Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội. Đời sống của người lao động từng bước được cải thiện, song bên cạnh những thành quả đạt được trong kinh tế thị trường cũng gây ra các mặt tiêu cực, chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đã gây ra sức ép lớn đối với nền sản xuất xã hội. Một mặt do ảnh hưởng của cơ chế cũ, kém nhạy b
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công đoàn với việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
én trong sản xuất, kinh doanh. Mặt khác do khu vực kinh tế quốc doanh vẫn được ưu tiên phát triển mạnh, cả về quy mô và số lượng nhưng hoạt động lại kém hiệu quả. Khu vực này thường thu hút phần lớn lực lượng lao động nên đã gây ra những lãng phí về vốn, lao động và tài nguyên. Một tất yếu khách quan đặt ra phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, tiết kiệm chi phí. Dẫn đến thực trạng các doanh nghiệp đã dôi ra một lực lượng lao động khá lớn không có việc làm trong khi các thành phần kinh tế khác chưa đủ khả năng thu hút, tiếp nhận số lao động này gây ra thất nghiệp.
Giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, tạo việc làm, nâng cao trách nhiệm đảm bảo đời sống cho người lao động vừa là vấn đề cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài vừa là mục tiêu xã hội hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"{1}.
Giải quyết tốt việc làm cho người lao động, sẽ giải quyết được mọi quan hệ xã hội. Thực tế cho thấy, mọi tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu sa đó là đội ngũ những người thất nghiệp.
Tổ chức Công đoàn với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động mà trọng tâm là giải quyết việc làm cho người lao động. Có việc làm người lao động sẽ có thu nhập, làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động. Luật Công đoàn Việt Nam khẳng định: "Công đoàn cơ sở có trách nhiệm đôn đốc, giám sát việc thực hiện các chính sách, chế độ về lao động"[2].
Xuất thân từ giai cấp công nhân, được học tập và rèn luyện tại trường Đại học Công đoàn, với chuyên môn đào tạo Quản trị kinh doanh và Công đoàn đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm. Do vậy, em chọn đề tài: "Công đoàn với việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động". Đề tài được thực hiện tại Tổng công ty xây dựng công trình Giao thông 8.
2. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu hoạt động thực tiễn của tổ chức Công đoàn.
- Đánh giá việc chỉ đạo tổ chức hoạt động của Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình Giao thông 8 với vấn đề giải quyết việc làm.
- Trên cơ sở lý luận và thực tế hoạt động Công đoàn Tổng công ty tìm ra những mặt mạnh, tồn tại và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức và chỉ đạo của Công đoàn Tổng công ty.
- Đề xuất những biện pháp để thực hiện, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn Tổng công ty nhằm góp phần thực hiện đổi mới tổ chức hoạt động. Đồng thời đưa ra những khuyến nghị thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.
3. Vấn đề nghiên cứu.
3.1. Khung lý thuyết.
Công đoàn tham gia giải quyết việc làm
Công đoàn phân phối với chuyên môn giải quyết việc làm
Công đoàn trực tiếp giúp đỡ CN-LĐ giải quyết việc làm
Đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm
Sắp xếp lại lao động
Tổ chức lại lao động
Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ CN-LĐ
Tổ chức các phong trào thi đua, luyện tay nghề, thi thợ giỏi
Mở rộng các loại hình dịch vụ
Lập quỹ tương trợ
Vay vốn giúp đỡ CN-LĐ phát triển kinh tế gia đình
3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Công đoàn tham gia xây dựng phương án đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm tạo thêm việc làm mới cho công nhân lao động.
Công đoàn tham gia với chuyên môn tổ chức lại sản xuất.
Công đoàn tham gia với chuyên môn sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Công đoàn tham gia với chuyên môn đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho công nhân lao động.
Công đoàn tham gia tổ chức thi đua trong lao động sản xuất, luyện tay nghề, thi thợ giỏi.
Công đoàn trực tiếp giúp đỡ công nhân lao động, tín chấp vay vốn từ quỹ quốc gia để phát triển kinh tế gia đình.
Công đoàn đại diện kí kết hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể.
4. Đối tượng nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu :
- Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
4.2.Khách thể nghiên cứu :
- Hoạt động công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8
- Cán bộ, công nhân viên chức, lao động Tổng công ty.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: tại Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 1998 đến 2003.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
-Nghiên cứu Hoạt động của công đoàn thông qua các báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn một số năm gần đây và khảo cứu các tài liệu thứ cấp.
- Khảo sát tình hình thực tế về sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.
- Sử dụng phương pháp chuyên gia.
7. Kết cấu đề tài bao gồm 3 phần:
- Chương 1: Những vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm.
- Chương 2: Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động.
- Chương 3: Kết luận và khuyến nghị.
Trong thời gian tìm hiểu và nghiên cứu khoa luận không tránh khỏi những thiếu sót nên em rất mong sự góp ý, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và của các đồng chí tại Tổng công ty Xây dựng công trính Giao thông 8.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tăng Quyết Thắng và đồng chí Vũ Chí Thọ Chủ tịch Công đoàn Tổng công ty đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Chương 1
Những vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Việc làm
Việc làm là một khái niệm thuộc phạm trù hoạt động của con người, mọi hoạt động của con người được biểu hiện đa dạng và sinh động qua các dạng việc làm trong hình thái kinh tế xã hội. Nói đến việc làm là nói đến nơi làm việc, một đối tượng lao động, một công cụ lao động, một quá trình đào tạo cụ thể. Khi đề cập đến vấn đề việc làm thì sức lao động có vai trò quan trọng, nó là tất yếu của mọi quá trình sản xuất (cả vật chất lẫn tinh thần). Vai trò của lao động không mất đi hoặc suy giảm trong bất kỳ điều kiện công nghệ - kỹ thuật sản xuất nào mà vấn đề là diễn ra sự thay đổi vai trò của lao động thể lực và lao động trí lực. Trong đó lao động về trí lực giữ vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, mỗi thời kỳ phát triển cũa xã hội thì khái niệm việc làm được hiểu theo nghĩa khác nhau.
Việc làm có thể định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp nỗ lực vào sản xuất.
Mặt khác, việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế.
Hai khái niệm này chưa cụ thể các hoạt động của con người, trong quá trình lao động mà chỉ ra những vấn đề chung nhất. Do vậy, tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào phong tục, tập quán, luật pháp mà đưa ra khái niệm về việc làm một cách phù hợp, ở Việt Nam theo điều 13 Luật lao động cũng đưa ra khái niệm về việc làm:
Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị luật pháp cấm đều được gọi là việc làm.
Từ những khái niệm nêu trên cho phép ta hiểu việc làm là những công việc có ích cho con người, mang lại thu nhập và không bị pháp luật ngăn cấm. Vì vậy, nguyên tắc khi một người đang tham gia thực hiện, một hay một số công việc đều được coi là có việc làm. Tuy nhiên ở Việt Nam cho thấy rất nhiều người làm việc hoặc làm việc cả ngày, nhưng có năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập cũng rất thấp nhưng họ vẫn phải chấp nhận và không có sự lựa chọn nào khác để đảm bảo cho sự tồn tại của bản thân và gia đình, ở đây rõ ràng bộc lộ sự không hợp lý trong khái niệm người có việc làm.
Do đó, để đánh giá khái quát hơn khái niệm "có việc làm", cần phải được bổ sung với ý nghĩa đầy đủ của nó, trên hai khía cạnh chủ yếu đó là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người làm công việc đó có thể sử dụng đầy đủ thời gian lao động theo chế độ (ở Việt Nam quy định là 8 giờ/ngày). Mặt khác, làm công việc đó phải mang lại một khoản thu nhập không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu là 290.000đ/tháng. Việc lượng hoá người có việc làm theo khái niệm này sẽ cho chúng ta một cách nhìn nhận trung thực hơn về mức độ sử dụng lao động xã hội và xác định được quy mô việc làm cần phải tạo thêm cho lao động xã hội.
1.1.2. Tạo việc làm
Tạo việc làm theo nghĩa rộng là những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, quá trình đó diễn ra từ việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động đến việc tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động mà mình đã tạo ra.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm, nhằm tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao nhất.
Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội làm cho xã hội càng văn minh hơn. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng đất nước.
1.1.3. Thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội. Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Thất nghiệp là những hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
1.1.4. Giải quyết việc làm
Thực chất của tạo việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, cả về số lượng và chất lượng, đó là hai điều kiện cần. Để trở thành hiện thực, nên có môi trường thuận lợi cho việc kết hợp hai yếu tố đó. Do vậy tạo việc làm là: Tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất (Vốn đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, khả năng quản lý, sử dụng), tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động (Quy mô dân số, lao động, giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn lực con người). Hình thành môi trường thuận lợi có sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, là sự kết hợp giữa hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách khuyến khích thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư…
Hiện nay ở nước ta công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế vững chắc, đồng thời giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội, trong đó có vấn đề giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân lao động. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Sắp tới phải bằng nhiều biện pháp: các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề; đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên; đẩy mạnh xuất khẩu lao động... nhằm tạo ra nhiều việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông nghiệp”[3].
1.2. Tình hình việc làm ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề việc làm cho lao động xã hội là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Mở rộng việc tạo thêm chỗ làm việc cho lao động xã hội làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được toàn thế giới quan tâm và cam kết thực hiện. Trong cơ chế thị trường người lao động có quyền tự do lao động, tự tìm và tạo việc làm cho người khác trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân biệt đối xử, cơ chế bao cấp, việc ỷ lại Nhà nước để có việc làm, có biên chế Nhà nước, đang dần dần thay đổi cho thị trường lao động phát triển.
Tình hình thiếu việc ở nước ta cũng rất gay gắt, gõ cửa từng gia đình và trở thành vấn đề xã hội nóng bỏng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước có những chủ trương giải quyết việc làm cho người lao động trong tình hình mới và xây dựng chiến lược an toàn việc làm. Khắc phục triệt để những nguyên nhân tiêu cực do nền kinh tế thị trường tạo ra cho xã hội Việt Nam.
Trong những năm gần đây nhờ thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 9 - 10%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5 - 5,2%, công nghiệp bình quân hàng năm 14 - 15%, dịch vụ bình quân hàng năm 12 - 13%, xuất khẩu khoảng 28%. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế ở mức cao 20% GDP. Nhờ đó mà đầu tư cho nền kinh tế tăng đáng kể, tổng số vốn đầu tư cho xã hội năm 2003 khoảng 40 tỷ USD (chiếm khoảng 30% GDP).
Đến nay số lao động làm việc trong khu vực Doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài là 40 vạn lao động, lao động trong công nghiệp và xây dựng khoảng 3,75 triệu người chiếm 10,5% lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ là 7 triệu người chiếm 19% lực lượng lao động, còn lại là lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp chiếm trên 70%.
Cơ cấu lao dộng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng mạnh vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, có xu hướng giảm nhẹ trong khu vực nông nghiệp, đáp ứng với nhu cầu về tăng trưởng kinh tế và sử dụng tốt hơn lao động xã hội. Nhờ đó 3 năm trở lại đây đã tăng thêm được 2,95% bình quân mỗi năm chỗ làm việc mới. Tương đương với số lao động tăng thêm là 1,2 triệu người trong tổng số 38 triệu lao động toàn quốc, trên 9 triệu người được giải quyết việc làm. Riêng các năm 2002 - 2003 đã giải quyết được việc làm mới hàng năm cho khoảng 1,2 - 1,3 triệu lao động đáp ứng được nhu cầu tăng thêm của lực lượng lao động.
Đồng thời mở mang các làng nghề truyền thống, có tác dụng tích cực giải quyết việc làm cho lao động tự do, tạo ra động lực mới để phát triển sản xuất, mở mang việc làm thúc đẩy lao động sáng tạo, có năng suất cao, có trình độ và được hưởng thụ giá trị lao động xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Do vậy, đã mở ra khả năng to lớn trong việc giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Bên cạnh những thành công của chính sách giải quyết việc làm, hiện nay nước ta vấn là nước có tỷ lệ thất nghiệp cao. Theo số liệu (thực trạng lao động - việc làm năm 2003). Số người thất nghiệp ở khu vực: đồng bằng sông hồng là 9,34%; khu vực Đông bắc là 8,72%; vùng Tây Bắc là 6,58%; vùng Nam Bộ là 6,52%; đồng bằng sông Cửu Long là 6,53 % đây là con số đáng lo ngại đối với nền kinh tế nước ta.
* Nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm ở Việt Nam
- Dân số trong độ tuổi lao động vẫn có xu hướng ngày càng tăng theo dự báo của Tổng cục thống kê thì trong năm 2000 chiếm khoảng 55% và đến 2005 chiếm 59,1% đến năm 2010 là 60,7% dân số cả nước, tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao. Đến năm 2003 bình quân mỗi năm nguồn lao động tăng khoảng 2,95% làm cho sức ép về việc làm càng trở nên gay gắt. Đặc biệt là thừa rất nhiều lao động giản đơn chưa qua đào tạo và thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ cao. Nếu cứ đà tăng dân số, tăng nguồn lao động và GDP hiện nay thì dến hết năm 2005 Việt Nam vẫn dôi dư một lực lượng lao động tương đối cao.
- Do sự mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu về lao động: đây là thử thách và mâu thuẫn lớn nhất về việc làm ở nước ta. Đó là chất lượng nguồn lao động thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2003 chỉ chiếm 17.8% phần lớn làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Riêng nông thôn chỉ có 10% lao động qua đào tạo trong khi đó đào tạo nghề chỉ có 0,44% cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật bất hợp lý. Hiện nay tỷ lệ này là (1- 1; 6 - 3,6) và theo tiêu chuẩn chung là (1 - 4 - 10). Đây là sự bất hợp lý trong quá trình thực hiện dào tạo mà các cơ quan Nhà nước cần có sự điều chỉnh hợp lý, cần phải đào tạo đúng mục đích và đúng yêu cầu xã hội. Nếu đào tạo không gắn với yêu cầu sản xuất và thị trường sức lao động dẫn đến hàm lượng chất xám trong sản phẩm thấp làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm chạp. Tỷ trọng GDP các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng - dịch vụ, đặc biệt một số ngành dịch vụ thương mại chưa được coi trọng làm hạn chế rất lớn đến vấn để giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường và hoà nhập với quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá.
- Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng: đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị, các khu công nghiệp dẫn đến tình trạng di dân tự phát từ khu vực nông thôn lên thành thị ngày càng lớn với tốc độ cao. Số lao động này vào thành phố chủ yếu là người có thu nhập thấp, đại đa số là lao động làm những công việc phổ thông gây lên tình trạng quá tải cho đô thị. Đặc biệt gây hiện tượng rối loạn xã hội và các tệ nạn gia tăng.
1.3. ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho người lao động
1.3.1. Về kinh tế
Giải quyết việc làm cho người lao động tức là sử dụng được tối đa tiềm năng lao động như nâng cao về trình độ khoa học - kỹ thuật, tăng thu nhập cho người lao động. Từ đó tạo ra tiềm năng cho phát triển sản xuất, tăng quy mô và tích luỹ sản xuất, từng bước đổi mới công nghệ và tăng trưởng kinh tế làm tiền đề cho việc thực hiện công bằng xã hội. Người lao động mất việc làm không những ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Người lao động mất việc làm không có thu nhập, sống nhờ vào thu nhập của người khác trong gia đình, ảnh hưởng đến đời sống của cả gia đình, gây khó khăn về kinh tế. Đây là nguyên nhân và nguồn gốc của những phức tạp, tệ nạn xã hội mà hàng năm Nhà nước phải mất khá nhiều kinh phí để chi cho.
1.3.2. Về xã hội
Giải quyết việc làm là trực tiếp tạo ra thu nhập để đảm bảo và nâng cao đời sống cho người lao động, là cơ sở để thực hiện các chính sách xã hội như: chính sách tiền lương, phúc lợi và các chính sách xã hội khác, góp phần làm giảm tiêu cực, lành mạnh hoá xã hội, tiến tới xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Thực tế thiếu việc làm còn gây lên những hậu quả nặng nề khi xét các nguyên nhân về tệ nạn xã hội, người ta thấy rằng những người lao động khi mất việc làm tham gia đáng kể vào các tệ nạn xã hội như ma tuý, trộm cắp, mại dâm. Do vậy đó cũng là nguyên nhân gây nhiều khó khăn phức tạp cho quản lý xã hội, làm đảo lộn nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
1.3.3. Về chính trị
Kinh tế và chính trị là hai vấn đề luôn gắn bó, có quan hệ mật thiết với nhau. Bởi vì khi người lao động có việc làm sẽ tạo ra thu nhập phục vụ họ và tạo thêm thu nhập cho xã hội. Từ đó người lao động thực hiện nghiêm chỉnh đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên thì việc làm, giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề bức xúc của một quốc gia, một khu vực mà nó là bức xúc có tính toàn cầu. ở Việt Nam việc giải quyết việc làm có ý nghĩa sống còn trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Giải quyết việc làm đồng nghĩa với việc đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo đời sống xã hội tạo được nguồn thu cho ngân sách và tích luỹ xã hội ngày càng cao. Từ đó phát huy được nguồn nhân lực con người mở rộng đầu tư cho sản xuất. Mặt khác tạo được tâm lý yên tâm lao động sản xuất cho mọi người phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.4. Quan điểm, mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của Công đoàn trong việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, lao động.
1.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho công nhân. viên chức, lao động.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhân tố con người vì con người là động lực của mọi sự phát triển, con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Giải quyết tốt các yếu tố con người là giải quyết được mọi vấn đề khác.
Đảm bảo quyền và lợi ích trước mắt hiện nay là tạo cho người lao động có việc làm, thu nhập. Giải quyết việc làm là một vấn đề bức xúc của Nhà nước ta hiện nay. Giải quyết vấn đề này không phải một sớm một chiều là có thể giải quyết ngay được, mà đòi hỏi sự nổ lực phấn đấu, sáng tạo của mỗi cấp, mỗi ngành mỗi đoàn thể và mọi tổ chức xã hội. Do đó Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Về lao động và việc làm: Dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, bảo đảm hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động, đưa tỷ lệ được đào tạo nghề lên khoảng 30% vào năm 2010. Có chính sách thu hút những người được đào tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư khai hoang mở thêm đất mới, trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng và đánh thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển ngành nghề và dịch vụ nhằm tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân"[4].
1.4.2. Chủ trương giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước ta
Giải quyết việc làm cho người lao động vừa là chính sách kinh tế, đồng thời còn là chính sách xã hội, và đây là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội và của mỗi người lao động. Người lao động cũng phải chủ động tìm và tạo việc làm cho mình. Nhà nước sẽ tạo điều kiện về cơ chế chính sách, pháp luật, môi trường sản xuất kinh doanh. Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề. Cụ thể: Theo điều 55 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ: “ Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra việc làm cho người lao động, khuyến khích và bảo vệ các chủ doanh nghiệp các tiểu thủ, các hộ tư nhân và những gia đình làm ăn giỏi khuyến khích họ làm giàu một cách chính đáng để tạo ra nhiều chỗ làm việc, thu hút nhiều lao động”[5].
Theo dự báo sức ép về việc làm các năm tới vẫn tiếp tục gia tăng, số người thất nghiệp năm 1999 vẫn là 7,4% và đến hết năm 2003 có khoảng gần 3 triệu người thiếu việc làm. Tình trạng thiếu việc làm ở nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân, do sắp xếp lại lao động, thu hẹp sản xuất cùng với thiên tai xảy ra dẫn đến việc làm trở thành vấn đề cấp bách hiện nay. Đại hội IX của Đảng ta đã khẳng định "việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội...", có giải quyết được vấn đề này mới "đáp ứng được nguyện vọng và nhu cầu bức xúc của nhân dân"[6].
Vấn đề quan trọng nhất đối với xã hội nói chung, đối với công nhân lao động nói riêng là việc làm, thu nhập, đời sống. Để giải quyết một cách có hiệu quả đòi hỏi Đảng và Nhà nước :
- Thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn chính sách, chủ trương giải quyết việc làm với các dự án phát triển kinh tế xã hội cụ thể, gắn với việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn, vùng dân tộc và miền núi, với việc mở mang ngành nghề, phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, gắn việc giải quyết việc làm với việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho người lao động.
- Hoàn thiện các chính sách giải quyết việc làm và các chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, phát huy mọi nguồn lực, khuyến khích tạo mọi điều kiện cho các cá nhân, các tổ chức, các thành phần kinh tế, tăng cường đầu tư vào sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm cho người lao động thực hiện phương châm "Xã hội hoá vấn đề việc làm" tổ chức tốt vấn đề xuất khẩu lao động.
- Có chính sách tạo điều kiện cho công nhân viên chức lao động phát triển kinh tế gia đình, làm hàng gia công, phát triển nghề thủ công truyền thống. Nghiên cứu ban hành trợ cấp thất nghiệp, bổ sung các chính sách trợ cấp xã hội đối với các công nhân lao động mất việc làm, thiếu việc làm.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm: phát huy nội lực, bằng mọi biện pháp giải phóng triệt để tiềm năng lao động. Điều 14 Bộ luật lao động: "Nhà nước định chỉ tiêu, tạo điều kiện việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết hỗ trợ tài chính, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích người khác để người khác có khả năng lao động, tự giải quyết việc làm để các tổ chức, các đơn vị, các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nghề mới nhằm tạo việc làm cho người lao động ”[7].
1.4.3. Mục tiêu
Để thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm Quyết định số 126/1998/QĐ - TTg ngày 11/7/1998 về chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm được triển khai trên 3 hướng cơ bản sau:
- Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật, các chủ trương chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng về xuất khẩu phát triển bền vững. Phát triển các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Chú ý phát triển doanh nghiệp nhỏ và công nghệ sử dụng nhiều lao động. Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp để thu hút nhiều lao động vào làm việc. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ xây dựng, kiểm soát chỉ tiêu sử dụng lao động và chỉ tiêu tạo chỗ làm việc mới đối với các ngành, các cấp, các đơn vị sử dụng lao động; các kế hoạch kinh tế xã hội, các chương trình dự án. kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm. Đó là hướng để giải quyết việc làm cơ bản và quan trọng nhất.
- Duy trì, bảo đảm việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân hàng loạt. Từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
- Tăng cường các hoạt động hỗ trợ để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và những đối tượng yếu thế trong thị trường lao động.
1.4.4. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với việc giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động
Để thực hiện thành công các chủ trương của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm, hoàn thành mục tiêu mà Đại hội Đảng IX đã đặt ra "Phấn đấu đến năm 2005, tạo việc làmvà ổn địh việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động (bình quân trên 1,5 triệu lao động/năm) và đến năm 2010 đưa tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên khoảng 80-85%, nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%" Vì vậy, Nhà nước có những biện pháp sau:
- Tiếp tục cải cách thể chế hướng vào hoàn thiện bổ sung các chính sách nhằm tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, khai thác đất đai, tài nguyên thiên nhiên và vốn trong dân đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo mở việc làm. Phải có tư tưởng đột phá chính sách khuyến khích đầu tư trong nước như: Luật thuế đất đai, luật dầu tư, nhập công nghệ thích hợp giải quyết lao động tại chỗ và xuất khẩu lao động trong đó đặc biệt khuyến khích các chủ hộ gia đình, khu vực ngoài quốc doanh, nhất là tư nhân đầu tư vào sản xuất thu hút thêm lao động, tạo việc là mới. Mặt khác tiếp tục mở các trường dạy nghề đào tạo đội ngũ lao động sát với nhu cầu của thị trường.
- Giải quyết tốt cho số lao động dôi dư trong khu vực kinh tế quốc doanh, bộ đội xuất ngũ và lao động từ nước ngoài trở về, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước nhằm vào các dự án sử dụng nhiều lao động, các dự án phát triển ngành nghề mới mở rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu, phát triển mạnh các mô hình sản xuất vừa và nhỏ, tăng cường phát triển các hợp tác xã làng nghề tạo điều kiện thu hút thêm lao động.
