BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
………………******………………
Nguyễn Thị Huyền Thương
CON NGƯỜI NHÂN VĂN
TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA
THƠ NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ NGUYỄN DU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân
Thành phố Hồ Chí Minh 08 / 2010.
Lời tri ân!
Xin chân thành tri ân Phòng KHCN & SĐH cùng tập thể các thầy cô giáo trong và
ngoài kho
155 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3475 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Ngữ Văn, trường ĐHSP TP. HCM trực tiếp tham gia giảng dạy lớp Văn học Việt
Nam K.18 đã cung cấp những kiến thức, tạo tiền đề cho tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành tri ân BGH và tập thể đồng nghiệp nơi tôi công tác – Trường THPT
Ngô Quyền, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đã tạo luôn điều kiện tốt cho tôi trong toàn khóa học.
Đặc biệt, xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến cô giáo, PGS. TS Đoàn Thị Thu Vân,
người thầy lớn đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Nguyễn Thị Huyền Thương
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thời gian đã trôi qua rất lâu kể từ ngày đặt dấu chấm kết thúc cho một giai đoạn phát
triển của lịch sử văn học nước nhà, thời kì văn học Trung đại. Khoảng thời gian đó đủ để
những gì thuộc về nó bước lên ngai vàng của giá trị cổ điển. Những tưởng mọi cái như thế là
đã xong xuôi, con cháu mai hậu chỉ còn biết đứng từ bên kia bờ của “khoảng cách sử thi” để
ngưỡng vọng về thế giới tinh thần của ông cha trong quá khứ. Thế nhưng, chính lúc ý nghĩ
đó khởi phát cũng là lúc chúng ta nhận ra giá trị của văn học cổ điển như suối nguồn dạt dào
khơi mãi cũng không bao giờ vơi cạn.
Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ra
trước tiên ở đặc trưng của đối tượng miêu tả. Cụ thể, văn học lấy con người làm đối tượng
miêu tả chủ yếu. Nhân vật trung tâm của văn học nghệ thuật bao giờ cũng là con người. Đây
được xem như là một đặc tính không có ngoại lệ xuyên suốt trong văn học từ cổ chí kim. Vì
thế thiết nghĩ nghiên cứu văn học quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu hình tượng nghệ thuật về
con người được văn học phản ánh. Mà đã đi vào phương diện con người là đi vào mê hồn
trận, bởi mỗi con người đã là một thế giới vô cùng bí ẩn và thâm sâu. Đặc biệt với người thơ
điều đó càng bội phần phong phú.
Như một tặng phẩm mà quá khứ dành tặng cho hậu thế, đội ngũ nhà thơ trên thi đàn
văn học trung đại phần lớn đều là những bậc chân nho với nhân cách trong sáng tuyệt vời.
Họ đến với thơ là để tỏ chí, giãi lòng. Đến lượt mình, thơ cũng là tấm gương trắng trong và
trung thành nhất lưu giữ những vẻ đẹp thấm đẫm chất nhân văn của người thơ. Bởi thế tìm
về với suối nguồn văn học trung đại, dừng lại thật lâu ở khía cạnh con người nhân văn,
chúng ta sẽ được tắm trong vẻ đẹp sáng trong của nhân cách, trí tuệ và tâm hồn cha ông, qua
đó để được thanh lọc tâm hồn mình. Thế nhưng, vấn đề con người nhân văn trên thi đàn văn
học trung đại hầu như chưa có công trình nào trực tiếp đề cập ngoài “Con người nhân văn
trong thơ ca sơ kì trung đại” của Đoàn Thị Thu Vân (NXB Giáo dục, 2007). Trong các
chuyên luận, bài báo, hay các công trình nghiên cứu một giai đoạn văn học, một vấn đề văn
học hoặc một tác giả, tác phẩm cụ thể thuộc thời kì văn học trung đại, thi thoảng chỉ đề cập
đến tính nhân văn, chất nhân văn, hay cảm hứng nhân văn. Đây là lí do chủ yếu mà khi
hướng đến văn học trung đại chúng tôi nghĩ đến đề tài này.
Tìm hiểu vấn đề con người nhân văn trong văn học trung đại, chúng tôi không nhìn nó
trong thế đứng yên mà xem xét nó trong thế vận động. Cơ sở lí luận mà chúng tôi viện đến là
quan điểm của triết học Mác – Lê Nin về con người. Mác nói: “ Xét trong tính hiện thực của
nó, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Cho nên, sự hình thành và phát triển
nhân cách của con người chắc chắn sẽ chịu sự chi phối của môi trường xã hội và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Đương nhiên, con người trong văn học là hình tượng nghệ thuật về con người,
nó khác với con người theo quan niệm của triết học. Thế nhưng xét trong tính tổng thể,
chúng đều là những hình thái ý thức xã hội nên không thể không có những nguồn gốc tương
đồng.
Vì vậy, cùng với sự vận hành theo lẽ thịnh suy đắp đổi của xã hội phong kiến Việt
Nam, con người nhân văn trong thơ trung đại cũng không đứng yên. Song để xác định được
những thời điểm biểu hiện rõ nét sự chuyển giao của vấn đề thường chỉ mang tính tương đối.
Nhưng có thể khẳng định một cách không chủ quan rằng ở những cái mốc quan trọng bao
giờ cũng giúp đưa cái tương đối tiệm cận dần với cái tuyệt đối. Vì thế, tìm hiểu vấn đề con
người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại chúng tôi chỉ tập trung khảo sát qua sáng
tác của ba nhà thơ lớn của dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du. Bởi lẽ,
đây là ba đỉnh cao, ba cây đại thụ, ba nhịp cầu vững chãi làm nên cây cầu văn học trung đại,
nơi hội tụ và thăng hoa những giá trị đẹp đẽ của tâm hồn dân tộc.
Lại nữa, có một thực tế là khi đề cập đến sáng tác của Nguyễn Trãi, người ta nghĩ
ngay đến áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”. Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm người ta
thường nghĩ đến những câu sấm truyền, biểu hiện của một trí tuệ tinh thông, siêu việt đi kèm
với chức danh trạng Trình trước khi nghĩ đến ông với tư cách là một nhà thơ. Và khi nhớ đến
Nguyễn Du thì nhất định là gắn liền với kiệt tác “Truyện Kiều”. Thói quen đó cũng không có
gì là lạ, bởi theo lẽ thường, bông hoa rực rỡ nhất, thơm ngát nhất trong vườn hoa bao giờ
cũng gây sự chú ý đầu tiên đối với người thưởng ngoạn, thậm chí nó còn làm mờ đi những
bông hoa khác quanh mình. Song đâu ai biết rằng đó chỉ là phần nổi của tảng băng trôi, mà
phần chìm, nơi thể hiện tập trung, trực tiếp và chân thành nhất thế giới tâm hồn của họ lại
chính là phần thơ.
Cuối cùng, bởi vì những lí do trên, trong khuôn khổ luận văn này, với đề tài tìm hiểu
về “Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du”, chúng tôi chỉ đi sâu khảo sát phần thơ của ba thi hào bao gồm
cả thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán. Với việc làm này, trước hết chúng tôi muốn dựa trên nền
tảng đã có bước đầu nâng vấn đề lên thành một đề tài được tập trung nghiên cứu riêng và sâu
hơn, sau nữa là để bày tỏ lòng tôn kính và mến yêu dành cho ba nhà thơ vĩ đại của nền văn
học cổ điển, qua đó góp thêm một lời ngợi ca, khẳng định về văn hoá dân tộc.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Vì độ lùi thời gian và bởi tầm vĩ đại của ba tài năng lớn nên sự nghiệp sáng tác đồ sộ
của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà
nghiên cứu suốt hàng trăm năm qua, theo thời gian số lượng các công trình nghiên cứu cứ
đầy mãi thêm lên. Giá trị nghệ thuật ẩn chứa trong tác phẩm của họ vì thế cũng ngày càng
được khám phá dưới nhiều góc độ. Vẻ đẹp của những viên ngọc quý cứ thế không thôi phát
quang lấp lánh.
Điều này, vừa tạo cơ hội cho người đi sau có một nền tảng kiến thức vững chắc để kế
thừa. Song cũng đặt ra thách thức là phải làm sao để không dẫm lên lối mòn khoa học của
người đi trước.
Vì thế chúng tôi chọn vấn đề con người nhân văn làm đề tài nghiên cứu cũng xuất phát
từ mong muốn làm được điều gì đó có ích. Bởi theo khảo sát chủ quan của chúng tôi thì đây
là khía cạnh gần như chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập, đặc biệt là tìm
hiểu nó trong sự kết nối thi phẩm của ba nhà thơ lớn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Nguyễn Du. Đó là chưa kể, phần thơ, như đã nói, chưa được giới nghiên cứu quan tâm nhiều
bằng các sáng tác khác của họ. Chẳng hạn, những công trình nghiên cứu về truyện Kiều thì
quá đồ sộ trong khi tài liệu tìm hiểu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du thì lại chưa nhiều.
Song nói như thế không có nghĩa là đề tài nghiên cứu mà chúng tôi chọn là hoàn toàn
mới; ngược lại để tiếp cận vấn đề, chúng tôi cũng phải dựa trên những gợi mở quý giá của
người đi trước. Cụ thể liên quan đến vấn đề này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
sau, đương nhiên phần lớn chỉ là những công trình đề cập đến từng tác giả riêng lẻ trong số
ba tác giả mà đề tài của chúng tôi trực tiếp đề cập.
2.1 Những công trình liên quan đến vấn đề giới thuyết của đề tài
2.1.1 “Thi pháp văn học trung đại” – Trần Đình Sử.
Trong phần “Sự vận động và phát triển của con người trong thơ Việt Nam trung đại”,
ông cho rằng, qua các giai đoạn văn học, dưới ảnh hưởng của tư tưởng chính thống và hoàn
cảnh lịch sử xã hội mà con người cá nhân trong thơ trung đại cũng có sự thay đổi. Từ con
người sử thi trong thơ Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung…với tình cảm yêu
nước có lức lay động mãnh liệt đến con người khí tiết biết giữ mình trong sạch, biết ứng xử
trước thời thế dưới sự chỉ dạy của Nho giáo trong giai đoạn văn học từ thế kỉ X – XIV. Bước
sang giai đoạn từ thế kỉ XV – XVII cùng với sự ra đời của thơ chữ Nôm, con người trong thơ
cũng mở rộng về giá trị riêng tư, trần tục, ít quan phương hơn so với giai đoạn trước. Song
vào giữa giai đoạn này, cùng với sự lên ngôi của tư tưởng Nho giáo, con người ngày càng
duy lí với những trăn trở đầy day dứt giữa xuất và xử. Trong khi đó, theo bước đi của lịch sử
cùng với sự suy thoái của xã hội phong kiến, là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân nên con người
trong thơ giai đoạn từ thế kỉ XVIII – XIX lại nghiêng về những khát khao trần tục, nhục
cảm.
Đồng thời trong công trình này, tác giả cũng đưa ra những nhận xét về một số tác giả
lớn với tư cách là con người trong thơ. Cụ thể, theo Trần Đình Sử: Là con người trong thơ,
Nguyễn Trãi hiện diện như một day dứt, một con người thao thức khôn nguôi của thời đại.
ông hiện diện không nhằm khẳng định Nho hay Đạo mà là khẳng định một con người muốn
hiến dâng tài năng cho cuộc sống một cách trọn vẹn.
Nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm trong mối tương quan với Nguyễn Trãi và Lê Thánh
Tông, Trần Đình Sử cho rằng Tuyết Giang Phu Tử nghiêng về đạo học, vì là con người lý trí,
ông thể hiện mình trong thơ như một con người lịch lãm, khôn ngoan…, cho nên theo nhận
xét của tác giả, đứng ở một góc độ nào đó chất nhân văn tươi tắn có mờ nhạt và ít phong phú
hơn về mặt cảm tính so với hai tác giả trên, song về mặt trí tuệ thì vô cùng đa dạng.
2.1.2 “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” của nhóm nghiên cứu Nguyễn
Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu
Vân.
Qua chương “Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả”, các nhà nghiên
cứu đã phân tích một cách cụ thể những vẻ đẹp của tâm hồn tác giả trong mối tương liên với
thiên nhiên, xem thiên nhiên như thước đo nhân cách của nhà nho. Đồng thời trong công
trình này nhóm nghiên cứu cũng đề cập một cách khái quát về con người cá nhân trong thơ
Nguyễn Trãi, qua bi kịch nội tâm biểu hiện những vẻ đẹp về nhân cách. Con người cá nhân
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có ý thức tự khẳng định mình, bằng cách đối lập mình với
xung quanh, sống khép kín, cô độc một cách thanh sạch, cao quý. Đến thời Nguyễn Du, do
sự suy vi của xã hội phong kiến, sự nứt vỡ của đạo đức thánh hiền, nên ý thức cá nhân thể
hiện trong thơ là ý thức thương thân, xót thân, và vì thế con người tìm đến điểm tựa là cái tài
và cái tâm.
