lực lượng để trở thành đội ngũ lòng cốt thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện được mục tiêu: “Vì sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sống dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh” [12] thì Công đoàn phải đổi mới về nội dung, hình thức và phương thức hạt động, đổi mới về tổ chức và cán bộ.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sự chuyển hướng chiến lược đó đã giải phóng sức sản xuất, khơi dậy các tiềm năng làm cho bộ mặt kinh tế xã hội trở nên sống động hơn. Đời sống của công nhân lao động và nhân dân được cải thiện rất nhiều, một bộ phận trở nên giàu có. Song cơ chế thị trường đã và đang tác động mạnh mẽ, trực tiếp vào giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trước những thách thức mới. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN như hiện nay thì vai trò của Công đoàn ngày càng được khẳng định.
Lênin đã từng khẳng định: “Không có một nền móng như tổ chức Công đoàn thì không thể thực hiện được các chức năng của Nhà nước”. [6]
Khẳng định đó của Lênin về vai trò của Công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà cả về mặt tư tưởng. Trong những năm qua, Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng thể hiện rõ vai trò của mình đối với xã hội. Công đoàn đã thu hút, vận động, giáo dục, tổ chức công nhân, viên chức và lao động tham gia vào công cuộc cách mạng giải phóng đất nước, cách mạng XHCN. Trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng, Công đoàn đã tỏ rõ sự tham gia tích cực, tác động mạnh mẽ của mình thông qua hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, ngành, cơ sở, thông qua lực lượng đoàn viên.
Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì tổ chức Công đoàn cũng ngày càng phát huy được các chức năng của mình:
Chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động:
Một trong những chức năng của Công đoàn Việt Nam hiện nay là bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động, đồng thời, Công đoàn cũng bảo vệ lợi ích của Nhà nước, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật, những thói hư tật xấu của một số người, nhóm người lạc hậu, bị tha hoá biến chất, đấu tranh chống những hành vi trù dập, ức hiếp quần chúng, tham nhũng,…Có thể nói chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích là chức năng vốn có của tổ chức Công đoàn.
Khoản 1- Điều 2 Luật Công đoàn năm 1990 nêu rõ: “Công đoàn đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia cùng với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động”. [10] Đó là tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, trong việc ký hợp đồng lao động cho công nhân, viên chức, lao động, đại diện CNVC và lao động ký thoả ước lao động tập thể; trong vấn đề thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động…Tăng cường hoạt động của Công đoàn nhằm thực hiện tốt chức năng “chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động” là chương trình hành động của các cấp Công đoàn.
Chức năng giáo dục
Một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện chức năng giáo dục là làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Muốn có lợi ích phải thực hiện tốt nghĩa vụ, làm tròn trách nhiệm của mình. Từ đó củng cố kỷ luật lao động, học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn, nghịêp vụ; xây dựng ý thức tự nguyện, tự giác trong lao động, công tác. Công đoàn tuyên truyền, giáo dục CNVC và lao động vững tin vào đường lối, chính sách của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; đấu tranh với những khuynh hướng sai lầm, ảo tưởng, mơ hồ, cơ hội; Công đoàn giáo dục pháp luật, giáo dục thảm mỹ, giáo dục truyền thống đạo đức cho CNVC và lao động.
Chức năng tham gia quản lý
Tham gia quản lý thể hiện quyền của Công đoàn, của CNVC và lao động. Đồng thời, tham gia quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích lâu dài của CNVC và lao động, của tập thể, của Nhà nước một cách căn bản và có hiệu quả, phát huy vai trò là trường học quản lý của Công đoàn.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, khi thực hiện chức năng này, Công đoàn cần chú trọng đến việc phát triển tiềm năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng thủ trưởng đơn vị tìm nguồn vốn, thị trường để mở rộng sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, kiểm tra giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan liêu, tham nhũng.
Khoản 1- Điều 9 Luật Công đoàn có nêu: “Trong phạm vi chức năng của mình, Công đoàn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động, tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương, tiền thưởng, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động”. [11]
Để làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình và tham gia có hiệu quả trong các lĩnh vực đòi hỏi người cán bộ Công đoàn phải có trình độ nhất định, phải được trang bị đầy đủ các kiến thức về quản lý kinh tế, nắm vững các chế độ chính sách về pháp luật của Nhà nước và vấn đề giải quyết việc làm. Thực hiện chức năng của mình thì Công đoàn cơ sở ở mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường trước hết cần phải tham gia với chuyên môn về công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động một cách khoa học, trên tất cả các nội dung của nó, với mọi hình thức có thể làm được.
Thực hiện chủ trương sắp xếp lại sản xuất, cân đối nguồn lao động với trang thiết bị máy móc của đơn vị, các cấp Công đoàn nhất là Công đoàn cơ sở ở nhiều nơi đã thực sự cùng với Giám đốc doanh nghiệp tìm mọi biện pháp giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân lao động, khuyến khích mọi người góp vốn, tìm thị trường mở rộng sản xuất, kinh doanh; tổ chức các phong trào thi đua lao động giỏi- đây là biện pháp tổng hợp nhất để CNVC và lao động trực tiếp tham gia quản lý. Công đoàn tuyên truyền giáo dục làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Từ đó củng cố kỷ luật lao động, khuyến khích CNVC và lao động học tập nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng ý thức tự giác trong lao động.
