Con người - Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức

A: Lời mở đầu Bước sang thiên niên kỷ mới cũng là lúc loài người bước sang nền kinh tế mới-nền kinh tế thứ 3: Kinh tế tri thức. Những năm gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, và trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta được tiếp cận nhiều với thuật ngữ này. Khái niệm này là mới mẻ, không chỉ đối với Việt Nam. Vì là mới đương nhiên còn nhiều băn khoăn: kinh tế tri thức là gì? Tương lai của nó ra sao? Tính cấp thiết của nó như thế nào? Chìa khoá

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Con người - Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nào cho nước ta để mở cánh cửa vào nền kinh tế mới này? Và với tư cách là sinh viên-chủ nhân tương lai của đất nước chúng ta phải làm gì, làm như thế nào để đi vào kinh tế tri thức? Để hiểu rõ về vấn đề này, em chọn đề tài: "Con người- nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức" để nghiên cứu. Bài viết được hoàn thành, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, còn có sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo và các bạn. Tuy nhiên, là sinh viên năm thứ hai, bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học, hơn nữa kiến thức còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn, để em có thêm kinh nghiệm sau này. Em xin chân thành cảm ơn. B: Nội dung I. Một số vấn đề chung về con người 1. Khái niệm con người Trong xã hội không ai nhầm lẫn con người với động vật. Song không phải vì thế mà câu hỏi"con người là gì " không được đặt ra. Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người: y học, sinh vật học, tâm lí học, xã hội học, triết học...Mỗi khoa học tiếp cận con người theo cách riêng. Xã hội học coi con người với tư cách là thực thể xã hội, là đơn vị cấu thành xã hội, tức là nghiên cứu con người- xã hội, nghiên cứu mặt xã hội của con người. Hay sinh học chỉ nghiên cứu con người dưới khía cạnh sinh học. Trong khi các khoa học khác nghiên cứu con người bằng cách chia hệ thống, theo từng khía cạnh ... thì triết học tiếp cận con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống. Trong sự phát triển của lịch sử triết học có rất nhiều quan niệm khác nhau về con người. Các nhà triết học cổ đại trước đây cũng có những quan niệm khác nhau về con người. Heghen-đại biểu của trường phái duy tâm coi con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, con người là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối. Thành tựu của ông là đã nghiên cứu được bản chất của quá trình tư duy, phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần, tức là mặt xã hội của con người. Như vậy quan niệm của Heghen là duy tâm siêu hình. Còn Phơbach-đại biểu của trường phái duy vật lại coi con người chỉ là sản phẩm của giới tự nhiên. Như vậy ông đã tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người, chia cắt con người khỏi các quan hệ xã hội hiện thực, ông rơi vào chủ nghĩa duy vật. Tư duy phương Tây thường coi con người là một bộ phận của thế giới tự nhiên, tồn tại khách quan. Khái quát triết học về con người thường dựa trên kết quả phân tích, khái quát của khoa học tự nhiên về con người như sinh học, tâm lí, đạo đức...nhưng vẫn thiếu hụt thế giới nội tâm của con người. Những vấn đề con người mà triết học phương Tây cố gắng giải quyết còn bỏ ngỏ vấn đề nội tâm con người. Đạo Phật là triết lí con người hướng nội. Điểm mạnh nhất của triết lí này là con người nội tâm, vô thần, bình đẳng về đạo đức. Triết lí nhân sinh của đạo Phật cũng bộc lộ hạn chế do phạm vi và cách tiếp cận hướng nội quy định. Con người của đạo Phật mờ nhạt tính xã hội.Tiếp thu những tinh hoa của hai nhà triết học đó và các nhà triết học tiền bối trong quan niệm về con người, dựa vào các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác đã khẳng định con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội trên nền tảng sinh học của nó. Như vậy, bản chất con người bao gồm bản chất tự nhiên và bản chất xã hội. Bản chất tự nhiên của con người(mặt sinh học): chính sự hoạt động của quy luật sinh vật học và tâm lí ý thức tạo nên bản chất tự nhiên của con người. Bản chất tự nhiên đó quyết định sự tồn tại của con người. Bản chất xã hội của con người (mặt xã hội) đó là sự hoạt động của các quy luật xã hội tác động lên con người. Các quy luật ấy được hình thành trong quá trình lao động. Chính lao động quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người. Hai mặt tự nhiên và xã hội gắn bó mật thiết với nhau. Xã hội chính là phương thức cho con người thoả mãn nhu cầu sinh học và việc thõa mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu sinh học làm cho con người ngày càng phát triển. Đó là mục đích xã hội. Sự hình thành bản chất con người là một quá trình con người không ngừng hoàn thiện khả năng