2.2 Những công trình có liên quan đến từng nhà thơ cụ thể
2.2.1 Nhà thơ Nguyễn Trãi
2.2.1.1 “Con người nhân văn trong thơ ca sơ kì trung đại” – Đoàn Thị Thu Vân.
Đây là công trình trực tiếp đề cập đến vấn đề con người nhân văn trong thơ Nguyễn
Trãi. Để không lặp lại những điều mà các nhà nghiên cứu đã nhận định về con người siêu
việt ấy, tác giả chỉ xoáy sâu vào khía cạnh Nguyễn Trãi là một con người biết tìm niềm vui
sống, thể hiện trong cách sống giản dị mà tự do phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên vạn
vật và con người lao động.
2.2.1.2 “Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi” – Trần Đình Sử.
Trong công trình này, tác giả nhận xét: Với thơ Nôm Nguyễn Trãi ta gặp một con
người có ý thức cao về tài đức, lý tưởng đại dụng, khôn khéo sâu sắc, tự tin, dũng cảm, tự
khẳng định, chọi lại thói phàm tục của người đời, không trùng khít với khuôn mẫu nào hết.
Đó là một nhân cách lớn hết sức phong phú.
2.2.1.3 “ Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” – Nguyễn Huệ Chi.
Qua bài viết, tác giả ngợi ca nhân cách Nguyễn Trãi thể hiện nơi niềm lạc quan và tin
yêu cuộc sống . Ông cho rằng: Con người thi nhân trong thơ Nguyễn Trãi luôn nặng một
niềm thao thức khôn nguôi. Tuy nhiên vượt lên trên hoàn cảnh, con người ấy vẫn biết hướng
về cái cao cả, tốt lành. Trong muôn nghìn khó khăn chồng chất lên mình, con người ấy vẫn
biết chờ đợi và tin vào cái tốt lành sẽ xảy đến, con người ấy quả là một tâm hồn Việt Nam
trọn vẹn.
2.2.1.4 “Chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập” – Lê Trí Viễn.
Tác giả thể hiện sự ngưỡng mộ đối với tấm lòng thơm không gì vẽ ra được của
Nguyễn Trãi. Ông nhận xét tâm hồn Ức Trai đẹp trong sự rộng mở bốn phương nhưng quy
về hướng dân chủ, yêu nước thương dân, hướng về Việt Nam truyền thống, và ông cho rằng
đó là chỗ vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi.
2.2.1.5 “Thái độ của Nguyễn Trãi trong cuộc sống” – Nguyễn Thiên Thụ.
Tác giả cho rằng thái độ sống của Ức Trai là an phận thủ thường, coi thường cuộc đời,
yên vui cảnh nhàn, cảnh nghèo, vui thú với trang sách, yêu thiên nhiên. Từ đó, ông đi đến
khẳng định, với những thái độ sống cao quý đẹp đẽ đó, Nguyễn Trãi biểu hiện là một con
người có nhân cách tuyệt vời, tâm hồn cao thượng.
2.2.1.6 “ Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” – Xuân Diệu.
Tác giả nhìn nhận vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Trãi thể hiện nơi bản lĩnh sống, đồng thời
tỏ lòng kính yêu vô hạn đối với tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, qua đó ông
hoàng thơ tình yêu cho rằng thiên nhiên là thước đo tâm hồn của Ức Trai tiên sinh.
2.2.1.7 “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm” – Hoài Thanh.
Tác giả đánh giá nét tiêu biểu nhất của con người Nguyễn Trãi qua thơ là ý thức trách
nhiệm với dân với nước
Ngoài ra, trong rất nhiều công trình khác của các nhà nghiên cứu dành nhiều tâm
huyết cho Nguyễn Trãi như Mai Quốc Liên, Bùi văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Đinh Gia
Khánh…, khi tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ trên nhiều phương diện đều có ít
nhiều đề cập đến vấn đề con người Ức Trai qua thơ. Tựu trung là cố gắng làm nổi bật Ức
Trai như một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự tài ba, nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân
văn hóa thế giới và nét đẹp nổi bật trong nhân cách là tấm lòng “tiên ưu – đêm ngày cuồn
cuộn nước triều đông” cùng lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên, ruộng đồng.
2.2.2 Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
2.2.2.1 “ Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm” - Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh
tuyển chọn và giới thiệu.
Công trình quy tụ 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng phương diện: Nguyễn
Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động; triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm – tư tưởng và
nhân cách; Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức thế nhân
xưa nay. Trong đó bên cạnh những bài viết ở phần thứ hai cố gắng xây dựng một triết nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lí học, có tài tiên tri, có trí tuệ siêu việt, là những bài viết ở
phần ba tập trung miêu tả chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm một nhà thơ, và trong phần này
thật cảm động là những cảm nhận của Nguyễn Huệ Chi, Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia
Khánh…về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ họ Nguyễn thể hiện qua “Tấm lòng tiên ưu đến già chưa
thôi”.
2.2.2.2 “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc” – Viện Khoa học
xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm.
Công trình này đóng góp 28 bài viết đi sâu khai thác về Nguyễn Bỉnh Khiêm trên các
phương diện: Thân thế và hoàn cảnh lịch sử; Tư tưởng và thơ văn; Một số vấn đề khác.
Trong đó đáng chú ý là những bài viết trong phần thứ hai, ở đây các nhà nghiên cứu cũng đã
cố gắng đi sâu khai thác để miêu tả được những vẻ đẹp đầy tài hoa cũng như nhân cách trong
sáng tuyệt vời của Bạch Vân cư sĩ.
2.2.2.3 “ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập” – Nguyễn Khuê.
Là công trình khá công phu gồm nhiều phần trong đó ở phần thứ hai tác giả đi vào
khai thác thế giới tình cảm và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ.
2.2.2.4 “Tập kỉ yếu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”.
Công trình được thực hiện nhân lễ kỉ niệm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52
bài tham luận xoay quanh những vấn đề không bao giờ hết tính thời sự được đặt ra trong sự
nghiệp sáng tác và cuộc đời của TrạngTtrình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các bài viết được sắp xếp
theo một hệ thống chủ đề gồm 4 phần, trong đó chúng tôi chú ý đến phần thứ hai là những
cảm nhận sâu sắc của các tác giả về con người và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ngoài ra còn rất nhiều những công trình nghiên cứu khác viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm
của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Cao Chương, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ
Tiến Phúc, Hà Như Chi… tìm hiểu con người và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chung quy lại ở khía cạnh con người tác giả qua thơ đều
nhấn mạnh Nguyễn Bỉnh khiêm, một bậc trí thức với “tấm lòng tiên ưu đến già chưa nguôi”
và Nguyễn Bỉnh Khiêm với lối sống thanh nhàn, đẹp một cách cao khiết.
Mai Quốc Liên khẳng định: “…Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem như Giang, Hán trong
các sông, như ánh mặt trời thu, cây đại thụ của đạo đức, văn chương thế kỉ XVII”.(Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc).
Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh khi cho rằng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có
bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm đa tìm về với cái
vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của Nho gia, đã được điều chỉnh bởi quan niệm của đạo
Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó
đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, giản phác, hồn nhiên, lạc
quan, khỏe khoắn, rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” (Sức sống của thơ ca và
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Còn Nguyễn Khuê nhận định: “ Thơ ông là tiếng nói rất chân thực, rất nhân bản của
một nhà hiền triết trước cảnh ngộ, nhân sinh, thiên nhiên vũ trụ; là một nỗ lực hướng tới
chân, thiện, mỹ. Vì thế, tiếng nói ấy mãi mãi vang vọng tâm hồn dân tộc” (Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua Bạch Vân am thi tập)
2.2.3 Nhà Thơ Nguyễn Du
Khác với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với Nguyễn Du do tầm vĩ đại và ảnh hưởng của
kiệt tác “Truyện Kiều” quá lớn, cho nên lịch sử trên hai trăm năm nghiên cứu tác phẩm này
thu hút phần lớn sự quan tâm của các học giả. Trong khi đó thơ chữ Hán lại ít được chú ý
hơn, vì thế các công trình nghiên cứu về nó không nhiều.
2.2.3.1 “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm” – Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh
tuyển chọn và giới thiệu.
Đây là công trình độ sộ tập hợp nhiều bài nghiên cứu có chiều sâu về Nguyễn Du được
công bố từ trước tới nay, tuy vậy chủ yếu là về Truyện Kiều. Còn tìm hiểu về thơ chữ Hán
chỉ được giới thiệu một số bài viết sau:
“Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán” – Hoài Thanh.
Qua bài viết, bằng việc phân tích khái quát những hình tượng con người trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du, tác giả “Thi nhân Việt Nam” đã cảm thông với tình cảm thương xót của đại
thi hào dành cho con người đặc biệt là những người nghèo khổ dưới đáy xã hội.
“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu.
Qua đây, Xuân Diệu khẳng định trong thơ chữ Hán Nguyễn Du đã để dấu ấn con
người mình một cách rõ nét. Đó là con người giàu lòng yêu thương, thể hiện trong tình cảm
bao la ông dành cho nhiều loại người. Ông viết “Nguyễn Du không phải là con người hành
động mà là con người tư tưởng. Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng trong đời với
một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó, một cuộc đấu tranh ngấm
ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã vẫn diễn ra dai dẳng không ngừng. và so với người khác,
những nỗi cực nhọc mà con người ấy chịu còn phải nhân lên gấp mấy lần, vì nó dồn nén, súc
tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can chứ không được giải phóng ra thành hành động”.
Và ở một chỗ khác Xuân Diệu viết “ Con người ấy chỉ biết nâng đau khổ lên thành triết lí, và
rồi quẩn quanh trong triết lí đến nỗi không nhìn thấy nguyên nhân mọi nỗi khổ hiện thực của
mình”.
“ Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán” – Nguyễn Huệ Chi.
Bài viết cũng đưa ra những nhận xét rất chân thực thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với
Nguyễn Du. Ông nhìn thấy trong thơ chữ Hán “ hình tượng một con người đi trong bóng
đêm dày đặc, hãi hùng, bị gió lạnh dồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không
thấy sáng, thật đã phản ánh đúng cái cảm nghĩ tuyệt vọng của Nguyễn Du về sự mất phương
hướng. Đây không chỉ là hình ảnh tự họa chính xác nhất của nhà thơ mà còn là hình ảnh có
một ý nghĩa rất rộng lớn: Tấn bi kịch lịch sử ở giai đoạn cực kì thối nát, tan rữa. Ý nghĩa
nhận thức đồng thời cũng là ý nghĩa nhân đạo trong phần lớn những bài thơ chữ Hán nói về
mình của Nguyễn Du, chính là như vậy”.
“ Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán” – Đào Xuân Quý.
Tác giả thể hiện sự cảm thông với nỗi niềm u uẩn của Nguyễn Du, đồng thời cũng đề
cao tình cảm của Nguyễn Du dành cho những bậc tài hoa như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ…
“ Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” – Trương Chính.
Bài viết chủ yếu tập trung đi sâu vào nội dung của cả tập thơ, qua đó ngợi ca tình yêu
thương con người của Nguyễn Du.
2.2.3.2 “ Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du” – Lê Thu Yến.
Đây là công trình đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Vì thế con người ở đây được khảo sát dưới góc độ nghệ thuật. Những biểu hiện của hình
tượng nghệ thuật về con người được tác giả công trình nghiên cứu này phát hiện là hình
tượng con người âu lo, con người lãng mạn, con người đau khổ. Đó cũng chính là những nét
lớn trong tâm hồn đại thi hào Nguyễn Du.
Ngoài ra còn có những bài viết khi đi vào tìm hiểu từng tác phẩm thơ chữ Hán cụ thể
cũng ít nhiều đưa ra những cảm nhận về tấm lòng, tâm sự của Nguyễn Du mà trong phần này
không có điều kiện nêu ra hết.
Như vậy, xâu chuỗi những công trình nghiên cứu trên cho thấy, các tác giả dù đã đi
vào tìm hiểu về con người tác giả trong thơ, nhưng hầu hết đều nhìn nhận vấn đề trên cấp độ
chung, nghĩa là tìm hiểu biểu hiện của cái tôi tác giả trong thơ về tư tưởng và tình cảm. Tập
trung miêu tả những mặt tích cực là chủ đạo song các công trình cũng không bỏ qua những
khuất lấp trong thế giới tâm hồn của các nhà thơ. Riêng vấn đề con người nhân văn được
hiểu là con người mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh…) của chính tác
giả - chủ thể trữ tình của tác phẩm thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm
và Nguyễn Du, đồng thời qua đó đưa ra những nhận xét bước đầu về sự vận động của con
người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại thì vẫn chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu. Chỗ bỏ ngõ này cũng chính là điều mà chúng tôi muốn thực hiện.
