A.lời nói đầu
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đối với Việt Nam,từ năm 1975 sau khi đất nước hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất,cách mạng dân tộc-dân chủ đã hoàn thành thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN,cùng quá độ lên CNXH mà đặc điểm to lớn nhất của ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ Tư Bản.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua. Đố
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1773 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam & thực trạng nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thì lại càng phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài
Trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam,chúng ta phải thực hiện kinh tế cơ bản như phát triển nhanh kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN,mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Sau gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những thành tựu của nền kinh tế nước ta đã khẳng định sự lua chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn.
Là một sinh viên trường đại học kinh tế quốc dân, với những kiến thức đã học, em quyết định chọn đề tài này với mong muốn hiểu rõ hơn về con đường quá độ lên CNXH ơ Việt Nam và thực trang nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ.
Em xin chân thành cảm ơn TS.Tô Đức Hạnh đã giúp em hoàn thành bàI tiểu luận này.
B.Nội dung
I.lý luận chung về quá độ lên chủ nghĩa xã hội(CNXH)
1.Tính tất yếu của thời kì quá độ
Thời kỳ quá độ là gì ?
Mở đầu giai đoạn thấp của phương thức sản xuất Cộng sản chủ
nghĩa , đó là thời kỳ lịch sử đặc biệt gọi là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để , toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội XHCN .Về kinh tế : đây là thời kỳ bao gồm những mảng , những phần , những bộ phận của CNTB và CNXH xen kẽ , tác động lẫn nhau tức là thời kỳ tồn tại nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất , do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế .Chúng cùng tồn tại vừa thống nhất nhưng vừa mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt với nhau.
Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành chính quyền và kết thúc khi xây dung xong về cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Thời kỳ quá độ này được chia thành nhiều bước quá độ nhỏ , bao nhiêu bước là tuỳ thuộc đIều kiện cụ thể của từng nước .
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan .Đó là do đặc đIểm ra đời phương thức sản xuất CSCN và đặc đIểm của Cách mạng vô sản .Cuộc Cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng trước đó ở chỗ các cuộc cách mạng trước khi giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng .Còn Cách mạng vô sản khi giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu còn vấn đề cơ bản chủ yếu hơn đó là phảI xây dựng một xã hội mới cả về quan hệ sản xuất , lực lượng sản xuất , cả về cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội – ý thức xã hội vì vậy cần phải có một thời gian tương đối dài. Đó chính là thời kỳ quá độ lên CNXH.
2.Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1.Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp xu thế khách quan của thời đại trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Từ khi hoà bình lập lại 1954, miền bắc nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH với đặc diểm như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kì quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu,tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phat triển TBCN “
[Hồ Chí Minh:Toàn tập.NXB.Chính trị quốc gia Hà Nội 1996]
Từ 1975 sau khi đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất,cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cũng tiến hành cách mạng XHCN,cùng quá độ lên CNXH.
Xu thế của thời đại ngày nay là quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới :
Thực tế đã khẳng định CNTB là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử không phải là tương lai của loài người sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là XHCN.Quá trình cải tiến xã hội cũ,xây dựng xã hội mới-xã hội XHCN không phải là quá trình cải lương,duy ý chí mà quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn khách quan hợp với quy luật lịch sử.Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người,vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người,vì tiến bộ chung của loài người.
Mặt khác từ điều kiện cụ thể nước ta là một nước nông nghiệp,thuộc địa nửa phong kiến,đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ giải phóng dân tộc và đồng thời tiến hành cách mạng XHCN.Ngày nay chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập,tự do cho dân tộc,mới thực hiện được mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh.Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại.Điều đó thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử
2.2. Khả năng bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Mặc dù kinh tế còn lạc hậu,nhưng nước ta có đủ khả năng tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
*Về khả năng khách quan:
Nhân tố thời đại ngày nay là xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc các quốc gia không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ TBCN trở thành tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này.Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên,cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện”con đường phát triển rút ngắn”.
*Về vấn đề chủ quan.
Đất nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,đa dạng dân số đông,sức lao động dồi dào,vị trí địa lý giao thông thuận lợi.Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ giải phóng dân tộc cũng là mở đầu để tiến hành cách mạng XHCN.