tồn tại của mình trước các lực lượng tự nhiên và xã hội. Chính vì thế, có thể nói con người một mặt là sản phẩm của lịch sử, mặt khác là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử đó. 2. Vai trò của con người trong sự vận động và phát triển của đời sống xã hội Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, cụ thể là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động, trong đó người lao động là nhân tố quan trọng nhất. Tư liệu lao động dù có tinh xảo, hiện đại , đối tượng lao động dù có phong phú đa dạng nhưng thiếu con người thì sẽ không phát huy tính tích cực của nó. Bởi vì người lao động bằng kinh nghiệm và trí tuệ đã chế tạo ra công cụ sản xuất, đồng thời bằng tri thức và kinh nghiệm của mình con người mới biết cách sử dụng sáng tạo công cụ sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Tính tích cực sáng tạo chủ động của con người luôn là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ, quy mô, hiệu quả của một nền sản xuất. Lịch sử đã chứng minh do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã 4 lần thay đổi quan hệ sản xuất, dẫn đến sự ra đời của các nền kinh tế xã hội. Mặt khác, ta thấy các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt trong một thời gian nhất định. Trong khi đó trí tuệ của con người là nguồn lực vô tận.Tính vô tận của nó thể hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới, không ngừng phát triển về chất lượng.Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tóm lại, con người là động lực, là mục tiêu, là điều kiện đủ, là đối tượng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. 3. Nguồn lực con người 3.1.Khái niệm Khái niệm nguồn lực con người được sử dụng từ những năm 60 ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu á, giờ đây khá thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới mẻ về vai trò, vị trí con người trong sự phát triển. Ơ nước ta khái niệm này được sử dụng rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 đến nay. Quan niệm về nguồn lực con người khá đa dạng. Trong lí luận về lực lượng sản xuất con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất, do đó quyết định năng suất lao độngvà tiến bộ xã hội. Trong lí thuyết tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như phương tiện chủ yếu, đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định:"Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta" Dưới dạng tổng quát có thể nói rằng: nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và chất lượng với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Như vậy, khái niệm nguồn lực con người có nội dung rất lớn: - Lịch sử loài người trươc hết là lịch sử lao động sản xuất, vì vậy khái niệm nguồn lực con người cũng được biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng lao động. - Khái niệm này phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động-yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người. - Khái niệm này phản ánh chủ yếu phương diện chất lượng dân số , đặc biệt là của lao động trong hiện tại và tương lai gần. Tức là nói đến nguồn lực con người là phải nói đến sức lao động của con người, chất lượng con người( thể chất, tinh thần, sức khoẻ, trí tuệ , năng lực, phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc) Phát huy nguồn lực con người chính là nuôi dưỡng và khai thác có hiệu quả những năng lực và phẩm chất sinh lí- tâm lí- xã hội tạo nên nhân cách trong mỗi cá nhân. - Khái niệm còn chỉ ra rằng con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác, con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song nguồn lực con người khác nguồn lực khác ở chỗ, có nó các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong thực tế, khái niệm "nguồn nhân lực "ngoài nghĩa rộng được hiểu như"nguồn lực con người", thường được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, lực lượng lao động. Tuy nhiên trong nền kinh tế tri thức thì có lẽ chúng ta nên hiểu theo nghĩa rộng. 3.2. Vai trò của nguồn nhân lực Thực tiễn cho thấy sự phát triển kinh tế-xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu vẫn là phụ thuộc vào con người. Hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nước ta. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững. - Con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào, con người đều là nhân tố trung tâm của quá trình sản xuất. Khi mô hình sản xuất lấy con người làm trung tâm xuất hiện thì mau chóng chiếm ưu thế và dần trở nên phổ biến. Hướng ưu tiên đầu tư con người đã được nâng lên hàng"quốc sách hàng đầu", được coi là hướng chính trong chiến lược phát triển ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới - Các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết gắn các nguồn lực thành sức mạnh tổng hợp. - Các nguồn lực khác chỉ là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó nguồn lực con người, mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vô tận, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, và luôn được đổi mới về chất. Con người từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra nhiều tài nguyên thiên nhiên, hoặc sáng tạo những nguồn tài nguyên không có sẵn trong tự nhiên. - Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây sức mạnh trí tuệ đã đạt đến mứcnhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc mô phỏng trí tuệ con người. Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động-con người với trí tuệ được định hướng đã và đang là tài sản quý giá, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng tăng lên trong thời đại ngày nay, một thời đại mà nền kinh tế dựa trên tri thức. II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức 1. Khái niệm về kinh tế tri thức 1.1.Khái niệm Nền kinh tế mới đang được hình thành có nhiều tên gọi khác nhau. Nhưng phổ biến hơn cả là thuật ngữ: kinh tế tri thức hay nền kinh tế dựa trên tri thức. Trước thế kỉ 17, tri thức khoa học đã từng bước đưa ngành trồng trọt, chăn nuôi trở thành cốt lõicủa nền kinh tế nông nghiệp phát triển ổn định dựa chủ yếu vào tài nguyên đất đai.Từ giữa thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 18, nền kinh tế công nghiệp bắt đầu hình thành.Từ giữa thế kỉ 18 đến cuối thế kỉ 19 đã có 2 cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, được đánh dấu bằng sự xuất hiện của máy hơi nước và máy phát điện. Đặc biệt thế kỉ 20 là sự bùng nổ của các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...Từ đây tri thức khoa học dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, các sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm địa vị quan trọng trên thị trường quốc tế. Như vậy một nền kinh tế mới đang dần được hình thành. Đó là nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức được định nghĩa theo nhiều cách. - Đó là nền kinh tế, trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triểnkinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống(GS.VS.Đặng Hữu) - Cũng có thể định nghĩa đơn giản hơn: kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó khoa học- công nghệ- kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Như vậy trong nền kinh tế tri thức không chỉ là tạo ta tri thức mà cả thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Kinh tế tri thức không chỉ bao hàm duy nhất các lĩnh vực hoạt động với công nghệ cao, sử dụng lao động trí thức và lao động có kĩ năng cao là chính mà còn là quá trình tri thức xâm nhập vào và chi phối tất cả mọi hoạt động kinh tế. Nghĩa là không phải tất cả các ngành đều dựa vào công nghệ kĩ thuật cao song điều chắc chắn là tất cả các ngành dù ở trình độ nào cũng đều hoạt động dưới sự chi phối của tri thức. Khía cạnh quan trọng nhất của nền kinh tế mới này không phải là công nghệ thông tin hay những công nghệ cao cấp và hiện đại khác mà là việc sử dụng thông tin và tri thức để làm tăng năng suất cuả tất cả các khu vực trong một nền kinh tế. Để có thể hình dung rõ về kinh tế tri thức, chúng ta hãy xem bảng so sánh sau: STT Các đặc trưng I Hình thái kinh tế thứ 1 (kinh tế sức người). II Hình thái kinh tế thứ 2 (Kinh tế tài nguyên). III Hình thái kinh tế thứ 3 (Kinh tế tri thức). 1 Phương thức tồn tại Tự cấp tự túc, khép kín trong từng cộng đồng nhỏ tách biệt. Phân công và trao đổi bị giới hạn bởi các biên giới địa phương, quốc gia. Phân công và trao đổi phổ biến thông qua mạng liên kết toàn cầu. 2 Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Nhỏ Lớn Rất lớn. 3 Tỷ lệ kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học trên GDP. Dưới 3% 1% - 2% Trên 3% 4 Tỷ lệ đóng góp của KH-CôNG NGHệ cho tăng trưởng KT. Dưới 10% Trên 40% Trên 80% 5 Tầm quan trọng của giáo dục. Nhỏ. Lớn. Rất lớn. 6 Tỷ lệ kinh phí dành cho giáo dục trên GDP. Dưới 1% 2% - 3% 6% - 8% 7 Bình quân trình độ văn hoá. Tỷ lệ mù chữ cao. Trung học. Trung học chuyên nghiệp. 8 Kết cấu công nghệ (CN): - CN thông tin. 3%- 5% ~15% - CN sinh học. 2% ~10% CN năng lượng Tái sinh và năng lượng mới 2% ~10% CôNG NGHệ biển. 2% ~10% CôNG NGHệ sạch. 1% ~5% CôNG NGHệ vật liệu mới. 1% ~5% CôNG NGHệ không gian. ~5% CôNG NGHệ mềm. ~5% 9 Kết cấu sức lao động. Nông nghiệp. Trên 50%. 10% - 20% Dưới 10% Công nghiệp. 15% - 20% Trên 30%. Dưới 20% Công nghệ cao. 10% - 15%. Trên 40%. 10 Tỷ lệ tăng dân số Cao. Thấp. Rất thấp. 11 Mức độ đô thị hoá. 25% 70% Hạ thấp dưới 70%. 