Công đoàn cơ sở cần phải giáo dục cho công nhân, lao động làm cho họ hiểu rõ những khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp, thấy rõ được sự cần thiết phải sắp xếp lao động, đổi mới dây chuyền công nghệ, tổ chức lại sản xuất…để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động, thực hiện chức năng chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Trên cơ sở hiểu rõ mục đích và nguyên nhân của việc tổ chức, sắp xếp lại lao động thì người lao động sẽ ủng hộ phương án đổi mới sản xuất, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Sau khi đã bố trí, sắp xếp đủ lao động trong dây chuyền sản xuất, Công đoàn cơ sở phải nắm vững số lao động trong doanh nghiệp, đặc biệt là số lao động dôi dư. Công đoàn cần phải quan tâm, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng để từ đó tìm ra các biện pháp giải quyết hợp lý.
Việc Công đoàn tham gia phối hợp tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghịêp là một yêu cầu tất yếu. Đó chính là mối quan hệ phối hợp giữa Công đoàn với người sử dụng lao động, nhằm đi tới sự thoả thuận trên các lĩnh vực. Công đoàn chính là “người cộng tác đắc lực gần gũi, là chỗ dựa vững chắc của chính quyền Nhà nước”. [7] Hay nói cách khác việc Công đoàn tham gia phối hợp với chuyên môn tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp chính là việc thực hiện chức năng tham gia quản lý, tuyên truyền giáo dục, chăm lo bảo vệ lợi ích người lao động.
1.2.2 Nội dung tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động của Công đoàn cơ sở.
Để tham gia quản lý, trước hết Công đoàn cơ sở phải tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp, thể hiện trên những hoạt động sau:
Công đoàn tham gia với chuyên môn xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh thông qua mạng lưới đoàn viên của mình nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tham gia quản lý tốt lao động. Trên cơ sở phương án sản xuất đã xây dựng, Công đoàn tham gia nghiên cứu xác định số lượng và cơ cấu lao động cần thiết, phương án sử dụng lao động hợp lý, xử lý có hiệu quả số lao động dư thừa, giảm biên chế bộ máy quản lý hành chính; tham gia xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công nhân lao động.
Tham gia xây dựng chế độ tiền lương, tiền thưởng hợp lý để khuyến khích người lao động, tạo động lực làm việc cho người lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Làm tốt được vấn đề này, Công đoàn đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động.
Tham gia vào việc xây dựng tiêu chuẩn phân loại lao động, phân công bố trí lao động đúng ngành nghề, đúng trình độ chuyên môn, sở trường, nguyện vọng của mỗi người lao động.
Tham gia tạo điều kiện làm việc cho người lao động; kiểm tra giám sát việc tổ chức thực hiện chế độ làm việc, nghỉ ngơi, tạo điều kiện cho người lao động kiến thức, kỹ thuật, kỹ năng lao động và đảm bảo sức khoẻ.
Tham gia xây dựng định mức lao động trên cơ sở phân tích quá trình lao động, sản xuất và tối ưu hoá quá trình sản xuất, lao động. Xây dựng định mức lao động là bước quan trọng để làm căn cứ tổ chức, sắp xếp lại lao động một cách khoa học.
Tổ chức các phong trào thi đua góp phần tổ chức, sắp xếp lại lao động.
Để đạt được mục tiêu, Công đoàn cơ sở cần xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện thông qua các hình thức biện pháp sau:
Một là: Ban chấp hành Công đoàn cơ sở cùng với chuyên môn xây dựng và ký kết quy chế phối hợp hoạt động giữa Ban chấp hành Công đoàn cơ sở và Giám đốc, thủ trưởng cơ quan quy định về quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong hoạt động phối hợp quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, nhất là quản lý về nguồn lao động.
Hai là: Công đoàn cơ sở đại diện cho tập thể lao động thực hiện ký kết thoả ước lao động tập thể với người quản lý đơn vị; giúp đỡ người lao động ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động và giám sát việc thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể. Công đoàn cơ sở tham gia bàn bạc với chuyên môn sắp xếp lại lao động, tổ chức sản xuất nhằm sử dụng đúng người, đúng việc, đúng năng lực sở trường; cùng với chuyên môn tìm cách giải quyết việc làm cho số lao động dôi dư.
Ba là: Ban chấp hành Công đoàn cơ sở phối hợp với chuyên môn tổ chức Đại hội CNVC , hội nghị liên tịch, hội nghị chuyên đề về phát triển sản xuất, giải quyết việc làm và những vấn đề cần thiết của doanh nghiệp, của công nhân lao động, nhằm thực hiện quyền dân chủ của tập thể lao động trong việc tham gia quản lý doanh nghiệp.
Bốn là: Xây dựng mạng lưới cộng tác viên của Công đoàn, bao gồm những đoàn viên Công đoàn xuất sắc, những cán bộ giỏi và những công nhân giàu kinh nghiệm trong doanh nghiệp, thông qua đó, thu nhận những thông tin chính xác về tình hình sản xuất, kinh doanh, nhu cầu nguyện vọng của người lao động để từ đó tham gia, đề xuất với chuyên môn được sát thực hơn, chất lượng hơn.
Chương 2
Hoạt động của Công đoàn XNVDTXK hà nội trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động ._.rong công nhân lao động, để CBCNV yên tâm công tác, chấp hành mọi sự phân công, bố trí, sắp xếp lao động từ cấp trên.
Việc tổ chức và sắp xếp lại lao đọng đã hạn chế được những bất cập trong công tác quản lý sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp nói chung là của toàn ngành Đường sắt.
Có thể nói rằng Công đoàn Xí nghiệp với chức năng là người đại diện cho CNVC và lao động đã góp phần với cùng chuyên môn từng bước tổ chức, sắp xếp lao động trong Xí nghiệp và nâng cao các mặt tham gia quản lý theo đúng chế độ, chính sách của Nhà nước, tạo quyền làm chủ cho công nhân lao động, tạo sự đoàn kết gắn bó giữa người lao động đối với tổ chức Công đoàn, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động. Qua đó cũng ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn.
