Phần mở đầu.
Chúng ta đang sống trong một thời kì có nhiều biến động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,ở từng nước, từng khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Đã quá lâu rồi thời kì mà lịch sử “bò lên phía trước ”một cách chậm chạp,các quốc gia có thể sống biệt lập, các dân tộc có thể sống tách rời nhau. Điều quan trọng là mỗi quốc gia dân tộc mà trước hết là mỗi Đảng cộng sản cần phải biết mình đang sống trong giai đoạn lịch sử , với những đặc điểm gì,những mâu thuẫn cơ bản gì,vời
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xu hướng phát triển ra sao để chọn hướng đi đúng,phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử,để định ra sách lược cho đất nước mình. Với lời cánh báo lịch sử thông qua sự xụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa,đó là do tình trạng trì trệ,khủng hoảng do chậm nhận ra nhứng khuyết tật của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội,do chậm tiến hành cải tổ cải cách,do chủ trương cải tổ sai lầm,do không vận dụng tốt những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ. Vì thế nên tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần,trình độ kinh tế ngày càng tụt hậu về phía sau trong cuộc đọ sức về kinh tế với Chủ nghĩa tư bản. Nằm trong hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa,Việt Nam đang thực hiện quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, từ nhận thức sâu sắc về lí luận cũng như nắm bắt kịp thời thời đại mới Việt Nam bắt tay vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước(1986). Bằng những sách lược hợp lí nước ta đã giành được những thành tựu đáng khả quan sau 15 năm đổi mới. Như tại đại hội Đảng IX đã khẳng định:””. Điều đó cũng có nghĩa là nghiên cứu phân tích nền kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ ,sự vận động,phát triển không ngừng của nó. Do vậy phải vận dụng quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mac – Lenin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn nghiên cứu quan điểm sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được những mặt xấu,.những mặt sai lầm từ nên kinh tế các nước khác và trên hết là vận dụng những kinh nghiệm của nó vào quá trình xây dựng nền kinh tế nước nhà. Bởi vậy việc tìm hiểu quan điểm đó là hết sức cần thiết đối với những nhà quản lý nói chung ,những sinh viên và đặc biệt là đối với sinh viên chuyên nghành kinh tế.
Do sự có hạn của thời gian và tầm nhìn còn hạn chế của sinh viên năm thứ nhất,ở bài viết này em xin đề cập đến một khía cạnh của sự vận dụng hai nguyên lý. Đó là quan điểm phát triển với việc xem xét nó trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Với bài tiểu luận này em xin được nêu và đánh giá về cơ sở lí luận cũng như phản ánh thực tế của quan điểm qua 15 năm đổi mới(1986 - 2000)cùng với những chiến lược kinh tế trong những năm đầu thế kỉ XXI.
B.phần nội dung.
Để hiểu rõ quan điểm phát triển với việc xem xét nó trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam như thế nào. Ơ đây tôi xin được trình bày dưới hai chương viết với mục đích : chương đầu làm cơ sở lý luận ,làm tiền đề cho chương sau nghiên cứu hiên trạng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới coi như là cơ sở thực tế của đề tài.
Chương 1. Quan điểm phát triển
1.Sự phát triển và nguồn gốc của nó theo quan điểm triết học.
1.1.Các khái niệm
a)vận động
Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. sự biến đổi chuyển hoá này là vô cùng,vô tận với những khuynh hướng và tính chất khác nhau. Có những biến đổi làm cho sự vật hiện tượng mới ra đời,nhưng cũng có những biến đổi dẫn đến sự tan rã tiêu vong của các vật thể vật chất,hoặc cái lạc hậu thay thế cái tiến bộ v.v…Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi biến hoá nói chung,dù nó có tính chất,khuynh hướng và kết quả thế nào.
b)phát triển
Khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận động đi lên,cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều hướng,từ thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp,từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau.
1.2.Quan điểm phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật chỉ cho chúng ta: muốn thực sự nắm được bản chất sự vật và hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phải phát hiện các xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vât ở những thời điểm khác nhau trên trục quá khứ – hiện tại – tương lai. Như ta đã biết vận động đi lên sẽ là khuynh hướng thống trị (xét trên phạm vi lớn ). Và phát triển không phải là vận động theo đường thẳng mà chỉ là xu hướng vận động tiến lên. xoay quanh xu hướng đó, sự vận động có thể diễn ra theo các véc tơ ngược chiều nhau, đó chính là sự thống nhất biện chứng giữa biến cố tất nhiên – tính xu hướng của vận động trong quá trình với biến cố ngẫu nhiên – tính vô định hướng của vận động tại một thời điểm. Mặc dù tại mỗi thời điểm vân động có thể là vô định song ta có thể mô hình hoá tính đa dạng của véc tơ vô định ấy vào ba nhóm: vận động tiến hoá, vận động cân bằng, vận động thoái hoá (ngược với xu hướng tiến hoá). Quan điểm như thế cho phép ta hình dung sự phát triển là xu hướng tự vạch đường đi xuyên qua muôn vàn sự tiến bộ đào thải và loại bỏ.
