Cơ sở pháp lý về du lịch và vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam

Lời giới thiệu Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá Du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được- một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Du lịch Việt Nam đang có những bước triển biến rõ rệt, lượng khách Du lịch trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành đã đóng góp rất lớn vào nền kinh tể nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNH- HĐH đất nước, cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động kinh doanh Du lịch ngày càng cao đã đưa Du lịch trở thành một ngàn

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ sở pháp lý về du lịch và vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h “công nghiệp không khói” đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù vậy nhưng ngành Du lịch ở nước ta vẫn còn đơn giản, lạc hậu, chưa thực sự được chú trọng khai thác hết tiềm năng. Chúng ta phải có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chi tiết để Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ hơn và như vậy các công ty du lịch hoạt động nghiêm túc, hiệu quả hơn giúp cho khách du lịch thuận tiện, thoải mái và an toàn khi đi du lịch ở Việt Nam. Ngoài ra để phát triển ngành Du lịch cần phải hội nhập với thế giới. Đối với nước ta một nước đang phát triển thì hội nhập là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tốt hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Vấn đề đặt ra với Việt Nam không phải là có hội nhập hay không mà là hội nhập như thế nào ? tiến trình và cách thức để áp dụng tốt nhất. Thực tế cho thấy không có một quốc gia nào có thể tự lực xây dựng một nền kinh tế nội địa có hiệu quả mà không cần đến bên ngoài. Vì vậy hội nhập trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và được bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam luôn là điểm đến an toàn, tin tưởng của du khách quốc tế, vì vậy chúng ta phải xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy ngành du lịch phát triển và hội nhập với thế giới, giúp bạn bè thế giới đến với Việt Nam nhiều hơn, thông qua đó mở rộng các mối quan hệ hợp tác kinh doanh, tận dụng các điều kiện bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước nói chung và ngành Du lịch nói riêng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu cơ sở pháp lý về Du lịch và vấn đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, qua đó có thể khắc phục được những điểm yếu hiện nay và nắm vững cơ sở nhằm phát triển du lịch Việt Nam lên tầm cao mới. Trong khuôn khổ bài Luận văn em đã đề cập tới các nội dung sau: Lời giới thiệu. Chương 1: Du lịch và tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân Chương 2: Cơ sở pháp lý của du lịch tại Việt Nam. Chương 3: Hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam Kết luận. Do thời gian và khả năng có hạn, mặc dù em đã cố gắng thu thập tài liệu, phân tích tổng hợp các thông tin để làm bài luận văn được tốt nhưng cũng không tránh khỏi các thiếu sót . Em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô để đề tài nghiên cứu này thực sự có hiệu quả. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa và đặc biệt là thầy giáo TS. Hồ Phong Tư đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài Luận văn này. Chương I Du lịch và tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt trong xã hội hiện đại. Có nước coi Du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi Du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển vọng kinh tế này. Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước trong khu vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.2. Khái niệm về Du lịch Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại , Du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch trên thế giới vẫn chưa thống nhất. Bởi hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một chuyên gia đã nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Trong giáo trình Thống kê Du lịch , Nguyễn Cao Thường và Tô Đông Hải chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác. Nhưng theo hai học giả Hoa Kỳ - Mathieson và Wall thì du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ. Còn theo nhà địa lý học Michaud lại cho rằng: Du lịch là tập trung những hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ ít nhất một đêm người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khoẻ, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo. Như vậy, dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có một cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm Du lịch. Chính vì vậy, trong pháp lệnh Du lịch của Tổng cục du lịch Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất đinh. 1.3. Tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với nền kinh tế quốc dân Dựa vào định nghĩa chúng ta thấy về phương diện kinh tế, Du lịch là một ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên và bao gồm sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Vì vậy, Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế cao mà là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác, tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế, là phương tiện quan trọng để thực hiện các chính sách mở cửa, là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và bên trong. Du lịch có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nền kinh tế đất nước thông qua việc tiêu dùng của du khách. Và để hiểu rõ vai trò của Du lịch trong quá trình tái sản xuất xã hội trước hết, ta quan tâm tới việc tiêu dùng của Du lịch, đó là những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, vãn cảnh thư giãn, nghỉ ngơi.... Du lịch nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và các hàng hoá phi vật chất. Do đó, nhu cầu về dịch vụ rất được du khách quan tâm. Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng Du lịch và tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm Du lịch xảy ra cùng một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so sánh giá của sản phẩm Du lịch này với sản phẩm Du lịch kia một cách tuỳ tiện đựơc. Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch được thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm Du lịch . Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội. Trên bình diện chung, hoạt động Du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước mà họ đi Du lịch , làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến, ngược lại phần thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người Du lịch nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động Du lịch làm xáo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song có tác dụng điều hoá nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu vùng xa. Khi khu vực nào đó trở thành một điểm Du lịch , du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến......Bên cạnh đó các hàng hoá vật tư cho Du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hoá phải được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến...để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách. So với ngoại thương ngành Du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không quá cao. Qua đây, ta thấy Du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nền kinh tế đất nước. Ngược lại, nó cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực, rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hoá tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến Du lịch . Việt Nam, với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước tăng trưởng với nhịp độ cao, mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả trong nước ổn định. Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyền truyền và quảng cáo không mất tiền cho nước ta. Cụ thể, khi khách hàng đến một khu du lịch nào đó, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó. Khi trở về đất nước họ, khách bắt đầu tìm kiếm những thứ đó ở thị trường địa phương và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập những mặt hàng đó. Theo cách này, du lịch quốc tế đã góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước ta, mà nhất là trong khi chúng ta chưa có điều kiện truyền quảng bá rộng rãi nhiều sản phẩm, mặt hàng trong nước ra thị trường nước ngoài. 1.4. Đường lối đổi mới trong sự nghiệp phát triển Du lịch của Đảng ở Việt Nam và những thành tựu về du lịch trong những năm qua Sau khi giành được độc lập tự do trên một phần của đất nước, mặc dù còn có rất nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết dong Đảng ta đã có sự quan tâm đến hoạt động du lịch. Chỉ 6 năm sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, với Nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ, Công ty du lịch Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Đây là lần đầu tiên ở nước ta có một cơ quan chuyên trách về vấn đề du lịch. Là một Công ty trực thuộc Bộ Ngoại thương, nhiệm vụ cơ bản của Công ty Du lịch là phục vụ các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tuy gặp nhiều khó khăn do trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất non kém gây nên nhưng tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Như vậy, quyết định này của Đảng và Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hình thành ngành Du lịch Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 9 tháng 7 được coi là ngày thành lập của ngành Du lịch Việt Nam. Ngày 23/1/1979, Thủ tướng đã ban hành Nghị định 32/CP chính thức thành lập Tổng cục Du lịch. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch cho thấy Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao vai trò của du lịch trong giai đoạn mới. Điều đó đã tạo ra bước ngoặt mới đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Với cơ sở vật chất lớn mạnh, quyền hạn được mở rộng, giai đoạn này Tổng cục Du lịch trực tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn, nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn CBCNV có trình độ và kinh nghiệm để phục vụ khách trong và ngoài nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới. Luồng gió này đã đem lại một nguồn sinh lực mới cho tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội như kinh tế, văn hoá, giáo dục, quản lý… Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, du lịch nước ta đã thựuc sự có điều kiện khởi sắc. Có thể nói, đây là mốc thứ ba trong lịch sử phát triển Du lịch Việt Nam hiện đại. Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế đất nước đã bắt đầu có sự chuyển đổi về cơ bản. Thêm vào đó, năm 1990 được chọn là Năm Du lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động du lịch nước nhà. Hoạt động kinh doanh du lịch đã mở ra ở nhiều ngành, nhiều cơ quan, không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả những thành phần kinh tế khác. Trước xu thế đó, du lịch không chỉ còn được coi là một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý nữa mà đã được khẳng định còn là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Ngày 9 tháng 4 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 119 HĐBT về việc thành lập Tổng Công ty Du lịch Việt Nam. Tên đối ngoại của Tổng Công ty du lịch Việt Nam là Vietnamtourism. Tổng Công ty có các chi nhánh là các công ty ở TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Sự xuất hiện của Tổng Công ty Du lịch Việt Nam trong hoạt động du lịch quốc tế đã thu hút được sự quan tâm của bè bạn và du khách năm châu. Kể từ đây hoạt động du lịch quốc tế của nước ta mới chính thức được ghi nhận. Số lượng du khách quốc tế vào Việt Nam năm 1990 là 250.000 lượt, năm 1992 đã lên đến 440.000 lượt. Tốc độ tăng trưởng trung bình năm khá cao, đạt khoảng trên 30%. Sau nhiều thử nghiệm, trăn trở tìm mô hình tổ chức quản lý phù hợp với con đường phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 26 tháng 10 năm 1992, Chính phủ đã ra Nghị định số 05/CP về việc thành lập lại Tổng cục Du lịch như một cơ quan độc lập ngang Bộ thuộc Chính phủ - quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cả nước. Sự kiện này đã tạo ra một cơ hội to lớn cho sự phát triển của Du lịch Việt Nam. Mười bốn Sở Du lịch đã được thành lập ở các tỉnh có tài nguyên du lịch phong phú và hoạt động du lịch sôi