Với sự tham gia của tổ chức Công đoàn phối hợp cùng với chuyên môn trong những năm vừa qua, phong trào CNVC và hoạt động Công đoàn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp đã thu được nhiều kết quả đáng mừng. Nổi bật là: đảm bảo giữ vững an toàn các mặt, thường xuyên cải tiến nâng cao chất lượng phục vụ hành khách. Do đó các chỉ tiêu hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch tăng trưởng cao, sản xuất, kinh doanh ngày càng phát triển. Đời sống CBCNV được cải thiện, mọi người có đủ việc làm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao. Đội ngũ công nhân lao động ngày càng trưởng thành, được bố trí, sắp xếp làm những công việc phù hợp với khả năng, trình độ, sức khoẻ của từng người. Công tác tổ chức, quản lý lao động ngày càng khoa học đem lại hiệu quả cao, trước hết là cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự phối hợp giữa các tổ chức quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ Xí nghiệp là nhịp nhàng, thống nhất để giải quyết tốt những vấn đề phát sinh trong điều hành sản xuất.
3.1.2 Một số tồn tại:
Bên cạnh những thành tích nêu trên, trong quá trình Công đoàn tham gia thực hiện tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Đó là:
Tuy đã có nhiều cố gắng, song trong cơ chế thị trường vai trò của Ban chấp hành Công đoàn còn bộc lộ sự bị động, ngần ngại khi tham gia với chuyên môn vào việc thao gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Việc tham gia quản lý của một số công đoàn bộ phận còn hạn chế bởi trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn hạn chế.
Về chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp pháp chính đáng hợp pháp của CNVC , có nơi, có bộ phận thiếu biện pháp giải quyết cụ thể, chưa làm đầy đủ chức năng là người đại diện bảo vệ lợi ích của CNVC .
Phong trào thi đua, tổ chức các hội thi, hội thảo, hội diễn có tiến bộ nhưng một số phong trào chỉ đạt chiều rộng, chưa có chiều sâu, chưa phát huy tác dụng kết quả của nó vào sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của CBCNV.
Giáo dục thông qua các đợt triển khai Nghị quyết, cũng như các đợt sinh hoạt chính trị thì làm tốt, nhưng giáo dục cá biệt còn yếu. Một số cán bộ tổ Công đoàn chưa chịu học tập rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, do đó chưa theo kịp với đòi hỏi của cơ chế mới. Có một bộ phận nhỏ cán bộ công nhân thực hiện kỷ cương, ý thức trách nhiệm thấp, còn vi phạm quy trình, quy phạm, nội quy lao động, bao khách bao hàng, chưa được chặn đứng.
Hoạt động Công đoàn chủ yếu mới tập trung ở Công đoàn Xí nghiệp và bộ phận, đa số cán bộ bán chuyên trách có hạn chế đến ý thức, trách nhiệm, nhiệt tình hoạt động công đoàn. Vai trò của một số tổ trưởng công đoàn còn yếu cả về trình độ và năng lực, thiếu nhiệt tình hoạt động công đoàn.
Nguyên nhân của những hạn chế trên:
Nguyên nhân khách quan: trong thời gian qua, nhiều chính sách cuả Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích của công nhân lao động có sự điều chỉnh, thay đổi, chưa đồng bộ, chưa hợp lý đã tác động trực tiếp đến người lao động. Vì vậy, vai trò đại diện của Công đoàn gặp nhiều khó khăn. Chính sách cán bộ Công đoàn chưa được thoả đáng nên chưa động viên được cán bộ có năng lực, nhiệt tình làm công tác công đoàn.
Nguyên nhân chủ quan: năng lực và trình độ của một số cán bộ tổ công đoàn còn hạn chế. ý thức trách nhiệm của một bộ phận CNVC và đoàn viên chưa cao.
Bài học kinh nghiệm:
Qua việc đánh giá tổng quát những thành tích và những hạn chế của Công đoàn Xí nghiệp, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Từ Công đoàn Xí nghiệp đến các bộ phận phải lấy “3 chức năng” của Công đoàn làm cơ sở hoạt động. Từ đó, hướng mọi hoạt động và phong trào vào việc kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho CBCNV làm việc có hiệu quả và thực sự là chỗ dựa về mặt tinh thần cho họ. Có như vậy thì mới tập hợp được sức mạnh của các Công đoàn bộ phận và toàn thể đoàn viên- CNVC lao động.
Công đoàn cần phải tạo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa chuyên môn, Công đoàn và Đoàn thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở tính độc lập của từng tổ chức. Thực hiện tốt việc ký cam kết phối hợp hoạt động hàng năm giữa chuyên môn với Công đoàn Xí nghiệp.
Phải thường xuyên sâu sát đơn vị , hiện trường để kịp thời phát hiện, bổ cứu những vấn đề có liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống người lao động.
Cán bộ là yếu tố quan trọng quyết định mọi vấn đề. Do vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết nhất trí, có lịch trình công tác cụ thể, khoa học; sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời; có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, hợp lý tới từng bộ phận. Đặc biệt, đối với đội ngũ tổ trưởng sản xuất, trưởng tàu là những cán bộ trực tiếp với sản xuất, thay mặt Xí nghiệp, Ngành tiếp xúc với hành khách, đội ngũ này tốt, chất lượng chỉnh bị, phục vụ hành khách sẽ tốt và ngược lại.
Coi trọng công tác phát động thi đua có trọng tâm, trọng điểm.