.2 Nguồn gốc của sự phát triển
Lê- nin có viết:”phát triển là một cuộc ‘đấu tranh ’giữa các mặt đối lập”. Qua đó ta có thể thấy rằng nguồn gốc của sự phát triển đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng,mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong . Mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt,của các thuộc tính,các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại ràng buộc với nhau tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà ,còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong giới tự nhiên,đời sống xá hội và tư duy của con người. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng mà tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chúng . Không có sự vật hiện tượng,nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoan nào trong sự phát triển của mỗi sự vật,hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt,những thuộc tính, những khuynh hướng …trái ngược nhau trong mọt chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập,mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập ,đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn , bài trừ lẫn nhau,đối lập,trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên kể cả tinh thần xã hội. Theo quan điểm của phép biện chứng ,sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó,vừa là cái khác với bản thân nó. Trong sự thống nhất đã bao hàm sự khác nhau sự đối lập. Trong mỗi mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì ,đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này không nằm yên bên cạnh nhau, chúng luôn luôn đấu tranh với nhau. Khái niệm “đấu tranh ”được Lê - nin đặt trong dấu ngoặc kép, vì vậy không nên hiểu khái niệm “đấu tranh” theo một nghĩa đơn giản . Khái niệm “đấu tranh”giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ nhau phủ định nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoan. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đo biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiên chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới được hình thành cùng với mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế cho sự vật cũ. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đã làm cho cá sự vật không thẻ tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giũa các mựt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động phát triển. Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên,tương đối của các sự vật hiện tượng. Còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vật hiện tượng. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiện tượng trong thế giới vật chất. Lê - nin khẳng định:”sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Nghiên cứu sự phát triển ta phải gắn liền với việc tìm ra nguồn gốc của nó, đó là cái nền tảng cái cốt lõi của vấn đề. Như trình bày ở trên đó là những cơ sở khi nghiên cứu quan điểm phát triển. Sự phát triển thống trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống,vậy nó thể hiện như thế nào trong kinh tế.
3) Quan điểm phát triển trong kinh tế
Đối với một nền kinh tế, xu hướng tăng trưởng tự vạch đường đi biểu hiện xuyên qua cá thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy hoặc là nó đang ở trạng thái tương đói ổn định (tổng cung = tổng cầu) hoặc là mở rộng sản xuất (tổng cung tổng cầu). Cứ mỗi khi nền kinh tế nền kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái nếu nó không đủ sức vượt qua đến thời kì phục hồi để tăng trưởng về sau thì nó sẽ bị đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo chính để thiết lập lại một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy, vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải,loại bỏ ,nhưng phát triển từ thấp lên cao , từ đơn giản đến phức tạp ngày càng hoàn thiện hơn. cho nên nguyên tắc phát triển đòi hỏi:
Trong việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước đòi hỏi phải dự báo được xu hướng vận động của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời dự báo được xu hướng vận động của các sự kiện , các lĩnh vực có liên quan như:
Xu hướng chính trị xã hội
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ
Xu hướng tiêu dùng của dân cư
v.v…
Mọi xu hướng là mọi nguồn lực đòi hỏi phải xắp xếp sao cho không nhữnh không triệt tiêu nhau, mà còn tạo nên véc tơ tổng hợp lực thúc đẩy nền kinh tế đến các mục tiêu mong muỗn.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu kinh tế , nguyên tắc phát triển đòi hỏi nhà nghiên cứu phải quan niệm mục đích của nghiên cứu là dự báo . Bất kì một công trình nghiên cứu kinh tế nào hay một quan điểm kinh tế nào cũng chỉ thực sự có giá trị khi nó chỉ ra được xu hướng của sự vận động của đối tượng ngiên cứu trên cơ sởkhảo sát đánh giá các trạng thái tồn tại của nó trong hiện tại và trong quá khứ.
