Mục lục
Trang
A. Mở đầu.
B. Nội dung.
I. Cơ sở.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Lý luận về con người.
1.2. Lý luận về nguồn nhân lực.
2. Cơ sở thực tiễn.
II. Thực trạng.
1. Thực trạng về nguồn nhân lực.
1.1 Thành công đạt được.
1.2 Mặt hạn chế.
2. Thực trạng về giáo dục đào tạo.
1.1. Thành công đạt được.
1.2. Mặt hạn chế.
III. Các kiến nghị đề xuất.
1. Giải pháp cho vấn đề.
1.1. Các giải pháp.
1.2. Tham khảo một số chính sách phát triển nguồn nhân lực ở một số nước.
1
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Con người & vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1. Chính sách giáo dục ở Mỹ.
1.2.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực và đào tạo ở Đông Nam á.
2. ý kiến cá nhân
C. Kết luận.
D. tài liệu tham khảo.
A. Mở đầu ( Giới thiệu đề tài)
“Không có đầu tư nào mang lại nguồn lực lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục.” Garry Becker (người Mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992) đã khẳng định như vậy.
Thật vậy, trong 5 yếu tố tạo nên sự giàu có của một quốc gia: máy móc, tài nguyên, phương pháp hay công nghệ, nhân lực, tiền vốn và nhà quản trị thì nguồn nhân lực vẫn giữ vai trò quyết định. Các nước muốn phát triển nền kinh tế thì phải phát huy tốt nguồn nhân lực. Và đặc biệt, đất nước ta đang tiến bước trên con đường Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, để bắt kịp các nước phát triển trên thế giới thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn được đưa lên hàng đầu, luôn được quan tâm. Vì Đảng vầ Nhà nược ta biết rằng phát triển và khai thác tốt nguồn nhân lực con người thì chúng ta mới có thể khai thác nguồn lực khác tốt hơn để phát triển toàn diện đất nước.
Chính vì tất cả những lý do trên, tôi dã chọn đề tài “ con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.” Tôi hy vọng rằng thông qua tiểu luận này mình có thể góp một phần vào sự nghiệp “ trăm năm trồng người” mà Bác đã dạy.
b. Nội dung.
I. cơ sở.
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lý luận về con người .
Chúng ta là một con người? Đúng vậy, nhưng để hiểu được con người là gì thì thật khó. Các nhà triết học có rất nhiều khái niệm về con người nhưng nhìn chung những nhà bác học trước Mác đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên- sinh học mà không thấy được mặt xã hội của đời sống con người. Và triết học Mác đã kế thừa quan niệm con người trong lịch sử triết học. Và ông đã khẳng định “ con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội”.Con người là sản phẩm tự nhiên của kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Nhờ có quá trình lao động mà con người ngày càng hoàn thiện. Con người chỉ tồn tại khi con người tiến hành lao động. Và cũng chính lao động qui định tính xã hội của con người. Con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên.
Với tư cách là con người xã hội , con người đã tạo ra của chất bằng sản xuất. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người tác động lại tự nhiên, ngự trị tự nhiên, sử dụng tự nhiên để phục vụ cuộc sống xã hội của con người. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hôị. Bằng hoạt động sản xuất con người đã sáng tạo ra toàn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần.
Như vậy, con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội. Con người là thực thể thống nhất sinh học – xã hội. Ngoài ra, xuất phát từ hiện thực, Mác đã nhận thấy vai trò quyết định của lao động để phân chia con người và động vật. Do lao động là một hoạt động xã hội cho nên sự khác biệt giữa con người và động vật là kết quả trong hoạt động sử dụng con người trong xã hội . Vì vậy, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tóm lại, bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bản thân con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể. Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
1.2. Lý luận về nguồn nhân lực.
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Ngân hàng thế giới cho rằng : nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người ( thể lực, trí lực, kĩ năng... ) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong sản xuất và kinh doanh hay trong một hạot động nào đó.
Qua cách hiểu khác nhau, chúng ta có thể hiểu nguồn nhân lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất tinh thần, đạo đức, phẩm chất..... tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong những hoạt động của xã hội.