3.2 Khuyến nghị
Qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp, dù còn nhiều hạn chế về nhận thức, tác giả cũng xin mạnh dạn đưa ra một số khuyến nghị với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tổ chức, sắp xếp lao động của Xí nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh như sau:
Một là: Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng lao động và đào tạo, đào tạo lại CNVC và lao động.
Hiện trạng:
Công tác tuyển dụng và đào tạo phát triển nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu để hiện đại hoá sản xuất. Người lao động với tư cách là một yếu tố sản xuất, nếu được lựa chọn kỹ càng và huấn luyện tốt sẽ trở thành một khoản đầu tư có giá trị.
Xí nghiệp hiện đang quản lý một đội ngũ lao động đông đảo nhưng không đồng đều cả về lứa tuổi lẫn trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Một bộ phận lớn lao động lâu năm, nhiều tuổi do quen với cơ chế bao cấp từ trước nên đã có hạn chế về trình độ văn hoá, khó thích ứng được với sự cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Vì vậy, Xí nghiệp cần phải có kế hoạch tuyển chọn và đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực cho phù hợp với quy mô phát triển trong những năm tới. Phải xác định đúng đối tượng tuyển dụng, đào tạo, đào tạo đúng nghề, kết hợp giữa đào tạo lý luận và đào tạo thực tế, giữa đào tạo mới và đào tạo lại, đào tạo liên tục thường xuyên để có được nguồn nhân lực có trình độ, sức khoẻ và đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp.
Giải pháp:
Xí nghiệp cần tiến hành tuyển chọn lao động một cách công khai, khách quan thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, phỏng vấn trực tiếp, cho thử việc…để tuyển chọn được những lao động giỏi, có trình độ thực sự chứ không vì cả nể là con em cán bộ trong ngành mà xuề xoà cho qua.
Tuyển chọn, đào tạo lao động cần phải có sự kết hợp giữa những tiêu chuẩn mới kết hợp với những kinh nghiệm của người cũ.
Tăng cường giao lưu học tập kỹ năng nghiệp vụ của các ngành vận tải có trình độ tiên tiến (như ngành hàng không…), thông qua đó để giúp cho đội ngũ nhân viên có được trình độ ứng xử, giao tiếp tốt. Đó chính là tiêu chí thu hút ngày càng đông hành khách đi tàu.
Xây dựng quy chế đào tạo để bắt buộc các đơn vị phải cho CBCNV có trách nhiệm tham gia đào tạo, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất.
Việc đào tạo phải gắn với mục dích sử dụng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tránh tình trạng đào tạo xong khôn sử dụng, gây tâm lý tiêu cực, không muốn đi học trong CNVC và lao động.
Công đoàn phải động viên công nhân lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với chuyên môn tạo mọi điều kiện để người lao động được yên tâm học tập, nâng cao trình độ.
Hai là: Cải thiện điều kiện làm việc để công nhân lao động yên tâm công tác.
Hiện trạng:
Ngành Đường sắt Việt Nam là một ngành vận tải có từ lâu đời. Hiện nay, ngành Đường sắt đang thừa hưởng một hệ thống trang thiết bị, phương tiện làm việc vừa mới vừa cũ (chẳng hạn như sử dụng nhiều chủng loại toa xe : thế hệ 1- cũ và thế hệ 2- mới). Mặt khác, do nhu cầu của hành khách ngày càng cao, cường độ lao động ngày càng lớn, số quay vòng của các toa xe ngày càng nhanh. Do vậy, cần phải đảm bảo chất lượng trang thiết bị, toa xe…Hơn nữa, môi trường làm việc của nhân viên ngành đường sắt bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn, độ rung…Tính chất của công việc trong từng khâu đòi hỏi kỹ thuật và sức khoẻ không giống nhau. Vì vậy, Công đoàn cần phải tham gia với Xí nghiệp để có biện pháp cải thiện điều kiện lao động, giảm sự căng thẳng về thần kinh, nhịp độ lao động, vệ sinh an toàn lao động.
Giải pháp :
Từng bước đóng mới thêm toa xe thế hệ 2 để thay thế dần cho hệ thống toa xe thế hệ 1 đảm bảo cho nhân viên được làm việc trong một môi trường hiện đại, tiện lợi và an toàn vệ sinh. Toa xe được đóng mới với trang thiết bị tiện nghi cũng là một nhân tố để thu hút, khuyến khích đông đảo hành khách đến với Ngành Đường sắt.
Công đoàn cũng cần chủ động tham gia vào việc trang bị, nâng cấp khu chỉnh bị để có điều kiện sửa chữa toa xe khi cần thiết.
Công đoàn cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc khảo sát điều kiện làm việc của từng người lao động. Qua đó mạnh dạn đề xuất với Giám đốc và chuyên môn trong việc cải thiện điều kiện làm việc, tạo cơ hội để người lao động được tiếp cận với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Đề xuất với chuyên môn tăng cường phụ cấp cho mạng lưới an toàn vệ sinh viên.
Ba là : Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động để họ yên tâm công tác.
Hiện trạng :
Trong những năm vừa qua, thu nhập bình quân của CBCNV ngành Đường sắt nói chung và của Xí nghiệp nói riêng đã được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước. Nhưng nếu xét về mặt bằng lương so với nhiều ngành kinh tế khác thì thu nhập của CBCNV trong Xí nghiệp vẫn chưa phải là cao. Thu nhập không cao sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực như bao hàng, bao người.
Mặt khác, do địa bàn hoạt động của Xí nghiệp trải dài khắp miền đất nước, công nhân viên làm việc bị phân tán, lưu động trên các đoàn tàu (như một xã hội thu nhỏ). Tiêu cực xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến CNVC .