Chương 2. Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam từ góc nhìn quan điểm phát triển
1)Nguồn gốc, tiền đề,động lực cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đó là do sự vận động bên trong của quá trình kinh tế. Giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản suất và quan hệ sản suất trong phương thức sản suất. Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, Đại hội Đảng IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Trong những năm 1976 – 1980 trên thực tế, chúng ta chủ chương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đã lỗi thời. Đại hội lần thứ năm cùng với việc khẳng định lại nhiệm vụ chiến lược,đã cụ thể hoá một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, những chính sách lớn về kinh tế – xã hội, nhưng chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ chương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lí kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản suất và đầu tư, thường chỉ suất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lí, chưa sử dụng hiệu quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong năm năm 1976- 1980, đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản suất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và xắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều mà kết quả lại thấp.
Trên cơ sở xác định lại bước đi của công nghiệp hoá,đại hội V chủ chương trong năm năm 1882- 1985 vừ phát triển vừa xắp xếp lại xản suất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế – xã hội, ổn định đời sống nhân dân tạo tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hoá.
Nhưng chúng ta đã không thự hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội lần thứ V . Nông nghiệp vẫn chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản suất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về khâu tổ chức, đầu tư chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn là hầu như không sắp xếp lại cơ sở sản suất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lí, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu vật tư có hạn vào những cơ sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản suất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng cơ bản tuy đã đình hoãn một số công trình lớn tập trung vào một số trọng điểm, nhưng về căn bản vẫn chư điều chỉnh hợp lí, không kiên quyết hoãn những công trình chưa thật cấp bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. các địa phương các nghành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng nhất quán quan điểm chủ chương và chính sách cải tạo công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá ít chú ý những đặc điểm về tính chất của từng nghành, từng nghề, để lựa chon hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã qua mô lớn không tính đến khả năng trang bị kĩ thuât, trình độ quản lí và năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết những vấn đề tổ chức quản lí và chế độ phân phối làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả; sau những đợt làm nóng vội lại buông lỏng. Do đó không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ chức sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới.
Việc chưa xắp xếp lại các nghành và các cơ sở sản xuất, chậm thay đổi cơ chế quản lí kinh tế đã dẫn tới làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế tập thể chậm được củng cố, hạn chế việc sử dụng và caỉ tạo các thành phần kinh tế khác. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán chư được mở rộng , ít tiến bộ về tổ chứcvà phương thức kinh doanh để làm chủ thị trường ;một bộ phận bị lôI cuốn vào những hoạt động tiêu cực, tuồn hàng cho tư thương. Thương nghiệp tư nhân chậm được cải tạo. Chúng ta cũng chưa đánh trúng và nghiêm trị bon đầu cơ, buôn lậu, bọn địch phá hoại thị trường.
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tảitong một thời gian tương đối dài, chư nắm vẵng và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Về cơ chế quản lí cho tới trước công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách,thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế mới còn chắp vá, không ăn khớp thậm chí tráI ngược nhau. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức vô kỉ luật cũng khá phổ biến.
Việc chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lí, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới. Một số người và cơ sở đã lợi dụng những sơ hở của cơ chế quản lí để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, còn nội dung , hình thức, bước đi, cách làm cụ thể, thì còn nhiều vấn đề chưa giảI đáp được thoả đáng cả về lí luận và thực tiễn.
Rõ ràng chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lí, lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm. Cho nên lúc bấy giờ phải khắc phục ngay cả hai khuynh hướng: bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới; và nóng vội, giản đơn, muốn giảI quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.
Suốt những năm trước đổi mới lĩnh vực phân phối, lưu thông luôn căng thẳng rối ren. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã dành nhiều thời giờ vào công việc này, nhưng các giải pháp đưa ra chyưa thực sự có hiêu quả. Tình hình như vậy là hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trước hết, đó là những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, và trong cảI tạo xã hội chủ nghĩa, là tác hại của của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều năm trong quản lí kinh tế, dãn tới sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt. trong lúc đó lại chưa cảnh giác đầy đủ, thiếu những biện pháp ngăn chặn những phần tử xấu phá hoại. Chúng ta chưa có chính sách cơ bán về tài chính gắn liền với chính sách không đúng đắn về giá cả, tiền tệ – tín dụng, tiền lương. Nhà nước không điều tiết đúng mức thu nhập của tư thương, không tước đoạt những nguồn thu bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia, chưa tập trung những nguồn thu quan trọng vào ngân sách và phân phối đúng các nguồn vốn, vật tư hàng hoá trong tay. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao cấp và trong một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng các nguồn vốn vay và viện chợ kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần nguồn vốn từ bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. tất cả các cái đó gây ra thâm hụt ngân sách, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lam phát trầm trọng.
Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền đã phạm sai lầm . thiếu biện pháp đồng bộ có hiệu quả để nhà nước nắm được hàng và tiền. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lí giá, về định mức lương và quản lí quỹ lương, về đổi tiền và bước đi trong việc điều chỉnh giá, lương, tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo , không phù hợp với tình hình thực tế.sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lí kinh tế trong những năm trước đổi mới.
