Con đường đi lên CNXH của Việt Nam

Mở đầu Công cuộc đổi mới được triển khai ngày càng sâu rộng đến nay đã sang năm thứ 12. Chúng ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, đối nội, đối ngoại...bộ mặt của đất nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã thay đổi rất nhiều. Đó là một sự thật hiển nhiên mà nhân dân ta đều thấy rõ và thế giới thừa nhận. Tất cả chứng tỏ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Con đường đi lên CNXH của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của đất nước ta và xu thế chung của thời đại. Chúng ta phải thấy rõ hai mặt của tình hình, đánh giá khách quan đúng mức, không thổi phồng, cường điệu bất cứ mặt nào. Khẳng định thành tựu để làm cho những gì là tốt đẹp, là tích cực không phải chỉ là kết quả đổi mới mà còn phải trở thành mặt chủ đạo của đời sống xã hội, trở thành tiền đề cho sự phát triển tiếp tục của đất nước, trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Mặt khác, phải nhận diện cho đúng, cho hết những tệ nạn, tiêu cực, suy thoái, đang là lực cân con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Hơn nữa Bác Hồ đã nói những cái đó còn là những “giặc nội xâm”, là “đồng minh” của các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta. Nhìn nhận được thấy mặt trái của tình hình Đảng, Nhà nước và toàn dân ta đang cố gắng tìm mọi cách đẩy lùi, khắc phục, ngăn chặn những tiêu cực, tệ nạn, suy thoái đang diễn ra, cùng nha đưa ra ý kiến, đề xuất để giải quyết tốt vấn đề này. Người ta tập chung vào hai loại vấn đề là: một là kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, hai là dân chủ và sự lãnh đạo của Đảng. Về kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường không thể đi đôi với chủ nghĩa xã hội, nếu chấp nhận chủ nghĩa xã hội thì phải từ bỏ kinh tế thị trường, không thể “bắt cá hai tay” được. Làm như hiện nay thì chỉ đẻ ra một nền kinh tế hỗn loạn, không ra kinh tế thị trường, không ra kinh tế chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là một cách nói nhập nhằng, chỉ tạo ra tình trạng nước đôi, nửa vời, vừa làm vừa run, chỉ có lợi cho những kẻ đục nước béo cò mà thôi. Từ đó đi đến nhận định: kinh tế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế của đất nước, đem lại lợi ích cho các tầng lớp nhân dân, còn việc gắn định hướng xã hội chủ nghĩa vào đây chỉ là vì lợi ích của Đảng chứ không đem lại lợi ích gì cho tuyệt đại đa số nhân dân. Từ khi bước vào đổi mới, chúng ta đã đổi mới tư duy, đổi mới khá nhiều những quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Trong những quan điểm mới, có vấn đề chấp nhận kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, vì kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường không phải chỉ riêng chủ nghĩa tư bản, nó xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có sản xuất hàng hoá. Chúng ta đã đi đến nhất trí nền kinh tế mà chúng ta cần xây dựng không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp như trước đây mà là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mà Đảng và nhà nước ta đặt mối quan tâm chủ yếu trong việc xây dựng đất nước ta. Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta cố gắng tìm mọi cách điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế mới, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi đi vào kinh tế thị trường, làm cho định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng hơn, sử dụng tột kinh tế thị trường phục vụ cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm sao kinh tế nhà nước không bị thua lỗ để đóng được vai trò chủ đạo, làm sao phát huy được năng lực của các thành phần kinh tế... Như vậy việc ra đời đề án này là rất cần thiết, kịp thời, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu xu hướng phát triển kinh tế hiện nay, phù hợp với mục tiêu phương hướng mà chúng ta đặt ra. Từ sau đại hội VII, khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, trong các công trình khoa học ở nước ta. Theo văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII “định hướng xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là phấn đấu thực hiện sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà đại hội VII đã thông qua. Trong văn kiện đó viết: “Đại hội VII đã nêu lên sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. đại hội cũng đã chỉ rõ bảy phương hướng cơ bản để từng bước thực hiện trong các thực tế các đặc trưng ấy. Đó chính là định hướng xã hội chủ nghĩa mà các hội nghị Trung ương (khoá VII) đã cụ thể hoá để chỉ đạo thực hiện”. Nói cách khác, “ định hướng xã hội chủ nghĩa “ là khái niệm dùng để chỉ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần đạt tới cùng những phương hướng cơ bản để từng bước tiến tới mục tiêu đó. Giữ vững định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa trên con đường phát triển kinh tế đất nước theo kịp nhip độ phát triển của thế giới là một vấn đề hết sức quan trọng, chính vì thế nên em chọn đề tài: “Con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội của nước ta". Trong bài viết này em sẽ trình bày một số lý luận về “Con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội cua nước ta”. I- Một số vấn đề lý luận về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Ngày nay chúng ta dùng “định hướng xã hội chủ nghĩa”, “giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa” bao hàm ý: Một là, dứt khoát đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, không chọn lựa con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hay con đường thứ ba nào khác. Hai là, chúng ta không có đủ điều kiện thực hiện kiểu quá độ trực tiếp. Trong điều kiện đó, chúng ta đã, đang và sẽ phải sử dụng một số nhân tố trước hết là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường...mà do bản chất khách quan của nó, khả năng phát triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa là có thật, bất cứ lúc nào cũng có thể chệch hướng, nếu Đảng ta nói riêng, hệ thống chính trị nước ta không đủ mạnh. Ba là, trong giai đoạn này, chúng ta chưa thể thực hiện được ngay một lúc tất cả những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, mà là thực hiện từng bước các đặc trưng đó. 1- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản-một tất yếu lịch sử. Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hộ đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt qua khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử. Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi người dân được ấm no, tự do hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta như vậu là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại đã làm cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở nước ta là một tất yếu lịch sử. Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn còn những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ngay cả trong điều kiện không còn Liên Xô. Về khả năng khách quan, trước hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia, không những làm cho sự quá độ bỏ qua chế độ tư bản trở thành một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng đẻ các nước phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước của mình những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “con đường phát triển rút ngắn”. Xu thế toàn cầu hóa sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khặc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển nếu có đường lối chính sách đúng. Về những tiền đề chủ quan: Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng được những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. So sánh với Liên xô trước đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ ta tuy có mặt yếu, nhưng cũng có mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghiã xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo-một Đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo và trí tuệ khoa học, có đường lối đúng đắn và gắn bó quần chúng, đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng thành xã hội. công chủ nghĩa. 2- Bản chất và nội dung giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1- Bản chất giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VII của Đảng đã xác định bản chất giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa: “xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “...phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. 2.1.1- Nền kinh tế mà chúng ta cần có là nền kinh tế hàng hóa phát triển tức là kinh tế thị trường hiện đại. Đã là kinh tế thị trường thì có cơ chế vận hành vốn có của nó-cơ chế thị trường.Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là:đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp. Với những đặc điểm xuất phát như trên, có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta không còn hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói thực trạng kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp. Để phát triển nền kinh tế thì nền kinh tế nước ta phải được chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bước tiến bộ về mặt kinh tế hơn hẳn trước đây mà nhiệm đặt ra hiện nay là nước ta cần xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hịên đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế xã hội phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nộ dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc trưng: Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ: thị trường hàng hoá, thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh, thị trường sức lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán...Tất cả các loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống thị trường này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại của hoạt động kinh tế xã hội. Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị trường và cạnh tranh với nhau. Việc vận hành kinh tế xã hội được thực hiện trong sự kết hợp giữa đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch với việc sử dụng các loại tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu trữ tài nguyên được điều tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất. Dựa trên quy luật thống nhất mà hình thành một trật tự thị trường, sản xuất xã hội, lưu thông, hình thành mạng lưới sản xuất xã hội có trật tự của kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô cần thiết, hữu hiệu, vận dụng chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế, chỉ đạo kế hoạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển của kinh tế thị trường. Đã là kinh tế thị trường thì có cơ chế vận hàng vốn có của nó-cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường chín là “bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế trên thị trường đặc biệt là quy luật giá trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác đông của cơ chế thị trường được phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là “bàn tay vô hình” điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 2.1.2- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế thị trường đều có sự quản lý của nhà nước. Cho nên tính đặc thù của nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng so với các nền kinh tế thị trường đang có ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải ở chỗ có hay không có sự quản lý của nhà nước mà là ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại. Định hướng xã hội chủ nghĩa nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lí tưởng của Đảng ta, nhà nước và nhân dân ta, mà còn là xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử. Hiện nay tình hình thế giới đã và đang biến đổi phức tạp.Trong nhiều thập kỷ vừa qua, các nước tư bản chủ nghĩa lợi dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ, tranh thủ và mở rộng phát triển nền kinh tế của mình.Họ đã ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xã hội. Song điều đó cũng cho thấy những tiền đề về kinh tế và xã hội cho một xã hội tương lai được chuẩn bị ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã cho thấy khi hình thành những yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động của những yếu tố này không có tính nhất thời mà là cả một quá trình. Chủ nghĩa tư bản không phải là cả một hình thái kinh tế xã hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về hình thái kinh tế xã hội của Mác thì sớm hay muộn chủ nghĩa tư bản cũng phải nhường chỗ cho một xã hội văn minh hơn đó là chủ nghĩa hội. Đúng như văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa hội. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.” Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: “cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đên sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối dập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. 2.2- Nội dung giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2.1- Thực hiện nhất quán, lâu lài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tìm mọi biện pháp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung-cầu, tiền tệ, giá cả chung. Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền sản xuất hàng hoá ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này, nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiên tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2.2- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dưa trên một hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất, và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình vận động vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng nới kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau: Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tao điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học- công nghệ hiện đại, tiên tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước, và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất và mở rộng. Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vì đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu hồi vốn lại chậm... 2.2.3- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao đông trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn. Đảng và nhà nước phải có thiết chế tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế chủ động tham gia phát triển kinh tế, làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong lĩnh vwc kinh tế xã hội. Khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở từng loại hình cơ sở. Phát huy quyền dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân trong việc bàn, quyết định và giám sát việc thực hiện những chủ trương kinh tế, xã hội trực tiếp liên quan đến lợi ích của dân trong việc xử lý theo đúng pháp luật những việc làm sai,những cán bộ vi phạm. Đồng thời, đề cao kỷ luật, kỷ cương của nhà nước. Các đoàn thể nhân dân cần đổi mới tổ chức và hoạt động của mình hướng vào việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế xã hội, thiết thực giúp dân phát triển sản xuất, kinh doanh, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, tiến lên làm giàu góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. 2.2.4- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiên mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới chủ nghĩa tư bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lai đông theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị của tư bản. Như vậy, thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng, phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.Thu nhập của người lao động không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề quá phức tạp và khó khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông qua thị trường để đánh gía kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, huy động được nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế. 2.2.5- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những quy luật kinh tế nội tại của kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Nền kinh tế thị tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản “không để lại giữa loài người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối “trả tiền ngay” không tình nghĩa. Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phương Tây Ê-gat Mô-ring đã đưa ra nhân xét chua chát : “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”. Vì vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội-xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển nền kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế phải sao cho tương hợp với thị trường. Vì vậy, nhà nước sử dụng biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế. 2.2.6- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng, mà là xu hướng chung của nền kinh tế trên thế giới hiện nay. Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả. 3- Khả năng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế ở Việt Nam. 3.1- Nền kinh tế thị trường hiện đại, một bước tiến nhằm khắc phục những nhược điểm lịch sử của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường hiện đại có đặc điểm là vai trò của nhà nước ngày càng được coi trọng đúng với vị trí của nó, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên phải khắc phục được hai nhược điểm chính của hệ thống kinh tế thị trường tự do là cạnh tranh vô chính phủ và bất bình đẳng về xã hội. Các nhà kinh tế và chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường đã nhận ra rằng đẻ khắc phục được hai nhược điểm đó cần phải có một nhà nước mạnh-một nhà nước thực thi dân chủ, đề ra các nguyên tắc, luật lệ kinh tế rõ ràng và kiểm tra nghiêm chỉnh các hoạt động kinh tế trong trật tự của nền kinh tế thị trường. “Lý thuyết tổng quát” của Keynes đã trở thành lý thuyết về “bàn tay hữu hình”, “bàn tay công cộng” của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Nhà nước tham gia phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống thuế khoá, xây dựng các bộ luật quan trọng để xác dập khuôn khổ phấp lý, trật tự của nền kinh tế thị trường, tổ chức các hình thức bảo hiểm quan trọng trong xã hội. Chi tiêu ngân sách của chính phủ được đề cao trong việc xây dựng và phát triển các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như tiền tệ, tài chính, công nghiệp nặng, cơ sở hạ tầng... được coi là công cụ can thiệp trực tiếp và chủ yếu dể giải quyết việc làm và thu nhập, kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng, bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định nền kinh tế và giải quyết được về cơ bản các chính sách xã hội trong hàng chục năm qua ở các nước này. Việc phát triển có định hướng nền kinh tế không thể không gắn với nấn đề tăng trưởng lâu bền nền kinh tế. Khi xem xét kinh nghiệm của các nước đã giải quyết thành công vấn đề tăng trưởng thì một trong những bài học bổ ích có thể học hỏi được đối với Việt Nam là sự kết hợp và duy trì một tương quan hợp lý giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, giữa sự điều tiết bởi “bàn tay hữu hình” của nhà nước và “bàn tay vô hình” của thị trường. Rõ ràng là nhờ đó, các nước này đã sử dụng và huy động được tất cả các lực lượng kinh tế thuộc khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, các mối quan hệ quốc tế có lợi cho quá trình tích luỹ vốn và chuyển giao công nghệ như các kiến thức, kỹ năng lao động và quản lý hiện đại. 3.2- Cấu trúc lại sở hữu nhà nước là đòi hỏi khách quan để phát triển nền kinh tế thị trường. Trước hết, cần phải có sự đổi mới và cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước để củng cố vai trò chủ đạo đích thực của nó ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35293.doc
Tài liệu liên quan