Tuy vậy, những ý kiến trên thật sự là những định hướng đúng đắn và gợi mở quý báu
cho người viết trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng khảo sát
Những tư liệu về thơ Nguyễn Trãi (bao gồm cả Ức trai thi tập và Quốc âm thi tập) mà
chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là cuốn Nguyễn Trãi toàn tập tân biên của Trung tâm
nghiên cứu Quốc học do Mai Quốc Liên chủ biên; Tư liệu về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
chúng tôi sử dụng đồng thời cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Đinh Gia Khánh biên
soạn và cuốn Tổng tập văn học Việt Nam – tập 6, phần về Nguyễn Bỉnh Khiêm, do Bùi Duy
Tân chủ biên; Tư liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng tôi sử dụng cuốn Nguyễn Du toàn
tập của Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến phiên âm, dịch
nghĩa và chú thích.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề con người nhân văn được hiểu là con người
mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh…) của chính tác giả - chủ thể trữ
tình của tác phẩm thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du.
Đồng thời qua đó đưa ra những nhận xét bước đầu về sự vận động của con người nhân văn
trong tiến trình văn học trung đại.
Hướng nghiên cứu của đề tài là đi từ xa đến gần, từ việc tìm hiểu thời đại, bối cảnh
lịch sử xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm của các nhà thơ đến những biểu
hiện cụ thể của tố chất người mang vẻ đẹp nhân văn được các nhà thơ ý thức và phô diễn
trong thi phẩm của mình.
Cuối cùng, vì khả năng có hạn, chúng tôi chỉ gói ghém đề tài của mình trong khuôn
khổ phần thơ chứ chưa có điều kiện đi vào các phần còn lại trong sự nghiệp sáng tác của ba
nhà thơ trên.
4.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp khoa học
khác nhau, trong đó cơ bản nhất vẫn là bốn phương pháp sau:
4.1 Phương pháp Lịch sử - xã hội
Xuất phát từ quan điểm của triết học Mac – Lênin về mối quan hệ giữa văn học và xã
hội cũng như quan điểm về con người, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì thế
tìm hiểu về con người nhân văn thể hiện trong thơ của ba nhà thơ lớn đại diện cho ba cái
mốc quan trọng trong cả lịch sử phát triển của văn học lẫn lịch sử phát triển của xã hội.
Chúng tôi không thể không nhìn nhận vấn đề trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử, xã
hội, tư tưởng của dân tộc.
4.2 Phương pháp hệ thống
Là phương pháp giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về vấn đề đang
nghiên cứu. Ở đây, vấn đề con người nhân văn thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm Và Nguyễn Du được đặt vào trong mối tương quan với hoàn cảnh lịch sử xã
hội, tiến trình vận động của văn học trung đại. Đồng thời phương pháp này cũng giúp người
viết hệ thống hóa được, thứ nhất những tài liệu có liên quan, thứ hai những biểu hiện về vẻ
đẹp nhân văn của chủ thể trữ tình trong thơ, sắp xếp lại thành những tiểu mục cụ thể.
4.3 Phương pháp so sánh – đối chiếu
Với đề tài này, có thể nói đây là phương pháp quan trọng nhất giúp người viết nhìn
nhận vấn đề trong sự đối sánh giữa ba nhà thơ, từ đó rút ra được những điểm gặp gỡ, kế thừa
và cả những nét riêng không lặp lại lẫn những cái mới của con người nhân văn trong thơ của
họ. Từ đó đi đến những nhận xét bước đầu về sự vận động của con người nhân văn trong tiến
trình văn học trung đại.
4.4 Phương pháp phân tích – tổng hợp
Là phương pháp giúp chúng tôi vừa khai thác vấn đề ở những khía cạnh chi tiết để
nắm được bản chất vấn đề, vừa tổng hợp lại nhằm có những kết luận khái quát về vấn đề.
5. Đóng góp của đề tài
5.1 Ý nghĩa khoa học
Với việc đi sâu tìm hiểu con người nhân văn với những biểu hiện cụ thể trong thơ của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, đề tài hy vọng góp thêm một cách hiểu
trọn vẹn về thế giới tâm hồn của ba nhà thơ trên. Qua đó cũng giúp người đọc có được hình
dung về quá trình vận động, phát triển của con người nhân văn qua các chặng đường của văn
học trung đại.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du cũng như
bản thân con người của họ có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao không chỉ đối với thời đại
các nhà thơ sống mà còn vang vọng đến tận hôm nay và mai sau. Vì thế, việc tìm hiểu về con
người thi nhân qua thơ với những vẻ đẹp đầy nhân văn của trí tuệ, tâm hồn, tình cảm… là hết
sức quan trọng. Đặc biệt là đối với môi trường giáo dục trong nhà trường. Bởi lẽ, xét ở cấp
độ “tiên học lễ” – đây chính là điểm tựa về văn hóa, về tinh thần để giáo dục học sinh biết tự
hào, trân quý, giữ gìn và học tập theo tấm gương nhân cách của ông cha. Xét ở cấp độ “hậu
học văn” – đây sẽ là những định hướng quý báu cho việc giảng dạy thơ văn của Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong chương tình phổ thông.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn được triển khai theo ba phần:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội Dung
Chương I: Những vấn đề khái quát
Chương II: Con người nhân văn đẹp trong ý thức trách nhiệm của người trí thức đối
với cuộc đời
Chương III. Con người nhân văn đẹp trong tình yêu thiên nhiên và lối sống hài hòa
cùng vạn vật
Chương IV. Con người nhân văn đẹp trong cách hành xử trước thời thế để giữ tròn khí
tiết kẻ sĩ
Phần III: Kết luận
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1. Khái niệm “nhân văn”
Trong văn học, khi tìm hiểu về khái niệm “nhân văn”, cần thiết phải quan tâm đến
những khái niệm gần gủi khác như: “nhân bản”, “nhân đạo”.
“Nhân bản” là lấy con người làm gốc. Chủ nghĩa nhân bản vì thế coi trọng con người
với thực thể hiện hữu của nó, theo đó, chủ nghĩa nhân bản thiên về khía cạnh bản thể của con
người.
“Nhân đạo” là đường đi của con người. Con đường đó nhắc nhở con người đi đúng
đạo lý làm người. Nghĩa là phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của con người bao gồm
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Chủ nghĩa nhân đạo” kêu gọi sự yêu
thương, lòng trân quý và bảo vệ con người. Là xu hướng tư tưởng thể hiện sự tôn trọng phẩm
giá, quyền tự do và sự phát triển toàn diện của nhân cách cá nhân, bảo vệ tính người trong
quan hệ xã hội. Do vậy thuật ngữ này thiên về khía cạnh đạo đức.
Riêng về “Nhân văn”, hiểu theo nghĩa chiết tự, “nhân” là người, “văn” là vẻ đẹp.
“Nhân văn” có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người. Một tác phẩm văn học có tính
nhân văn là tác phẩm thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị
tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… tác phẩm đó nhất định phải hướng đến
khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người.
“Chủ nghĩa nhân văn”, theo Từ điển thuật ngữ văn học, được hiểu ở hai cấp độ, cấp độ
thế giới quan và cấp độ lịch sử.
Ở cấp độ thế giới quan, “chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm,
tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ
đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm
cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất…)
trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại” [15, tr 88].
Thế giới được sáng tạo ra trong văn học nghệ thuật và bằng văn học nghệ thuật từ xưa
đến nay là một thế giới mà trong đó con người luôn luôn đấu tranh chống lại mọi thế lực thù
địch xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định mình, khẳng định quyền năng ._.và sức mạnh
của mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm người mãnh liệt và cao đẹp của mình. Lòng yêu
thương, ưu ái đối với con người và thân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm
hàng đầu của các nhà văn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Khi nói rằng: “Văn học là một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những
nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh ra chủ
nghĩa nhân văn”. Chính M.Gorki đã sử dụng khái niệm chủ nghĩa nhân văn trên cấp độ này.
Ở cấp độ lịch sử, “chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy sinh ở Ý
và một số nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV – XVI ). Những người khởi
xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung
khỏi sự bảo trợ của nhà thờ cơ đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm
không phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người có khả
năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình (…) Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự
sáng tạo và ca ngợi vẻ đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và
niềm tin và sức mạnh toàn năng của con người” [15, tr 89]. Con người có khả năng vô tận để
hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, họ chủ trương đi sâu
nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy
Lạp - La Mã đã bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị tư
tưởng - nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái
đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh
toàn năng của con người.
Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng là một bước ngoặt quan
trọng trong quá trình giải phóng tinh thần và tự ý thức của nhân loại. Từ thời Phục hưng về
sau, trong văn học nghệ thuật, chủ nghĩa nhân văn đã bước sang một giai đoạn phát triển
mới: từng bước gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng con người về các phương diện chính
trị - xã hội và các phương diện khác thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống. Nó trở
thành lí tưởng thẩm mĩ có sức định hướng cho những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật, và quy
định bản chất của mỗi nền văn học nghệ thuật. Trong sáng tác văn học nghệ thuật, hình thái
và mức độ biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn hết sức phong phú, đa dạng, độc đáo. Vì thế,
khi tiếp nhận tác phẩm văn học không nên lược quy giá trị nhân văn của nó vào những mệnh
đề chung trừu tượng mà phải tìm ra những sắc thái biểu hiện tinh tế, độc đáo, cụ thể trong
thái độ và cảm xúc thẩm mĩ của tác giả đối với con người và cuộc sống.
Như vậy, có thể thấy, từ một thuật ngữ nước ngoài có gốc la tinh là humanism, khi
dịch sang tiếng Việt, tùy vào từng trường hợp và mục đích sử dụng mà có thể có những cách
dịch khác nhau. “Chủ nghĩa nhân bản” thiên về phạm trù triết học bản thể, “chủ nghĩa nhân
đạo” thiên về phạm trù đạo đức, còn “chủ nghĩa nhân văn” thiên về phạm trù văn hóa.
2. Khái niệm “con người nhân văn”
Khái niệm “con người” được dùng khác với quan niệm về con người trong các ngành
nghiên cứu ngoài văn học. Con người ở đây là hình tượng nghệ thuật về con người được thể
hiện trong sáng tác văn chương.
Từ đó, “con người nhân văn được hiểu là hình tượng nghệ thuật về con người mang
tính nhân văn, tức là con người mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản
lĩnh…)được biểu hiện trong tác phẩm của văn học” [57, tr7]. Đối tượng trung tâm của văn
học là con người, kể cả khi tác phẩm đó thuần tả cảnh đi chăng nữa thì đằng sau bức tranh
thiên nhiên đó chính là tác giả. Bởi sự thật là mây, gió, trăng, hoa…tự nó không thể đi vào
thơ nếu không có một hồn thơ vẫy gọi. Trong thơ trữ tình, con người đó chính là tác giả -
chủ thể trữ tình của tác phẩm. Thông qua sự biểu hiện thế giới nội tâm phức điệu với những
tâm trạng, cảm xúc, suy tư…nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình đã bộc lộ những tố chất
con người của mình, để lại dấu ấn đậm nét về cá nhân tác giả, và cả dấu ấn cho cả một thời
đại thơ ca. Bởi “ nhà thơ nào cũng là con người cụ thể của một thời đại, có mối quan hệ mật
thiết với những vấn đề xã hội, tư tưởng, văn hóa của thời đại đó” [57, tr7]. Tìm hiểu “con
người nhân văn” trong thơ ca của một thời đại là để khám phá vẻ đẹp đầy chất người mà các
nhà thơ đã phô diễn trong thi phẩm của mình. Đồng thời nhìn nhận xem với cách biểu hiện
những vẻ đẹp đó, họ đã có những đóng góp gì cho thơ ca thời đại đó nói riêng, văn học và
văn hóa của dân tộc nói chung.
Tìm hiểu “con người nhân văn” trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Nguyễn Du chính là tìm hiểu con người tác giả trong thơ với những vẻ đẹp riêng về nhân
cách. Những nét đẹp đó qua sự thẩm định của thời gian và sự đánh giá của con người đã
không dừng lại ở phẩm chất của một cá nhân nữa mà trở thành tài sản chung vô giá của dân
tộc.
3. Vấn đề “con người nhân văn” trong tiến trình văn học trung đại
Khái niệm “tiến trình văn học” được hiểu là một chuỗi nối tiếp nhau giữa các sự kiện
văn học, tạo nên một thời kì văn học có bắt đầu và kết thúc. Đồng thời trong tiến trình đó các
sự kiện không thôi vận động và tương tác lẫn nhau.