Mặt khác công cuộc đổi mới,đất nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ đại hội đảng VI đã thu được những kết quả bước đầu khả quan,giữ vững ổn định chính trị,tạo môi trường hợp tác đầu tư phát triển kinh tế,đời sống nhân dân từng bước được cải thiện...Điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên CNXH là hoàn toàn đúng đắn và củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
2.3.Nhận thức về thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Bỏ qua chế độ TBCN là con đường “rút ngắn” để quá độ lên CNXH ở nước ta.Về chính trị,bỏ qua chế độ TB là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản của kiến trúc thượng tầng TBCN.Về kinh tế,bỏ qua chế độ TB là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN,nhưng phải biết tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được duới chế độ TBCN,đặc biệt về khoa học,công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng lền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất TBCN bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên công nghiệp xã hội ở nước ta.
ở đây bỏ qua chế độ tư bản không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, rút ngắn ở đây không làm nhanh chóng như chủ tịch HCM đã nói "tiến lên CNXH không thể một sớm một chiều. Đó là một công tác tổ chức và giáo dục" CNXH không thể làm mau chóng được mà phải làm dần dần.
[Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB, chính trị quốc gia, Hà Nội 1996]
Sự rút ngắn này phải được thực hiện dần dần thông qua việc sử dụng biện pháp kế hoạch đồn thời với việc sự dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.Bên cạnh đó, để thực hiện sự rút ngắn này chúng ta cần phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học công nghệ.
Nhận thức được nội dụng của sự quá độ bỏ qua chế độ TB này sẽ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước mà CNTB chưa phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu của CNXH ở nước ta là xây dựng một xã hội dân giàu nứơc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
3. Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ
Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kính tế xã hội, phải xây dựng một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy trong thời kỳ quá độ chúng ta cần thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:
3.1.Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phát triển lực lượng sản xuất, CNH(Công nghiệp hoá),HĐH(hiện đại hoá) đất nước được coi là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phát triển lực lượng sản xuất.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao.
CNH, HĐH là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên CNXH ở những nước kinh tế lạc hậu, CNTB chưa phát triển.
Đối với Việt Nam, CNH, HĐH là nhằm mục tiêu "xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh"
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 đã nêu rõ: con đường CNH, HĐH của đất nước ta cần có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Trong quá trình CNH,HĐH đất nước,con người giữ vai trò trung tâm vì “muốn xây dựng CNXH,trước hết cần có những con người XHCN”
[Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB, chính trị quốc gia, Hà Nội 1996]
3.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng XHCN.
Chúng ta phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do đó, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước theo định hướng XHCN.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta, tất yếu với nhiều loại hình sở hữu và tương ứng với các loại hình sở hữu là các thnành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ; kinh tế TB tư nhân, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đường nối phát triển một nên kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong công việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăn lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất 1 cách nhanh chóng.
3.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín mà là nền kinh tế mở. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, về cấu nghành, và sản phẩm… mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lời và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, tích cực khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
II. Thực trạng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta
1. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ
Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong nền kinh tế với nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản xuất là: sở hữu tư nhân, sở hữu công nghệ về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi loại hình sở hữu tư liệu sản xuất, với những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu ; sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân.
Các hình thức sở hữu này không biệt lập mà đan xen nhau mà tác động lẫn nhau trong đó sở hữu nhà nước được thiết lập các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Do nhiều hình thức sở hữu nên tương ứng với mỗi hình thức sở hữu sẽ là một thành phần kinh tế nhất định.
Mặt khác nền kinh tế ở nước ta chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn có ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ tất yếu phải là kinh tế nhiều thành phần.
Trong nền kinh tế của nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đây là công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng XHCN/
1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 đã nêu rõ:"phát triển kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam"
[Văn kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ IX]
Mục tiêu của sự nghiệp CNH là “xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.”
[Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII].