Do vậy, Công đoàn cần phối hợp với chuyên môn tạo mọi điều kiện để nâng cao thu nhập cho người lao động, tuyên truyền giáo dục để họ yên tâm làm việc, chấp hành mọi sự phân công lao động từ cấp trên, tránh những tư tưởng tiêu cực ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp.
Giải pháp :
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ trên tàu cũng như các hoạt động ngoài sản xuất chính nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động để họ yên tâm công tác.
Công đoàn phối hợp với chuyên môn tổ chức các hoạt động thăm quan, du lịch, nghỉ mát cho CBCNV để họ phấn khởi, tạo thêm động lực để hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị, Xí nghiệp (thậm chí còn hoàn thành vượt mức).
Công đoàn cũng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho công nhân lao động để họ thấy được trách nhiệm và quyền lợi gắn với nhau, giúp họ thêm yêu ngành, yêu nghề, hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề tổ chức, sắp xếp lại lao động trong cơ quan, Xí nghiệp.
Thường xuyên tổ chức hơn nữa các hoạt động văn hoá, thể thao, giao lưu với các đơn vị khác trong và ngoài ngành để tạo cho người lao động có được tâm lý thoải mái sau những giờ làm việc căng thẳng. Từ đó chất lượng cuộc sống của người lao động cũng được nâng cao, góp phần to lớn vào việc kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Bốn là : Thực hiện nội quy lao động, tăng cường kỷ luật lao động.
Hiện trạng
Hiện nay, Xí nghiệp đang quản lý một số ít CBCNV có tư tưởng bảo thủ trì trệ, làm việc theo nếp cũ, sức năng động kém, tính tự giác chưa cao lại thêm bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực do nền kinh tế thị trường đem lại.
Do vậy, cần phải tăng cường kỷ luật lao động- là biện pháp hữu hiệu nhất để người lao động nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về thời gian làm việc, quy trình- quy phạm. Thông qua kỷ luật lao động để giáo dục ý thức cho người lao động trong từng công việc cụ thể và trong việc thực hiện nội quy chung của toàn Xí nghiệp.
Giải pháp:
Niêm yết, thông báo rộng rãi cho toàn thể CBCNV được biết về nội quy lao động của Xí nghiệp.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, học tập các quy định trong nội quy lao động.
Khi người lao động vi phạm kỷ luật lao động cần phải tiến hành kỷ luật nghiêm chỉnh với các hình thức khác nhau tuỳ theo mức độ của hành vi vi phạm. Tiến hành xử lý kỷ luật lao động theo nguyên tắc công bằng- dân chủ- khách quan, không bao che, thiên vị.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là hoạt động chống thất thu trên tàu nhằm phát hiện kịp thời những nhân viên có hành vi bao khách, bao hàng để vụ lợi, làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngành, của Xí nghiệp và từ đó có hình thức xử lý kỷ luật thoả đáng.
Năm là: Tiếp tục phát triển tổ chức các phong trào thi đua.
Hiện trạng
Xí nghiệp tuy đã tổ chức được nhiều phong trào thi đua và đem lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, phong trào thi đua của Xí nghiệp vẫn còn bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục như: nhiều phong trào chỉ mang tính hình thức, bề nổi, chiều rộng chứ chưa mang tính giáo dục, chiều sâu. CNVC và lao động tham gia phong trào nhiều khi chỉ mang tính cưỡng chế, bắt buộc chứ chưa có ý thức tự giác cao. Do đó, một số phong trào thi đua chưa phát huy được tác dụng tích cực và trong thực tiễn đời sống và sản xuất.
Do vậy, Xí nghiệp đặc biệt là tổ chức Công đoàn cần quan tâm hơn nữa đến việc phát động các phong trào thi đua sao cho có hiệu quả thiết thực.
Giải pháp:
Coi trọng công tác phát động thi đua có trọng tâm, trọng điểm.
Xuất phát từ thực tiễn tình hình sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp để phát động các phong trào thi đua cho phù hợp.
Phát huy tối đa ý nghĩa tích cực của các phong trào thi đua vào thực tiễn đời sống và sản xuất. Muốn vậy đòi hỏi cần phải thường xuyên giáo dục tinh thần ý thức trách nhiệm tới toàn thể CBCNV.
Tiếp tục phát triển tổ chức các phong trào thi đua theo hướng tập trung vào nội dung phát huy sáng kiến, hợp lý hoá sản xuất nhằm phát huy được tài năng, sáng tạo của CNVC và lao động vào việc thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị thông qua các phong trào thi đua để tạo ra bầu không khí vui tươi, lành mạnh, đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.
Làm công tác tư tưởng, tuyên truyền đối với CBCNV để họ hiểu rõ ý nghĩa của việc thực hiện phong trào thi đua. Từ đó sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, hăng hái tham gia các phong trào.
Sáu là: Phát huy vai trò đại diện của Công đoàn trong việc tham gia quản lý doanh nghiệp.
Hiện trạng:
Hiện tại, Xí nghiệp đã có quy chế phối hợp hoạt động giữa Công đoàn và chuyên môn, trong đó đã quy định trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia quản lý. Song trên thực tế, Ban chấp hành Công đoàn còn bộc lộ sự bị động, ngần ngại khi tham gia với chuyên môn vào việc thao gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động. Đội ngũ cán bộ công đoàn phần lớn là hoạt động bán chuyên trách nên có một số hạn chế về thời gian, trình độ, năng lực và sự nhiệt tình trong hoạt động công đoàn.
Do đó để có thể phát huy tốt vai trò là người đại diện cho CBCNV trong toàn Xí nghiệp, Công đoàn cần phải tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và hoạt động của mình, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn phát huy tốt vai trò, chức năng của mình.