Tiến trình văn học trung đại Việt Nam đã được xác định là bắt đầu từ thế kỉ X và kết
thúc đến hết thế kỉ XIX, muộn màng hơn rất nhiều so với tất cả các thời kì văn học trung đại
trên thế giới. Dẫu được hình thành và phát triển dưới chế độ xã hội phong kiến lúc thịnh lúc
suy, song thời trung đại Việt Nam không phải là đêm trường trung cổ như ở châu Âu khi
đem so sánh với thời Phục hưng nơi đất nước của họ, mà là thời đại phát triển rực rỡ của dân
tộc. “Đây là thời kì mà hầu hết các truyền thống quý báu của dân tộc đều hình thành. Văn
học và ngôn ngữ đều đã phát triển và đạt tới đỉnh cao. Tâm hồn Việt Nam, nhân cách Việt
Nam được khẳng định và được biểu hiện thành văn. Không thể hiểu được văn hóa, văn học
và con người Việt Nam hiện đại mà không nghiên cứu kĩ lưỡng thời kì văn học này” [42,
tr73]. Suốt mười thế kỉ văn học đó, các thế hệ nhà thơ, nhà văn của chúng ta đã không
ngừng nổ lực thoát khỏi cái bóng của nền văn học Hán để xây dựng một tòa lâu đài văn học
cổ kính đậm chất Đại Việt.
Vậy, vấn đề đặt ra là tại sao giữa muôn vàn những quốc hồn, quốc túy được phản ánh
trong văn học trung đại, bài viết lại nhấn vào vấn đề “con người nhân văn”?
Trước hết là vì, trong các vấn đề văn học cần được nghiên cứu của thời kì trung đại,
vấn đề con người trong văn học có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Con người là phạm trù
cơ bản của văn hóa, là nội dung cơ bản của văn học và trình độ ý thức về con người đánh dấu
trình độ phát triển của văn học. Thế nhưng, theo nhiều nhà nghiên cứu, vấn đề này xưa nay
vẫn còn ít được các công trình nghiên cứu về văn học trung đại đề cập. Khi đi vào tìm hiểu
vấn đề con người, khía cạnh “con người nhân văn” là một giá trị đặc sắc của văn học trung
đại cần được tri nhận thấu đáo. Bởi lẽ, thứ nhất, như đã hơn một lần khẳng định, con người
luôn là nhân vật trung tâm của văn học, đối với thơ trữ tình con người đó chính là tác giả -
chủ thể trữ tình của tác phẩm. Thứ hai, thi đàn văn học trung đại là nơi hội tụ những bậc
chân nho làm thơ với nhân cách trong sáng tuyệt vời. Các cụ sống trong “bầu sinh quyển văn
hóa” của cương thường đạo lí, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc học thuyết của tam giáo. Và họ tìm
đến với thơ như một thú chơi tao nhã để tỏ chí, giãi lòng. Cho nên thơ là tấm gương phản
chiếu chân thực nhất thế giới tâm hồn của họ. Những phẩm cách, những ưu tư, trăn trở…
được biểu hiện ra trong các mối quan hệ với con người, tự nhiên và xã hội thật sự đã tỏa sáng
những nét đẹp cao quý. Những nét đẹp đó được kết tinh và thăng hoa thành giá trị văn hóa
của dân tộc. Nó trở thành truyền thống quý báu của đất nước, nên càng không thể để nó lãng
quên theo thời gian mà cần phải không ngừng được khơi dậy, để nó chảy mãi, chảy mãi,
thấm vào hồn những thế hệ đi sau.
4. Thời đại, vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong
tiến trình văn học trung đại.
4.1. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và thời đại của họ
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) sinh ra trong buổi suy tàn của nhà Trần, trong “ám ảnh
vãn chiều” của hào khí Đông A, nơi mà dẫu sao ông cũng được dự phần vào dòng dõi “ danh
gia vọng tộc”. Bởi Nguyễn Trãi là cháu ngoại và được nuôi dưỡng suốt tuổi ấu thơ trong
dinh của đại tư đồ Trần Nguyên Đán – cháu bốn đời của thượng tướng Trần Quang Khải,
thuộc dòng trực hệ hoàng tộc. Đây chính là môi trường để cho những giá trị rực rỡ nhất về
văn hóa, tư tưởng của triều đại nhà Trần – một triều đại được xem là trang sử vẻ vang nhất
của lịch sử phong kiến Việt Nam – qua ông ngoại và cha truyền vào tâm hồn Nguyễn Trãi.
Chính vì thế, theo Trần Đình Sử “Nguyễn Trãi là con người của nhà Trần trước khi là con
người của nhà Lê”.
Về văn hóa, Nguyễn Trãi sống trong một thời kì quá độ, thời kì bản lề của hai chặng
đường lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một nền văn hóa Đại Việt được cấu
trúc theo mô hình Phật giáo; sau Nguyễn Trãi là một nền văn hóa Đại Việt được cấu trúc
theo mô hình Nho giáo. Đứng ở vị trí giao thoa này, Nguyễn Trãi có được một quan niệm
thông thoáng và không câu nệ trong quan hệ với các triều đại. Vì thế, là con cháu của nhà
Trần, Nguyễn Trãi vẫn quyết định ra làm quan dưới tân triều Hồ với mong muốn góp phần
vào việc chấn quốc an dân. Song, hình như vận nước chưa trao về tay người quân tử, chính
trị dưới triều Hồ mới thành lập đã gặp phải rối ren vì không được lòng dân ủng hộ. Trong khi
những xâu xé lẫn nhau giữa con cháu dòng dõi tôn thất nhà Trần và cha con Hồ Quý Ly còn
chưa giải quyết xong thì ngoài bờ cõi giặc Minh đã lăm le xâm chiếm nước ta. Dân tộc đứng
trước nguy cơ mất nước về tay đế chế Đại Minh (Trung Quốc) hung ác. Vận nước càng trở
nên nghiêng ngả đảo điên.
Tháng 2 – 1406, nhà Minh huy động 80 vạn quân chính thức xâm lược nước ta. Lực
lượng kháng chiến của triều đình và quân đội nhà Hồ khi đó vì quá non yếu so với quân địch
đã nhanh chóng bị tan rã. Tháng 6 – 1407 giặc Minh chiếm đóng toàn bộ nước ta, đổi tên
thành Thăng Long thành Đông Quan và biến mảnh đất ngàn năm văn vật này trở thành trung
tâm sào huyệt của chúng. Cha con Hồ Quý Ly cùng hầu hết tướng lĩnh, quan lại của triều Hồ
đều rơi vào tay giặc, bị giặc bắt làm tù binh và giải về Kim Lăng – Trung Quốc. Trong số đó,
có thân phụ Nguyễn Trãi – nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh – lúc bấy giờ giữ chức Tư
nghiệp quốc tử giám của triều Hồ. Cũng từ đây, Nguyễn Trãi bị cuốn vào một thời kì đầy
bão táp của bạo lực bành trướng và đô hộ Trung Hoa, đồng thời cũng chứng kiến sức mạnh
của quần chúng và của toàn thể dân tộc được tổ chức, vùng dậy đấu tranh chống lại thế lực
nói trên để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Suốt hai mươi năm giặc Minh đô hộ nước ta
với những chính sách cai trị vô cùng dã man, trong đó có chính sách đồng hóa người Việt
thành người Minh, Nguyễn Trãi đã đứng vào trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng
Trung Hoa hóa với xu hướng giải Trung Hoa hóa diễn ra trong nội bộ các thế lực cầm quyền
và giới trí thức.
Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào cuộc đấu tranh chính trị, văn hóa, xã hội này
của dân tộc. Và mười năm nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi nơi núi Lam Sơn, mười năm được
hòa mình vào cuộc chiến đấu đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc có lẽ là khoảng thời gian
đầy đam mê và vẻ vang nhất trong cuộc đời Ức Trai.
Năm 1427, quân viễn chinh phương Bắc hoàn toàn đại bại và buộc phải rút về nước
trước tình hòa hiếu đầy cao thượng của quân và dân ta. Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Đại cáo
bình Ngô, bá cáo cho thiên hạ về thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp chống giặc Minh cứu
nước, đồng thời khẳng định nền hòa bình vững bền của dân tộc. Rồi ông hăm hở bắt tay vào
xây dựng lại đất nước với một niềm lạc quan tin tưởng vô cùng. Thế nhưng, dư ba của chiến
thắng không tồn tại được lâu, triều đình bắt đầu xuất hiện những bất ổn, xu hướng chuyên
chế “kiểu châu Á” đã hình thành trong bộ máy chính quyền khiến cho Nguyễn Trãi – đường
đường là một khai quốc công thần cũng có lúc trở thành nạn nhân của chế độ. Đó là những
năm tháng ông phải sống trong bi kịch xuất xử và nỗi khổ tâm vô hạn ngay cả khi đã cáo
quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Và có lẽ đây cũng chính là những mầm mống âm ỉ đầu tiên chuẩn
bị cho một vụ án oan thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam – vụ án Lệ Chi
Viên, cắt ngang cuộc đời của một nhân vật toàn tài hiếm có của dân tộc – Nguyễn Trãi.
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời vô cùng phong phú, gắn bó máu thịt
với thời đại của mình, chứng kiến tất cả những sự kiện vui buồn của lịch sử. Song điều làm
chúng ta hết sức khâm phục là ông đã thẩm thấu hết những tinh hoa của thời đại, tạo nên một
bản lĩnh sống cứng cỏi để vượt lên tất cả những biến động, những đảo điên, đen bạc của cuộc
đời.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), sống gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động, ngay từ
thuở ấu thơ đã được hít thở không khí thái bình thịnh trị của triều Hậu Lê dưới đời vua Lê
Thánh Tông. Song, hạnh phúc đó không tồn tại được lâu, Khi vua Lê Túc Tông qua đời chỉ
sau sáu tháng ở ngôi cũng là lúc thời kì hoàng kim của nhà Lê chấm dứt. Bắt đầu có ý thức,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải chứng kiến quá trình giãy chết của nhà Lê với những tên “vua
quỷ” (Lê Uy Mục), “vua lợn” (Lê Tương Dực) nổi tiếng bạo ngược, hoang dâm vô độ và ăn
chơi xa xỉ, khiến chính sự vô cùng rối ren, giặc giã nổi lên chia bè kết phái khắp nơi, cảnh
huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt diễn ra khốc liệt hơn bao giờ hết, để rồi cuối cùng cũng
bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527.
Triều đình nhà Mạc, mở đầu với đời vua Mạc Đăng Dung vốn xuất thân từ nghề đánh
cá, hơn nữa lại mang tiếng tiếm ngôi, vì thế ngay từ đầu đã không nhận được sự ủng hộ của
nhiều người, đặc biệt là các thần tử trung tín với nhà Lê. Cho đến nay, đánh giá về vị trí, vai
trò của Nhà Mạc đối với lịch sử vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến nghịch chiều, và điều này đã
ảnh hưởng phần nào đến cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu về thái độ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm khi ông quyết định ra làm quan dưới triều nhà Mạc.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu tiến bộ, thì cần phải có thái độ khách quan hơn
khi đánh giá nhà Mạc cũng như mối quan hệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm với triều đại này. Bởi
trên thực tế, so với triều Lê đổ nát của một loạt các ông vua tối tăm, tàn bạo, đắm say sắc dục
đầu thế kỉ XVI thì rõ ràng triều Mạc là một vương triều mới có nhiều tiến bộ hơn, nhất là
giai đoạn đầu.
Nhưng rồi trước yêu cầu của lịch sử, triều Mạc cũng bộc lộ những bất lực, hạn chế.
Triều Mạc thay thế triều Lê nhưng không giữ vững được chính quyền trung ương và quốc
gia thống nhất, để cho từ năm 1533, các thế lực phong kiến thù địch dưới danh nghĩa phù Lê,
xây dựng lực lượng và thành lập chính quyền riêng ở Thanh Hóa. Đất nước từ đó lâm vào
thảm họa phân liệt và nội chiến dai dẳng, triền miên đẩy nhân dân vào cảnh núi xương sông
máu mà kết cục là sự thất bại của chính nhà Mạc. Vì vậy, sau 8 năm phò tá triều Mạc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ đàn hặc và xin chém 18 tên lộng thần. Nhưng vua Mạc
không nghe nên ông bỏ quan về sống ở quê nhà.
Cùng với bối cảnh lịch sử trong nước nói trên, thế kỉ XV – XVI còn được coi là một
giai đoạn chuyển biến có ý nghĩa bản lề trong mối quan hệ phương Đông và phương Tây, có
ảnh hưởng đến vận mạng của các dân tộc phương Đông.
Ở phương Tây, mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã manh nha ở một số nước phát
triển từ thế kỉ XIV – XV. Từ đầu thế kỉ XVI chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở những nước tiên
tiến của Tây Âu và trong các thế kỉ tiếp theo xuất hiện lần lượt ở các nước khác, đã đưa
phương Tây từ thời đại phong kiến tiến lên thời đại phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong
khi đó thì hầu hết các nước phương Đông trong đó có Đại Việt vẫn đang duy trì chế độ
phong kiến với kết cấu kinh tế - xã hội, thiết chế chính trị và hệ tư tưởng Nho giáo. Thực tế
này đã đẩy các nước phương Đông rơi vào tình trạng trì trệ và bất cập với xu thế của thời
đại, đồng thời cũng tự biến mình thành đối tượng cho sự bành trướng và xâm lược của chủ
nghĩa tư bản phương Tây.