- Tổ chức và phát triển hệ thống đào tạo theo hướng xã hội hoá: đa dạng linh hoạt, năng động và thiết thực về hình thức đào tạo trong đó đặc biệt coi trọng các hình thức đào tạo nghề chính quy, phi chính quy trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp, đào tạo nghề tư nhân và nước ngoài coi trọng quy hoạch và kế hoạch đào tạo công nghệ và kỹ thuật cao đáp ứng với ngành kinh tế mũi nhọn. Từ đó thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập, đảm bảo đời sống cho cán bộ, công nhân, viên chức.
- Bổ sung sửa đổi các chính sách về chế độ lao động việc làm: tạo vốn, cho vay vốn phát triển sản xuất, điều chỉnh cơ cấu lao động giữa các ngành, các vùng, có chính sách ưu tiên cho các lực lượng đã đào tạo đến vùng sâu vùng xa. Đồng thời, đào tạo và đào tạo lại cho người lao động, tổ chức tốt các trung tâm xúc tiến việc làm cho người lao động. Tiến hành đa dạng hoá các ngành sản xuất, kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Đặc biệt cần mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài theo nhiều hình thức thông qua quan hệ quốc tế, xây dựng và hoàn thiện luật đầu tư, tạo điều kiện phát triển đất nước gắn với giả quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho người lao động.
1.5. Trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia giải quyết việc làm
1.5.1. Trách nhiệm chung của các cấp Công đoàn
Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, có nhiệm vụ chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho người lao động, thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích người lao động Công đoàn cần tích cực tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, lao động. Bởi việc làm là lợi ích cơ bản và thiết thực nhất, là cơ sở để đảm bảo và nâng cao đời sống của công, nhân lao động.
Điều 7 Luật Công đoàn quy định: "Công đoàn tham gia với cơ quan đơn vị, tổ chức hữu quan, giải quyết việc làm, tổ chức dạy nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp, văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người lao động ”[8].
Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam cũng khẳng định " Giải quyết việc làm vẫn là một yêu cầu hết sức gay gắt, trong khi đó có nhiều lĩnh vực, ngành nghề lại thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ thuật bậc cao...[9]"
Trong quá trình sắp xếp lại dây chuyền công nghệ, sắp xếp lại doanh nghiệp làm dôi ra số lao động không có việc làm. Tổ chức Công đoàn các cấp tích cực tham gia với cấp mình giải quyết việc làm cho người lao động
+ Tham gia xây dựng và thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc làm
+ Thành lập các trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm
+ Lập các quỹ hỗ trợ do Công đoàn quản lý
Tổ chức hướng dẫn công nhân, lao động phát triển kinh tế gia đình. Trên thực tế, vẫn đề giải quyết việc làm cho người lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hàng năm vẫn có tới hàng chục vạn người phải ngh._.ỉ việc, hàng vạn người không có việc làm thường xuyên. Tính trong khu vực Nhà nước số lao động có việc làm thường xuyên khoảng 80 - 85%, thiếu việc làm từ 15 - 20% chưa kể hàng vạn con em công nhân, viên chức, lao động hàng năm đến tuổi lao động nhưng không có việc làm.
Sự phân hoá giàu nghèo trong công nhân, lao động và trong xã hội vẫn đang diễn ra, việc làm của số đông công nhân, lao động chưa được đảm bảo, nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường ô nhiễm độc hại. Đặc biệt là một số cơ sở sản xuất thuộc tư nhân quản lý vẫn còn tình trạng doanh nghiệp làm ăn có lãi thì chủ doanh nghiệp được hưởng còn thua lỗ thì người lao động phải gánh hậu quả như mất việc, thu nhập thấp, đời sống người lao động không được đảm bảo.
Trình độ văn hoá, tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa còn có những công nhân chưa biết chữ. Do vậy, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong vấn đề giải quyết việc làm, chăm lo bảo vệ lợi ích cho người lao động là chú trọng nâng cao trình độ cho người lao động.
Đẩy nhanh các hoạt động tham gia giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là những đơn vị thực hiện cổ phần hoá, tiến hành sắp xếp lại sản xuất, bố trí chỗ làm việc mới cho người lao động, cải thiện điều kiện sản xuất ở các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động.
Khuyến khích hỗ trợ công nhân, viên chức, lao động tìm kiếm, mở mang các hoạt động dịch vụ, phát triển kinh tế gia đình để tăng thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo trong công nhân, viên chức, lao động. Tích cực vận động thành lập quỹ bảo trợ xã hội, động viên khuyến khích công nhân, viên chức, lao động tự đầu tư, mở mang ngành nghề thu hút lao động, giải quyết việc làm tại chỗ cho công nhân lao động.
Tăng cường các hoạt động nhân đạo, từ thiện tình nghĩa và các hoạt động xã hội khác, quan tâm đến các đối tượng chính sách và người nghèo, giúp họ mở mang ngành nghê, tạo việc làm, tăng thu nhập và đảm bảo ổn định đời sống. Mở rộng các hoạt động tư vấn về pháp luật, chế độ chính sách và tư vấn về nghiệp vụ để giải quyết việc làm cho công nhân lao động, củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm xúc tiến việc làm và văn phòng pháp luật ở những nơi có điều kiện. Đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng, nhằm giải quyết việc làm và bảo vệ lợi ích cho người lao động Việt Nam trong và ngoài nước.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò trách nhiệm của mình trước những yêu cầu, lợi ích của giai cấp công nhân, lao động trong xu hướng phát triển của đất nước, đáp ứng yêu cầu của Đại hội IX của Đảng và nghị quyết của Trung ương về đường lối phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 tại đại hội IX Công đoàn Việt Nam đã quyết tâm "Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng củacông nhân, viên chức, lao động, góp phần tăng cường đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[10]. Để thực hiện được mục tiêu này, tổ chức Công đoàn cần có sự nỗ lực và quan tâm mạnh mẽ hơn nữa đến việc tạo ra thật nhiều việc làm, không kẻ là thành phần kinh tế nào. Bởi vì mong muốn của người lao động là có việc làm, có thu nhập hợp pháp, được làm việc trong điều kiện phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với việc làm ở nông thôn, các cấp Công đoàn cần thu hút đầu tư, mở rộng đào tạo nghề, kể các ngành nghề thủ công, tạo thêm việc làm bố trí việc làm cho người lao động.
1.5.2. Trách nhiệm của Công đoàn cơ sở.
Như đã nêu trên, tham gia giải quyết việc làm cho công nhân lao động là nhiệm vụ đầy khó khăn phức tạp, liên quan đến nguyện vọng và quyền lợi của người lao động. Công đoàn cơ sở cần tìm các biện pháp cụ thể, thiết thực phù hợp với đặc điểm của cơ sở để tham gia có hiệu quả nhất, như :
- Tuyên truyền cho đoàn viên hiểu rõ tình hình thực tế của địa phương, ngành, đơn vị sản xuất, những khó khăn và thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, trong tổ chức sắp xếp lao động. Từ đó, tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn cho công nhân viên chức lao động nắm vững pháp luật, chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến giải quyết việc làm. Nâng cao trách nhiệm của cá nhân chủ động tìm việc làm, góp phần cùng tập thể tạo ra nhiều việc làm.
- Tổ chức tham gia xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả như tổ chức Đại hội công nhân viên chức, hội nghị chuyên đề về giải quyết việc làm cho công nhân, lao động. Khơi dậy và phát huy tính năng động sáng tạo của công nhân, lao động trong vấn đề chủ động tạo việc làm và tìm việc làm, tổ chức các đoàn tham quan học hỏi kinh nghiệm về tổ chức sản xuất, giải quyết việc làm trong các đơn vị trong và ngoài ngành kinh tế, kịp thời khen thưởng các sáng kiến phát huy tính năng động sáng tạo trong công nhân, lao động, chủ động kết hợp với chuyên môn thường xuyên tổ chức, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế và thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý, bội dưỡng trình độ tay nghề cho công nhân, lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
- Tham gia sắp xếp, sử dụng lao động hợp lý: đề ra các tiêu chuẩn phân loại lao động, tạo động lực phát huy tối đa tiềm năng lao động, kịp thời khen thưởng đối với những người có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Tham gia giải quyết việc làm cho lao động dôi dư trong quá trình tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại lao động và đầu tư công nghệ mới phù hợp với quy mô đơn vị, tổ chức sản xuất phụ và các dịch vụ giải quyết việc làm cho lao động dôi dư, thành lập các phân xưởng tổ sản xuất nhằm tập hợp và thu hút lao động tại chỗ, tăng thu nhập và đảm bảo đời sống cho người lao động.
- Tham gia xây dựng chế độ chính sách, tạo tâm lý tin tưởng hơn nữa của công nhân lao động với tổ chức Công đoàn, xứng đáng là tổ chức của quần chúng.
Chương 2
Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động
2.1. Đặc điểm, tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty.
Năm 1994 theo sự thoả thuận giữa Nhà nước Việt Nam và mặt trận Lào yêu nước, Bộ giao thông vận tải Việt Nam thành lập hai công trường B1 và B2 làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Lào trên mặt trận giao thông vận tải, sau đó được sát nhập hai hai công trường B1 và B2 thành Ban xây dựng 64 là tiền thân của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8.
Ngày 30/11/1982 Bộ giao thông vận tải ra quyết định số 196 QĐ/TCCB chuyển ban xây dung 64 thành Liên hiệp các xí nghiệp giao thông 8 với chức năng tổng thầu, thiết kế thi công xây dung các công trình giao thông vận tải.
Ngày 05/07/1991 Bộ giao thông vận tải ra quyết định số 1291 QĐ/TCCB - LĐ đổi tên thành Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8, đồng thời chuyển các đơn vị thành viên thành các Công ty hạch toán độc lập.
Năm 1992, Tổng công ty có 12 đơn vị thành viên hạch toán độc lập và 1 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 1 trung tâm đào tạo Nghiệp vụ, 1 viện điều dưỡng 8 (nay là Trung tâm y tế Giao thông 8). Thời gian này Tổng công ty đã chuyển hết các đơn vị về Việt Nam, dần ổn định về cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đầu tư gần 250 tỷ đồng mua sắm máy móc thiết bị hiện đại của Nhật Bản, Đức... Để nhanh chiếm lĩnh thị trường xây dựng các công trình giao thông trong nước, đấu thầu Quốc tế thực hiện các dự án lớn. Nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng các công trình GTVT cầu, đường, bến bãi.
Trong những năm gần đây, ngành xây dựng cơ bản được phát triển theo hướng thị trường hoá, các công trình được thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu. Doanh nghiệp muốn có việc làm cho người lao động, muốn tồn tại và phát triển được phải thắng thầu. Để thắng được thầu thì Doanh nghiệp cần phải đầu tư cả về cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ và trình độ quản lý, kĩ thuật cao. Vì thắng thầu là điều kiện sống còn của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Hay muốn thắng thầu Doanh nghiệp phải có công nghệ thi công hợp lý. bố trí tổ chức thi công khoa học nâng cao uy tín với chủ đầu tư. Nhờ ý thức được điều đó mà năm 1998 Tổng công ty đã thắng nhiều gói thầu Quốc tế: Bắc Thăng Long – Nội Bài, đường Hồ Chí Minh, đường 5A – Hải Phòng, đường 1A, đường Láng Hoà Lạc, Nội Bài – Lạng Sơn, xây dựng nhà máy xi măng Nghi Sơn, xây dựng đường vành đai – Viên Chăn và nhiều công trình khác khắp từ Lạng Sơn và đến thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2000, Tổng công ty trúng thầu các dự án: đường Pháp Vân – thường Tín, dự án ADB8, đường Sikớt – Dong Dook (Lào), đường quốc lộ 6 (Lào), dự án xuyên á: V1,V2,V3.
Năm 2003, Tổng công ty trúng thầu các dự án: Đường Xuyên á, dự án Vành đai III đoạn Mai dịch - Trung Hòa, các dự án R1, R2, R4. Ngoài ra còn các dự án nhỏ lẻ ở khắp trong nước, tạo đủ việc làm cho gần 5000 cán bộ công nhân viên chức – lao động.