Xét về mặt triết học, vai trò của nguồn lực con người được xem vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình kinh tế – xã hội.
Với tư cách là chủ thể trong quan hệ với nguồn nhân lực tự nhiên và các nguồn lực khác, nguồn lực co người là chủ thể của việc khai thác. Chính nhờ nguồn lực con người với sức lực và trí lực của mình làm cho nguồn lực tự nhiên và nguồn lực khác được khai thác và phát huy hiệu quả. Với tư cách là khách thể, nguồn lực con người trở thành đối tượng khai thác, sử dụng, đầu tư và phát triển.
Khi xét về nguồn nhân lực chúng ta phải xét trên cả hai mặt số lượng và chất lượng .Số lượng là qui mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính..... Chất lượng bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề.....
Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ và tác động vào xã hội. Và dặc biệt trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn được đặt lên hàng đầu, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Trong các kì Đại hội Đảng đều liên tục đề cập đến vấn đề này và trong Đại hội Đảng IX, Đảng ta cũng đã khẳng định “ phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa, là điều để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” (Cương lĩnh Đại hội Đại biểu lần IX)
2. Cơ sở thực tiễn.
Đẩy mạnh CNH- HĐH và phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện cách mạng khoa học – công nghệ có những biến đổi nhanh chóng như ngày nay được coi là phương thức cơ bản. CNH- HĐH là quá trình tạo ra những chuyển biến về chất theo hướng tích cực và hiện đại trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã khẳng định: “ CNH- HĐH là quá trình biến đổi căn bản, toàn diện và hoạt động kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại , dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Kinh nghiệm các nước đi trước và thực tiễn nước ta 20 năm đã chứng minh rằng, CNH- HĐH diễn ra nhanh hay chậm, đạt được hiệu quả cao hay thấp là do sự qui định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu là tùy thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực.
Thực vậy, nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng và ngày càng phát triển toàn diện hơn. Ngày nay, khi tất cả các nguồn lực khác đang ngày một hao mòn thì nguồn nhân lực vẫn tồn tại và đang phát triển mạnh mẽ. Điều này được thể hiện rất rõ :
Thứ nhất, sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, những thành tựu của khoa học công nghệ phát triển và công nghệ là trung tâm. Nhưng sau đó do các mâu thuẫn về thiết bị sản xuất và cách tổ chức lao động, nhiều xí nghiệp tự động hóa tỏ ra yếu kém. Và từ những năm 1990 trở đi, việc áp dụng khoa học công nghệ đòi hỏi người có trình độ cao. Đó chính là nguyên nhân làm nảy sinh triết lý coi con người là trung tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, kinh nghiệm các nước trong khu vực đã chỉ ra rằng sự tăng trưởng với tốc độ cao về kinh tế trong những thập kỷ qua gắn chặt với chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người. Nhờ biết cách đầu tư phát triển và khai thác ngồn nhân lực mà các nước nghèo về kinh tế, tài nguyên, kiệt quệ sau chiến tranh trở thành những nước mới rút ngắn thời gian CNH. Chẳng hạn, sự tăng trưởng kinh tế trong vòng 25 năm (1965-1990) của Hàn Quốc là rất đáng khâm phục. Từ một nước nghèo nhất thế giới trở thành nước có nền công nghiệp phát triển và là một trong những nước Công nghiệp mới hùng mạnh nhất về mặt kinh tế của thế giới thứ ba mà tài sản lớn nhất của đất nước chỉ là những người dân cần cù và có trình độ.
Như vậy, ta thấy rằng quá trình CNH- HĐH và phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. CNH- HĐH phát triển tạo điều kiện để tạo điều kiện để đào tạo nguồn nhân lực. Còn nguồn nhân lực con người là yếu tố quyết định, thể hiện:
+ Thứ nhất, con người là chủ thể của quá trình CNH- HĐH.
+ Thứ hai, con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội.
+ Thứ ba, con người là động lực cơ bản nhất của quá trình CNH- HĐH.
ở yếu tố thứ hai, nguồn nhân lực là lực lượng sản xuất hàng đầu nhưng phải là lực lượng có chất lượng cao.