Từ thế kỉ XVI Đại Việt cũng đã bắt đầu tiếp xúc với thuyền buôn của Bồ Đào Nha rồi
Hà Lan dẫn đến sự hình thành kinh tế hàng hóa và quan hệ tiền tệ. Đây là quy luật tất yếu
của sự phát triển và dĩ nhiên, mặt trái của nó sẽ là phá vỡ thành trì cương thường đạo lý của
hệ tư tưởng Nho giáo đã phần nào bộc lộ sự lỗi thời. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ chưa
thể có được thông tin để hiểu biết những chuyển biến của thế giới, nhất là phương Tây. Nhận
thức của ông vẫn chưa thể thoát ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến mà chủ yếu là tư tưởng Nho
giáo, nhưng hệ tư tưởng này thì đã không còn giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như các trí
thức đương thời giải đáp và giải quyết những vấn đề của đất nước và thời đại. Trong khi đó
một hệ tư tưởng mới thì lại chưa xuất hiện. Tình cảnh này lý giải vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm
lại chua xót và lên án gay gắt tất cả những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến, cảnh đảo
điên của nhân tình thế thái, sự sụp đổ của cương thường đạo lý…và ra sức ngăn chặn nó để
mong lập lại trật tự phong kiến mà chưa phân biệt được trong đó đâu là những sản phẩm xấu
xa của chế độ phong kiến, đâu là hệ quả không tránh khỏi của kinh tế hàng hóa và quan hệ
tiền tệ mà chính sự phát triển của nó lúc bấy giờ lại tiêu biểu cho sự tiến bộ của xã hội và là
tiền đề đưa đất nước tiến lên.
Bối cảnh lịch sử của thời đại cả trong và ngoài phạm vi dân tộc nói trên đã tác động
trực tiếp đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, nó chi phối đến quyết định xuất xử và thái độ của ông đối
với nhà Mạc cũng những trăn trở của ông trước cuộc đời.
Nguyễn Du (1765 – 1820) sinh trưởng trong một gia đình quý tộc lâu đời, cha và anh
đều từng giữ chức tể tướng của triều đình, anh em họ hàng có nhiều người đỗ đạt và làm
quan to, nhưng chưa hẳn đó là điều may mắn vì thời đại của ông đã bước vào buổi hoàng hôn
của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây có thể nói là một thời kỳ giằng co quyết liệt giữa
nhiều xu thế chính trị khác nhau. Trong đời sống tư tưởng của xã hội từng mảng nhỏ của hệ
thống giáo lí phong kiến như bị bung ra, bị lật xáo đến tận gốc, tạo nên không ít những cuộc
khủng hoảng tinh thần.
Vừa mới lớn lên Nguyễn Du đã phải chứng kiến cái hồi kết đầy chua xót và nhục nhã
của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, mà màn bi hài nhất có lẽ là cảnh kiêu binh nổi loạn,
trong đó chính bản thân gia đình ông cũng là người trong cuộc. Cùng với tình cảnh “tan đàn
xẻ nghé” của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, thế kỉ XVIII còn là thế kỉ đánh dấu sự thắng
lợi của phong trào khởi nghĩa nông dân, trong đó nổi bật nhất là chiến công lẫy lừng của
Nguyễn Huệ phá tan hai mươi vạn quân Thanh dẫn đến sự thay đổi sơn hà. Và rồi cũng
chính giữa lúc nhà thơ chưa kịp làm quen với sự có mặt của những con người “cờ đào áo
vải” trong cương vị chủ nhân của đất nước, thì ông lại sửng sốt nhìn thấy tấn bi kịch đổ vỡ
của triều đại Tây Sơn mà thấp thoáng phía sau là cái mưu đồ “phục quốc” của Gia Long –
Nguyễn Ánh.
Có thể nói, những cơn bão táp chính trị mà gió luôn đổi chiều trong lịch sử Việt Nam
cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã thổi dồn dập vào Nguyễn Du, làm cho ông như
sống trong một trạng thái choáng váng về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được
một lẽ sống, một chỗ đứng nào vững vàng ổn định.
Đồng thời, tình hình chính trị bất ổn như trên đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn
cùng, trăm họ không chỉ đói cơm, rách áo mà còn bị chà đạp về tinh thần. Chế độ phong kiến
liên tục thay ngôi đổi chủ, khiến cho giai cấp thống trị ra sức củng cố quyền lực bằng đủ mọi
thủ đoạn phi nhân văn khi ngai vàng thuộc về tay mình dẫn đến những người tài đều không
có đất dung thân.
Song con người của thế kỉ XVIII – XIX, đặc biệt là giới trí thức đã không còn là
những con người chỉ biết cúi đầu một cách đầy cam chịu trước sự áp bức của chế độ nữa. Sự
tiếp xúc ngày càng mở rộng với văn hóa phương Tây một mặt làm nứt vỡ đạo đức thánh
hiền, khiến cuộc sống xã hội bị đảo lộn, nhưng mặt khác cũng tạo ra một sự khởi động về
mặt ý thức. Đã đến lúc người ta nhìn đời, nhìn người, nhìn lại số phận mình không còn như
cũ. Họ biết thẩm định lại những giá trị vật chất và tinh thần, rằng giá trị nào đem lại hạnh
phúc cho con người, những gì gây đau khổ chết chóc. Điều đáng nói là họ nhận ra nhưng lại
chưa thể tìm được một con đường nào để giải thoát cho bản thân và cộng đồng, sự bế tắc đó
chính là bi kịch của Nguyễn Du nói riêng và giới trí thức thời đại ông nói chung. Và thực
trạng này giúp chúng ta giải thích được những mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du,
đồng thời hiểu được vì sao trong thơ Tố Như lại đau đời, thương người và day dứt trước thân
phận con người đến thế.
4.2. Vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong tiến trình
văn học trung đại
Văn học trung đại Việt Nam được thống nhất là kéo dài từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
Trong suốt mười thế kỉ đó, văn học cũng có lịch sử phát triển của nó, và chịu ảnh hưởng sâu
sắc của lịch sử dân tộc. Lẽ dĩ nhiên, trong tiến trình đi lên của một thời kì văn học dài đằng
đẳng như thế không thể nào đồng nhất diện mạo của nó bằng một cái nhìn phi biện chứng. Vì
thế, căn cứ vào những bước ngoặt mà ở đó văn học thể hiện rõ nét nhất sự chuyển biến sâu
sắc cả về nội dung lẫn phương thức biểu đạt, đương nhiên là có sự đối sánh với lịch sử đất
nước, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân chia thời kì văn học này ra nhiều giai đoạn nhỏ
để tiện bề khám phá và thẩm định nó.
Tuy nhiên, về việc phân kì văn học trung đại, xưa nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác
nhau. Trong số đó, để phù hợp với đề tài nghiên cứu chúng tôi chọn cách phân chia theo
cuốn “Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại” của tác giả Đoàn Thị Thu
Vân – chia văn học trung đại ra làm ba giai đoạn:
1. Sơ kì trung đại: Từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV
2. Trung kì trung đại: Từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII
3. Mạt kì trung đại: Từ giữa thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX
Với cách phân chia này, Nguyễn Trãi trở thành cây đại thụ của giai đoạn văn học Việt
Nam sơ kì trung đại. Là hiện thân của những gì tinh túy nhất của thời đại và dân tộc, ở ông,
bên cạnh một nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng tiến bộ, nhà chính trị tài ba, nhà quân sự lỗi lạc
còn là một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc. Con người đó sinh ra là để tô điểm cho Tổ
quốc thêm vẻ vang, rạng rỡ.
Về văn học, ông là người mở đầu, nhưng ngay khi mở đầu đã là một đỉnh cao của nền
thơ Nôm Việt Nam đương thời, mở ra nhiều phương hướng mới mẻ, don đường cho văn học
tiếng Việt phát triển mạnh mẽ ở những thế kỉ tiếp theo. Tác phẩm của ông là bản anh hùng ca
đẹp nhất về tình thần yêu nước thương dân, yêu thiên nhiên tạo vật; về tư tưởng nhân văn,
nhân đạo và đạo lý truyền thống; về nhân cách trong sáng vô ngần của chính bản thân ông và
của thời đại ông.
Có thể nói, Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài hiếm có, trong mọi phương diện ông đều
tỏa sáng như ngôi sao Khuê trên bầu trời. Tài năng và nhân cách Nguyễn Trãi là tài sản vô
giá không chỉ của dân tộc mà còn mang tầm nhân loại, chính vì thế mà ông trở nên vĩ đại, trở
thành danh nhân văn hóa thế giới.
Giai đoạn văn học Việt Nam trung kì trung đại nổi lên với cây đại thụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, ông là sản phẩm văn hóa điển hình của thế kỉ XVI – một thế kỉ nặng về chinh chiến
và nhiều biến động nên phải lựa chọn một phương thức ửng xử khả dĩ có thể đáp ứng được
nhu cầu đời sống tinh thần vốn muôn phần phức tạp. Là hiện thân của mỹ học phong kiến, ở
ông toát lên vẻ đẹp của một trí tuệ siêu việt và một nhân cách cao khiết tuyệt vời. Trong con
người ông có sự kết tinh giữa vốn kiến thức cao siêu của một nhà nho uyên thâm và cái nhìn
nhân ái, giản phác của một minh triết dân gian.
Tất cả những điều trên đã in dấu vào trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đưa
ông đứng vào vị trí của một cây đại thụ văn hóa lẫn văn học tỏa bóng xuống cả thế kỉ. Là
người dành nhiều thời gian trong cuộc đời để làm thơ tiếng Việt, thế nên, thơ quốc âm từ
cuối Trần rồi Lê sơ phải qua Nguyễn Bỉnh Khiêm như một nhịp cầu vững chắc, mới đến
được Nguyễn Du, đỉnh cao chói lọi của thơ tiếng Việt.
Vì vậy, “Trên nhiều phương diện, không ai nói được như ông, càng không thể thay thế
được tiếng nói kiểu như ông, vì thế mà ông trở thành vĩ đại, tỏa sáng, thành danh nhân văn
hóa lớn của dân tộc” [6, tr230].
Trên thực tế, trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử văn học, những giá trị đẹp đẽ
nhất bao giờ cũng kết tinh dưới ngòi bút của một tác giả hoặc một nhóm tác giả nào đó đảm
nhiệm vai trò là đỉnh cao của giai đoạn. Với giai đoạn văn học Việt Nam mạt kì trung đại,
người xứng đáng đứng vào vị trí này chính là đại thi hào Nguyễn Du – tác gia đã mang lại
cho văn học trung đại nói riêng, văn học dân tộc nói chung cái quyền được nhìn ra văn học
thế giới mà không phải hổ thẹn, đồng thời cũng đem về cho xứ sở niềm tự hào vì có thêm
một danh nhân văn hóa thể giới, cái phần thưởng cao quí mà vô cùng hiếm hoi trong lịch sử
nước nhà. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, chất chứa nhiều giá trị sâu sắc, Nguyễn Du thật sự
là con người khổng lồ của văn học trung đại Việt Nam.
Có thể nói, những tinh hoa của văn học trung đại bao gồm cả nội dung tư tưởng lẫn
hình thức nghệ thuật khởi phát từ Nguyễn Trãi, đi qua bệ phóng Nguyễn Bỉnh Khiêm, đều đã
được phát triển đến đỉnh cao rực rỡ trong sáng tác của Nguyễn Du.
Khám phá khía cạnh “con người nhân văn” trong tiến trình văn học trung đại, người
viết chọn ba tác giả, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du làm đối tượng khai
thác. Không chỉ bởi đây là ba đỉnh cao văn học hội tụ đầy đủ tinh hoa của thời đại, mà còn vì
giữa ba chân dung vĩ đại ấy dường như có một mối tương liên nào đó. Đúng như liên tưởng
của Phong Lê: “Nói đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, không quên Nguyễn Trãi, người của hai thế kỉ
trước đó, người kết hợp trong mình vừa là anh hùng vừa là danh nhân. Nói đến Nguyễn Bỉnh
Khiêm, lại nhớ Nguyễn Du, người của hai thế kỉ sau, người sáng chói trên đàn văn ở tư cách
nhà thơ – người nghệ sĩ” [25, tr18]
CHƯƠNG II: CON NGƯỜI NHÂN VĂN ĐẸP TRONG Ý THỨC TRÁCH
NHIỆM CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC
ĐỐI VỚI CUỘC ĐỜI.
1. Nguyễn Trãi với tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”
Với Nguyễn Trãi, ý thức trách nhiệm về “Trí quân trạch dân” luôn nung nấu trong
lòng. Ý thức đó có lẽ đã được hun đúc từ thuở ấu thơ, được thấu truyền từ cha và ông ngoại.
Hẳn không ai quên được lịch sử dân tộc nửa sau thế kỉ XIV, khi nhà Trần rơi vào tình trạng
suy vi, nội loạn, ngoại xâm đều xảy ra, dân chúng đã lầm than như thế nào. Thơ Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đều cất lên đầy thương cảm nhưng đành bất lực:
“Hạn rồi lại lụt mấy năm liền,
Lúa má đều hư, khổ khổ thêm.
