Con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

I. PHÁT BIỂU VẤN ĐỀ Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất con người. Trước C.Mác, vấn đề bản chất con người chưa được giải đáp một cách khoa học. Khi hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH – HĐH) đã và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH như là "một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội". Việc đẩy mạnh công cuộc CNH - HĐH đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tinh tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, CNH - HĐH đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó. Đó cũng là lý do vì sao tôi chọn đề tài nghiên cứu “Con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Do kiến thức còn hạn chế về nhiều mặt nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong được sự đóng góp và bổ sung của TS. PHẠM VĂN SINH. Em xin thành cảm ơn! II. LUẬN CHỨNG LÝ DO CNH - HĐH là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" CNH - HĐH không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá tình CNH - HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình CNH - HĐH nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. CNH - HĐH là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh… Để thực hiện thành công quá trình CNH - HĐH đất nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc phục và phát triển nguồn nhân lực được. Trước tiên có thể thấy rõ nét ưu thế của nguồn lực con người Việt Nam đó là: lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao động), con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh, không quản ngại khó khăn gian khổ. Ngoài ra Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm phát triển nguồn nhân lực. Hàng loạt những nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã đề cập đến vấn đề đó, coi đó là một vấn đề rất quan trọng cần được chú trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững”. Tuy nhiên, bên cạnh nhưng ưu thế đó còn có những mặt hạn chế trong việc sử dụng cũng như đào tạo. Vì thế nó chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi và nhu cầu của công cuộc CNH – HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể: - Hạn chế về mặt chất lượng người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao động và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. - Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn. - Hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người, đề cao mặt xã hội, không quan tâm đúng mức đến nhu cầu vật chất, tài năng cá nhân chưa được coi trọng. - Đề cao quá mức tính giai cấp, không chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc. sự hiểu biết về tinh hoa văn hoá còn hạn chế. Điều đó gây ra những khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. - Tình trạng quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, các bậc học chưa hợp lý, việc đào tạo và sử dụng cán bộ còn nhiều bất cập. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4. Cấp viện trưởng là 55. Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên. Đó chính là tác động của mặt trái kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư cho giáo dục. Lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực lao động thì sự nghiệp CNH - HĐH khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động mỗi bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành tựu to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết "cách mạng con người" với CNH - HĐH là hai mặt của một quá trình phát triển thống nhất, giữa chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau. III. PHÊ PHÁN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUẬN SAI LẦM 1. Nguyên tắc “ tôn trọng quy luật khách quan” Theo nguyên tắc này “ mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể”. Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta đã nôn nóng tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX nên đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Tư tưởng chủ quan duy ý trí đã ăn sâu vào tiềm thức của những người thuộc thế hệ trước, họ hành động theo mong muốn, theo kinh nghiệm của mình chứ không xuất phát từ thực tế khách quan. 2. Nguyên tắc “phát huy tính năng động chủ quan” Phát huy tính năng động chủ quan thể hiện rất phong phú, đa dạng trong đó một số biểu hiện cơ bản của nó là: Phải tôn trọng tri thức khoa học Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng hành động Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam Đảng và Nhà nước ta khẳng định “ giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Định hướng thì như vậy xong thực tế nền giáo dục ở nước ta mang nặng tính lý thuyết, xa rời thực tế, học không đi đôi với hành, ngành giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển mạnh nguồn nhân lực cả về chất lượng và số lượng, trình độ khoa học công nghệ còn rất thấp kém, các ngành nghiên cứu KHCN được đầu tư không nhiều, chính phủ chưa thực sự chú trọng và tạo nhiều ưu đãi đối với các bộ phận, tổ chức phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực . . . Đây là những biểu hiện của việc chưa nhận thức đầy đủ nguyên tắc” phát huy tính năng động chủ quan” bởi từ việc nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc này đến việc hiện thực hoá nó còn là cả một vấn đề lớn đặt ra đối với Việt Nam. 3. Nguyên lý về sự phát triển: Phép biện chứng xây dựng nên khái niệm về sự phát triển, phát triển là sự biến đổi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng Thực tế ở Việt Nam cho thấy, cơ chế quản lý và sử dụng nhân công còn kém dẫn tới thực trạng người phải làm trái ngành, trái nghề là rất phổ biến vì cuộc sống vì sự tồn tại của bản thân mình và gia đình họ, chính sách tiền lương còn rất nhiều bất hợp lý giữa các ngành dẫn đến nhiều tình trạng tiêu cực trong các ngành có thu nhập thấp, đặc biệt là trong các cơ quan Nhà nước. Song với tâm lý của người Việt Nam là an phận, ngại va chạm, nể nang nhau, ỷ thế các mối quan hệ quen biết nên những mâu thuẫn trên vẫn âm ỷ tồn tại và chưa được giải quyết do đó nó kìm hãm sự phát triển. 4. Các nguyên nhân khác Ngoài ra còn rất nhiều các nguyên nhân khác dẫn đến thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta như hiện nay, ví dụ như việc quán triệt các chủ trương phát triển nguồn nhân lực và con người ở nhiều địa phương còn chưa thống nhất, mỗi địa phương lại có những cách thực hiện khác nhau vì thế đôi khi việc phát triển này không những không thu được kết quả mà còn gây ra nhiều trở ngại cho việc phát triển nguồn lực con người. . . . Trên đây là một số nguyên nhân chính gây nên thực trạng yếu kém trong việc đào tạo và sử dụng nguồn lực con người ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là giải pháp nào để xoá bỏ các rào cản nói trên để từng bước thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu CNH – HĐH ở Việt Nam hiện nay. IV. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta xác định phát huy nhân tố con người có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất. Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, về trình độ chuyên môn, về tay nghề, về phẩm chất đạo đức, về vị thế xã hội Vì vậy thực chất của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người và phát huy vai trò của nó cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước. Để phát huy vai trò nhân tố con người Đảng ta đã đề ra một số phương hướng giải quyết. 1. Chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa những tính chất ấy. Tri thức khoa học giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người vì nó là một trong những động lực phát triển của xã hội. Mọi bước tiến trong lịch sử nhân loại đều gắn liền với những thành tựu mới của tri thức khoa học. Ngoài ra, lực lượng lao động tay nghề cao đóng vai trò không nhỏ trong việc phát triển kinh tế xã hội nước ta. Do đó, chúng ta phải có chính sách đào tạo, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực sao cho hiệu quả. - Đào tạo con người tri thức, người lao động tay nghề cao. Hiện nay ở nước ta rất ít trường, trung tâm thực sự có chất lượng trong lĩnh vực đào tạo nguồn lao động cao cấp. Ngay cả công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cũng không được đào tạo có nền tảng mà chỉ được góp nhặt, chắp vá từ những lao động phổ thông được chủ doanh nghiệp cho đi bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ. Trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề mọc lên khắp nơi nhưng chương trình đào tạo không đáp ứng được mặt bằng kỹ thuật hiện tại, không theo kịp tiến độ phát triển công nghệ cao của thế giới. Vì vậy Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí đầu tư cho nguồn lao động cao cấp này, tạo điều kiện để đưa ra nước ngoài đào tạo nếu cần thiết. - Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Sử dụng hiệu quả lực lượng tri thức với các cơ chế, chính sách năng động. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. - Có chính sách phù hợp, thỏa đáng trong đầu tư phát triển công nghệ, đẩy mạnh liên kết trong đào tạo, sử dụng nhân lực... Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cho các khu công nghiệp là hết sức cần thiết và quan trọng. 2. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp. Đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo, liên kết 3 nhà: Nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp. Kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, giữa lý thuyết với thực hành, “học phải đi đôi với hành”. Trước tình trạng khan hiếm lao động chất xám, hệ thống giáo dục đào tạo yếu kém, lý thuyết xa rời với thực tế. Do đó, các trường học, trung tâm dạy nghề phải có chính sách kết hợp giữa lý thuyết và thực hành thực tế, giúp cho học sinh, sinh viên tiếp cận dần với thực tế. Các doanh nghiệp cần thiết lập mối quan hệ với các trường đại học, cao đẳng để tham gia ý kiến về nội dung, phương pháp đào tạo, kết hợp dạy lý thuyết và thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Đối với sinh viên mới ra trường cần phải có kế hoạch đào tạo, huấn luyện sâu hơn, toàn diện hơn theo mục đích và yêu cầu làm việc của từng doanh nghiệp, để phục vụ một cách tốt nhất cho công việc đã được giao. Đây chính là việc gắn kết giữa khả năng và hiện thực - cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Khả năng nào biến thành hiện thực là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Bởi vậy nếu thực hiện được các điều kiện, phương pháp trên thì khả năng chất lượng nguồn nhân lực nước ta nâng lên là hoàn toàn có thể trở thành hiện thực 3. Thu hút nguồn chất xám nước ngoài Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để khuyến khích thu hút nguồn lực nước ngoài vào Việt Nam qua các hình thức như: tư vấn, giảng dạy, làm việc... Cần có nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ lao động nước ngoài như ưu đãi về thuế, về nơi ăn, chốn ở..., cho phép thành lập các học viện, trường đại học, các viện nghiên cứu để đón kiến thức, kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang có hàng triệu Việt kiều, trong đó lượng chất xám rất cao. Một người là PGS.TS Phan Toàn Thắng, người đầu tiên phát hiện ra tế bào gốc màng cuống rốn, hiện đang công tác tại ĐH Quốc gia Singapore (NUS). Một người là GS.TS Nguyễn Quý Đạo, Giám đốc cao cấp danh dự của Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS) và là Giám đốc văn phòng đại diện trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp tại Việt Nam, người có 3 bằng sáng chế, trong đó phát minh máy quang phổ Raman rất phổ biến. Là những nhà khoa học Việt Nam có tên tuổi ở nước ngoài, hàng năm họ vẫn thường xuyên về VN đóng góp khoa học bằng những dự án hợp tác, giảng dạy, nghiên cứu. Họ đều chung quan điểm, Nhà nước cần tạo môi trường hợp tác, cần “cởi trói” cho các nhà khoa học để có thể phát huy hết tiềm lực trí thức. (Nguồn: Do đó, Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ nhân tài, xây dựng các đề án các chương trình hợp tác, khuyến khích nhà khoa học thương mại hóa chất xám… Cùng với việc đầu tư vào giáo dục, xây dựng các trường đại học chất lượng quốc tế để tăng cường khả năng công nghệ của quốc gia, Việt Nam vẫn cần tiếp tục kí kết các hợp đồng thuê khoán với các tập đoàn thế giới như IBM, Cisco, Intel, nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ. Giải pháp này thể hiện rõ nét việc quán triệt nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn. Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, phải chống lại quan điểm bảo thù, trì trệ. Trên cơ sở phân tích trình độ nguồn nhân lực ở nước ta và nhìn nhận, đánh giá trình độ nguồn nhân lực của các nước tiên tiến trên thế giới thì giải pháp thu hút, tận dụng các nguồn chất xám nước ngoài, từng bước phát triển nguồn nhân lực trong nước thể hiện một sự phát triển rất lớn trong nhận thức của các nhà hoạch định. 4. Chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong đội ngũ lãnh đạo Để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở ban hành tiêu chuẩn đối với từng vị trí chức danh thì giải pháp đào tạo, bồi dưỡng có tầm quan trọng đặc biệt vì các lý do sau đây: Thứ nhất, trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế, việc thích ứng với cơ chế thị trường để làm ăn đúng đắn có hiệu quả đòi hỏi phải có quá trình. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp để họ có đủ tự tin khi quyết định các phương án sản xuất kinh doanh và điều hành doanh nghiệp theo yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Thứ hai, đào tạo bồi dưỡng để thích ứng với sự thay đổi và phát triển. Kỹ năng, phương pháp quản lý và luật pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng nhiều, càng phức tạp và luôn thay đổi, cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng phong phú đa dạng. Để đáp ứng sự thay đổi và phát triển này, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cũng như cập nhật thông tin và vấn đề quan trọng là cần tiến hành thường xuyên, liên tục. Thứ ba, đã có không ít tiếng nói trên báo chí và trong dư luận xã hội đòi hỏi phải nâng cao “quan trí”, nâng cao năng lực kỹ trị, nâng cao ý thức công bộc của đội ngũ cán bộ viên chức ăn lương nhà nước. Song hiện tượng đáng lo lắng hơn lại là cuộc sống có không biết bao nhiêu ví dụ về tắc trách, về vận dụng hay thi hành sai luật pháp và những chính sách đúng đắn. Rõ ràng có làm tốt được việc đổi mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, nhiều việc khác mới hy vọng làm tốt được, mọi người khác mới có điều kiện phát huy được mình. Đây chính là giải pháp thể hiện mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện bên ngoài của sự vật. Hiện tượng thể hiện bản chất trong hình thức cải biến, hình thức đôi khi xuyên tác nội dung thực sự của bản chất. Vì vậy hiện tượng là cái bên ngoài, muốn đưa ra được giải pháp đúng đắn, hữu hiệu thì phải tìm hiểu bản chất bên trong của nó. Nhìn vào thực trạng nguồn nhân lực nước ta, cùng với những phân tích ở trên rõ ràng muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì giải pháp trước mắt là phải đổi mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, “quan” có nghiêm thì mới trị được “quân”. 5. Phát triển con người một cách toàn diện Xuất phát từ quan điểm của học thuyết Macxit về con người: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội. Con người tồn tại trong xã hội, tồn tại trong lịch sử, con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội- lịch sử. Vì thế phải đặt vấn đề phát triển nguồn nhân lực trước hết là vấn đề phát triển con người trong một cách nhìn toàn diện. Phải đặt con người trong tổng hòa tất cả các mối quan hệ với nó. Hồ Chí Minh dạy “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, “Trồng người” là quá trình xây dựng con người toàn diện – quá trình làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của con người” Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong đố đức là gốc. Do vậy, chúng ta không chỉ chú trọng tập trung xây dựng một nguồn lực lao động giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mà phải đào tạo những con người toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục. Xây dựng con người Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có những trọng tâm khác nhau nhưng đều hỗ trợ nhau để hình thành cuộc sống mới với con người mới, một con người mới toàn diện hơn. Đây chính là việc áp dụng nguyên tắc toàn diện - một trong những nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liện hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều. KẾT LUẬN Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và sự phát triển con người với tư cách là mục tiêu, là động lực của phát triển và tiến bộ xã hội, coi đó là cơ sở khoa học bền vững thì sự nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh trong công cuộc đổi mới theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp bách. Thực hiện tốt nhiệm vụ cơ bản đó sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn năng lực nội sinh không gì so sánh nổi cho sự phát triển đất nước lâu bền, cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng là tất yếu khách quan. Hy vọng bài viết này sẽ là một đóng góp nho nhỏ trong việc phát triển nguồn nhân lực nước ta. Em xin chân thành cảm ơn! Học viên Nguyễn Thị Thanh Tú TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình triết học, NXB Lý luận chính trị C. Mác, Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1962. C. Mác và Ph.Ăngghen Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1982. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1996. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội Nghị Trung ương 4 khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970. Lênin toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, M., 1977. Lê Sĩ Thắng (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Và một số trang Web MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22686.doc