Bài học của các nước phát triển trên thế giới cho thấy để thực hiện thành công quá quá trình cải biến về chất toàn bộ nền sản xuất và đời sống xã hội thì phải phát triển nguồn nhân lực. Mà theo “ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc” (UNDP) có 5 nhân tố phát năng của sự phát triển nguồn nhân lực: giáo dục và đào tạo,sức khỏe dinh dưỡng, môi trường, việc làm, giải phóng con người. Những nhân tố này gắn bó tùy thuộc lẫn nhau, trong đó giáo dục đào tạo là cơ sở quan trọng nhất, chi phối các nhân tố khác. Do vậy, trong mối quan hệ với CNH- HĐH, giáo dục đóng vai trò là tiền đề, tiên quyết, có ý nghĩa cực kì quan trọng. Nó không chỉ là động lực của quá trình CNH- HĐH mà còn là cơ sở cho sự phát triển bền vững. Giáo dục bao gồm giáo dục phổ thông và giáo dục bậc cao. Nền giáo dục phổ thông có chức năng tạo nên mặt bằng dân trí tối thiểu làm cơ sở nền tảng cho đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình CNH- HĐH. Kinh nghiệm các nước đi trước trong quá trình CNH- HĐH cho thấy muốn đạt tới trình độ cao hơn nhất thiết phải dựa vàp nền giáo dục. Chẳng hạn từ nền văn minh công nghiệp tiến lên nền văn minh trí tuệ mặt bằng đó phải là trung học phổ thông hoàn chỉnh. Như vậy, giáo dục đầo tạo với chức năng bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực của nó là một trong những con đường cơ bản để tạo nên sức mạnh nội sinh của đất nước, phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH .... Nó là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, với tinh thần dân tộc với công nghệ tiên tiến của thế giới.
II. thực trạng của nguồn nhân lực và giáo dục ở nước ta hiện nay.
1. Thực trạng về nguồn nhân lực.
1.1. Những thành tựu đạt được.
Thực tế nước ta đã chứng minh được nguồn nhân lực được đánh giá là sức mạnh siêu quốc gia, có tính quyết định trong cạnh tranh kinh tế, thiết lập trật tự kinh tế thế giới mới. Con người được đặt vào vị trí của sự phát triển.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “nguồn lực quan trọng nhất để páht triển CNH- HĐH là con người.” Vì thế, nhờ có chính sách phát triển mà nguồn nhân lực nước ta đã có những bước tiến đáng kể.
Trong những năm gần đây, nhờ thực hiện hậu quả các chương trình kế hoạch hóa dân số cho nên tốc độ tăng trưởng bình quân của nước ta đã giảm dần. Năm 1989, tốc độ tăng trưởng dân số là 2,17% nhưng đến năm 1999 con số này là 1,77%, đến năm 2002 là 1,32% và đến năm 2003 dân số nước ta chỉ tăng 1,18%.
Ngoài ra, dân số nước là dân số trẻ. Trẻ em 0- 16 tuổi chiếm 47% tổng số dân. Nhiều nhà kinh tế thế giới cho rằng dân số Việt Nam “có cơ cấu vàng” Năm 1999, dân số nước ta là hơn 76 triệu người trong độ tuổi lao động đã xấp xỉ 43,5 triệu người ( chiếm 57,1%) Như vậy, số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn nửa tổng số dân. Nước ta có một nguồn lao động dồi dào.