Thắng thầu quốc tế xây dựng đường 13 (Lào) trị giá 6,5 triệu USD, dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 6 trị giá 8,5 triệu USD (Lào) năm 1998 liên doanh với Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 đã thắng thầu dự án ADB8 trị giá 12,6 triệu USD (Lào).
Với giá trị sản lượng năm 2003 theo số liệu báo cáo nhanhlà 2.100,6 tỷ/1.850 tỷ đồng đạt 112,55%. Trong đó: Xây dựng cơ bản là 1.897 tỷ đồng, sản xuất kinh doanh khác là 203,6tỷ đồng so cùng kỳ năm trước đạt 115,4%.
Biểu số 1: Các công trình xây dựng chủ yếu
Đơn vị (triệu USD)
STT
Hạng mục đường
Số lượng (dự án)
Tổng giá trị
1
Bắc Thăng Long - Nội Bài
1
3,10
2
Đường Thành phố HCM - Xuân Lộc
1
30,0
3
Đường QL5 –-HảI Phòng
1
19,0
4
Đường quốc lộ 1A
11
28,64
5
Xây dựng cầu quốc lộ 1A
1
10,70
6
Xây dựng nhà máy Nghi Sơn - Thanh Hoá
1
5,00
7
Xây dựng đường Láng - Hoà Lạc
1
2,25
8
Liên doanh Nhật Bản XDQL 5A
1
32,00
9
Xây dựng Qlộ Hà Nội - Lạng Sơn
1
24,30
10
Đường vành đai Viêng chăn (Lào)
1
3,00
Tổng
21
157,99
Nguồn [11]
Ngoài các dự án mang tầm Quốc tế nêu trên, Tổng công ty còn thi công các công trình và cầu trong cả nước như: quốc lộ 8A - Sơn La, cao Bằng, Đường 18, Nghệ An, Quảng Nam, Hải Hưng... mang lại giá trị hàng trăm tỷ đồng.
2.1.2. Tình hình tổ chức quản lý của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
- Căn cứ theo quyết định số: 4897 QĐ/TCCB - LĐ ngày 27/11/1995 cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 8 như sau:
Sơ đồ 1:
Sơ đồ tổ chức quản lý Tổng công ty
Văn phòng
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Phòng Tài chính-kế toán
Phóng kế hoạch tiếp thị
Phóng tổ chức lao động
Phòng vật tư-thiết bị
Phòng dự án công nghệ
Các đơn vị hạch toán độc lập
- CT874
- CTY875
- CTY cầu 75
- CTY838
- CTY810
- CTY820
- CTY829
- CTY tư vấn
- CTY872
- CTY873
- CTY842
- CTY889
- CTY892
- CTY Miền tây
- CTY13
- CTY Cung ứng vật tư
Công ty hạch toán phụ thuộc
- Trung tâm y tế GT 8.
- Biệt phái.
- Văn phòng đại diện tại Miền Trung.
Trung tâm hạch toán phụ thuộc
- Đại diện TP HCM
- R-10.
- Cơ quan (Văn phòng Tổng công ty)
Phó TGĐ phụ trách Tài chính
Phó TGĐ phụ trách miền Trung
Phó TGĐ phụ trách ở Lào
Phó TGĐ phụ trách dự án
Phó TGĐ phụ trách Kinh tế kỹ thuật
Phó TGĐ phụ trách Lao động
Để phù hợp với tình hình nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn mới và nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, Tổng công ty Xây dựng Giao thông 8 được tổ chức theo kiểu Tổng công ty Nhà nước, có Hội đồng quản trị quản lý theo mô hình trực tuyến. Nhiệm vụ của các ban phòng được quy định như sau:
Hội đồng quản trị (bao gồm chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên hội đồng quản trị Tổng công ty) có trách nhiệm trực tiếp trước bộ giao thông vận tải về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty, lập và quyết định phê duyệt các kế hoạch sản xuất, kinh doanh và kế hoạch phát triển của Tổng công ty lập phương án đầu tư, quản lý tổ chức cán bộ hoạt động tài chính, thi đua, khen thưởng... do Tổng giám đốc đề nghị.
Ban kiểm soát do Hội đồng quản trị bầu ra để giúp cho Hội đồng quản trị trong công tác giám sát, kiểm tra hoạt động của Ban giám đốc trong các vấn đề thu chi tài chính, kiểm tra việc chấp hành điều lệ Tổng công ty.
Tổng giám đốc: Chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về hoạt động của Doanh nghiệp, chịu sự giám sát của Ban kiểm soát. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm điều hành cao nhất về mọi hoạt động của Tổng công ty, phụ trách công tác đầu tư, quản lý tài chính, công tác cán bộ, kết quả sản xuất, kinh doanh, xác định chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Phó tổng giám đốc: Chịu sự phân công uỷ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về các mặt hoạt động của công ty tham mưu với Tổng giám đốc giải quyết các công việc vượt thẩm quyền cấp dưới thuộc lĩnh vực được giao. Đồng thời đề xuất với Tổng giám đốc giải quyết các công việc vượt thẩm quyền cấp dưới, thuộc lĩnh vực được giao. Đồng thời đề xuất với Tổng giám đốc thực hiện các kế hoạch được giao.
Các phòng ban chức năng: làm nhiệm vụ tham mưu giúp việc cho Ban giám đốc, chịu sự phân công của ban giám đốc.
Các đơn vị trực thuộc đứng đầu là Giám đốc công ty chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tự thiết lập bộ máy quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, máy móc thiết bị, công nghệ... Được phép tự tìm kiếm chủ đầu tư và tham gia đấu thầu, ký kết các hợp đồng xây dựng nhưng vẫn phải đảm bảo hoàn thành các kế hoạch và nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh mà Tổng công ty giao cho. Giám đốc các Công ty phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quyết định của Tổng giám đốc trong các vấn đề sử dụng, quản lý vốn, tổ chức nhân lực, đầu tư máy móc thiết bị nhằm đảm bảo hợp tác hoá giữa các đơn vị trong Tổng công ty. Đặc biệt trong trường hợp cần thiết Tổng công ty sẽ có quyết định triệu tập những cán bộ có trình độ để lập hồ sơ dự thầu và chịu sự quản lý trực tiếp của trưởng phòng đấu thầu và quản lý dự án.
Sơ đồ 2:
Mô hình tổ chức hoạt động cấp công ty
Ban giám đốc
Phòng Tài vụ
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng Kế hoạch kỹ thuật
Phòng Hành chính quản trị
Phòng Thiết bị vật tư
Đội Công trình
2.1.3. Tình hình lao động và việc làm của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao tông 8
Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 đến nay đã có lực lượng lao động hùng hậu cả về số lượng và chất lượng đáp ứng với nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành.
* Về số lượng
Ngoài việc ổn định việc làm cho công nhân, viên chức, lao động trong Tổng công ty, hàng năm Tổng công ty luôn có những kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết được một phần lực lược lao động thất nghiệp trong xã hội, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Biểu số 2: Số lượng lao động của Tổng công ty trong 3 năm như sau:
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 02/01
Tỷ lệ %
So sánh
03/02
Tỷ lệ %
I.Tổng số cán bộ CN,VC
3796
4086
4626
290
107,61
540
113,2
Trong đó nữ
490
560
577
70
17
II. Lao động thuê mướn
650
1234
2071
584
873
III. Độ tuổi bình quân
44
42
40
Tổng
4446
5320
6697
Nguồn [12]
Nhìn vào bảng ta thấy số lao động của Tổng công ty hàng năm tăng bình quan gần 300 người. Chỉ tính riêng năm 2002 so với năm 2001 tăng 290 người và năm 2003 so với năm 2002 tăng 540 người. Trong đó số lao động nữ tăng không đáng kể, giữ ở mức ổn định. Cụ thể, năm 2001 là 490 người chiếm 12,9% ; năm 2002 là 560 người chiếm 13,7%; năm 2003 là 577 người chiếm 12,5% phần lớn số lao động nữ được bố trí công việc gián tiếp vào các phòng ban tại Tổng công ty và các công ty thành viên.
Ngoài số lao động nêu trên, Tổng công ty còn tạo việc làm cho lao động xã hội, năm 2001 là 650 người, năm 2002 là 1234 người, năm 2003 là 2072 người số lao động này được thuê theo mùa vụ tại nơi các đơn vị thi công.
Về độ tuổi bình quân của lực lượng lao động Tổng công ty giảm dần điều này chứng tỏ Tổng công ty đã trẻ hoá được đội ngũ cán bộ có trình độ, thông qua việc đào tạo, tuyển dụng đáp ứng nhu cầu SXKD và sự đổi mới công nghệ, kỹ thuật.
* Về chất lượng
Bên cạnh việc tăng về số lượng, Tổng công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng lao động thông qua tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức và đề ra các nội dung để phát triển nguồn nhân lực, điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Biểu số 3: Tình hình lao động của Tổng công ty phân theo trình độ
Đơn vị: người
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Tỷ lệ % so với tổng số
2001
2002
2003
ĐHọc+CĐẳng
392
459
874
10,3
11,3
18,9
Trung cấp
385
326
508
10,1
8,0
11,0
CN kỹ thuật
1468
1391
2314
38,7
34,0
50,0
CN Phổ thông
1551
1910
930
40,9
46,7
20,0
Cộng
3796
4086
4626
100%
100%
100%
Nguồn [13]
Từ bảng trên ta thấy số cán bộ có trình độ đại học và cao đằng tăng nhanh từ năm 2001 là 10% năm 2002 là 11,3% và năm 2003 tăng cao nhất 18,9% tăng gấp đôi so với các năm trước.
Số lao động có trình độ trung cấp giảm năm 2002 so với năm 2001 từ 10,1% xuống còn 8% nhưng lại tăng vào năm 2003 là 11% (182 người) số lao động năm 2002 giảm là do Tổng công ty gửi đi đào tạo và một số chuyên ngành. Năm 2003 tăng lên 182 người do Tổng công ty tiếp nhận số công nhân cử đi học và tuyển dụng công nhân kỹ thuật mới để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất trong lĩnh vực đổi mới công nghệ thi công công trình.
Nhìn chung qua các năm đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tổng công ty tăng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt Tổng công ty đã có xu hướng đào tạo cán bộ từ lực lượng lao động hiện có tạo điều kiện cho lực lượng lao động nâng cao trình độ. Mặt khác việc tăng số lượng và chất lượng lao động nhưng thu nhập của người lao động vẫn được đảm bảo, tăng đều hàng năm.
Việc phân tích các chỉ tiêu: Số lượng lao động, chất lượng lao động và thu nhập bình quân thấy rằng, các chỉ tiêu của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 đều tăng qua các năm chứng tỏ Tổng công ty đã mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh, tạo được việc làm đầy đủ cho người lao động, đời sống người lao động được đảm bảo tạo nền móng cho sự phát triển bền vững của Tổng công ty và các công ty thành viên.
Hiện nay Tổng công ty có 19 đơn vị thành viên trải đều trên khắp mọi miền đất nước, do quy mô sản xuất khác nhau nên tình hình lao động của Tổng Công ty là khác nhau. Sau đây là bảng biểu thống kê lao động của các Công ty thành viên :
Biểu số 4: Tình hình lao động của Tổng công ty tính đến ngày 31/12/2003
(Phân theo trình độ)
Đơn vị: người
TT
Tên công ty thành viên
Tổng số lao động
Trình độ
PTS
Đại học
Trung học
CNKT
LĐPT
Tổng công ty
4.626
1
873
508
2.314
930
1
Công ty 874
340
0
50
23
200
67
2
Công ty 875
294
0
34
50
141
69
3
Công ty cầu 75
292
0
45
35
205
7
4
Công ty 872
299
0
43
18
163
75
5
Công ty 838
177
0
36
10
110
21
6
Công ty 810
565
0
60
36
252
217
7
Công ty 820
255
0
47
17
101
90
8
Công ty 829
175
0
30
24
91
30
9
Công ty 842
298
0
49
26
210
13
10
Công ty 873
249
0
45
30
124
50
11
Công ty 889
183
0
35
15
93
40
12
Công ty 892
248
0
47
28
135
38
13
Công ty miền tây
353
0
55
17
140
141
14
Công ty 13
221
0
40
18
160
3
15
Công ty C.U.V.T
220
0
50
25
85
60
16
Công ty tư vấn
108
0
40
38
30
0
17
Trung tâm Ytế Giao thông 8
75
0
14
26
31
4
18
Cơ quan
94
0
67
20
6
1
19
Biệt phái
59
0
30
21
8
0
20
VP đại diện tại Miền trung
25
0
12
7
6
0
21
Đại diện thành phố Hồ Chí Minh
30
0
18
12
0
0
22
R - 100
66
0
26
12
23
4
Nguồn [14]
*Kết quả hoạt động sảm xuất, kinh doanh.