Ba vạn sách kia vô dụng hết,
Bạc đầu đành phụ với dân đen.”
(Bài thơ làm tháng sáu năm Nhâm Dần –
Trần Nguyên Đán)
“Muôn dân rên xiết vì cơm áo,
Vàng ngọc nhà ai chất thành gò.”
(Họa vần Kiểm chính Hồng Châu –
Nguyễn Phi Khanh)
Thân phụ Nguyễn Trãi từng ao ước :
“Ví làm ống bể lo rèn được,
Thổi ấm lòng người khắp chín châu.”
(Mùa xuân lạnh – Nguyễn Phi Khanh)
Truyền thống quý báu đó đã sớm chảy vào tâm não Ức Trai. Để rồi, trọn đời mình ông
luôn gánh nặng hai vai bởi lòng “ưu ái”:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”
(Thuật hứng, bài 5)
“Ưu” tức là ưu quốc, “ái” tức là ái dân – lo nước thương dân trở thành một bổn phận
hiển nhiên mà Nguyễn Trãi tự giao phó cho mình. Chính nỗi “tiên ưu” – lo trước cái lo của
thiên hạ – mãi canh cánh bên lòng khiến ông bao đêm thức trắng để rồi những vần thơ không
ngủ lại có dịp ra đời:
“Bình sinh độc bão tiên ưu chí,
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.”
(Suốt đời riêng ôm cái chí lo trước thiên hạ)
Ngồi ôm gối lạnh , suốt đêm không ngủ)
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm )
Thao thức trở thành một ám ảnh trong thơ Nguyễn Trãi, vì thế Xuân Diệu đã có những
cẩm thông thật sâu sắc: “Các bạn ơi! Hơn năm thế kỉ rồi thơ Nguyễn Trãi không bao giờ
ngủ…trong thơ Việt Nam, vời vợi cái lo âu điển hình của Nguyễn Trãi….Tóc bạc trên đầu,
hòa lẫn với đêm khuya không ngủ, thơ Nguyễn Trãi thao thức một nỗi niềm gì….Người thi
sĩ trước năm trăm năm đốt tâm hồn cháy vòi vọi ở giữa đất trời….Khắc khoải như con cuốc
suốt đời, cho dẫu chết rồi, lòng ưu ái của ông vẫn cứ còn cháy ran trên trang thơ, trong lịch
sử”[39, tr708]
Đúng vậy, chưa bao giờ Nguyễn Trãi trằn trọc vì bản thân. Đọc thơ Ức Trai – ta cảm
nhận một sự quên mình đến cao cả, cái còn lại chỉ là lo cho nước cho dân:
“Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.”
(Thuật hứng, bài 23)
“Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.”
(Báo kinh cảnh giới, bài 31)
Đọc những vần thơ trên người đọc không khỏi nhớ đến những câu thơ của Hồ Chí Minh,
người lãnh tụ “chỉ biết quên mình cho hết thảy” – cũng đã từng thức trắng bao đêm giữa núi
rừng Việt Bắc như thế:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
( Cảnh khuya )
Bác Hồ thật gần với Nguyễn Trãi, đó là sự gặp gỡ giữa những tâm hồn lớn hay chính truyền
thống dân tộc hơn 500 năm trước luôn như nước vẫn chảy về đông? Nhiều đêm không ngủ vì
một nỗi âu lo không bao giờ dứt, “biên xanh” dường như cũng nhanh chóng nhuốm “màu
sương khói”. Hình ảnh “mái đầu bạc” vì thế mà xuất hiện khá nhiều trong thơ Ức Trai, như
một hệ quả đi liền với niềm thao thức:
“Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái.”
(Tự thuật, bài 1 )
“Nhớ chúa lòng còn son một tấc,
Âu thì tóc đã bạc mười phân.”
(Bảo kính cảnh giới, bài 38)
Đường đường là một bậc khai quốc công thần, đã góp phần không nhỏ đưa đến quyết
định thắng._.ếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng
Con vượn con hạc làm sao mà
nhận ra người láng giềng cũ)
(Đồng Lư đạo thượng dao kiến Sài sơn)
Có khi trong mơ thấy hiện ra rừng tùng, khóm cúc lại nhớ quay quắt giấc mộng trở về,
rồi ông tự giận mình còn lần lữa phải chăng vì cái tình với mùi rau thuần cá vược chưa đủ
thiết tha, càng nghĩ lại càng cảm thấy thẹn thùng khi lỗi hẹn với non nước:
“Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh”
(Rất thẹn cùng trúc và đá vì lỗi phụ lời thề với ngươi)
(Tống nhân)
Ở quê, “ Trăng núi gió sông dường như vẫn có ý đợi chờ ” khiến ước muốn từ quan
càng thôi thúc mãnh liệt:
“Ngã dục quải quan tòng thử thệ
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn”
(Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi
Cùng ông hưởng thọ vui với đàn và rượu)
Rõ ràng, những suy nghĩ bàng bạc tư tưởng Lão Trang như trên đã nói lên một điều
rằng: dẫu phải sống trong một xã hội tăm tối nhưng tâm hồn Nguyễn Du vẫn luôn hướng về
(Liệp)
(Tặng nhân)
cõi thanh cao, vẫn ước mơ có một môi trường trong sạch để di dưỡng cái thiên lương đẹp đẽ
của mình, niềm khát khao ánh sáng, khát khao đạo đức đó nơi nhà thơ quả là một nhân cách
sống cao khiết tuyệt vời.
Chỉ có điều, Nguyễn Du chán ghét cảnh quan trường và mong muốn cuộc sống ẩn dật
đến thế, vậy tại sao ông vẫn không thể có được một hành động dứt khoát hơn? Trả lời cho
vấn đề này quả thật không đơn giản.
Lý do mà Nguyễn Du ra làm quan với Gia Long, nhiều người đồng tình với ý kiến của
Hoài Thanh: “Nguyễn Du thật thà đi theo nhà Nguyễn. Ông làm quan đến chức tham tri và
hai lần được làm chánh sứ. Không phải vô cớ mà nhà Nguyễn tin dùng ông đến thế” [Tâm
tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán,14. tr 34]. Chưa hết, cuộc sống quan trường bị
chèn ép đến nỗi “khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta” (Ngẫu đắc), thế nhưng
vẫn phải nhẫn nhịn chẳng qua vì đó là cần câu cơm “Đầu bạc chỉ mãi lo chuyện cơm áo” (Dạ
tọa). Đó có thể cũng là một lý do, thời đại Nguyễn Du, cùng với sự trỗi dậy của ý thức cá
nhân, nhu cầu bản thân cũng được chú ý. Đã đến lúc người ta không thể thản nhiên mà tự
trào về cái nghèo của mình như thời Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm được nữa. Nguyễn
Du ngoài nuôi sống bản thân còn có trách nhiệm với một gia đình mười miệng ăn ở quê mà
vào những năm mất mùa đứa con nào cũng “mặt đói xanh như rau”, nếu Nguyễn Du không
san sẻ liệu hình tượng của ông còn đẹp? Vả lại có tấm lòng biết yêu thương người thân mình
mới cảm thông và chia sẻ được với cái nghèo cái đói của nhân dân.
Hơn nữa, sống giữa một thời đại quay cuồng trong bão táp chính trị như xã hội Việt
Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, hầu hết tầng lớp trí thức đều rơi vào bế tắc trong cách
chọn đường. Thế nên, ra làm quan để phải sống trong dằn vặt như Nguyễn Du cũng chính là
biểu hiện của sự bế tắc đó.
Song có lẽ, cái lý do cơ bản nhất níu giữ Nguyễn Du ở lại với cuộc đời chính là vì tấm
lòng nặng tình đời của ông. Nỗi thương người, đau đời của Tố Như cũng như cái cuống sen
“dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” không thể nào dứt ra được. Vì thế, dẫu có mơ ước đến
một cuộc sống ngoài cõi tục thì cũng chỉ là mơ ước thôi, Nguyễn Du không thể đi ở ẩn theo
kiểu đạo sĩ. Ông không có một trí óc say sưa với khói mây của tư tưởng siêu hình. Ở điểm
này, bài thơ xóm nhỏ trên núi Hoàng Mai có một ý rất thú vị. Cả bài thơ, Nguyễn Du say
sưa ca ngợi cảnh sống yên vui, giản dị của cư dân trong xóm núi và không giấu lòng thèm
muốn một cuộc sống như vậy. Thế nhưng khi kết thúc tác giả lại viết: “Nếu hoa tùng, hạt
bách mà có thể ăn được; Khi đầu bạc không về đây thì về đâu?”. Trước đây, những tư tưởng
siêu thoát cũng thường được Nguyễn Du gửi vào hai câu kết như thế, nhưng ở tác phẩm này
dường như ngược lại. Tại sao đã đi ở ẩn còn nghĩ đến chuyện áo cơm? Vậy là dù trong ý
nghĩ, Nguyễn Du cũng rất hiện thực và không quên hẳn được mặt cơ bản của vấn đề. Phải
chăng vì cuộc đời thi nhân đã từng trải qua đói rét và ngoài cuộc đời kia, người người cũng
lại đang rên xiết vì rách áo, thiếu cơm, nên cái ăn, cái mặc đã trở thành một nỗi ám ảnh trong
ông?
Phải cảm ơn lắm cái gió bụi mười năm kia trong cái buổi đất trời xáo trộn bấy giờ đã
làm cho Nguyễn Du trở thành nghệ sĩ và giữ nhà nghệ sĩ ở lại với cuộc đời. “Bởi vì nếu
những phức tạp bộn bề của hiện thực xã hội ấy chỉ được ghi lại giản đơn như một cây kim
phong vũ kế với một nét vạch là cuộc đời tang thương, cuộc đời như giấc mộng, đáng chán,
đáng trốn, thì bao nhiêu thơ văn của Nguyễn Du nhiều lắm cũng có được chút giá trị làm
chứng cho một căn bệnh thời đại chứ làm gì có được Nguyễn Du vĩ đại như đã có. Sự lớn lao
là ở chỗ người trí thức của thời đại ấy đã thể hiện một cái nhìn hiện thực vô cùng sâu sắc về
cuộc đời, về “những điều trông thấy”, đã đứng về phía những con người bất hạnh bị cuộc đời
bể dâu vùi dập, những người lao động khổ nhục đói rét, những con người tài hoa trung nghĩa
bị đọa đày, giết chóc, những người anh hùng thất bại, những người phụ nữ khốn khổ vì thân
phận phụ nữ... để mà thương, mà khổ, mà đay nghiến, phẫn uất, mà vạch tội, mà kêu to lên
cho tới tận nghìn xưa, tới tận mai sau. Trong tâm trạng Nguyễn Du, cái “đau đớn lòng , cái
đau thương vô vàn đó mới là nét cơ bản nhất” [57. tr 488]. Lý do Nguyễn Du không thể lánh
đời mà cứ trằn mình ra chịu chung nỗi đau với cuộc đời cũng là vì thế.
Ở lại giữa cuộc đời, trong đêm “trường dạ” đầy hắc ám, tuy Nguyễn Du chưa thể làm
một trái tim Đanko có thể tỏa sáng để dẫn dắt đoàn người đói khổ vượt qua rừng rậm đầy
chết chóc đến bờ biển lúc bình minh lên, điều đó cũng dễ hiểu, giới hạn của ý thức hệ phong
kiến buổi suy tàn đã bít hết mọi lối ra, song điều đáng quý là dẫu phải sống trong trường bể
dâu đầy rẫy tội ác và thói xấu, Nguyễn Du vẫn tin vào bản tâm trong sáng của mình, vẫn cố
gắng bước đi đàng hoàng trong bóng đêm lịch sử mà không để cho nó xâm nhập vào mình.
Trước đó, Nguyễn Du có nói đến chuyện vì làm quan mà con người đánh mất khuôn
mặt thật của mình, nhưng dẫu có phải thay đổi để tránh phiền lụy cho bản thân, thì viên ngọc
vẫn cứ là viên ngọc, cái thiên tính tốt đẹp đó chỉ buộc phải che giấu chứ không hề bị mất đi.
“Nhiều lần ông nói đến cái chân hạc: Tính mình đã trót như cặp chân hạc cao lêu khêu,
chẳng lẽ lại chặt đi để cho nó ngắn như chân vịt hợp với khẩu vị mọi người ? Mình sinh ra
không có thói ruồi nhặng làm sao mà sống cùng tổ với mối ? Ông lo lắng nhiều nhất là làm
sao giữ được tấm lòng không gợn đó. “Ở ẩn” quê nhà thì mở cửa ra là núi xanh trước mặt,
trăng sáng như tâm hồn mình, đầm trong như tâm hồn mình, vô luận cảnh ngộ nào cũng
không để cho bụi bặm làm mờ tính thiêng trời sinh” [59. tr487].