Khi xét đến nguồn lực con người, chúng ta không chỉ xét trên góc độ số lượng và cả chất lượng. Theo tạp chí Cộng Sản : Trước hết, chúng ta xét đến chỉ số phát triển con người (HDI) . Trong những năm qua, HDI phát triển tương đối nhanh và liên tục. Năm 1995, Việt Nam mới đứng thứ 7/10 trong khu vực Đông Nam á, 35/50 khu vực châu á và 122/175 nước trên thế giới được xếp theo HDI thì đến năm 2001 đã vượt lên 6/7 ở khu vực Đông Nam á, 23/26 ở châu á và 109/130 trên thế giới. Có được thành công trên là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam liên tục tăng, nhất là năm 2003, đạt 7,24% được xếp vào một trong 15 nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới. Báo cáo phát triển con người năm 2003 của chương trình phát triển , Liên hiệp quốc (UNDP) nhận định : “Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo và phát triển con người trong thập kỉ qua, phần lớn kết quả đạt được bắt nguồn từ tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao ” Về chỉ số giới: phụ nữ chiếm khoảng 50,8% số dân và 52% lực lượng tham gia lao động. Về sức khỏe: do được tanưg cường về y tế ( cả nước có 863 bệnh viện, tăng 13,3%, 928 phòng khám đa khoa khu vực, tăng 56,6%.....) nhờ mà tỉ lệ tử của trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 4,604% thời kì 1984- 1989 nay con tỷ lệ 4,86%, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam liên tục tăng đến năm 2000 đạt 67,8 tuổi , chỉ số tuổi thọ của ngươid Việt Nam tương đương với tuổi thọ trung bình của người Thái Lan và cao hơn tuổi thọ bình quân của người Indonexia, ấn Độ, Campuchia, Lào và Mianma. Về việc làm: tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động vào hàng cao nhất trên thế giới . Năm 2002, 85% nam trong độ tuổi từ 15- 60 và 80% nữ trong độ tuổi lao động cùng tham gia vào hoạt động kinh tế.
Có được những thành công đó là do Đảng và Nhà nước ta có những chính sách đúng đắn , quan tâm đúng mức.
1.2. Mặt hạn chế.
Trước những đòi hỏi của quá trình CNH- HĐH, con người Việt Nam vẫn bộc lộ những mặt hạn chế cần phải giải quyết.
Trước tiên, phải kể đến thể lực con người. Đó là tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi. Đây là một vấn đề nghiêm trọng và nếu không được giải quyết tốt thì ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước ta sau này. Đánh giá tổng quát về sức khỏe của người Việt Nam thì tình trạng sức khỏe của nhân dân ta đa số thuộc loại trung bình, đạc biệt là loại yếu(14- 21%) Đó là do công tác y tế vẫn còn hạn chế như tốc độ tăng bệnh viện thấp hơn tốc độ tăng dân số , gây tình trạng quá tải bệnh viện, sự bất cập trong vấn đề phân bố cán bộ y tế tuyến vùng, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng phần lớn ở nông thôn, vùng sâu vùng xa ( đặc biệt là những vùng công tác y tế kém phát triển)
rồi các bệnh lây nhiễm nguy hiểm như HIV/AIDS ..., các bệnh truyền nhiễm (SARS), dịch bệnh....
Thứ hai, phải nói đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.Đất nước ta dân số tăng nhanh, mặc dù đã có những biện pháp tạo việc làm song khả năng giải quyết việc làm còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao.Năm 2001: 6,28% ; 2002: 6,01%.Cơ cấu lao động không đều cơ cấu nông lâm ngư nghiệp cao, dịch vụ – công nghiệp thấp . Sự chuyển dịch lao động từ các ngành nông- lâm -ngư nghiệp sang các ngành kinh tế khác còn chậm. Sự phân bố lao động còn không hợp lý. ở miền núi , vùng sâu vùng xa lại thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu trầm trọng lao động có tay nghề. Trong khi đó các thành phố lớn lại tập trung quá nhiều lao động có tay nghề, có trình độ cao. Điều này đã gây ra tình trạng lãng phí nơi này, thiếu hụt nơi khác. Do vậy mà gây ra tình trạng di dân từ vùng này qua vùng khác. Đặc biệt là ra tình trạng sự di dân ra thành phố kiếm việc làm. Tính từ năm 1995- 1999, đă có 1027000 người di cư ra thành phố lớn và những khu kinh tế trọng điểm. Từ năm 1986 đến nay, bình quân mỗi năm dân số Hà Nội tăng thêm 55000 người, trong đó 22000 người di dân (chiếm 40%).
Tại thành phố Hồ Chí Minh số lao động làm việc theo thời vụ vào thành phố kiếm việc làm gia tăng rất nhanh, khoảng 70000 người/ năm. Chính sự di dân gây ra nhiều vấn đề vấn đề bức xúc, nan giải như tốc độ dân thành thị tăng nhanh làm quá tải. VD: Hạ tầng xã hội,khó khăn trong việc quản lý, ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội.