12 Vai trò của truyền thông. Không lớn Lớn. Rất Lớn. 13 Trình độ tổ chức xã hội. Đơn giản. Phức tạp Rất phức tạp. 14 Mức độ toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Thấp. Khá cao. Rất cao. 1.2. Các phạm trù trong kinh tế tri thức: Thông tin và tri thức là nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Chúng ta phải phân biệt 2 phạm trù này vì như John Naribett nói"Chìm ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức" * Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận được, có thể dùng hoặc không. * Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Theo nhiều tài liệu kinh điển thì tri thức được hiểu là kết quả của nhận thức, là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của nó thể hiện bằng sự kiểm nghiệm của thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của lí luận về nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. - Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt, nhưng khi tri thức được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản sinh ra tri thức. * Sản phẩm tri thức Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với các sản phẩm vật thể thông thường: + Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên tri thức luôn phải có vật mang nó. Vật mang ấy có thể là bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa quang... + Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó, nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.Đối với sản phẩm tri thức người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang, còn về nội dung tri thức thì chỉ có quyền sử dụng. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người mới có khả năng tư duy. + Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất của một quá trình nghiên cứu, học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn phát hiện ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới. + Việc sản xuất các loại sản phẩm tri thức thường có giá trị gia tăng rất lớn. Chẳng hạn, E. Sanchez và D. Myric sản xuất bộ phim" Đồ án Blair Witch" bằng kỹ thuật số, phát hành trên Internet, chỉ riêng trong nước Mỹ đã thu được 140 triệu $, trong khi chi phí chỉ là 500 000$, nghĩa là tỉ suất lợi nhuận 280! Nền kinh tế tri thức do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững cao. * Công nhân tri thức Theo tính tất yếu của lịch sử thì kinh tế tri thức phát triển đầy đủ ở thế kỉ 21 sẽ là sự phát triển lên một đỉnh cao mới của kinh tế công nghiệp hiện đại của thế kỉ 20- là sự phủ định biện chứng, tức phủ định có kế thừa kinh tế công nghiệp hiện đại thế kỉ 20. Tương ứng với tiến trình đó công nhân tri thức ra đời. Công nhân tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó. Biểu hiện: - Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không còn là vô sản nữa - Tri thức khoa học dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trên cơ sở đó, số lượng công nhân tri thức, công nhân có tay nghề cao ngày càng tăng. - Công nhân tri thức làm chủ một nền kinh tế mà phần lớn các ngành kinh tế đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học. - Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng - Kinh tế tri thức thích hợp với tính sáng tạo vốn là bản năng của công nhân. Nhằm mục tiêu tri thức hoá, công nhân chăm lo không ngừng học tập, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đảy sự phát triển về chất lượng của công nhân. 1.3. Các ngành như thế nào được gọi là ngành kinh tế tri thức? Theo giáo sư viện sĩ Đặng Hữu : Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học và công nghệ,dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao...được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống như công nghiệp, nông nghiệp nếu được cải tạo bằng công nghệ cao, mà giá trị do tri thức mới, công nghệ mới mang lại chiếm 2/3 tổng số giá trị thì những ngành đó là ngành kinh tế tri thức. 1.4. Các tiêu chí cơ bản của nền kinh tế tri thức - Về cơ cấu GDP: hơn 70%do các ngành sản xuất và dịch vụ và ứng dụng công nghệ cao - Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại - Cơ cấu lao động: hơn 70%là công nhân tri thức - Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người. Ngoài ra còn các tiêu chí khác, trong đó có tiêu chí về vai trò rất quan trọng của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp... 2. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang được định hình và tiếp tục được phát hiện chứ chưa phải là bộc lộ đâỳ đủ. Nhưng ta có thể thấy xương sống của nền kinh tế dựa trên tri thức chính là thông tin, nhưng không phải chỉ dựa vào công nghệ thông tin mà điều cốt yếu là khả năng thu nhập, phân tích, tổng hợp thông tin trong quá trình đưa ra quyết định dựa trên thông tin đã thu thập được. KTTT có các đặc trưng sau: 2.1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nếu kinh tế nông nghiệp dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế công nghiệp thì công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, thì trong kinh tế tri thức các ngành kinh tế tri thức thống trị. Hiện nay ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu kinh tế tri thứcchiếm khoảng 45%-50% GDP, trong các nước OEDC kinh tế tri thức chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. 