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh phản ánh kết quả giải quyết việc làm cho người lao động của các doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty. Thực hiện tốt kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chính là thực hiện tốt mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động của doanh nghiệp. Trong năm 2001 - 2002 - 2003, theo số liệu tổng hợp từ các công ty thuộc Tổng công ty thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh như sau:
Biểu số 5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
So sámh 02/01
Tỷ lệ %
So sánh 03/02
Tỷ lệ %
2001
2002
2003
I.
Tổng GT Sản lượng
382.765
618437
86777
235.692
161,5
249320
140,3
1
Giá trị SLượng XLắp
345.653
573079
804106
227426
231027
2
Giá trị SL khảo sát TK
11289
15840
2004
4551
3
Giá trị SL khác
27798
34089
47831
6291
13724
II.
Giá trị SL thực hiện
360.703
510691
834997
149988
141,6
324306
163,8
Thu bằng tiền
307500
459073
693816
151573
149,3
234743
151,1
III.
Nộp ngân sách
8.449
13220
22944
4777
156,4
9724
173,6
IV
Lợi nhuận thực hiện
2410
8856
5099
6446
367,5
-3757
57,8
V
Quỹ đầu tư phát triển
1446
5313,6
3059,4
VI
Quỹ KT-Plợi
241
885,6
509,9
VII
Quỹ dự phòng
120,5
2214
1274,7
VIII
Quỹ trợ cấp mất việc
442,8
245,95
Nguồn [15]
Nhìn vào bảng ta thấy, các chỉ tiêu về kế hoạch giá trị sản lượng đều vượt kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước.
Tổng giá trị sản lượng của Tổng công ty năm 2002 so với 2001 tăng 2.35.692 triệu đồng và năm 2003 so với năm 2002 là 2.49.320 triệu đồng. Trong đó, giá trị sản lượng thực hiện của năm 2002 so với năm 2001 tăng 2.27.426 triệu đồng và năm 2003 so với năm 2002 là 2.31.027 triệu đồng. Chỉ tiêu nộp ngân sách của Tổng công ty tăng bình quân từ 5000 – 7000 triệu đồng, lợi nhuận trong 3 năm bình quân tăng 5.455 triệu đồng, từ kết quả trên mà các quỹ của Tổng Công Ty cũng được bổ xung đầy đủ, đảm bảo được vốn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Có được kết quả trên là do Tổng Công Ty sáng tạo, năng động trong quá trình tìm tòi các gói thầu giá trị, kết hợp với việc giảm thiểu các chi phí để đem lại hiệu quả kinh tế cho Tổng Công Ty.
Chỉ tiêu lợi nhuận 2003 của Tổng Công Ty cũng đạt 5.099 triệu đồng nhưng thấp hơn so với năm 2002 là 3.757 triệu đồng nguyên nhân chính là do:
Thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, các công ty trực thuộc Tổng phải đi vay Ngân hàng và chịu lãi suất. Riêng năm 2003 số vay cuối kỳ là 4.27.739 triệu đồng số tiền lãi lên đến 45.133 triệu đồng. Đây là nguyên nhân chính làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm.
- Thực hiện nộp ngân sách Nhà nước và sử dụng vốn của tổng công ty .
Năm 2003, Tổng công ty đã nộp ngân sách 22.944 triệu đồng vượt so với năm 2002 là 9.724 triệu đồng.
Các khoản như Bảo hiểm xã hội là 2.17.854 triệu đồng, Bảo hiểm y tế là 344,98 triệu đồng.
- Tình hình sử dụng vốn và tài sản của Tổng công ty :
Theo số liệu thống kê ngày 31/12/2003. Nguyên giá của tài sản là 3.65.414 triệu đồng. Trong đó tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh là 292.486 triệu đồng, như vậy 1 đồng tài sản cố định làm được 2,2 đồng sản lượng xây lắp, 1 đồng tài sản cố định tham giá sản xuất, kinh doanh thì tạo ra được 2,75 đồng giá trị sản lượng.
Năm 2003 so với năm 2002 thì 1 đồng tài sản cố định tạo ra 2,37 đồng sản lượng xây lắp bằng 2,75/2,37 = 1,16 lần năm 2002.
Điều này nói lên hệ số sử dụng thiết bị và dây truyền sản xuất đã thể hiện tính hợp lý và có hiệu quả hơn. Đây cũng chính là tiềm năng nội lực chưa được khai thác triệt để, thực sự là một trong những biện pháp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ thi công khi Tổng công ty sử dụng hợp lý và có hiệu quả các thiết bị thi công.
Hiệu suất sử dụng vốn của Tổng công ty chưa cao do phải vay Ngân hàng theo số liệu đến cuối năm 2002 thì nguồn vốn ngân sách cấp cho Tổng công ty còn 13.432 triệu đồng, tự bổ xung là 65.614 triệu đồng. Vốn lưu động toàn Tổng công ty là 23.577 triệu đồng chỉ đạt 2,8 % so với doanh thu thực hiện 8.34.977 triệu đồng.
Điều này phản ánh việc thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh là rất nghiêm trọng. Việc sản xuất kinh doanh cần vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến tiến độ thi công các công trình. Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, đời sống, việc làm cho người lao động.
2.1.4. Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm của Tổng công ty
Tư khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả nên giải thể hoặc không đủ việc làm cho người lao động, cùng với tỷ lệ tăng dân số hàng năm làm cho số lao động mỗi năm tăng lên không ngừng, tập trung nhiều nhất ở các đô thị. Dẫn đến tình trạng thừa lao động, khi người lao động không có việc làm, không có thu nhập thì sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh về tiêu cực, tệ nạn xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định của xã hội. Trong bối cảnh chung đó Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 cũng không tránh khỏi tình trạng thiếu, không ổn định việc làm cho công nhân lao động trong công ty mình.
Đứng trước vấn đề này cùng với Bộ giao thông vận tải Việt Nam,Tổng công ty đã chủ động tự tìm cho mình những giải pháp riêng nhằm thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 đã có một số các biện pháp cụ thể như sau:
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tổng công ty lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2001-2005) đặt ra về vấn đề việc làm cho công nhân lao động. Tổng công ty chỉ đạo với các công ty thành viên phải chủ động tự tìm kiếm Chủ đầu tư và tham gia đấu thầu, ký kết các hợp đồng xây dựng nhỏ và lẻ đáp ứng đủ từ 30% - 70% lượng việc làm cho công nhân lao động của công ty mình (trong đó đối với thị trường trong nước là 70%, thị trường Lào là 30%). Về phía Tổng công ty lo từ 30% - 50% lượng việc làm cho công nhân lao động.
- Phát huy thế mạnh đa dạng hóa loại hình sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty, mở rộng các dịch vụ tạo thêm việc làm cho công nhân lao động.
- Tiến hành đào tạo các ngành nghề mới cho bộ phận công nhân lao động dôi dư của Tổng công ty.
- Đầu tư máy móc thiết bị mới nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phục vụ cho đấu thầu hiệu quả.
- Cùng với Công đoàn Tổng công ty thành lập Xí nghiệp xây dựng công trình Công đoàn giải quyết việc làm cho công nhân lao động.
- Phân loại lao động, bố trí sử dụng lao động hợp lý.
- Đào tạo, tuyển dụng xuất khẩu lao động ra các nước.
2.2 Tình hình tổ chức của Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
2.2.1. Hệ thống tổ chức
Công đoàn Tổng công ty Xây dựng Công trình Giao thông 8 là Công đoàn cấp trên cơ sở trực thuộc Công đoàn Giao thông vận tải Việt Nam. Trong đó có 22 Công đoàn Cơ sở trực thuộc, 110 Công đoàn Bộ phận trực thuộc cơ sở, 441 tổ Công đoàn và có hệ thống tổ chức như sau:
Sơ đồ 3:
Sơ đồ hệ thống tổ chức của công đoàn tổng công ty
Công đoàn Tổng công ty
11 Công đoàn cơ sở trực thuộc
11 Công đoàn cơ sở trực thuộc
50 Công đoàn Bộ phận trực thuộc Cơ sở
60 Công đoàn Bộ phận trực thuộc Cơ sở
147 tổ Công đoàn
147 tổ Công đoàn
147 tổ Công đoàn
Thực hiện chương trình đổi mới tổ chức, cán bộ xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, phát triển đoàn viên góp phần xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động vững mạnh, năm 2003 Công đoàn Tổng công ty đã tích cực tuyên truyền, giới thiệu điều lệ và đã tổ chức kết nạp được 710 đoàn viên mới .
Công tác xây dựng tổ chức Công đoàn cũng được chủ động từ cơ sở, xây dựng quy chế làm việc ban chấp hành Công đoàn với chuyên môn, tổ chức 6 tháng một năm .Từ đó xây dựng thành chương trình hoạt động đảm bảo các lần sinh hoạt có chất lượng .
Đối với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở, do hoạt động phân tán các công trình tuỳ theo điều kiện có thể hàng quý sinh hoạt một lần.
Qua kết quả hoạt động cho thấy: Toàn Tổng công ty hiện nay có 4.615 đoàn viên, trong đó nữ là 556 người, Năm 2003 đã cấp thẻ cho 231 đoàn viên, đã có 18/20 Công đoàn cơ sở đạt vững mạnh xuất sắc, 1 cơ sở đạt vững mạnh, không có cơ sở đạt yếu, kém. Trong đó có 109 Công đoàn bộ phận và 122 tổ Công đoàn.
Công tác đào tạo được coi trọng: Hàng năm Công đoàn Tổng công ty tổ chức tập huấn cho các Chủ tịch Công đoàn cơ sở và giới thiệu đoàn viên và công nhân lao động có năng lực đi học tại các trường Đại học. Riêng năm 2003 Công đoàn Tổng công ty đã kết hợp với Công đoàn ngành tổ chức cho 30 đồng chí đi học tại trường Đại học Công đoàn, Đại học Giao thông vận tải và 08 đồng chí đi học lý luận chính trị cao cấp.
Đến nay đội ngũ Ban chấp hành Công đoàn Tổng công ty và Chủ tịch Công đoàn cơ sở có trình độ chuyên môn Đại học là 60% (Trong đó đại học cao đẳng chiếm 70%), trình độ trung cấp 20% và sơ cấp 20%. Phần lớn cán bộ nhiệt tình, có tâm huyết với Công đoàn luôn bám sát Nghị quyết, bám sát phong trào, giải quyết công việc có hiệu quả và chất lượng.
Mặt khác mối quan hệ giữa Công đoàn với cơ quan chuyên môn, cơ quan cấp trên, cấp cơ sở được thực hiện theo quy chế thống nhất dân chủ, công khai cùng kết hợp giải quyết đã hạn chế được khó khăn trong hoạt động (theo nghị định 07/CP).
2.2..2. Nhiệm vụ của Ban chấp hành Công đoàn Tổng công ty:
Là cơ quan cao nhất của tổ chức Công đoàn Tổng công ty. Đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho đoàn viên, công nhân, lao động thuộc Tổng công ty. Tham gia với đảng uỷ, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (hoặc kiến nghị với Bộ, Công đoàn cấp trên) về xây dựng, quy hoạch, cơ chế quản lý định hướng phát triển Tổng công ty. Tham gia với Tổng giám đốc về việc phân công các Công ty tham gia đấu thầu, tham gia phân phối lợi nhuận, xây dựng các quỹ, các chế độ chính sách tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể đối với đoàn viên Công nhân lao động trong tổng công ty.