Giải pháp:
Công đoàn với tư cách là “người giáo dục” cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền cho đoàn viên, công nhân lao động hiểu rõ và nhận thức được tình hình sản xuất của Xí nghiệp gắn liền với những thuận lợi và khó khăn gì. Giáo dục, tuyên truyền cho người lao động thấy được sự cần thiết của công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động để từ đó họ có ý thức, trách nhiệm với kết quả lao động và sự phân công bố trí lại lao động của lãnh đạo cấp trên.
Tăng cường công tác giáo dục vận động CBCNV tích cực học nghề, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của sản xuất khi có sự phân công, bố trí lại lao động.
Xây dựng mạng lưới cộng tác viên công đoàn gồm những cán bộ giỏi, công nhân giàu kinh nghiệm và đoàn viên công đoàn xuất sắc. Để mạng lưới hoạt động có hiệu quả, Công đoàn cần có kế hoạch bồ dưỡng về phương pháp hoạt động và phân công nhiệm vụ rõ ràng, giao việc cụ thể theo kỳ hạn…Thông qua mạng lưới cộng tác viên để tuyên truyền và vận động công nhân lao động, đồng thời thu nhận những thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, về tổ chức lao động để có ý kiến đề xuất với chuyên môn được sát thực, chất lượng hơn.
Công đoàn cần phải tổ chức, giáo dục đội ngũ cán bộ công đoàn giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình với công tác công đoàn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng thuyết phục, vận động được quần chúng.
Tăng cường đẩy mạnh hoạt động công đoàn bộ phận và các tổ công đoàn với nhiều nội dung và hình thức khác nhau.
Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa công đoàn và chuyên môn. Cần xây dựng quy chế quan hệ làm việc giữa công đoàn với chuyên môn một cách cụ thể hơn nữa.
Cán bộ Công đoàn cũng cần phải khắc phục tư tưởng bị động, ngần ngại, cả nể, mạnh dạn đề xuất ý kiến với lãnh đạo và chuyên môn trong việc tham gia quản lý, trong đó có việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động trong Xí nghịêp. Công đoàn luôn luôn phải là người đại diện hợp pháp chính đáng của người lao động. Từ đó cũng đặt ra một yêu cầu là lãnh đạo và chuyên môn cần phải tôn trọng những ý kiến đề xuất của Công đoàn, cùng Công đoàn tham gia bàn bạc, quyết định mọi vấn đề trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Trên đây là những ý kiến đề xuất của cá nhân tôi đối với lãnh đạo, Ban chấp hành Công đoàn Xí nghiệp trong việc tổ chức, sắp xếp lại lao động. Tôi nghĩ rằng nếu thực hiện tốt sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp, chăm lo, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người lao động. Qua đó cũng sẽ khẳng định được vị thế, vai trò của tổ chức Công đoàn Xí nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Phụ lục
Phỏng vấn sâu số 1
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Trần Khắc Hợi
Chức vụ : Xưởng trưởng Xưởng chế biến sẵn
Hỏi: Xin Chú cho biết Chú tham gia vào Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc?
Đáp: Tự nguyện.
Hỏi: Hiện nay, Chú được hưởng những quyền lợi gì từ tổ chức Công đoàn?
Đáp: Tôi được Công đoàn tổ chức cho đi tham quan du lịch, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nâng cao tay nghề, tạo việc làm ổn định.
Hỏi: Xưởng chế biến sẵn mà Chú làm việc là một môi trường vừa đông lạnh vừa có nhiệt độ nóng cao. Điều này có ảnh hưởng gì tới sức khoẻ của anh chị em công nhân làm việc trong Xưởng hay không?
Đáp: Chúng tôi tuy phải làm việc trong một môi trường có nhiều ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng do được trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cần thiết nên đã phần nào hạn chế được những ảnh hưởng đó. Tất cả chúng tôi đều vì một nhiệm vụ đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh thực phẩm chế biến.
Hỏi: Để có được tinh thần làm việc nghiêm túc đó, xin Chú cho biết Công đoàn có đóng góp được vai trò gì không?
Đáp: Có. Công đoàn giáo dục anh chị em công nhân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, quyền lợi đó của mỗi cá nhân gắn với quyền lợi chung của tập thể. Vì vậy, anh em công nhân luôn ý thức rõ được trách nhiệm của mình đối với công việc.
Hỏi: Với tư cách là người quản lý của Xưởng, Chú cho biết công tác bố trí, sắp xếp lao động trong Xưởng được thực hiện như thế nào?
Đáp: Nhìn chung là hợp lý. Đa số công nhân là nữ được bố trí làm ở khâu chế biến, đóng hộp còn nam giới làm nhiệm vụ đứng bếp và vận chuyển.
Xin chân thành cảm ơn Chú!
Phỏng vấn sâu số 2
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Nguyễn Hữu Thọ
Chức vụ : Chủ tịch Công đoàn cơ quan Xí nghiệp
Hỏi: Xin Bác cho biết Bác làm việc trong Ngành Đường sắt đã lâu chưa?
Đáp: Từ năm 1963 và làm việc tại Xí nghiệp khi Xí nghiệp vừa thành lập.
Hỏi: Bác giữ chức vụ Chủ tịch Công đoàn cơ quan Xí nghiệp từ năm nào?
Đáp: Từ năm 2000 đến nay.
Hỏi: Bác đánh giá thế nào về mối quan hệ phối hợp giữa chuyên môn với Công đoàn Xí nghiệp?