Và phải chăng do luôn chú ý giữ “tâm” nên Nguyễn Du đôi khi cũng đã chạm vào đất
Phật. Trong bài “Đạo ý ”, ông tự ví mình như vầng trăng nơi đáy giếng, có xao động thoáng
qua rồi cũng sẽ trở lại bình thường:
“Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất bị nhân khiên xỉ (xả)
Thử tâm chung bất dao
Túng bị nhân khiên xỉ (xả)
Nhất dao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy”
(Trăng sáng soi giếng xưa
Nước giếng không nổi sóng
Không bị người khuấy động
Lòng này rốt cuộc chẳng lung lay
Nếu bị người khuấy động
Lay rồi lại lặng yên
Một tấm lòng thanh trong
Như trăng sáng chiếu giếng xưa)
(Đạo ý)
Giếng khơi thi nước rất sâu, khó ai có thể làm nó bị khuấy động, cứ luôn yên ả, lặng
tờ. Nếu giả như người múc nước có khiến nước bị xao động thì chỉ trong giây lát thôi, vì
giếng vốn tròn nên rồi sẽ trở lại như xưa, lặng yên mới là trạng thái cố hữu của nó. Cũng như
tấm lòng trong sáng của thi nhân, dẫu sống trong hoàn cảnh nào vẫn giữ vẹn thiên lương
không thể để cho ai làm vẩn đục. Tấm lòng đó bao giờ cũng vằng vặc như mặt trăng soi đáy
giếng xưa, nghìn năm vẫn thế dẫu cuộc đời có thăng trầm, thay đổi.
Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn trước mắt, Nguyễn Du không quay lưng lại với nó, vẫn mở
lòng đón nhận tất cả nhưng tâm hồn thì như gương trong sàng lọc mọi biến động để đạt đến
chân như:
“Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như”
(Hoa nở lá rơi đầy trước mắt
Bốn mùa tâm kính vẫn như như)
(Tạp thi, bài 2)
Bốn mùa nằm trong hoa nở lá rơi, đó là điệu luân vũ của thời gian, hiển hiện trước tấm
gương trong trẻo của tâm hồn thi nhân. Tâm hồn đó vừa chứa muôn cái xao động vừa vượt
lên mọi thứ xao động để đạt đến chân như. Bản lĩnh và khí tiết kẻ sĩ trong việc tu thân,
dưỡng tâm chính là chỗ đó.
Trên “đường quan muôn dặm nhiều gió bụi”, Nguyễn Du không lo vì cuộc sống gian
khổ mà chỉ lo giữ sao cho tâm hồn trong sạch:
“Bất sầu cửu lộ triêu y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần”
(Không buồn sương đêm thấm ướt vạt áo
Hãy mừng là mày râu không nhuốm bụi)
(Dạ hành)
Thế nên dẫu đi trọn cuộc đời trong “dặm hồng bụi cuốn”, chân tâm vẹn nguyên vẫn có
thể ngẩng cao đầu đối diện với cõi thanh cao:
“Thăng hữu nhàn tâm vô quái ngại
Bất phương chung nhật đối phù âu”
(Chỉ còn một tấm lòng nhàn không trở ngại
Không ngại suốt ngày đối mặt với chim âu)
(Hoàng Hà trở lạo)
Cuộc đời quá nhiều những biến cố, con đường hoạn lộ lắm chông gai, trường đời là
một “ trường gió bụi nhơ bẩn ” và Nguyễn Du là người đi trong đám hồng trần đó giữa một
bên là cả triều đình suy đồi, thối nát và một bên là nhân dân nghèo khổ nhưng lương thiện,
ông đã dũng cảm vạch mặt tội ác của giai cấp mình, đứng về phía nhân dân, học theo tiếng
hát của người trồng dâu trồng đay để giữ cho bản tâm mãi trong sạch. Điểm tựa cho nhân
cách sống cao khiết đó chính là tấm lòng say mê đạo đức bắt nguồn từ truyền thống “chết
trong còn hơn sống đục” của dân gian:
“Văn đạo dĩ ưng cam nhất tử
Dâm thư do thắng vị hoa mang”
(Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam
Ham mê sách còn hơn mải miết vì hoa)
(Điệp tử thư trung)
Tấm lòng “tử vì đạo” của con bướm là hình tượng đắt giá nói hộ niềm khát khao đạo
đức, khát khao sự trong trắng và lương thiện của Nguyễn Du. Và cũng chính điều đó đã xây
nên bức thành trì vững chắc trong tâm hồn thi nhân để chống trả lại những thói đời xấu xa,
nhơ đục trong xã hội hiện tại.
Lối sống vươn lên bất chấp hoàn cảnh để giữ mãi chân tâm trong sáng của Nguyễn Du
có thể ví với bông sen mọc giữa đầm lầy, dẫu môi trường sống của nó có hôi tanh như thế
nào thì hoa sen vẫn cứ đẹp trắng trong và tỏa hương thơm ngát. Bản lĩnh sống cao đẹp đó tự
nó đã là một tuyệt tác giàu chất nhân văn nhất trong tổng thể về con người, cuộc đời và sự
nghiệp của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Có thể nói, thái độ ứng xử trước thời thế để bảo toàn khí tiết kẻ sĩ là một chiều kích
quan trọng để đo nhân cách của nhà nho. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du
đều là những mẫu hình nhà nho chân chính, trước hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời đại mình,
họ đều có những cách ửng xử phù hợp nhất khả dĩ đáp ứng được nhu cầu tinh thần.
Đương nhiên, khác thời đại nên cách ứng xử của họ không hoàn toàn giống nhau, điều
này ít nhiều có liên quan đến quá trình chuyển biến về ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam
suốt chiều dài lịch sử phong kiến.
Thời của Nguyễn Trãi, trước nhu cầu cấp thiết là phải bảo vệ dân tộc trước sự xâm
lược của ngoại bang đã đặt giới trí thức vào cái thế gắn mình vào với chính quyền, coi triều
đình là biểu trưng lý tưởng của độc lập dân tộc. Vì thế, tư tưởng thống nhất vương triều là để
thống nhất đất nước đã làm nảy sinh quan niệm chỉ chấp nhận một vương triều chính thống
duy nhất, một quan niệm có ít nhiều hạn chế trong giới trí thức. Nói chung đây là thời đại mà
mọi suy nghĩ, hành động chính trị của giới trí thức đều bị hút về tâm – vua và đất nước, họ
hầu như chưa có sự độc lập trong tư tưởng chính trị.
Thực tế ý thức trên đã chi phối cách ứng xử của Nguyễn Trãi, đó là dù trong hoàn
cảnh nào, được trọng dụng hay không thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng một dạ phục vụ vương
triều; dẫu có lúc bất đắc dĩ ông phải cáo quan về ở ẩn thì đó cũng không phải là lẽ sống của
ông mà vẫn luôn chờ cơ hội để lại ra cống hiến, bằng chứng là khi vua Lê Thái Tông vời ra
giúp nước ông đã vô cùng hăm hở và còn làm biểu tạ ơn. Sống ở triều đình không phải
Nguyễn Trãi không nhận ra những bất cập bắt đầu xuất hiện trong nội bộ giai cấp, và lẽ dĩ
nhiên nhân cách của ông không chấp nhận điều đó, thế nên vấn đề lựa chọn “hành” hay
“tàng” bắt đầu trở thành một niềm day dứt, nhưng cuối cùng “hành” vẫn chiến thắng vì “nợ
quân thân” trong ông là một thành trì không thể lung lay dẫu thời cuộc có thay đổi. Song
quan trọng là Ức Trai nhập thế để thực hành lý tưởng, nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về cõi
thanh cao, ông đã sống theo tinh thần “đại ẩn” một cách đầy bản lĩnh để giữ khí tiết của
mình. Cũng chính vì thế, bị đẩy tới thảm họa Lệ Chi Viên là bi kịch đau đớn nhất của cuộc
đời Nguyễn Trãi mà cũng là bi kịch đau đớn nhất của lịch sử. Nhưng từ tấn bi kịch đau
thương này lại ngời sáng lên nhân cách của một người trí thức tận tụy, kiên trung và quá
trong sáng giữa một xã hội đang manh nha bước vào con đường tăm tối.
Sang Nguyễn Bỉnh Khiêm, do tình hình chính trị đầy biến động, “những xáo trộn
trong đất nước sau vụ đảo chính của Mạc Đăng Dung đã kéo tầng lớp nho sĩ ra khỏi giấc mơ
bình an ý thức hệ, khi cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đặt ra
trước họ nhiều vấn đề mới về tương lai đất nước và vận mệnh dân tộc, những vấn đề thách
thức tài năng của họ đồng thời đặt toàn bộ tri thức cũng như đạo đức chính trị của họ vào
một khảo nghiệm lịch sử có thêm những tiêu chuẩn mới của một chủ nghĩa nhân văn. Sự
chuyển biến trong ứng xử chính trị của trí thức thời Nguyễn Bỉnh Khiêm vì vậy cần được
nhìn nhận trong hoàn cảnh và theo chiều hướng ấy” [1; tr185]. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm
quan với nhà Mạc, nhưng triều đình không thể là phương tiện để thực hành việc nghĩa, ông
quay về mà không mấy day dứt như Nguyễn Trãi vì ông vẫn tìm thấy một cách khác để làm
việc đó phù hợp với hoàn cảnh hơn. Trở về quê, Bạch Vân cư sĩ sống cuộc sống nhàn dật
mang đậm màu sắc “minh triết bảo thân” mà vẫn không quay lưng lại với cuộc đời; ứng xử
khôn khéo với cả ba tập đoàn phong kiến cùng tồn tại trong xã hội thời bấy giờ mà vẫn
không làm ảnh hưởng đến nhân cách kẻ sĩ. Có thể nói, lối ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm
thể hiện sự độc lập nhất định trong tư tưởng chính trị mà thời Nguyễn Trãi chưa xuất hiện,
hoặc giả có xuất hiện nhưng đã bị thực tế lịch sử làm cho khuất lấp. Đó cũng là cách ứng xử
của con người đang thoát dần khỏi tư duy trực cảm sang tư duy duy lý trước cuộc đời, đồng
thời làm toát lên phẩm chất thanh cao và trí tuệ nhạy bén của người thầy Tuyết Giang.
Đến Nguyễn Du, chế độ phong kiến đứng trước một thực trạng đen tối đến mức giới
trí thức đều bị rơi vào thế hoàn toàn bế tắc, Nguyễn Du cũng không ngoại lệ. Mô hình xã hội
Nghiêu Thuấn đã hoàn toàn biến mất trong ý nghĩ của nhà nho, cách ứng xử đầy nhân văn
bây giờ không phải là “hành” hay “tàng” nữa mà là có đứng về phía nhân dân lao động hay
không vì việc đứng về phía nhân dân cũng đồng nghĩa với việc không mang bản chất xấu xa
của giai cấp phong kiến. Giữa trí thức và triều đình bây giờ đang xuất hiện một lực li tâm
ngày càng lớn, đồng loạt các nhà nho có tâm huyết đều lên tiếng bênh vực những con người
bị chà đạp trong xã hội tàn bạo trong đó dành ưu ái rất nhiều cho người phụ nữ, tuy nhiên để
làm nên một cuộc cách mạng thì giới trí thức vẫn chưa đủ lực vì họ còn đang bị bao vây
trong đám mây đen của ý thức hệ phong kiến chưa chịu chết hẳn.
Trong hoàn cảnh đó không thể trách Nguyễn Du chưa có một hành động dứt khoát
hơn, ông vẫn đứng trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, nhưng thái độ của ông lại nghiêng
xuống nhân dân lao động đói khổ, ông can đảm làm một “nghịch tử” của giai cấp mình để
trở thành người cùng hội cùng thuyền với bao kiếp người bị chà đạp.
Chưa chọn được một con đường nào tươi sáng hơn, Nguyễn Du đau khổ sống chung
với bóng tối nhưng ông vẫn không để cho thói xấu làm vẩn đục đến thiên lương trong sáng
của mình, đó chính là cách ứng xử nhân văn nhất mà một người ở trong hoàn cảnh của ông
có thể làm.
Nói tóm lại, cách ứng xử trước thời thế để bảo vệ nhân cách kẻ sĩ của những nhà nho
chân chính thời trung đại đã là một truyền thống, truyền thống đó cũng có những tiếp biến để
phù hợp với tiến trình lịch sử của dân tộc, song dù có biến chuyển như thế nào thì cách ứng
xử của họ bao giờ cũng rất nhân văn.