Giám sát và kiểm tra thực hiện pháp luật về lao động, thảo ước lao động tập thể, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Vệ sinh an toàn - lao động. Thực hiện và vận dụng chính sách của Đảng và Nhà nước các chủ trương của Tổng liên đoàn, Công đoàn Ngành giao thông vận tải, chỉ đạo cơ sở thực hiện nghị quyết của Đại hội Công đoàn Tổng công ty.
Tuyên truyền giáo dục Công nhân lao động nêu cao tinh thần trách nhiệm xây dựng đơn vị, chấp hành đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước. Tham gia đóng góp ý kiến với Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc về xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật phù hợp với tiến bộ khoa học công nghệ mới. Tổ chức các phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Tổng công ty.
Quyết định về cơ cấu tổ chức Công đoàn Tổng công ty, thành lập sát nhập, giải thể các cơ sở trực thuộc, xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ xem xét và đề nghị Ban chấp hành công đoàn N._. Công đoàn đầ xuất với Ban lãnh đạo Công ty tổ chức cho 34 người học tại trường đại học Kiến trúc trong thời gian đào tạo 5 năm.
2.4.6.2. Công đoàn tham gia tuyển dụng xuất khẩu lao động.
Hàng năm Công đoàn Tổng Công ty tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ và công nhân lao động về trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ thông qua việc mở các lớp đào tạo ngắn hạn để phục vụ cho công tác tuyển dụng công nhân đi xuất khẩu lao động, tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động. Cụ thể, Công đoàn Tổng công ty tham gia với chuyên môn mở các lớp đào tạo ngắn hạn về trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi xuất khẩu. Năm 1999, đào tạo 50 đối tượng sang Nhất và Hàn Quốc, năm 2001, đào tạo 70 đối tượng sang Hàn quốc và Đài Loan. Riêng năm 2000 đã tổ chức đào tạo cho 150 lượt người sang Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan.
Các đối tượng chủ yếu là công nhân lao động và con em công nhân lao động chưa có việc làm. theo các hợp đồng của phía bạn thì mỗi lao động đi xuất khẩu, có thu nhập bình quân từ 500 - 1000 USD/người/tháng. Bộ giao thông vận tải chịu trách nhiệm về số lượng cần tuyển và các hợp đồng có liên quan đến thu nhập, đời sống của cán bộ công nhân viên.
2.3.6.3. Công đoàn Tổng công ty tổ chức phát động thi "thợ giỏi", thi "nâng bậc" cho công nhân viên chức lao động.
Mục đích của hai phong trào này là giúp cho đội ngũ công nhân lao động nâng cao được tay nghề. Đồng thời qua phong trào thi đánh giá được thực trạng chất lượng đội ngũ công nhân viên chức - lao động của Tổng công ty. Từ đó có các biện pháp tham gia giải quyết việc làm cho công nhân lao động.
Công đoàn với tư cách là thành viên Hội đồng thi đua khen thưởng do vậy tiến hành phong trào được Công đoàn Tổng công ty kết hợp với các chuyên môn tổ chức như sau :
+ Việc đăng ký: Công đoàn Tổng công ty chỉ đạo Công đoàn cơ sở trong việc thực hiện phong trào, các đơn vị tham gia đăng ký thông báo về số lượng, thể loại tham gia.
+ Nội dung cuộc thi: căn cứ vào tình hình nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh, căn cứ vào các ngày lễ lớn dể lập kế hoạch thực hiện. Nội dung cuộc thi được thống nhất giữa ban lãnh đạo với Công đoàn Tổng công ty.
Thành phần ban giám khảo gồm: Tổng giám đốc, giám đốc công ty - trưởng ban, chủ tịch Công đoàn làm phó ban, thành viên gồm lãnh đạo các phòng ban có kinh nghiệm và trình độ.
+ Hình thức tổ chức được tổ chức từ đội sản xuất đến Tổng công ty và Tổng công ty các doanh nghiệp đạt danh hiệu phải dựa trên các tiêu chuẩn sau:
Cá nhân được khen thưởng: hoàn thành tốt nhiệm vụ, tổ chức các phong trào có hiệu quả, thiết thực. Có trên 20% số cá nhân được khen thưởng, không ai mắc sai phạm kỷ luật. Chấp hành đúng đường lối của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển của Tổng công ty, có tinh thần xây dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết. Cuộc thi được Tổng công ty chỉ đạo Công đoàn cơ sở tổ chức từ tổ sản xuất từ đó giới thiệu các đơn vị và cá nhân điển hình tiếp tục thi cấp Tổng công ty và ngành, qua phong trào thi thợ giỏi và thi nâng bặc. Kết quả trong 3 năm thực hiện như sau: năm 2001 có 12/19 Công đoàn cơ sở vững mạn đạt 63,16%; năm 2002 có 15/19 Công đoàn cơ sở vững mạnh đạt 78,90%; năm 2003 có 19/22 Công đoàn cơ sở vững mạnh đạt 86,36%.
Cụ thể năm 2003 có 2500 lao động tham gia thi thợ giỏi đã chọn 120 đại biểu đi dự thi cấp Tổng công ty và bầu được 5 đại biểu đi dự Hội thi thợ giỏi cấp ngành. Kết quả đạt được như sau: 10 người đạt được danh hiệu lao động tiên tiến (cấp Tổng công ty), 01 người được nhận danh hiệu lao động giỏi cấp ngành. Qua cuộc thi này Tổng công ty đã quyết định nâng bậc cho 320 người trong năm 2002 và 538 người trong năm 2003.
Biểu số 17: Kết quả thi nâng bậc qua hai năm 2002 – 2003
Đơn vị: Người
Năm
Bậc thợ
Tổng số
2 - 3
3 - 4
4 - 5
5 - 6
6 - 7
2002
140
62
48
45
25
320
2003
135
120
128
97
58
538
Nguồn [27]
Ngoài việc tổ chức thi thợ giỏi, thi nâng bậc Công đoàn Tổng công ty tham gia với chuyên môn, định kỳ hàng năm Công đoàn tổ chức các cuộc hội thảo về khoa học - kỹ thuật, đến nay đã có 18/22 doanh nghiệp đăng ký thường xuyên tham gia. Cũng từ cuộc hội thảo này, các Công ty nắm bắt được tình hình thông tin công nghệ mới và cách thức thi công đem lại hiệu quả cao, cụ thể như công ty 874 đã mạnh dạn đầu tư gần 10 tỷ đồng mua sắm máy móc thiết bị thắng thầu đoạn Km 38 - Hà Nam với mức giá bỏ thầu là 3,4 tỷ đồng (bằng 47% so với mức giá cao nhất và bằng 70,3 % so với mức giá của chủ đầu tư). Nhờ có máy móc thiết bị hiện đại Công ty đã hạ được giá thành sản xuất tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu mà thu nhập và việc làm cho người lao động vẫn được đảm bảo.
Công đoàn Tổng Công ty kết hợp với chuyên môn tổ chức thường xuyên cho cán bộ và lãnh đạo các Công ty đi tham quan học hỏi kinh nghiệm, tổ chức sản xuất, giải quyết việc làm ở các đơn vị trong và ngoài ngành. Trong năm 2003 đã tổ chức được 5 đợt tham quan học hỏi kinh nghiệm, trong đó có 3 đợt sang Singapo, Đức và Nhật Bản qua đó các đơn vị đã đúc rút được kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất tốt nhất, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Công đoàn tạo điều kiện cho các đơn vị, cá nhan phát huy tính năng động sáng tạo trong vấn đề chủ động tạo việc làm và tìm việc làm, các thành viên trong các Công ty có thể tự tìm nhà đầu tư của công trình vừa và nhỏ, có khả năng quản lý sản xuất có vốn đầu tư, được phép thành lập các độ công trình. Công đoàn Tổng Công ty chỉ đạo Công đoàn cơ sở tham gia với chuyên môn tạo điều kiện về trang thiết bị máy móc và tư vấn về kỹ thuật, giúp cho họ có khả năng tự tạo việc làm, thu hút thêm lao động xã hội. Vấn đề này đã phát huy tối da tiềm năng trong công nhân lao động, tạo điều kiện cho người lao động làm giàu một cách chính đáng.
Qua khảo sát 50/122 đội công trình trong đó có 7/50 đội công trình theo sáng kiến thành lập của Công đoàn đều làm ăn có hiệu quả thu hút 200 lao động phổ thông và gần 50 lao động ngoài Công ty. Thu nhập của người lao động tương đối ổn định bình quân (750.800 - 900.000đ/người/tháng), đồng thời các chế độ chính sách của người lao động được đảm bảo.
Hiện nay toàn Tổng Công ty có 122 Công đoàn bộ phận, 109 tổ Công đoàn. Mạng lưới đoàn viên Công đoàn được tổ chức chặt chẽ, việc làm này đã giúp cho Công đoàn Tổng Công ty trong việc xây dựng các phương án phát động phong trào thi đua trong lao động sản xuất có hiệu quả, nâng cao được chất lượng đoàn viên. Đảm bảo được thông tin 2 chiều giữa đoàn viên với Công đoàn và Công đoàn với đoàn viên, nắm bắt kịp thời những khiếm khuyết trong hoạt động phong trào, giải quyết việc làm cho người lao động.
Chương 3
Kết luận và khuyến nghị
3.1. Kết luận.
Việc làm và giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường hiện nay đang là vấn đề bức xúc đòi hỏi mọi người, mọi Doanh nghiệp, đặc biệt là tổ chức Công đoàn phải có giải pháp cụ thể. Giải quyết tốt vấn đề việc làm là thực hiện tốt các mối quan hệ xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài "Thực trạng về việc làm và giải pháp tham gia giải quyết việc làm của Công đoàn Tổng công ty nhằm nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho công nhân lao động" có thể đánh giá những mặt mạnh, tồn tại và nguyên nhân của tồn tại như sau :
3.1.1 Mặt mạnh cảu Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 trong việc tham gia giải quyết việc làm.
- Thứ nhất: Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 đã tham gia có hiệu quả trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, các đề xuất, ý kiến của Công đoàn được chuyên môn đánh giá cao, được áp dụng vào thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Cụ thể là tham gia đánh giá lại các công trình dở dang, tham gia kiểm tra mày móc thiết bị thi công, tham gia tổ chức thực hiện thi công. Kết quả Tổng công ty đã đầu tư gần 30 tỷ đồng mua sắm máy móc thiết bị mới phục vụ cho thi công và đấu thầu.
- Thứ hai: Công đoàn tham gia bố trí lại lao động, sử dụng lao động hợp lý, giải quyết lao dộng dôi dư nhằm giúp Tổng công ty sử dụng hợp lý lao động, phân công đúng người đúng việc, phát huy tính tích cực trong hoạt động quản lý nhân lực, nâng cao hiệu quả công việc. Công tác tham gia của Công đoàn được chuyên môn đánh giá cao và được người lao động tin tưởng nhiệt tình ủng hộ. Kết quả trong công tác phân loại lao động, tổng công ty đã củng cố lực lượng lao động hùng hậu, phục vụ cho thi công kỹ thuật cao, đáp ứng với nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành. Đồng thời, Công đoàn tham gia giải quyết việc làm cho lao động dôi ra 220 lao động và giải quyết 2071 lao động xã hội của năm 2003.
- Thứ ba: Tham gia đào tạo nâng cao trình độ người lao động đáp ứng kịp thời với đổi mới công nghệ, nhờ công tác tham gia của Công đoàn lực lượng lao động Tổng công ty đã tăng cả chất lượng, số lượng. Năm 2003 đã đào tạo được 122 người có trình độ đại học, cao đẳng và 119 người có trình độ công nhân kỹ thuật, tham gia lập kế hoạch đào tạo đảm bảo nguồn nhân lực cho chiến lược phát triển của Tổng công ty và các công ty thành viên, tạo việc làm ổn định cho cán bọ công nhan viên chức.
- Thứ tư: đã thành lập được Xí nghiệp công trình, các dịch vụ giải quyết việc làm cho lao động trong Tổng công ty và thu hút lao động xã hội. Qua các xí nghiệp, dịch vụ tạo điều kiện cho Công đoàn bám sát cơ sở hơn trong việc thực hiện các phong trào thi đua.