Ngoài ra, còn có tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân có kĩ thuật thiếu do giáo dục và đào tạo chưa đạt hiệu quả cao.
2. Thực trạng về giáo dục đào tạo.
2.1. Những thành tựu đạt được.
Nhờ những chính sách, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo nên trong những năm qua đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta đã có những bước phát triển quan trọng.
+ Về qui mô, tính đến năm 2003, cả nước có 124 trường đại học và cao đẳng, 268 trường trung học, 220 trường dạy nghề và nhiều các cơ sở dạy nghề khác( trung tâm đào tạo nghề...) Nhờ đó mà mỗi năm nước ta có trên 150000 người tốt nghiệp đại học, cao đẳng, khoảng 12000 người tốt nghiệp trung cấp và trên 1 triệu công nhân được đào tạo nghề dưới nhiều hình thức khác nhau.
+ Về ngân sách giáo dục, với quan diểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, phần ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đào tạo tăng hàng năm từ 10% ngân sách trong những năm 1995- 1997 lên 14,5% vào năm 1999, 15% vào năm 2000. Phần chi thường xuyên trong ngân xáh giáo dục đào tạo về cơ bản đủ trả lương, các chế độ lương của đội ngũ giáo viên và học bổng của học sinh (phần thu ngoài ngân sách nhà nước trong những năm gần đây có tăng do mở rộng các loại hình đào tạo ngoài công lập ở các khu vực kinh tế phát triển). Nhà nước đang tăng dần tỷ trọng đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước từ khoảng 10% hiện nay, 20- 30% vào các năm tới.Và ngày càng nhiều cơ sở đào tạo ngoài công lập dưới hình thức khác nhauđược thành lập. Tính đến năm 2003, ở bậc đào tạo đaị học và cao đẳng, có 27 trường ngoài công lập, chiếm gần 21,7%. Số trường ngoài công lập đào tạo chính qui cả nước còn có 359 trung tâm đào tạo nghề và 634cơ sở dạy nghề, đa số trong đó là các cơ sở ngoài công lập (tư nhân hoặc bán công ). Đó là sự tăng lên về cơ sở đào tạo. Nhờ có sự thay đổi về lượng mà chất cũng tăng lên rõ rệt.
Đại hội Đảng lần thứ 9 đã tổng kết năm 2000, bảo đảm đại bộ phận trẻ em 5 tuổi được hưởng chương trình đào tạo mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho những người ở độ tuổi 15- 36, thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác, cơ bản hòan thành phổ cập tiểu học, phổ cập trung học ở các thành phố lớn, có các chính sách đảm bảo cho con em gia đình chính sách, nghèo đã được đi học, đoàn viên và giúp đỡ học sinh giỏi nhiều triển vọng. Mở cuộc vận động rộng rãi trong toàn dân, kiên quyết xóa bỏ nạn mù chữ và chống nạn thất học. Tỷ lệ số người biết chữ được tăng lên rõ rệt. Nếu trước đây chỉ có 5% thì đến năm 1996 đã là 94,2% và đến năm 96,42%. Tỷ lệ người tốt nghiệp cũng tăng. Năm 1996,tốt nghiệp bậc tiểu học là 27,8% thì đến năm 2000 là 30,02%. Tốt nghiệp cấp hai năm 1996 là 32,1% thì đến năm 32,7%. Tốt nghiệp cấp 3 là 13,5% (1996) và 17,58%(2000). Trong năm 2003, hệ thống các trường và các cơ sở đào tạo này cho trên 13000 người có trình độ Đại học, trên 8000 người có trình độ trung học và 8.000.000 công nhân kĩ thuật.
+ Về chỉ số giáo dục, năm 2001 chỉ số này đạt 0,83 bằng Malaixia và cao hơn Indonexia (0,8 ), Trung Quốc (0,79), Mianma (0,72) Campuchia (0,64) Lào (0,63).