Đáp: Khá chặt chẽ. Chuyên môn luôn lắng nghe ý kiến của Công đoàn vì đó là đại diện cho tiếng nói của người lao động. Ngược lại, Công đoàn tuyên truyền giáo dục, vận động CNVC chấp hành nội quy, quy định của Xí nghiệp cũng như của lãnh đạo, chuyên môn
Hỏi: Như vậy, Công đoàn đã làm gì để phối hợp cùng với chuyên môn trong công tác bố trí, sắp xếp lại lao động trong Xí nghiệp?
Đáp: Công đoàn đã làm được rất nhiều việc, trong đó có việc tổ chức các phong trào thi đua. Phong trào thi đua là nơi thử nghiệm tài năng, sở trường của mỗi cá nhân trong việc đáp ứng những yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Qua đó sẽ thấy được cá nhân nào phù hợp với công việc này và cá nhân nào phù hợp với công việc kia. Từ đó mà có những ý kiến đề xuất với chuyên môn cho chính xác.
Hỏi: Theo Bác, Công đoàn đã có vai trò gì thiết thực đối với CBCNVC trong hoạt động phối hợp với lãnh đạo, chuyên môn?
Đáp: Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn và ban giám đốc cho phép một số con em CBCNV vào làm việc trong Xí nghịêp. Vì vậy, đã góp phần vào việc giải quyết bớt khó khăn cho công nhân lao động, tạo niềm tin trong công nhân lao động đối với tổ chức Công đoàn.
Xin chân thành cảm ơn Bác!
Phỏng vấn sâu số 3
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Nguyễn Văn Chí
Chức vụ : Trưởng tàu khách- Trạm CT3 Vinh
Hỏi: Xin Chú cho biết tổ Công đoàn của tổ tàu Chú có hoạt động thường xuyên không và có sự liên hệ gì với Công đoàn cấp trên không?
Đáp: Có thường xuyên; Tổ trưởng tổ Công đoàn là người tập hợp các ý kiến, tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân viên trong tổ để đề xuất lên Công đoàn cấp trên. Đồng thời, đồng chí tổ trưởng Công đoàn cũng là người tuyên truyền các Nghị quyết của Công đoàn cấp trên tới từng đoàn viên trong tổ. Đó là mối quan hệ luôn khăng khít lẫn nhau
Hỏi: Chú có thể cho biết Công đoàn đã có vai trò gì thiết thực nhất đối với bản thân chú?
Đáp: Công đoàn đã tạo điều kiện chăm lo đời sống vật chất cho tôi và gia đình của tôi.
Hỏi: Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ Công đoàn có vai trò gì đối với chú hay không?
Đáp: Có. Công đoàn phối hợp cùng với phòng Kỹ thuật nghiệp vụ tổ chức cho chúng tôi làm bài thi định kỳ. Làm bài nghiệp vụ hàng tháng giúp cho tôi cũng như nhiều anh em bạn bè đồng nghiệp khác hiểu biết sâu thêm về nghiệp vụ để có thể chủ động ứng phó với mọi sự cố xảy ra trên tàu.
Hỏi: Với cương vị là một Trưởng tàu khách, trong mọi quyết định có liên quan đến quyền lợi người lao động Chú có thông qua tổ Công đoàn không?
Đáp: Có. ở tổ tàu của tôi, tổ Công đoàn và chuyên môn luôn có sự phối hợp tốt với nhau. Chúng tôi cùng tổ chức đi thăm hỏi, động viên anh em nhân viên trong tổ và gia đình của họ. Trong khi quyết định các vấn đề chuyên môn tôi cũng đều thông qua tổ Công đoàn, trừ những trường hợp đột xuất
Xin chân thành cảm ơn Chú!
Phỏng vấn sâu số 4
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Lê Tiến Dũng
Chức vụ : Trưởng phòng tổng hợp
Hỏi: Xin Chú cho biết Chú giữ chức vụ Trưởng phòng tổng hợp từ khi nào?
Đáp: Từ năm 2001
Hỏi: Trước khi giữ chức vụ này Chú được bố trí làm công việc gì?
Đáp: Trước đây tôi là nhân viên đi tàu Thống nhất, sau đó làm Phó tàu, Trưởng tàu, Trực ban trạm Thống nhất và sau đó là Xưởng trưởng Xưởng chế biến sẵn.
Hỏi: Xin Chú cho biết Chú tham gia vào Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc?
Đáp: Tự nguyện.
Hỏi: Qua nhiều lần thay đổi công việc như vậy, theo Chú, Công đoàn có vai trò gì trong công tác điều chuyển bố trí lao động hay không?
Đáp: Công đoàn đã có tiếng nói thiết thực với chuyên môn và ban lãnh đạo Xí nghiệp, nhờ đó chúng tôi đã được bố trí, sắp xếp làm những công việc phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn của mỗi người.
Hỏi: Theo ý kiến của Chú, Công đoàn có cần phải điều chỉnh, bổ sung hay đổi mới hoạt động gì trong công tác phối hợp với chuyên môn hay không?
Đáp: Tuy Công đoàn đã có tiếng nói thiết thực với chuyên môn nhưng đôi lúc còn rụt rè. Công đoàn cần phải đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa, mạnh dạn đề xuất ý kiến với chuyên môn trong nhiều quyết định có liên quan đến người lao động.
Xin chân thành cảm ơn Chú!
Phỏng vấn sâu số 5
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Nguyễn Văn Minh
Chức vụ : Nhân viên tàu Thống nhất S1
Hỏi: Xin Anh cho biết Công việc hiện nay của Anh có phù hợp với năng lực chuyên môn, sức khoẻ của Anh hay không?
Đáp: Rất phù hợp.
Hỏi: Trong quá trình làm việc Anh có được bồi dưỡng thêm về chuyên môn nghiệp vụ đi tàu hay không?