- Thứ năm: Công đoàn tham gia với chuyên môn trong việc lập quỹ giải quyết việc làm cho công nhân lao động, nâng cao thu nhập phát triển kinh tế gia đình. Kết quả từ năm 1999 đến nay, Công đoàn cùng với chuyên môn giải quyết cho vây được 280 hộ với 36 dự án và tạo được việc làm cho 250 lao động không có nghề nghiệp.
*Nguyên nhân mặt mạnh
Công đoàn thống nhất được với chuyên môn trong việc xây dựng quy chế làm việc giữa Công đoàn với chuyên môn, phát huy được thế chủ động trong công tác tham gia quản lý của công đoàn.
- Công tác tham gia của Công đoàn được Ban lãnh đạo Tổng công ty đồng tình ủng hộ, tạo mọi điều kiện về vốn và kỹ thuật để Công đoàn hoạt động kinh tế.
- Công đoàn xây dựng được đội ngũ cán bộ có tinh thần trách nhiệm, năng động, tâm huyết với công việc được quần chúng tín nhiệm. Cán bộ công đoàn từ Tổng công ty đến cơ sở đều có trình độ, hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ nên đã phát huy rất tốt trong công tác tham gia chuyên môn.
3.1.2 Những tồn tại.
Bên cạnh những mặt đã đạt được trong công tác tham gia quản lý, giải quyết việc làm cho công nhân lao động của Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 còn một số tồn tại sau:
Thứ nhất: công tác tuyên truyền cho công nhân lao động về các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, của Công đoàn cấp trên đều chưa tập trung sâu rộng. Phát động các phong trào thi đua thường kéo dài, việc nắm bắt tình hình đánh giá hiệu quả của các phong trào chưa cao. Các cơ sở chưa thuyết phục được đông đảo công nhân lao động tham gia. Hiện nay còn một số các đội tại vùng sâu, vùng xa và các đơn vị thi công tại Lào chưa nắm bắt kịp thời làm giảm hiệu quả hoạt động của Công đoàn.
Thứ hai: Tham gia giải quyết việc làm thông qua các dịch vụ như xưởng sửa chữa, xí nghiệp cung ứng vật tư, dịch vụ tắc xi hiệu quả chưa cao cụ thể lương của công nhân lao động làm việc tại các dịch vụ này chỉ bằng 60 đến 65% so với các đội công trình.
Thứ ba: công tác tham gia quản lý thực sự chưa có hiệu quả và chưa có biện pháp kiên quyết, công khai hoá trong việc phân phối lợi nhuận, lập quỹ giải quyết việc làm cho công nhân lao động.
Thứ tư: năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ Công đoàn chưa thực sự giỏi về mọi mặt nhất là đối với cán bộ tổ Công đoàn và Công đoàn bộ phận nên việc tham gia với chuyên môn chưa đạt hiệu quả.
*Nguyên nhân mặt yếu:
- Công tác tuyên truyền giáo dục tổ chức tập huấn cho công nhân lao động, mở rộng các dịch vụ còn chưa phổ biến mà chỉ tập trung ở một số dơn vị có tiểm lực kinh tế mạnh. Việc đảm bảo quyền lợi ở một số cơ sở còn thực hiện chưa được tốt. Cụ thể như việc trả lương theo quý và 2 tháng/1 lần vẫn còn phổ biến ở một số đơn vị.
- Đội ngũ cán bộ tuy có trình độ, tâm huyết với nghề nhưng đôi khi hoạt động chưa được bài bản, do một số cán bộ Công đoàn từ chuyên môn chuyển sang nên chưa có trình độ đại học.
- Do đặc thù sản xuất kinh doanh nên các công trình có tính chất phân tán, có những công trình vùng xa hoặc bên Lào. Do vậy việc thông tin đến với đoàn viên còn chậm, việc phát động các phong trào chưa được đồng đều.
- Công tác tuyên truyền giáo dục chỉ tập trung từng đợt khi có sự kiên lớn, chưa quan tâm giáo dục cá biệt đối tượng đặc thù, chưa có biện pháp thu hút quần chúng hưởng ứng đặc biệt là các đơn vị công tác phân tán.
- Việc trả lương, thưởng, thực hiện chế độ chính sách chưa thực sự đựơc tốt đôi khi Công đoàn chưa thể hiện chính kiến của mình trong việc bảo vệ quyền lợi cho công nhân lao động.
- Hoạt động Công đoàn ở một số còn hạn chế, tính chủ động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, phương pháp hoạt động chưa có hiệu quả nên vị thế của Công đoàn cơ sở đó chưa ngang tầm với phong trào công nhân hiện nay.
3.1.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng tham gia giải quyết việc làm cho công nhân lao động của Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8.
Công đoàn Tổng công ty đã nhân thức đúng đắn các nội dung, phương pháp tham gia giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho công nhân lao động
Trong quá trình thực hiện đòi hỏi cán bộ Công đoàn phải tích cực năng động, chủ động có những ý kiến tham gia, đề xuất tập trung vào các nội dung trọng yếu, lựa chọn thời gian thích hợp với những vấn đề người lao động đang quan tâm.
Biết tranh thủ giúp đỡ tạo điều kiện của các cấp chính quyền kết hợp chặt chẽ với chuyên môn trong công tác thực hiện. Giải quyết việc làm cho công nhân lao động phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng với mọi người. Trong khi tham gia tuyển dụng phải quan tâm đến các đối tượng và đặc biệt coi trọng chất lượng lao động từ đó tham gia với chuyên môn bố trí, sắp xếp sử dụng lao động hợp lý, phân công đúng người, đúng việc đảm bảo cho đội ngũ công nhân lao động ổn định việc làm, không xáo trộn trong tổ chức.
Cán bộ Công đoàn phải có trình độ trong việc tham gia với chuyên môn mới có hiệu quả cao. Khi cán bộ Công đoàn có trình độ sẽ am hiểu lĩnh vực chuyên môn ngành nghề của đơn vị mình, từ đó phối hợp với chuyên môn trong việc xây dựng và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc làm cho công nhân lao động.
Hệ thống tổ chức Công đoàn Tổng công ty đến cơ sở phải có sự thống nhất, phối hợp đồng bộ chặt chẽ đảm bảo thông tin kịp thời trong việc triển khai thực hiện các phong trào thi đua và tham gia xây dựng các chủ trương chính sách của Nhà nước. Qua đó phát huy thế mạnh của tổ chức Công đoàn và khắc phục những mặt còn hạn chế trong công tác thực hiện.
Trong cơ chế thị trường như hiện nay đòi hỏi tổ chức Công đoàn ngoài việc bảo vệ lới ích cho người lao động thì Công đoàn phải năng động trong những hoạt động kinh tế không những mang lại nguồn thu cho kinh phí mà còn chủ động trong việc thành lập các quỹ giúp đỡ công nhân lao động trong lúc khó khăn phần nào đảm bảo được đời sống và tạo việc làm cho người lao động.
3.1.4. Phương hướng tham gia giải quyết việc làm.
Căn cứ vào chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho toàn dân.
Thực hiện quyết định số 126/QĐ - TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mục tiêu, chương trình Quốc gia giải quyết việc làm đến năm 2005.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội công nhân viên chức của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 lần thứ 12 đã đề ra phương hướng cụ thể.
Từ tình hình thực trạng về việc làm của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 đã phân tích ở trên. Với tinh thần phát huy nội lực tính chủ động và năng lực của các Công ty thành viên. Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của Tông công ty để giải quyết việc làm cho người lao động từ nay đến 2006 Tổng công ty phấn đấu đến hết năm 2004 sẽ có 8/16 Công ty đạt giá trị sản lượng trên 200 tỷ đồng. Để Tổng công ty có giá trị sản lượng trên 2000 tỷ đồng.
Về lao động phấn đấu tạo đủ việc làm cho số lao động Tổng công ty hiện nay. Tuyển dụng mới từ 200 - 300 lao động, mỗi năm tạo thêm việc làm cho 2400 đến 3000 lao động xã hội. Đưa tổng số công nhân lao động của Tổng lên 5000 người. Giữ mức thu nhập bình quân (1000.000 - 1.500.000) đ/người/tháng.
Trên cơ sở phương án, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đề ra của Tổng công ty, Công đoàn tham gia các phương hướng giải quyết việc làm.
- Công đoàn Tổng Công ty xúc tiến các đơn vị cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm, đề ra các tiêu chuẩn chung để đánh giá các đơn vị trong việc giải quyết việc làm. Từ đó có những thống nhất để phân loại các Doanh nghiệp thuộc Tổng. Đồng thời tiến hành điều tra, đánh giá tình hình thất nghiệp tại các đơn vị, trên cơ sở đó phát động các phong trào xóa đói, giảm nghèo tại cơ sở kiếm thêm công việc như: Mở dịch vụ, lập quỹ tạo cho người có đủ việc làm để đảm bảo mức thu nhập từ 1000.000 đồng trở lên và giúp đỡ cho con em lao động có việc làm.
- Khuyến khích công nhân lao động tăng cường lương khoán, lương sản phẩm, xây dựng quy chế trả lương hợp lý, khuyến khích công nhân lao động học tập rèn luyện nâng cao tay nghề trình độ kỹ thuật chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi về vốn, tư vấn kỹ thuật cho công nhân lao động có khả năng tạo việc làm và tự giải quyết việc làm.
- Tăng cường tham gia với chuyên môn mở rộng liên doanh, liên kết trong khối xây dựng cơ bản trong nước và nước ngoài để tăng thêm sức mạnh trong cạnh tranh và trong đấu thầu xây dựng cơ bản tạo ra nhiều cơ hội về việc làm cho người lao động.
- Đẩy mạnh công tác hợp tác lao động với nước ngoài và các dịch vụ khác hướng dẫn các hộ gia đình gặp khó khăn lập các dự án làm tín chấp cho công nhân, lao động vay vốn từ ngân sách để giải quyết việc làm và phát triển kinh tế gia đình.
- Phối hợp với chuyên môn thực hiện và xây dựng các chế độ tiền thưởng như thưởng đảm bảo chất lượng, thưởng sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất trong việc tìm kiếm việc làm. Thưởng cá nhân có tay nghề giỏi nhằm tạo động lực kích thích sản xuất, phát triển tiếp cận với công nghệ thi công tiên tiến.
- Đẩy mạnh việc Công đoàn làm kinh tế và tổ chức các dịch vụ khác góp phần làm tăng thêm việc làm, tăng ngân quỹ cho hoạt động Công đoàn. Đây cũng là cơ hội cho đội ngũ cán bộ Công đoàn tiếp cận với cơ chế thị trường.
- Đẩy mạnh việc lập quỹ giải quyết việc làm phấn đấu đến năm 2005 quỹ Công đoàn vượt trên 750 triệu đồng.
- Khuyến khích công nhân lao động tích cực học tập nâng cao trình độ, phấn đấu đến năm 2008 có 100% cán bộ Công đoàn được đào tạo chính quy (Hiện nay có khoảng 65% được đào tạo chính quy còn lại là chuyên ngành kỹ thuật).
3.1.5. Giải pháp của Công đoàn tham gia giải quyết việc làm.
Giải quyết việc làm là vấn đề trọng tâm của Tổng Công ty và bức xúc trong công nhân lao động. Để thực hiện tốt phương hướng đề ra Công đoàn Tổng Công ty đã có văn bản việc thực hiện về việc làm, đời sống công nhân lao động gửi tới các cơ sở, đồng thời Công đoàn Tổng Công ty cũng kết hợp với chuyên môn đề ra các giải pháp cụ thể.
Thứ nhất: Tham gia, tổ chức thành lập và mở rộng các dịch vụ tạo việc làm cho người lao động.
+ Xí nghiệp xây dựng công trình Công đoàn: phấn đấu đạt giá trị xây lắp từ 2,5 - 5 tỷ đồng, thu hút thêm công nhân lao động vào làm việc tại xí nghiệp từ 35 - 50 người.
+ Chỉ đạo Công đoàn cơ sở trong việc tham gia mở dịch vụ sửa chữa từ 5/16 cơ sở lên 8/16 cơ sở có dịch vụ sửa chữa, tạo việc làm cho 100 - 150 lao động.