Để hoàn thành mục tiêu đó chúng ta đã đang thực hiện nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Cụ thể là phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nghành nông nghiệp . Trong những năm gần đây, tỷ trọng các nghành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP đều tăng một cách đáng kể tỷ trọng nghành nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP giảm dần (còn 19% năm 2004) đồng thời cơ cấu lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp cũng giảm dần và tỷ lệ lao động qua đào tạo ngày càng tăng (khoảng 23% năm 2004)
Đồng thời chúng ta cũng mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Ngày nay chúng ta có quan hệ với 140 nước thương mại trên thế giới, quan hệ đầu tư với trên 70 nước và vùng lãnh thổ, chủ động tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong hiệp hội các nước ĐNA (ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - TBD (APEC), gia nhập WTO trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO vào tháng 11 năm 2006 và đã được Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam vào tháng 12 năm 2006, điều này khẳng định sự công nhận của cộng đồng Quốc tế về những thành tựu kinh tế và những nỗ lực hội nhập với kinh tế thế giới của Việt Nam. Đây là dấu mốc cho một thời kỳ đổi mới với kinh tế Việt Nam, nhiều cơ hội hơn và cũng nhiều thách thức hơn.
1.3. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện CNH, HĐH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
Với nước ta nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Khác với các nước TBCN, nền kinh tế thị trường nước ta có sự quản lý của nhà nước XHCN, nhà nước nhân dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường.
Trước đây khi chưa thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế đóng. Ngày nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế mở rộng hội nhập. Việc mở rộng, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới đã giúp chúng ta thu được nguồn vốn đầu tư lớn từ nước ngoài, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của ta, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực để có thể xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
2. Những thành tựu của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của công cuộc đổi mới và khẳng định con đường quá độ lên CNCH ở VN là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế khách quan.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế VN đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (bình quân 7,3%/năm từ năm 1990 - 2003 và năm2004 là 7,6%) đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế của mình và tới năm 2006, các chỉ số kinh tế vĩ mô đều tăng vượt bậc cao hơn kế hoạch cũng như dự báo
(Tạp chí nghiên cứu kinh tế)
Mức tăng trưởng kinh tế cao đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể mức sống của nhân dân, đóng góp một phần vào sự tăng trưởng kinh tế năng động của khu vực Đông và ĐNA, mở ra khả năng tiến cùng thời đại và đặc biệt tạo ra thế và lực mới để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Tuy điểm xuất phát vẫn còn rất thấp nhưng đã thu được những thành quả rất đáng khích lệ.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng các nghành nông, lâm, ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Về cơ cấu nghành công nghiệp và xây dựng luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng nghành công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 40,1% năm2004, giá trị sản xuất công nghiệp trong 4 năm 2001-2004 tăng bình quân 15,3%/năm
[Số 26-31 ngày 7/1/2005 Thời báo kinh tế VN)
Đến nay cả nước đã thiết lập được hàng trăm khu công nghiệp, khu chế xuất trong đó nhiều khu đã lấp đầy diện tích mặt bằng và hoạt động có hiệu quả. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm ngày một tăng lên, một số sản phẩm công nghiệp đã đứng vững và cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước.
Vượt qua những thử thách rất khặc nghiệt, những khó khăn chồng chất về thiên tai, dịch bệnh và sự biến động khó lường của giá cả thị trường của quan hệ cung cầu, nghành công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, giá trị sản xuất toàn nghành nông lâm, ngư nghiệp trong năm 2001-2004 tăng bình quân 5,1%/năm, tỷ trọng nghành nông lâm, ngư nghiệp trong GDP giảm từ 24,5%- năm 2000 xuống 19% năm 2004 đặc biệt , dù có hiệu ứng tăng giá nhưng chính phủ với vai trò điều tiết chính của mình đã kiểm soát được mức tăng giá thành công, cụ thể theo tổng cục thống kê tháng 12/2006 cho biết chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2006 chỉ tăng 0,5 % so với tháng trước và dừng ở mức 6,6% thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng kinh tế (Dự kiến 8,1 - 8,2 %) và là mức khả quan nhất trong vòng 3 năm qua (2004 là 9,5%; 2005 là 8,4%).