Đáp: Có. Hàng tháng tôi vẫn làm bài nghiệp vụ và mỗi năm phải làm bài thi định kỳ. Qua mỗi lần thi và làm bài đó, tôi đã được trau dồi thêm nhiều kinh nghiệm mới trong công tác chuyên môn.
Hỏi: Vậy theo Anh, Công đoàn có vai trò gì không trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động?
Đáp: Công đoàn phối hợp cùng với nhiều bộ phận, phòng ban chuyên khác nhau tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức thi định kỳ nhằm nâng cao hiểu biết cho người lao động. Công đoàn tổ chức các hội thi nhằm kích thích năng lực của các cá nhân.
Hỏi: Theo ý kiến của riêng Anh, Công đoàn có vai trò gì thiết thực nhất để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh?
Đáp: Công đoàn là người tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chỉ thị, Nghị quyết của Nhà nước, của Ngành, của Xí nghiệp. Vì vậy, chúng tôi luôn luôn nắm bắt được kịp thời các chủ trương, đường lối của các cấp lãnh đạo xung quanh tình hình sản xuất, kinh doanh. Từ đó mà có những hành động đúng góp phần vào kết quả kinh doanh của Xí nghiệp.
Hỏi: Anh có thường xuyên tham gia vào các hoạt động do Công đoàn tổ chức hay không?
Đáp: Do tôi phải đi tàu nên tôi không thể tham gia một cách thường xuyên các hoạt động của Công đoàn tổ chức. Còn các hoạt động phong trào do Công đoàn phát động thì tôi đều tham gia cùng với các nhân viên khác trong tổ.
Xin chân thành cảm ơn Anh!
Phỏng vấn sâu số 6
Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền
Người được phỏng vấn : Bùi Thị Ngoan
Chức vụ : Tổ trưởng tổ cung ứng tàu E1
Hỏi: Xin Cô cho biết Cô tham gia vào tổ chức Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc?
Đáp: Tự nguyện
Hỏi: Cô có thường xuyên tham gia vào các hoạt động của Công đoàn hay không?
Đáp: Có, nhất là các hoạt động của nữ công.
Hỏi: Công việc mà hiện tại Cô đang làm có phù hợp với Cô không?
Đáp: Nói chung là phù hợp vì đoàn tàu của Cô sử dụng xuất ăn chế biến sẵn nên cũng không vất vả lắm.
Hỏi: Sử dụng xuất ăn chế biến sẵn cũng phải tuân theo quy trình nhất định. Vậy Cô có được hướng dẫn hay bồi dưỡng thêm về chuyên môn đó không?
Đáp: Có. Xí nghiệp có tổ chức các lớp học về an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh viên, các lớp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp cho nhân viên phục vụ. Cũng giống nhân viên bao xe chúng tôi cũng phải làm bài nghiệp vụ để bổ sung thêm các kinh nghiệm làm việc.
Hỏi: Theo Cô Công đoàn có vai trò gì thiết thực nhất đối với chuyên môn nghiệp vụ của Cô hay không?
Đáp: Công đoàn tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm. Nhờ tham gia vào các buổi hội thảo, toạ đàm do công đoàn phối hợp tổ chức nên tôi đã được trang bị nhiều kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ cho nhiệm vụ công tác của tôi trên tàu.
Xin chân thành cảm ơn Cô!
Tài liệu Tham khảo
[1] Công đoàn XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo của BCH Công đoàn XNVDTXK Hà Nội KhoáIV tại Đại hội Đại biểu Công đoàn lần thứ V- Hà Nội, năm 2003- Trang 5.
[2] Gunter Endweit (chủ biên)- Các lý thuyết xã hội học hiện đại- NXB Thế giới, năm 1999.
[3] Hoàng Phê (chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt- NXB Đà Nẵng, năm 2001- Trang 1007.
[4] Hoàng Phê (chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt- NXB Đà Nẵng, năm 2001- Trang 852.
[5] Luật lao động- Nước CHXHCN Việt Nam- NXBCTQG- Trang 7.
[6] Lênin toàn tập- Tiếng Việt- NXB Tiến Bộ- Tập 42- Trang 250.
[7] Lênin toàn tập- NXB Matxcơva- Tập 41- Trang 38,39.
[8] Những lời kêu gọi của Hồ Chí Minh- NXB Sự thật Hà Nội- Tập 6, năm 1962- Trang 175.
[9] PGS- TS Nguyễn Viết Vượng (chủ biên)- Giáo trình lý luận và nghiệp vụ Công đoàn- NXB Lao động- Tập 1,2,3, năm 1999.
[10] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Pháp luật về Công đoàn và những quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- NXB Lao động, năm 2002- Chương I- Trang 14.
[11] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Pháp luật về Công đoàn và những quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- NXB Lao động, năm 2002- Chương I- Trang 19.
[12] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Văn kiện Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam- NXB Lao động.
[13] Trường Đại học Kinh tế Quốc dân- Giáo trình tổ chức lao động khoa học- năm 1998.
[14] Vũ Quang Hà (biên tập)- Lý thuyết Xã hội học hiện đại- NXB Đại học quốc gia, năm 2000.
[15] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 2.
[16] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 3.
[17] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 5.
[18] XNVDTXK Hà Nội- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm các phòng- đơn vị thuộc Xí nghiệp- Hà Nội 1999.
[19] XNVDTXK Hà Nội- Điều chỉnh đơn giá tiền lương theo phiên vụ chuẩn đối với nhân viên công tác trên tàu- Hà Nội 2001- Phần A.
Nhận xét của cơ sở thực tập
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33822.doc