+ Đối với Xí nghiệp cung ứng vật tư: Được thành lập năm 1997 đến nay đã hoạt động ổn định. Tạo được việc làm cho 220 lao động. Công đoàn cần tham gia chuyên môn mở rộng các phân xưởng sản xuất, không chỉ phục vụ trang thiết bị phòng hộ cho Tổng công ty mà mở rộng phạm vi các doanh nghiệp thuộc ngành. Phấn đấu nâng cao thu nhập từ (700.000 - 900.000) đ/người/tháng. Thu hút thêm từ 20 - 30 lao động mới.
Thứ hai: Tham gia đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động: Công đoàn Tổng công ty chỉ đạo Công đoàn cơ sở nắm bắt tình hình biến động về lao động của đơn vị mình. Thông qua đó đề ra các giải pháp đào tạo cụ thể:
+ Tham gia đào tạo lại số lao động có tay nghề cũ, không thích hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và thi công công trình cần phải đào tạo lại mới để có việc làm.
+ Tham gia đào tạo mới cho lực lượng lao động chưa có tay nghề, chiếm 11,4%, đây là lực lượng cần phải đào tạo.
Thứ ba: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách có liên quan đến người lao động và việc làm.
+ Thực hiện tốt công tác chăm lo bảo vệ lợi ích cho người lao động: Khám sức khỏe định kỳ, vệ sinh an toàn lao động, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người lao động.
+ Công đoàn tham gia với chuyên môn về chế độ chính sách đối với số lao động có độ tuổi 45 - 50, sức khỏe yếu, không đảm nhiệm được công việc đang làm. Giải quyết cho nghỉ hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp chờ hưu. Khi thôi việc Công đoàn và Doanh nghiệp có trách nhiệm tài trợ về vốn ban đầu để người lao động có thể tự tạo việc làm cho phù hợp với sức khỏe.
+ Tích cực chỉ đạo Công đoàn cơ sở kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ chính sách có liên quan đến người lao động như: Thỏa ước lao động tập thể, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội.
+ Công đoàn tổ chức điều tra nắm vững tình hình về lao động, người có việc làm, số chưa có việc làm, tình hình đời sống, thu nhập. Từ đó các Công đoàn cơ sở có trách nhiệm lập báo cáo gửi Công đoàn Tổng Công ty để đề ra các biện pháp xử lý thông tin kịp thời có hiệu quả.
Thứ tư: Tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, vận động công nhân lao động góp vốn, góp nhân lực và khai thác sử dụng tối đa tiềm năng trong sản xuất thi công tại các đơn vị.
Xây dựng các chương trình công tác phù hợp với tình hình của từng đơn vị. Bố trí sắp xếp lao động phù hợp với yêu cầu của sản xuất các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh các kế hoạch đề ra. Trong quá trình đổi mới công nghệ phải có lực lượng lao động phù hợp, đồng thời phải giải quyết tối thiểu lao động dôi ra do bố trí lại dây chuyền thi công.
Các đơn vị phải báo cáo định kỳ 3 tháng một lần về tình hình lao động, việc làm, đời sống công nhân lao động cho Công đoàn Tổng Công ty.
Thứ năm: Tham gia nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu Công đoàn cần làm tốt công tác:
- Xây dựng định mức chi phí: Nguyên vật liệu, nhân công, máy móc thiết bị.
- Thống kê máy móc thiết bị và nhân công.
- Xây dựng phương án thi công.
3.2. Khuyến nghị
Qua phân tích thực trạng về việc làm tại Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8, tôi có một số ý kiến đề xuất sau:
3.2.1. Đối với Tổng công ty.
Trong cơ chế thị trường việc các Doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường nhằm tránh rủi ro, tạo nhiều việc làm cho người lao động nâng cao thu nhập là điều kiện để phát triển Doanh nghiệp.
Một là: Tăng cường việc mở rộng thị trường, tạo nhiều việc làm cho công nhân lao động: Đây là vấn đề cần thiết, cấp bách đối với Tổng công ty.
Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 đã có 39 năm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Sản phẩm chủ yếu là các công trình giao thông như đường, cầu, cống, bến bãi, đường sân bay. Tuy nhiên ở thị trường này là chưa đủ trong khi Tổng công ty có đủ điều kiện để bước vào thị trường xây dựng các công trình chung cư, cao ốc.
Thực tế cho thấy dân số nước ta vẫn giữ ở mức độ tăng cao, hàng năm nhu cầu về nhà ở rất lớn, Nhà nước có xu hướng mở rộng khu vực đô thị, dãn dân. Việc mở một thị trường sang khu vực này của Tổng công ty rất hợp lý. Đây là cơ hội tạo nhiều việc làm cho công nhân lao động. Bởi vì máy móc thi công hiện nay của Công ty đều có thể phục vụ xây dựng nhà: Máy ủi, máy trộn bê tông, xe vận tải... Tuy nhiên để thực hiện được Tổng công ty cần đầu tư thêm một số máy móc chuyên dụng như: máy cần trục dài, máy đầm bê tông. Bên cạnh việc đầu tư thiết bị Tổng công ty càn mở rộng phân xưởng sản xuất tấm Panel. Việc mở rộng phân xưởng này Tổng công ty hoàn toàn thực hiện được. Tổng công ty có đội ngũ công nhân thợ lành nghề: thợ nề, thợ bê tông, công nhân kỹ thuật có nhiều năm trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
+ Tổng công ty đào tạo hoặc tuyển dụng một số cán bộ có trình độ xây dựng nhà: kỹ sư xây dựng, kiến trúc sư, kế toán nhằm phục vụ cho việc lập dự án và thiết kế thi công công trình. Khi tuyển dụng cần chú trọng cán bộ có trình độ, tay nghề cao. Vì đây được coi như bước đầu gia nhập thị trường nên công việc cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng, tiến hành thi công phải đảm bảo chất lượng và quy cách kỹ thuật. Từ đó nâng cao uy tín của Tổng công ty đối với chủ đầu tư, và khẳng định vị trí của Tổng công ty trong xây dựng công trình nhà.
Hai là: Mở rộng các dich vụ hiện có để thu hút thêm lao động.
Mở rộng các dịch vụ để giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập là thực tế khách quan. Song việc mở rộng dịch vụ phải đảm bảo hoạt động có hiệu quả mới là vấn đề đòi hỏi các Công ty có dịch vụ này cần phải quan tâm. Hiện nay, Tổng công ty có 16 đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập. Trong đó có 6/16 Công ty có phân xưởng sửa chữa. Phần lớn các Công ty vẫn phải bù lỗ. Bởi vì các phân xưởng hoạt động có quy mô nhỏ, chủ yếu sửa chữa các thiết bị thi công của Công ty, chưa chú trọng sang lĩnh vực sửa chữa các phương tiện phục vụ cá nhân (ô tô, mô tô). Trong khi đó chỉ tính riêng khu vực Hà nội hiện nay số mô tô chiếm 2/3 trên tổng số dân, nhu cầu sửa chữa rất lớn. Do vậy hoạt động của các xưởng sửa chữa chưa có hiệu quả cao. Số lao động làm việc tại xưởng thường được hưởng lương do Công ty trả theo ngành bậc.
Để phân xưởng hoạt động có hiệu quả, Tổng công ty cần chỉ đạo các đơn vị có phân xưởng. Đầu tư thiết bị, mở rộng xưởng sản xuất sang lĩnh vực nêu trên. Đồng thời tiến hành thực hiện khoán gọn để nâng cao trách nhiệm và thu nhập đội ngũ thợ làm việc tại các xưởng. Tạo điều kiện về vốn, thiết bị, khuyến khích các đơn vị thành viên mở rộng phân xưởng và tăng số phân xưởng tại các đơn vị chưa có dịch vụ này.
Đối với việc vay vốn từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm: Hiện nay Công đoàn Tổng công ty vẫn chưa vay từ nguồn vốn này. Đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, đồng thời được đưa vào chương trình giải quyết việc làm của Chính phủ nhằm giúp cho mọi người tạo việc làm. Nếu chỉ dựa vào nguồn Quỹ trợ cấp của Tổng công ty và nguồn kinh phí từ quỹ Công đoàn cho công nhân, lao động vay làm kinh tế thì chưa đủ, vì vậy Công đoàn Tổng công ty cần có tổ chức cho công nhân, lao động vay từ nguồn quỹ này.
3.2.2. Đối với Nhà nước, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn ngành Giao thông vận tải Việt Nam.
Ngành giao thông vận tải hoạt động rộng khắp đất nước, các công trình thi công phân tán, địa hình đi lại khó khăn, nhiều đơn vị lại hoạt động tại Lào. Nên việc triển khai các phong trào nhằm tăng năng suất, thi thợ giỏi... gặp rất nhiều khó khăn, thời gian tổ chức phong trào thường kéo dài, thiếu tập trung nên hiệu quả không cao.
Việc định biên cán bộ Công đoàn chuyên trách: nhiều đơn vị khi ký được hợp đồng xây dựng bắt đầu thành lập công trình hoặc đội công trình có từ 50 - 200 công nhân lao động, kéo dài từ 1 - 3 năm. Hoạt động lại xa địa bàn của Công ty trực thuộc (vùng sâu, xa hoặc tại Lào) thông thường được một cán bộ bán chuyên trách là kỹ thuật viên công trình (đội trưởng hoặc đội phó). Nhiệm vụ chủ yếu của họ là thực hiện các công tác chuyên môn nên hoạt động Công đoàn ở một số đơn vị này chưa thực sự tha thiết với tổ chức. Do đó việc phát động các phong trào gặp rất nhiều khó khăn.
Để gắn bó trách nhiệm của cán bộ Công đoàn thực sự là chỗ dựa của người lao động. Tổng liên đoàn cần có các quy định cụ thể đối với từng doanh nghiệp trong việc quy định chuyên trách và bán chuyên trách nhằm tạo ra động lực hoạt động Công đoàn đúng với chức năng và nhiệm vụ của tổ chức, là nguồn động viên, khích lệ công nhân lao động hăng say làm việc.
Hiện nay số vốn dùng cho sản xuất kinh doanh được Nhà nướ đầu tư toàn ngành giao thông là 900 tỷ đồng. Trong khi đó Tổng công ty lại có năng lực sản xuất từ 800 - 1000 tỷ đồng với số vốn trên được phân bổ cho toàn ngành thì Tổng công ty chỉ đảm bảo năng lực sản xuất từ 400 - 600 tỷ đồng. Để thực hiện năng lực sản xuất trên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn, tạo điều kiện mở rộng đầu tư cho các Doanh nghiệp. Trên cơ sở tạo nhiều cơ hội việc làm cho công nhân lao động.
Tài liệu tham khảo
[1] : Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 155.
[2] : Luật công đoàn Việt nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1990, chương 2, điều 5 mục 3.
[3] : Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 156.
[4] : Các Nghị quyết hội nghị lần thứ V, BCH TW Đảng khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 57.
[5] : Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội 1992.
[6] : Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 155, 156.
[7] : Điều 14, Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt Nam NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994.
[8] : Chương 2, điều 7 Luật công đoàn Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1990.
[9] : Văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX, NXB Lao động, Hà Nội 2003, trang 79.
[10] : Văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX, NXB Lao động, Hà Nội 2003, trang 82.
[11] : Báo cáo tổng kết nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.
[12] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[13] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[14] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[15] : Báo cáo của Ban chấp hành Công đoàn Tổng công ty khoá IX, tại Đại hội Đại biểu lần thứ 10 ( Nhiệm kỳ 2003-2008).
[16] : Văn phòng Tổng công ty.
[17] : Văn phòng Tổng công ty.
[18] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[19] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[20] : Phòng Vật tư thiết bị Tổng công ty.
[21] : Báo cáo Tổng kết Công đoàn Tổng công ty năm 1999.
[22] : Văn phòng Công đoàn Tổng công ty.
[23] : Báo cáo của Ban chấp hành Công đoàn Tổng công ty khoá IX, tại Đại hội đại biểu lần thứ 10 ( Nhiệm kỳ 2003-2008).
[24] : Phòng Vật tư thiết bị Tổng công ty.
[25] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[26] : Phòng Tổ chức lao động Tổng công ty.
[27] : Phòng Tài chính kế toán Tổng công ty.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0059.doc