Như vậy, ta thấy rằng chất lượng giạó duc của nước ta ngày càng tăng nhanh, do được nhà nước quan tâm đúng mức cộng thêm đời sống của nhân dân tăng nhanh, đảm bảo được nhu cầu ăn học, bố mẹ hiểu rõ và đặt tầm quan trọng của giáo dục nên đã tạo điều kiện cho con em được đến trường. Thêm vào đó phải kể đến truyền thống hiếu học, ham học hỏi của dân tộc ta.
2.2. Mặt hạn chế.
Bên cạnh những kết đạt được chúng ta còn nhiều mặt hạn chế. Người lao động, được đào tạo, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chất lượng đào tạo nói chung chưa cao điều này thể hiện trong hiệu cao làm việc, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, dịch vụ tạo ra.
+ Về số lượng, mặc dù có sự tăng nhanh nhưng so với yêu cầu thực tế thì vẫn chưa thể đáp ứng. Trong tổng lao động xã hội, số người được đào tạo nghề và chuyên môn vẫn chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ. Theo tạp chí Kinh tế và Phát triển năm 2000 chỉ có 15,5% số người lao đọng được đàp tạo, tỷ lệ vào năm 2002 là 17,1%. Với qui mô và tốc độ tăng như vậy chúng ta khó có thể đạt được chỉ tiêu về đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp mà Đại hội Đảng IX đã đề ra: “Nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.” Về cơ cấu theo cấp trình độ qua đào tạo cũng là một chỉ tiêu đánh giá tình hình đào tạo một quốc gia. ở các nước tiên tiến trên thế giới tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các cấp trình độ: Đại học/ Trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/4/10. Đối với Việt Nam vào cuối những năm 1990, tỷ lệ này 1/ 1,6/ 3,63. Năm 2002 tỷ lệ về quan hệ của 3 cấp vẫn là 1/1/3,65. Đây chính là sự mất cân đối và là một trong những nguyên nhân làm cho chúng ta không thể sử dụng hợp lý lao động theo cơ cấu cấp trình độ được. Tình trạng “thừa thầy thiếu thợ là một hiện thực làm gây lãng phí nhân tài.”
+ Về đào tạo công nhân kĩ thuật: tuy có tăng về mặt số lượng nhưng tình hình đào tạo vẫn chưa đạt được như mong muốn. Những công nhân được đào tạo chỉ là ngắn hạn, không chính quy. Năm 2002, trong số 1005000 người được đào tạo nghề chỉ có 146000 người được đào tạo nghề dài hạn (đạt 14,5%). Năm 2004, theo tổng cục dạy nghề thì cũng chỉ có 198000 chỉ tiêu dài hạn chính quy, xấp xỉ 17,3%.
Chính những nguyên nhân này khiến cho chất lượng làm việc kết quả không cao. Mặc dù, nước ta cũng đã cố gắng đầu tư cho giáo dục và cũng đã có sự tăng lên. Sự tăng lên này chỉ là so với trước đây. Còn so với trong khu vực thì còn thua xa. Năm 2002, đầu tư cho giáo dục- đào tạo bình quân của Thái Lan là 56USD, Malaixia là 162USD, Hàn Quốc là 225,3USD còn nước ta chỉ đạt 22USD.
Tính chung cả hai thời kỳ 1991- 2004 chi cho giáo dục- đào tạo nước ta chỉ chiếm 2,9% tổng chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Đây là 1 tỷ lệ thấp .
Điều này làm cho cả chất lượng lẫn số lượng đều giảm. Chất lượng đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam chỉ đạt 17,86/ 60 điểm, trong khi đó Singapo là 42,16 điểm, Hàn Quốc la 46,06 điểm, Thái Lan là 18,46 điểm, Philippin là 29,85 điểm .
Như vậy, giáo dục đào tạo vẫn còn có nhiều mặt hạn chế cần phải khắc phục. Khắc phục được những hạn chế này mới có thể phát triển nguồn nhân lực.
III. Các kiến nghị đề xuất.
1. Giải pháp cho vấn đề.
1.1. Các giải pháp.
Nhìn rõ về thực trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta để chúng ta phát hiện những mặt mạnh, khắc phục hạn chế những mặt yếu và đua ra các chính sách giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Chúng ta phát huy nguồn nhân lực trên hai khía cạnh:
+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật.
+ Nâng cao thể lực của người lao động.