KẾT LUẬN
Không thể gọi là thừa nếu tại đây, thêm một lần nữa khẳng định rằng: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du là ba đỉnh cao vời vợi, ba cây đại thụ tỏa bóng mát suốt
cả chiều dài lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
Vì khoảng cách thời gian và sự khắc nghiệt của quy luật tạo hóa, con cháu đời sau đã
không còn được tiếp kiến với tiền nhân. May mắn sao khoảng trống ấy vẫn có thể lấp đầy
bằng những vần thơ chứa chan tình cảm mà họ gửi lại cho đời. Nhà thơ Hàn Mặc Tử từng
nói “ Người thơ phong vận như thơ ấy”. Thật vậy, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Nguyễn Du cũng đã để lại dấu ấn cá nhân mình rất rõ nét qua thơ, trong đó có vẻ đẹp của con
người nhân văn. Thế nên đọc thơ họ, chúng ta như được thấy cả một thế giới tâm hồn các
nhà thơ đang hiển hiện. Được ngưỡng vọng trước những nhân cách đẹp đẽ như hoa mai, sáng
trong như tuyết trên đỉnh núi. Được nghiêng mình trước những con người một đời vì nước vì
dân, trân quý và nâng niu đến cả loài hoa cỏ, tha thiết yêu thương con người như tình mẹ
thương con.
Vẻ đẹp của con người nhân văn được phô diễn ra trong các mối quan hệ với xã hội,
thiên nhiên và chính bản thân mình. Xét trong mối quan hệ với xã hội cả ba nhà thơ lớn –
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du đều thể hiện tinh thần tự nguyện gánh vác
trách nhiệm cao cả trước cuộc đời, đó là tấm lòng tận tụy, một đời lo nước thương dân, cống
hiến hết mình trong mọi hoàn cảnh để mong trở thành người có ích cho đất nước trong thơ
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm hay tấm lòng đau đời thương đời trong thơ Nguyễn Du.
Trong mối quan hệ với thiên nhiên, cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn
Du đều xem đó là môi trường để di dưỡng tinh thần, để bộc lộ tâm trạng. Vì thế, trong thơ,
thiên nhiên hiện lên bao giờ cũng chan chứa tình cảm, sống động và rất có hồn, bộc lộ không
chỉ tình yêu đơn thuần dành cho cảnh mà còn là sự nâng niu, trân trọng và cả hàm ơn đối với
người bạn đã luôn lắng nghe tâm sự của mình. Có thể nói, thiên nhiên là tấm gương trong
phản chiếu chân thực nhất thế giới tâm hồn của họ, một tâm hồn phong phú luôn đầy ắp
những niềm vui giản dị và những đau đớn tột cùng, những suy tư trĩu nặng và những lo lắng
khôn nguôi trước vận mệnh của nước của dân.
Trong mối quan hệ với chính mình, trước những hoàn cảnh lịch sử cụ thể cả ba đại
diện lớn của giới trí thức và giới nghệ sĩ thời trung đại đều có những thái độ ứng xử phù hợp
nhất và cũng cao đẹp nhất để bảo toàn danh tiết kẻ sĩ và nhân cách nghệ sĩ của mình.
Có thể nói, với tư cách là những con người “đứng trong trời đất” họ đã sống và hành
động một cách đầy trách nhiệm và ý nghĩa đối với bản thân và cuộc đời. Cả ba nhà thơ lớn
được khảo sát đều là những mẫu hình nhân cách nhà nho – nghệ sĩ tỏa sáng chất nhân văn.
Họ đẹp cả trong niềm vui đắc chí lẫn trong nỗi đau thất chí, bởi tất cả những biểu hiện đó
đều không mảy may vì bản thân họ mà là vì con người và cuộc đời.
Phật giáo quan niệm cuộc đời là vô thường kể cả cái tâm của con người. Vì thế theo
thời gian cùng với những biến suy của lịch sử, con người nhân văn biểu hiện trong thơ của
Nguyễn Trãi qua Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du cũng có những đổi thay. Đó là sự vận
động và phát triển từ vẻ đẹp của con người hành động sang con người tư tưởng, từ con người
trách nhiệm sang con người đời thường, từ con người cộng đồng sang con người tự ý thức về
thân phận cá nhân mình và những người xung quanh.
Tuy nhiên, dù vẻ đẹp của con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại có
những thay đổi qua từng giai đoạn, song trên cái nhìn tổng quan, đó chỉ là những biểu hiện
khác nhau của một nhân cách cố định – nhân cách con người Việt Nam.
Bản chất nhân văn của con người Việt Nam là bất biến, chỉ biểu hiện của nó là thường
biến, vì thế trong xã hội hiện đại của chúng ta bản chất nhân văn vẫn cứ còn, song có lẽ vì
hoàn cảnh xã hội thay đổi, con người phải đối mặt với vô vàn những lo toan vật chất và vô số
những áp lực trước cuộc sống nên đã làm cho biểu hiện của chất nhân văn trong con người
có ít nhiều thay đổi so với truyền thống chăng?
Nếu quả như thế thì việc khơi lại những giá trị nhân văn đẹp đẽ trong đời sống văn hóa
của các thế hệ cha ông với những đại diện như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Nguyễn Du thật sự có một ý nghĩa giáo dục vô cùng to lớn. Nó mang đến cho con người
những phút giây tĩnh lặng trong cuộc chạy đua trường kì mệt mỏi với cuộc mưu sinh để soi
lại mình và cũng là giữ cho mình không bị trượt dài trên cái dốc từ “sống” xuống “tồn tại”.
Tìm hiểu con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua ba nhà thơ lớn
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du thật sự là một vấn đề không hề đơn giản,
bởi họ không chỉ là ba cây đại thụ của văn học trung đại mà còn là ba danh nhân văn hóa của
dân tộc và nhân loại. Nhân cách của ba nhà thơ đã trở thành những giá trị văn hóa mẫu mực
mà hậu thế khó có thể luận bàn một cách thật đầy đủ và thấu đáo. Dẫu ý thức được điều này,
song người viết vì tấm lòng yêu mến, ngưỡng vọng dành cho các nhà thơ và nhà văn hóa của
dân tộc cũng đã mạo muội thể hiện những suy nghĩ bước đầu về vấn đề nói trên, chắc chắn
những hạn chế về kiến thức dẫn đến sự bất cập là điều không tránh khỏi. Người viết mong
nhận được sự góp ý chỉ giáo của các bậc cao minh và hy vọng sẽ có điều kiện tiếp tục nghiên
cứu sâu hơn về vấn đề giàu ý nghĩa này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách:
1. Viện Khoa học xã hôi – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong lịch sử phát triển dân tộc, Nxb Đà Nẵng.
2. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999, Tập 2, Văn
học cổ – cận đại Việt Nam, Nxb TP. HCM.
3. Viện Văn học, Ủy ban khoa học nhà nước (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp thơ văn
Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Nxb Khoa học xã hội.
4. Viện Văn học, Hội đồng lịch sử Hải Phòng (1991), Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Kỉ yếu hội nghị khoa học nhân 400 năm mất, Nxb Hội đồng lịch sử Hải Phòng.
5. Viện Văn học (1967), kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1965) , Nxb
Khoa học xã hội.
6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Văn học (2005), Văn học trung đại Việt Nam
quan niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội.
7. Viện Văn học – Trần Thị Băng Thanh (1999), Những nghĩ suy từ văn học trung đại,
Nxb Khoa học xã hội.
8. Bộ sách phê bình và bình luận văn học (2006), Tác giả trong nhà trường – Nguyễn
Trãi, Nxb Văn học.
9. Sở Văn hóa thông tin Hà Nội (1980), Nguyễn Trãi – Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hội
văn nghệ - Sở VHTT Hà Nội.
10. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam (Thời kì cổ cận đại), Nxb Tác
phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam.
11. Hà Như Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb Văn hóa thông tin.
12. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào Dân tộc – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du – Hồ Xuân
Hương, Nxb Thanh niên.
13. Phạm Văn Đồng, Giang Nam, Lê Trí Viễn (1980), 600 năm Nguyễn Trãi – Thơ, văn,
Nxb Tác phẩm mới.
14. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu, 1998), Nguyễn
Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
16. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Lê Thánh Tông – Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn
nghệ TP. HCM.
17. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
18. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo
Dục.
19. Đinh Gia Khánh(Chủ biên)(1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà
Nội.
20. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1998), Văn học Việt Nam thế (kỉ X
– nửa đầu thế kỉ XVIII). Nxb Giáo Dục.
21. Đỗ Nguyên Khoa (1980), Nguyễn Trãi một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam:
Kỉ niệm lần thứ 600 năm sinh Nguyễn Trãi, Nxb Ty văn hóa và thông tin Hà Sơn
Bình.
22. Nguyễn Đức Khuông (Tuyển chọn và giới thiệu, 2005), Tác gia, tác phẩm văn học
Việt Nam trong con mắt người nước ngoài, NXB ĐHSP.
23. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Nxb TP. HCM.
24. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam ( Nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), Nxb
Giáo Dục.
25. Phong Lê (1994), Văn học trong hành trình tinh thần của con người, Nxb Lao động.
26. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến (1996), Nguyễn
Du toàn tập, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
27. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khuê, Kiều Thu Hoạch(?), Nguyễn
Trãi toàn tập tân biên, Tập 1,2,3, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
28. Trần Huy Liệu (2000), Nguyễn Trãi cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn hóa thông tin.
29. Trường Lưu (1999), Văn học trong hành trình văn hóa, Viện văn hóa và Nxb Văn hóa
thông tin.
30. Lê Nguyễn Lưu (1999), Nguồn suối nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ, Nxb Thuận
Hóa.
31. Phượng Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm Văn học, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
Dục.
33. Bùi Văn Nguyên (1980), Nguyễn Trãi, Nxb Văn hóa Hà Nội.
34. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du – Người tình và Nguyễn Du – Tình người, Nxb
Mũi Cà Mau.
35. Huỳnh Như Phương (Sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu,2006), Lê Đình Kị tuyển tập,
Nxb Giáo Dục.
36. Phạm Đan Quế (1992), Giai thoại và sấm kí Trạng Trình, Nxb Văn nghệ TP. HCM.
37. Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn, 1995), Phê bình bình luận văn học – Nguyễn Trãi, Nxb
Văn nghệ TP. HCM.
38. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển Chọn, 1991), Phê bình bình luận văn học – Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Chu Mạnh Trinh, Phan Bội Châu, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa.
39. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn và giới thiệu, 1999), Nguyễn Trãi về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo Dục.
40. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự, Nxb Trẻ - Hội
nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
41. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du – Từ thơ chữ Hán đến kiệt tác Truyện
Kiều, Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
42. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn,
Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb
Giáo Dục.
43. Trần Đình sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
44. Trần Đình Sử (1997), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
45. Trần Đình Sử, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn
học bộ mới, Nxb Thế giới.
46. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia và tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam – tập 1, Nxb Giáo Dục.
47. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số tác gia và tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam – tập 2, Nxb ĐHQG Hà Nội.
48. Bùi Duy Tân (chủ biên, 1997), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học xã
hội.
49. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên, 1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới – Hội nhà
văn Việt Nam.
50. Nguyễn Đăng Tiệp (Tuyển chon, 2005), Trần Đình Sử tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo
Dục.
51. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu 2001), Nguyễn Bỉnh
Khiêm về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.
52. Chương Thâu (tuyển chọn, 1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn
Trãi, Nxb Văn học Hà Nội
53. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới gốc nhìn văn hóa, Nxb Giáo
Dục.
54. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm đường luật, Nxb Giáo Dục.
55. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007), 10 thế kỉ bàn
luận về văn chương (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XX), Nxb Giáo Dục.
56. Hoàng Trinh, Trần Khánh Thành (giới thiệu và tuyển chọn, 2004), Hà Minh Đức
tuyển tập, tập 1, Nxb Giáo Dục.
57. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung
đại, Nxb Giáo Dục.
58. Đoàn Thị Thu Vân (2001), Văn học trong nhà trường – Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi,
Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
59. Lê Trí Viễn (2006), Một đời dạy văn, viết văn toàn tập, tập 2, Nxb Giáo Dục.
60. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
61. Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân (1994), Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo Dục.
62. Trần Ngọc Vượng (1995), Loại hình học tác gia văn học nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
63. Trần Ngọc Vượng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb
ĐHQG Hà Nội.
64. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh niên.
65. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2000), Văn học trung
đại Việt Nam những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo Dục.
II. Tạp chí
1. Đỗ Đức Dục, Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du, Tạp chí văn học số 2, 1984.
2. Vũ Đình Liên, Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài trong xã hội (tìm hiểu Nguyễn Du qua
thơ chữ Hán), Tạp chí văn học số 2, 1971.
3. Vũ Đức Phúc, Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông, Tạp chí văn
học số 5, 1980.
4. Trần Thị Băng Thanh, Thử phân định hai mạch cảm hứng trong dòng văn học Việt
Nam mang đậm dấu ấn Phật giáo thời trung đại, Tạp chí văn học, số 4,1992.
5. Trần Nho Thìn, Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật
văn hóa (Khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi), Tạp chí văn học số 7, 2001.
6. Lã Nhâm Thìn, Đặc trưng quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Trãi, Tạp
chí văn học số 5, 1980.
7. O. W. Wolters, Khách tha hương trên chính quê hương mình, thơ Nguyễn Trãi viết
trong thời kì Minh thuộc, Tạp chí văn học số 10, 2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5365.pdf