Thành tựu vượt trội được cả quốc tế đánh giá cao là tăng mạnh về nông sản và sản lượng cây trồng, vật nuôi, an ninh lương thực được đảm bảo vững chắc, một số nông sản xuất khẩu của ta chiếm lượng cao trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản đạt gần 3,7 tỷ USD tính tới thời điểm này, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2006 trong đó xuất khẩu nông sản đạt gần 2,7 tỷ USD tăng 3,2%, nông sản đạt trên 1 tỷ USD, tăng 21%. Càphê hiện vẫn đang là mặt hàng dẫn đầu với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,1 tỷ USD chiếm 42% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản. kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su đạt 433 triệu USD,hạt điều đạt 197 triệu USD, Hồ tiêu đạt 110 triệu USD, Gạo xuất khẩu đạt 1,8 triệu tấn trong 5 tháng đầu năm 2007. mức tăng trưởng xuất khẩu đạt 580 triệu Đô.
[Số 26-31, ngày 7/2đ14/2/2005 thời báo kinh tế Việt Nam và nguồn báo Đầu Tư tháng 6/07]
Cơ cấu trong các nghành cũng thay đổi tích cực. Cơ cấu trong nghành công nghiệp xây dựng tăng từ 12,1%/2000 lên 24%năm 2004; lao động trong nông lâm, ngư nghiệp giảm từ 68,2% năm 2000 xuống còn 58,6% năm 2004. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên khoảng 23% năm 2004 đây là một điều rất quan trọng trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Cơ cấu vùng kinh tế đang hình thành và được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh từng vùng trong đó vùng kinh tế trọng điểm phát triển nhanh. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đầu tư phát triển vùng miền núi, trung du, vùng dân tộc ít người.
Kinh tế nước ta hội nhập có hiêu quả với kinh tế khu vực và thế giới. Nước ta đã thiết lập quan hệ với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút FDI từ các đối tác của nhiều nước và vùng lãnh thổ, tranh thủ vốn ODA của 45 nước tổ chức quốc tế, đặc biệt tại hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 14 năm 2006, cam kết ODA của các bên tham gia tài trợ đã đạt mức kỷ lục hơn 4,45 tỷ USD trong năm 2007 vượt xa mức 3,7 tỷ của năm 2006, chứng tỏ sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào tiềm năng phát triển của Việt Nam và là điểm đến đầy hứa hẹn của nhiều nhà đầu tư lớn, là nguồn lực cần thiết cho Việt Nam trong thời kỳ cất cánh này. Đồng thời đã ký nhiều hiệp định thương mại song phương, các hiệp ước khuyến khích và bảo họ đầu tư, các hiệp ước chống đánh thuế 2 lần, nước ta trở thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quan trọng và đang hoàn tất quá trình gia nhậpWTO, trở thành thành viên chính thức thứ 150 và đã tham gia tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn tuần lễ cấp cao APEC và hội nghị APEC CEO summit 2006, được đánh giá là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và tìm hiểu đối tác với gần 1000 nhà kinh doanh, đầu tư trên thế giới tới Việt Nam theo đó hàng loạt các hợp đồng hợp tác kinh doanh trong các lĩnh vực trọng yếu được ký kết với giá trị gần 2 tỷ USD tạo sự thuận lợi rất lớn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Đến nay có hơn 75 nước đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư lớn là Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapo chiếm tới 60,12% số dự án và 58,41% vốn đầu tư.
FDI tới năm 2006 thực sự là năm khởi sắc của thu hút đầu tư FDI vượt xa cả kế hoạch và cả con số dự báo của năm 2006 chỉ là 6,2 tỷ USD thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 đã đạt con số kỷ lục là 10,2 tỷ USD tính đến tháng 12 năm 2006. Đây là mức thu hút vốn FDI cao nhất kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1997 đến nay. Theo cục đầu tư nước ngoài (Bộ kế hoạch và đầu tư) vốn của các dự án cấp mới đạt hơn 7,6 tỷ USD còn lại là vốn các dự án đang hoạt động xin gia tăng vốn. Trước đó trong năm 2006 đã xuất hiện hàng loạt các dự án đầu tư vi mô lớn do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư như Công ty thép POSCO với quy mô vốn là 1,126 tỷ USD hay tập đoàn INTEL đầu tư vào Việt Nam trên 1 tỷ USD Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần khá lớn vào tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo động lực cho việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động (khoảng 77vạn ngừơi trong năm 2001-2004), thúc đẩy sản xuất hànhg hoá mở rộng thị trường phát triển các nghành dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tạo ra năng suất lao động cao, tiến bước đưa nền kinh tế nước ta chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Đóng góp vào ngân sách của khu vực FDI cũng ngày càng tăng và nó thúc đẩy xuất nhập khẩu năm 2006 kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt trên 39,6 tỷ USD vượt 4,9% so với kế hoạch và tăng 22,1% so với 2005. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu chung, các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài chiếm 29,921 tỷ USD, đạt 142,9 % so với dự kiến. Doanh nghiệp 100% vốn trong nước đóng góp 15,184 tỷ USD. Tính đến cuối năm 2006 đã có 9 nhóm hàng tham gia câu lạc bộ kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ.Các mặt hàng làm tăng nhiều lợi nhuận xuất khẩu cho Việt Nam năm 2004 là dầu thô và một số loại nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu và thuỷ sản như cá tra, cá basa, tôm.