Trước tiên, chúng ta phỉa giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật. Làm được điều đó phải làm tốt công tác giáo dục theo một trình tự từ xóa nạn mù chữ đến phổ cập, rồi cao hơn là đào tạo lao dộng có chất lượng cao, có thể sử dụng các công nghệ mới. Nắm bắt được điều đó, Đại hội Đảng IX đã nêu ra mục tiêu phương hướn của giáo dục đào tạo. Phải côi trọng cả ba mắt mở rộng, quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục đào tạo trong 5 năm tới là páh triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH. Xây dựng hệ thống các trường chuyên, trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Coi trọng việc dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông. ở vùng sâu, vùng xa hệ thống giáo dục còn chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, phải mở thêm các trường phổ thông nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số. Đặc biệt trong đó phải coi trọng giáo dục gia đình. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đaị học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo guồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Phát triển các hình thức giáo dục từ xa. Mở rộng hệ thống trường lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề. Trong khi tập trung sức xây dựng hệ thống trường công, cần có chính sách giúp đỡ, hướng dẫn phát triển và quản lý tốt các trường, lớp bán công, dân lập, tư thục. Khuyến khích dạy nghề tại doanh nghiệp. Phát triển đào tạo sau đại học, tăng số lượng đào tạo về sau đại học ở nước ngoài và tái các trung tâm đào tạo quốc tế ở trong nước. Khuyến khích du học tự túc. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giáo dục và sử dụng. Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa văn nghệ, quản lý kinh tế. Nhanh chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên của hệ thống hành chính các cấp. Đào tạo đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp giỏi. Nâng cap tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 10% hiện nay lên khoảng 22- 25%. Nâng cao kiến thức văn hóa nghề nghiệp cho phụ nữ, bồi dưỡng lực lượng cán bộ nữ. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình đào tạo, phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng. Nâng dần chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo động viên đúng mức sự đóng góp của mỗi nhà, mỗi người, đồng thời thu hút nguồn đầu tư từ cộng đồng, các giới trong và ngoài nước cho giáo dục đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Nhờ hợp tác giao lưu mà ta tiếp cận được với mô hình giáo dục tiên tiến, để vận dụng sáng tạo vào nước ta. Có chính sách tuyển cử đông đảo giáo viên, sinh viên đi học tập và nghiên cứu và làm việc ở nước ngoài, thu hút các gia sư nước ngoài vào Việt Nam giảng dạy để đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế. Phát huy trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Trên đây là một số những biện pháp để nâng cao chất kượng giáo dục trong bản báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội Đảng IX. Đó là nâng cao về mặt chuyên môn. Nhưng ngoài ra phải nâng cao thể hiện để chúng ta cá được nguồn nhân lực khỏe mạnh để bước vào xây dựng CNH- HĐH.
Như trong phần thực trạng đã nêu, nước ta gia tăng tự nhiên cao, tỷ lệ gia tăng này gây khó khăn về mặt sức khỏe, việc làm....... Vì vậy, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực con người đến năm 2010 của nước ta là: giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,1%, dân số cả nước không quá 88 triệu người, hạ tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh xuống còn 25%, tỷ lệ tử của mẹ có liên quan đến thai sản còn 70/ 100.000 trẻ sinh ra còn sống, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻdưới 5 tuổi xuống còn 25%, nâng cao tuổi thọ trung bình lên 71, nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo bồi dưỡng lên khoảng 40%, chỉ số HDI đạt từ 0,7- 0,75, chỉ số GDI đạt 0,7.