Phát triển kinh tế đi đôi với việc phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng sự thay đổi của các nền văn minh, từ văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và hiện nay loài người đang tiến tới nền văn minh trí tuệ. Công bằng mà nói, tiếp cận, đánh giá sự phát triển xã hội từ nền văn minh trí tuệ, từ hoạt động sáng tạo năng động của con người, từ sự phát triển của khoa học, công nghệ điều đó hàm chứa những giá trị nhất định. Song những giá trị ấy không thể thay thế được lí luận về sự vận động sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà Mác đã xây dựng. Ngược lại, nó chỉ bổ sung làm sáng tỏ hơn lí luận của Mác trong thời đại phát triển công nghệ hiện nay. Triết học Mác nhấn mạnh rằng sự phát triển xã hội, xét đến cùng, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó cơ bản nhất là con người đang sống và lao động sản xuất. Cái khác nhau cơ bản của nền sản xuất không phải không phải ở chỗ người ta sản xuất ra cái gì mà là người ta sản xuất bằng cái gì và tiến hành sản xuất như thế nào. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản xuất. Song sự phát triển của lực lượng sản xuất không thể nằm ngoài quan hệ sẩn xuất. Tuyệt đối hoá lực lượng sản xuất để coi thường hay phủ nhận quan hệ sản xuất sai lầm. Cái đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất, cái kìm hãm, xiềng xích lực lượng sản suất cũng là quan hệ sản xuất. Bản thân lực lượng sản xuất mới chỉ biểu hiện con người với tự nhiên:thể hiện khả năng và sức mạnh to lớn của con người trong cải tạo thế giới khách quan. Nhưng con người trong bản tính của mình là con người xã hội. Con người hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu lợi ích của mình, đó là con người tự nhiên; song sự việc thoả mãn được thực hiện đến đâu, bằng phương pháp gì …đó lại là vấn đề xã hội, thông qua các quan hệ kinh tế xã hội. Mặt khác trong quá trình cải tạo tự nhiên, lao động sản xuất, con người không được tự do tuỳ tiện. Họ bị chế ước bởi những quan hệ kinh tế – xã hội nhất định. Triết học Mác nhấn mạnh con người trong lao động sản xuất và trong cuộc sống của mình không thể với tư cách một sinh vật cô đơn vô sản và không quan hệ. Ông đã gọi quan hệ người với người trong quá trình lao động sản xuất là quan hệ sản xuất. Ông nhấn mạnh rằng, chính cái quan hệ ấy đã làm nên cái khác nhau căn bản giữa chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Nếu lực lượng sản xuất vận động không ngừng nhờ một quá trình liên tục thì quan hệ sản xuất hiện ra như một sự đứt đoạn để qua đó người ta thấy được tính chất xã hội mỗi thời kì của nền sản xuất là khác nhau. Như thế đánh giá sự phát triển xã hội phải căn cứ vào mức độ tiến bộ của quan hệ sản xuất là cơ bản từ đó đanhs giá xem xét toàn bộ hình thái kinh tế – xã hội. Đến lượt nó cái tiến bộ tiên tiến của quan hệ sản xuất phải lấy tiêu chuẩn khách quan là nó có giải phóng được lực lượng sản xuất hay không …nói cách khác, nnó có kích thích được tính năng động của con người được hay không và qua đó năng xuất lao động có tăng lên không ngừng không. Lẽ đương nhiên người ta không thể lấy kinh tế làm chỉ số duy nhất để đánh giá sự phát triển của xã hội đồng thời người ta cũng không thể vội vàng muốn có phát triển xã hội bằng cách đặt ra quan hệ sản xuất tiên tiến, mở đường đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất. Làm như vậy trái với quy luật kinh tế – xã hội mà Mác tìm ra. Sự phát triển của xã hội bao giờ cũng là quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải là quá trình chủ quan, duy ý chí.
2) Công cuộc đổi mới kinh tế Việt nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển
2.1) Nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới đánh giá qua các kì Đại hội
Đất nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Bản thân thời kì quá độ này cũng đánh giá sự phát triển của xã hội . Đành rằng đó chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, song nó dứt khoát không phải là mô hình xã hội , nó đã vượt qua và đang ở trong quá trình hoàn thành nốt sự vượt qua đó. Báo cáo chính trị Đại hội IX khẳng định, mục tiêu lý tưởng của cách mạng, đồng thời cũng nói rõ chúng ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Nói như thế để thấy được chúng ta đang ở đâu, đang ở trình độ nào để có sách lược đúng. Nước ta còn nghèo lực lượng sản xuát còn kém phát triển , nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất, phát huy của tất cả các thành phần kinh tế , huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật – chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , không nên lấy mục tiêu xa để áp đặt bắt thực tiễn phải khuôn theo khi chưa có đủ điều kiện.