2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Do đó sự hình thành và phát triển các khu công nghệ là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. 2.3. Cấu trúc mạng toàn cầu. Tức là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực, và thiết lập mạng thông tin phủ khắp các nước. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Thương mại điện tử, thị trường ảo, làm việc từ xa...được thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách bị xoá dần...Chính vì vậy, nhiều người gọi kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. 2.4. Xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Vốn con người là yếu tố then chốt nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức.Về vấn đề này em xin đề cập rõ hơn ở phần sau. 2.5. Tri thức là nền tảng rất quan trọng, là vốn quý nhất trong nền kinh tế dựa trên tri thức. Bất cứ hàng hoá nào cũng chứa đựng một hàm lượng tri thức nhất định. Chỉ cần một chút lệch lạc trong tri thức chúng ta sẽ trở thành kẻ thất bại trên thị trường. 2.6. Cơ sở trực tiếp nhất của kinh tế tri thức là con người. Đó là con người được giáo dục đào tạo tốt, đầy sức sáng tạo, luôn đổi mới mình để thích nghi với những thay đổi nhanh chóng và toàn diện về kinh tế-xã hội. Về vấn đề này sẽ trình bày ở phần sau. 2.7. Đề cao sự sáng tạo, đổi mới. Do môi trường vừa cạnh tranh vừa hợp tác nên sự sáng tạo, sự đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân. Trong nền kinh tế tri thức, vì nảy sinh nhiều công nghệ mới nên luôn luôn xuất hiện nhiều công ty mới. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải đổi mới công nghệ và sản phẩm liên tục- sáng tạo là linh hồn của đổi mới, đồng thời để tăng sức mạnh, các công ty phải hợp tác với nhau không những để mua sản phẩm của nhau mà còn hợp tác thành các công ty lớn, đa quốc gia, chi phối toàn cầu. 2.8. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Cơ sở kinh tế xã hội của kinh tế tri thức là kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Không thể phát triển kinh tế tri thức bằng một nền kinh tế đóng kín. Một sản phẩm sản xuất ở bất kì nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt ở khắp nơi trên thế giới. Toàn cầu hoá và kinh tế tri thức gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra mặt trái là khoảng cách giàu nghèo, sự thách thức đối với văn hoá...Khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh do chênh lệch về tri thức. Nếu rút ngắn chênh lệch về tri thức cũng có nghĩa là rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Còn về văn hoá, do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hóa nâng cao, nội dung và hình thức văn hoá đa dạng. Mặt khác, giao lưu văn hoá cũng làm cho các nền văn hóa đứng trước rủi ro: bị pha tạp, dễ mất bản sắc...Vì vậy cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2.9. Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và có đầy đủ thông tin. Tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, nhiễu thông tin. Kinh nghiệm các nước chỉ rõ rằng công nghệ thông tin cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi giao dịch, giảm bớt khả năng trốn lậu thuế... 3. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức 3.1. KTTT đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá, làm cho nó trở thành xu thế bao trùm của quan hệ quốc tế hiện đại. Bởi vì, kinh tế tri thức dựa vào việc tạo ra và sử dụng tri thức vốn mang bản chất năng động, lan toả không biên giới, đặc biệt là lĩnh vực thông tin, cho nên lực lượng sản xuất thế giới và các hoạt động kinh tế của con người ngày càng được quốc tế hoá. Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hoá là một quá trình khách quan phổ biến được thúc đẩy chủ yếu bởi những tiến bộ khoa học-công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị giao dịch tài chính quốc tế lên tới 3500 tỉ $, có hơn 50 000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 300 000 công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Chính vì điều này, ở nhiều nước khuyến khích việc phát triển và sử dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất. Các công ty ra sức nắm bắt các tiến bộ khoa học-công nghệ trong sản xuất. Trên phương diện vĩ mô, các nước đều tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội. 3.2. Quá trình phát triển tri thức làm cho phân công lao động trở nên sâu sắc và toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học công nghệ sẽ phát triển hết sức nhanh chóng, làm cho phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì trong thời đại kinh tế tri thức, thay vì sử dụng đất đai, tài nguyên và vốn trước đây, tri thức ngày càng làm nên giá trị áp đảo trong mỗi sản phẩm. Bên cạnh đó, sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng có nhiều công ty trong nước đi chuyên vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ chuyên môn nhất định. 3.3. KTTT làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới và cấu trúc quan hệ kinh tế quốc tế. Với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế thế giới đang đứng trước một sự thay đổi sâu sắc. Trong những năm 60 cơ cấu sản phẩm thế giới có tỉ lệ nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ là 10,4%-28,4%-50,4%, đến năm 90 cơ cấu này đã thay đổi mạnh mẽ : 4,4%-21%-62,4%. Như vậy các ngành dựa trên tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn và trong tương lai với sự phát triển của kinh tế tri thức, các ngành dựa trên tri thức sẽ chiếm vị trí áp đảo trong cơ cấu kinh tế thế giới. Cụ thể: +Hàng hoá, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí chủ chốt trong thương mại quốc tế. Hiện nay, tỉ lệ hàng hoá có kỹ thuật cao chiếm khoảng 70% trong tổng các sản phẩm buôn bán giữa các nước phát triển. Trao đổi kỹ thuật và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ $ năm 1990, 250 tỉ năm 1995, khoảng 500 tỉ năm 2000. + Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai trò hàng đầu trong thương maị quốc tế. Trong những năm qua, thương mại điện tử phát triển với tốc độ rất lớn, từ tổng giá trị 17 tỉ $ năm 97 lên 70 tỉ $năm 99 và dự kiến sẽ đạt 1000 tỉ $ năm 2002. + Quá trình phát triển kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa làm tăng tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính năng động linh hoạt của chúng trên phạm vi toàn cầu. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, các công ty luôn tìm cách đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Sẽ có công ty lớn mạnh lên và ngược lại sẽ có công ty phá sản. + Quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá đã và đang làm thay đổi các lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế theo hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, vị trí địa lí... và tăng vai trò, giá trị của các yếu tố tri thức. Nước nào khai thác, phát triển tốt nguồn tri thức sẽ có cơ hội phát triểnvà càng có vị trí cao trên thương trường quốc tế. Các nước phát triển sẽ có lợi hơn vì nền kinh tế của họ phát triển cao, đặc biệt có nhiều ngành dựa trên tri thức, nắm giữ khoa học công nghệ hiện đại, có đội ngũ công nhân tri thức đông đảo. Vì thế quá trình toàn cầu hoávà chuyển sang kinh tế tri thứcđang và có thể làm gia tăng sự phân cực về trình độ phát triển và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước trên thế giới. Tuy nhiên quá trình này không chỉ tác động một cách tiêu cực mà có còn có tác động tích cực đối với các nước đang phát triển. Nó mở ra nhiều cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để đi tắt, đón đầu trên con đường phát triển kinh tế, và thu hẹp dần khoảng cách với các nước đi trước. + Theo một số nhà kinh tế, nền kinh tế tri thức mang đặc tính tăng trưởng bền vững và thoát được sự phát triển theo chu kỳ(tăng trưởng- suy thoái) Nếu đúng vậy thì quan hệ kinh tế quốc tế sẽ phát triển một cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới không còn là nỗi kinh hoàng nữa. 4. Việt Nam với nền kinh tế tri thức 4.1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan Thông qua các đặc điểm của nền kinh tế mới này, chúng ta nhận ra một điều là rõ ràng các nước tư bản phát triển, trước hết là Mỹ hiện đang có rất nhiều lợi thế nắm bắt kinh tế tri thức và chi phối kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin-tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước và có thể cả giữa các nhóm người trong cùng một nước gia tăng. Tuy nhiên cái gì cũng có 2 mặt của nó. Do kinh tế tri thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ biến đổi nói lên rằng khả năng bắt kịp các nước đi trước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. Kinh tế tri thức là chìa khóa vàng cho các nước nghèo mở lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ của mình. Mô hình "đi tắt" để chuyển sang kinh tế tri thức là rất cao. Chỉ có cách nắm bắt và lợi dụng các lợi thế của kinh tế tri thức, các nước đang phát triển và chậm phát triển mới có cơ hội từng bước làm chủ vận mệnh của mình. Hiện nay nền kinh tế tri thức mới chỉ được hình thành ở một số nước tiên tiến, chưa thể lan rộng ra toàn thế giới. Những nước đi sau chỉ có 2 cách lựa chọn: hoặc cam phận mãi mãi đi sau, hoặc tìm mọi cách bứt phá lên phía trước. 4.2. Chúng ta có khả năng thực tế tiếp cận và hội nhập nền kinh tế tri thức hay chỉ tìm cách thích nghi với nó? Thực tế đang khẳng định sự đăng quang của nền kinh tế mới. Liệu có quá sức mình khi ta chưa hoàn thành giai đoạn công nghiệp hoá mà đã tiến thẳng vào kinh tế tri thức? Nước ta là một nước nông nghiệp, trình đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35047.doc