Để đáp ứng được mục tiêu đó, chúng ta phải các chính sách cho ngành y tế, các chính sách để đảm bảo sức khỏe. Tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình. Phát triển mạng lưới dịch vụ và kế hoạch hóa gia đình đến tận cơ sở, nhất là nông thôn, miền núi, hướng vào mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1- 2 con, để tiến tới ổn định quy mô trong nửa đầu thế kỉ sau. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nâng cao thể chất cho nhân dân. Tiếp tục củng cố hệ thống y tế nhà nước, đạc biệt là y tế xã, huyện. Mở rộng, đa dạng hóa, nâng cao chật lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sáoc sức khỏe. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý bệnh viện, kiện toàn hệ thống khám chữa bệnh đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các gia đìng chính sách, cho người nghèo. Tăng đầu tư của nhà nước kết hợp với tạo thêm nguồn kinh phí khác cho y tế như phát triển bảo hiểm, mở rộng hợp tác quốc tế. Khuyến khích và quản lý tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân của các tổ chức và cá nhân. Phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Xây dựng chính sách về quản lý và phát triển công nghiệp dược, thiết bị y tế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Có chính sách đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là ở những nơi khó khăn như vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đó là những vùng mà dịch vụ y tế còn kém phát triển. Vì thế thường xuyên xảy ra nhiều dịch bệnh và gây đến tử vong do cơ sở y tế không đáp ứng được nhu cầu cấp cứu tại chỗ. Do vậy, phải xây dựng cơ sở y tế để đáp ứng được yêu cầu của người dân ở đó. Cấp thuốc cho người dân và hướng dẫn họ cách phòng bệnh, cách vệ sinh để giữ gìn sức khỏe. Tìm các biện pháp ngăn chặn tình trạng xuống cấp trong ngành y tế từ cơ sở vật chất trang thiết bị đến chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ y tế. Chấn chỉnh việc thu và sử dụng viện phí chống tiêu cực trong dịch vụ y dược. Đề cao y đức “lương y như từ mẫu”. Đẩy mạnh công tác y học dự phòng. Thực hiện rộng rãi các biện pháp vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và công cấp nước sạch, phát triển phong trào thể dục thể thao sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh thiếu niên, tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang. Từng bước hình thành lực lượng vũ trang chuyên nghiệp. Phải thực hiện tốt các giải pháp trên thì chúng ta mới có thể tăng thể lực cho người Việt Nam, từ đó táo ra sức lao động mạnhvà có nguồn nhân lực phát triển cả về chất và lượng để phục vụ quá trình CNH- HĐH.
1.2. Tham khảo một số chính sách phát triển nguồn nhân lực ở một số nước.
1.2.1. Chính sách giáo dục ở Mỹ.
ưu điểm của chính sách giáo dục- đào tạo ở Mỹ là hệ thống giáo dục dược đầu tư rất cao. Tính theo tỷ lệ GNP thì ngân sách giáo dục Hoa Kỳ gần 7%. Năm 1960, ngân sách giáo dục chỉ là 5,3% GDP nhưng đến năm 1991 con số này lên tới 7%. Như vậy, ngành giáo dục cũng rất được quan tâm. Nhờ vậy, tỷ lệ người biêt chữ là trên 97%.
Trung tâm giáo dục của Hoa Kỳ không phải ở phổ cập mà là đặt ở bậc Đại học. Giáo dục cấp đại học là đầu tư cá nhân. Vì thế nó mở rộng cho những muốn học,có năng lực và có thể trang trải tiền hcọ phí cho bản thân. Vì vậy, chính quyền có chính sách cho vay vốn lãi xuất thấp để sinh viên có thể trang trải học phí. Chất lượng giáo dục: số lượng ngành và nội dung dạy ở các trường đại học, cao đẳng rất mới mẻ với rất nhiều môn học đa dạng và phong phú.
Phưong pháp giáo dục của Mỹ cũng rất giúp ích cho việc phát huy bản thân. Sinh viên ở đây được theo đuổi những gì mình thích mặc dù điều đó là mới mẻ và phi thức tế, điều đó đã phát huy tính sáng tạo của mỗi cá nhân.
Cơ hội làm việc rất cao. Vì ngay từ khi đi học, sinh viên đac tự rèn luyện tính tự lập, trở nên năng động. Ngoài ra, tấm bằng đại học ở Mỹ rất có giá trị, có thể tìm việc làm ở nhiều nơi, nhất là một số ngành thế mạnh của Mỹ.
Chính vì có những phương pháp giáo dục và cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành giáo dục và nghiên cứu mà Mỹ đã thu hút được nhiều chất xám của thế giới vì họ cảm thấy ở đây có nhiều cơ hội.
1.2.2. Một số chín._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0232.doc