Báo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ :”con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,nhưng kế thừa tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ,để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại ”. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải là chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian cho nên tất yếu phải trải qua một thời kì quá độ lâu daì, với nhiều chặng đường nhiều hình thức tổ chức kinh tế , xã hội có tính chất quá độ.
Như chúng ta đều biết từ Đại hội VI Đảng ta đề ra chủ chương cho phép sử dụng nhiều thành phần kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần để giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản suất. Công cuộc đổi mới nền kinh tế năm 1986 như một bước ngoặt to lớn của nền kinh tế nước nhà. Bước ngoặt ấy thực sự phù hợp với quan điểm phát triển. Hội nghị Trung ương khoá VI (tháng 3-1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ VI khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chỉ nghĩa do các Đại hội IV,V Đảng đã xác định. Tập trung trí tuệ toàn Đảng, toàn dân, Đại hội VI tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo phong phú của các nghành các cấp và các đơn vị cơ sở giải quyết một số vấn đề lí luận và thực tiễn, phát triển đường lối và nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Đại hộiVI như một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng cả về lí luận và thực tiễn. ý nghĩa lịch sử của Đại hội VI là đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội từ những năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước thoát khỏi tình trạng đó.
đến đại hội Đảng VII ta tiếp tục nói rõ chủ chương hội nghị VI đề ra và khẳng định đây là chủ chương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cương lĩnh của Đảng khẳng định:”phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước ”. Nhưng trong lúc đó mới chỉ nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chưa chính thức dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Sự nghiệp đổi mới kinh tế đang đi đúng theo quỹ đạo của quan điểm phát triển mà Mac- Lênin đã vạch ra. Tổng kết hai năm thực hiện Đại hội VI nền kinh tế phát triển khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản, đó là những căn cứ để đẩy nền kinh tế tới một bước cao hơn. Đại hội VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống nhất hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lí của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng xác định, ở nước ta có năm thành phần kinh tế :kinh tế Nhà nước ,kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã ,kinh tế tư bản Nhà nước ,kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội Đảng IX quyết định bổ xung thêm một thành phần kinh tế nữa đó là kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài.
Vấn đề phát triển kinh tế trước hết từ bản thân nó, từ những mối quan hệ cơ bản của nó. đó không phải là vấn đề tìm ở trên trời mà ngay dưới mặt đất ngay trong cuộc sống thực tại. Theo Mác ông đã coi sự phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Đây là một tư tưởng vĩ đại. Sự vận động, phát triển xã hội chỉ chịu sức ép, chịu sự quyết định từ chính quy luật bên trong của nó, mà cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; và quy luật về sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở ha tầng đã sinh ra nó. Đó là những quy luật của lịch sử, những quy luật có tính tự nhiên không tuỳ thuộc vào ý muốn con người và không thể bác bỏ xuyên tạc. Song mặt khác, những quy luật đó cũng lại là những quy luật xã hội chỉ được thực hiện qua chính hoạt động của con người. Cần phải hiểu luận đề trên một cách biên chứng, qua đó, thấy được sự thống nhất giữa liên tục và đứt đoạn, giữa tiệm tiến của sự phát triển. Con đường phát triển ấy không phải thẳng tắp mà dích dắc , bao gồm cả nhưng bước thụt lùi. Song, xuyên qua tất cả những ngẫu nhiên, những phức tạp ấy , thì sự phát triển xã hội vẫn là dòng chảy chủ đạo trong lịch sử. Mac đã vạch ra động lực thực sự thúc đẩy sự phát triển xã hội, những nguyên nhân bên trong gây nên sự biến đổi về mặt xã hội. Chính ông đã tìm ra nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội. ĐI xa hơn ông tìm ra mâu thuẫn trong cái nền tảng ấy tức mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Chính nhờ có máau thuẫn ấy, xã hội đã tạo cho mình khả năng vận động và phát triển, như thế sự phát triển xã hội bắt nguồn từ sự vận động phát triển của sản xuất vật chất xã hội. Muốn phát triển xã hội, trước hết người ta cần phát triển sản xuất, người ta không thể không chu ý giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn ấy lại không thể tự thân giảI quyết như quy luật tự nhiên mà phải thông qua hành động của con người, của xã hội.
Xuất phát từ cơ sở lí luân cũng như thực tiễn Đại hội IX của Đảng đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội hà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35266.doc