[Tạp chí cộng sản số 6 (tháng 3/2005) và nguồn Internet]
Đặc biệt, sau hơn 6 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 đã chứng kiến sự khởi sắc và phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng và đây cũng là kênh thu hút tài chính đáng kể với mức vốn hoá thị trường tăng từ 1% CDP cuối năm 2005 đến 15% CDP, đạt xấp xỉ 150 nghìn tỷ đồng. Điều này cho thấy sự hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính và là kênh quan trọng để các nhà doanh nghiệp trong nước kêu gọi đầu tư và sử dụng có ích các khoản tiền nhàn rỗi.Cùng với mức tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân cũng được cải thiện một cách đáng kể. Theo tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giảm từ 58,1% (1993) xuống 37,4%(1998), và giảm còn 28,9% năm 2002 và hiện này chỉ còn nhỏ hơn 28%. Tốc độ giảm nghèo đói trên được thế giới xem như một ví dụ thành công đáng khâm phục của chính sách chống đói nghèo quốc gia. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200USD năm 1990 lên 470$ hiện nay.
Nền kinh tế nước ta đạt những thành tựu trong những năm vừa qua là do nước ta có môi trường chính trị ổn định, an ninh xã hội được đảm bảo, cơ cấu đổi mới trong thời gian qua đạt được nhiều thành tựu tạo ra sự tin tưởng , kỳ vọng của nhà đầu tư, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác do đường lối đổi mới đúng đắn của đảng, những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của nhà nước, ý chí kiên cường tính năng động sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta là nguyên nhân quan trọng tạo ra thành công của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
3. Những hạn chế của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng như trên, tuy nhiên những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kính tế - xã hội vẫn còn những mặt yếu kém bất cập là:
Nền kinh tế còn kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu, tích luỹ nội bộ và sức mua trong nội bộ còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm theo hướng CNH, HĐH tỷ trọng lao động trong công nghiệp còn cao 158,6% năm 2004) sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả và còn lãng phí.
Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế chưa phát huy hết năng lực, cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm,"năng suất, kích thích đầu tư phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh.
Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố vững chắc, hệ thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ ; cơ chế quản lý chồng chéo, thủ tục hành chính còn rườm rà. Năm 2006 nạn tham nhũng có chiều hướng tăng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng như vụ PMU 18, Nguyễn Đức Chi.... đã làm thiệt hại không nhỏ về kinh tế kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nguy hại hơn nó còn làm suy giảm nghiêm trọng lòng tin của nhân dân vào bộ máy công quyền, của các nhà đầu tư của nước ngoài, cộng đồng quốc tế vào khả năng vận hành hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam ; tuy tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm nhiều (nhỏ hơn 28% năm 2004), nhưng VN vẫn còn là một trong những nước có mức nghèo đói cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng và nhà nước; công tác cải cách hành chính, tiến hành chậm, tổ chức bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh chồng chéo, hoạt động không có hiệu quả. Có một số bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thoái hoá biến chất, thiếu năng lực, tình trạng cửa quyền, tham nhũng, lãng phí còn nặng.
III. Giải pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ như mức tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực… Tuy nhiên bên cạnh đó còn không ít những hạn chế. Sau đây là một số giải pháp khắc phục những hạn chế để phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ.
1. Tiến hành CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
CNH, HĐH được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trước hết giải pháp kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH,HĐH. Để làm được việc này, trước hết phải tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nướ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0131.doc