động nhất. Sau thời điểm này, ngành Du lịch Việt Nam đã thực sự có những chuyển biến đáng kể. Số lượng khách, kể cả khách quốc tế và nội địa tăng lên nhanh chóng. Chúng ta thật đáng tự hào cho con số 1.018 nghìn du khách quốc tế năm 1994, sớm hơn 4 năm so với dự tính của các chuyên gia WTO. Tốc độ tăng trưởng trung bình năm của du khách quốc tế giai đoạn 1992-1994 đạt trên 60% đã làm nhiều đối tác và chuyên gia về du lịch của WTO phải ngạc nhiên. Chỉ thị 46CT-TW ngày 14 tháng 10 năm 1994 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới là một bằng chứng sinh động về sự quan tâm kịp thời và có hiệu quả của Đảng đối với du lịch. Chỉ thị đã xác định rõ chức năng của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần, kịp thời chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém của du lịch, đồng thời cũng vạch ra những nguyên nhân của nó. Chỉ thị cũng thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng trong việc phát triển du lịch. Đó là coi việc phát triển du lịch là một hướng chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần thực hiện CNH, HĐH đất nước. Quan điểm thứ hai là phải coi việc phát triển du lịch là nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Quan điểm này là chỗ dựa vững chắc cho ngành Du lịch trong việc huy động, liên kết với các ngành kinh tế, văn hoá để đi lên. Quan điểm thứ 3 đặc biệt nhấn mạnh, đồng thời với phát triển du lịch quốc tế cần phải chú trọng phát triển du lịch nội địa. Quan điểm này chỉ ra vai trò hết sức quan trọng của du lịch trong phát triển xã hội, khẳng định du lịch không chỉ nên coi là một ngành kinh tế đơn thuần mà phải được coi là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc lấy mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, lòng yêu nước, tăng cường sức khoẻ… là nhiệm vụ quan trọng. Ngày 24/12/199 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII đã ra Nghị quyết 02-NQ/HNTW về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000. Trong Nghị quyết chỉ rõ: Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu trọng tâm là nghiên cứu các vấn đề lịch sử, dân tộc tôn giáo, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, triết học… xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Dưới góc độ du lịch. Nghị quyết này đã làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch, góp phần thu hút du khách, phát triển du lịch nước nhà. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng đã dành rất nhiều thời gian và sự quan tâm tới lĩnh vực du lịch. Để phát triển du lịch Việt Nam theo quan điểm bền vững, về mặt tài nguyên, Đại hội chỉ rõ cần phải: bảo tồn và khai thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử để phát triển du lịch. Một trong những nội dung cơ bản của thời kỳ CNH, HĐH trong những năm trước mắt Đại hội khẳng định là: phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ… phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, Thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực. Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó, Đại hội xác định cần phải: triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng phục vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau. Như chúng ta đều biết tiêu dùng du lịch là loại tiêu dùng cao cấp. Trong khi đó điều kiện kinh tế của nước ta còn khá hạn chế. Để giải quyết mâu thuẫn này, Đại hội đã vạch ra những biện pháp rất cụ thể như: 1. Đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn; 2. Cổ phần hoá một số khách sạn hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư cải tạo, nâng cấp; 3. Liên doanh với nước ngoài xây dựng các khu du lịch và các khách sạn lớn, chất lượng cao đòi hỏi nhiều vốn; 4. Chuyển các nhà nghỉ, nhà khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch. Sự ra đời của Pháp lệnh du lịch tháng 2 năm 1999 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động du lịch. Về mặt học thuật, Pháp lệnh là văn bản quan trọng trong việc thống nhất một số khái niệm cơ bản của du lịch. Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch là chỗ dựa pháp lý cho các doanh nghiệp và người làm du lịch Việt Nam. Hoạt động du lịch có liên quan chặt chẽ với nhiều ngành khác nhau. Để yểm trợ cho hoạt động này, đưa chủ trương của Đảng coi việc phát triển du lịch là trách nhiệm của các cấp, các Ban, Ngành vào cuộc sống. Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch do Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm (nay là Phó Thủ tướng Vũ Khoan) làm Trưởng Ban đã được thành lập. Nhờ có Ban chỉ đạo, nhiều vướng mắc trong hoạt động du lịch đã được giải quyết kịp thời, tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho du khách. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, Đảng ta đã xác định cần phát triển du lịch văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Chủ trương này đã và đang mang lại hiệu quả rõ rệt. Hiện nay, về cơ bản chúng ta đã đáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của du khách. Hơn một nửa số buồng phòng đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Dưới sự chỉ đạo nhạy bén của Đảng và Chính phủ đặc biệt từ sau thời kỳ đổi mới Du lịch Việt Nam đã đạt được kết quả rất khả quan. Ngoài việc tăng trưởng về số lượng khách du lịch, thu nhập du lịch tăng bình quân trên 60% năm chiếm khoảng 4% GDP của cả nước. Năm 2004, năm có ý nghĩa đăc biệt quan trọng đối với du lịch Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001-2005 và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứu IX phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất ổn, nhưng với sự nỗ lực của toàn Ngành, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, Ngành và địa phương, sự hưởng ứng của toàn xã hội nên Du lịch Việt Nam vẫn đạt được nhịp độ tăng trưởng cao. Năm 2004, hoạt động du lịch diễn ra sôi động với hàng loạt sự kiện: Năm Du lịch Điện Biên Phủ, Festival Huế, Liên hoan Văn hoá - Du lịch Đà Nẵng, tháng Du lịch Hội An "Cảm xúc mùa hè", lễ hội "Nhịp cầu xuyên á", lễ hội giao lưu văn hoá du lịch Việt - Nhật, lễ hội "Sắc hoa Đà Lạt"… So với năm 2003 khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 2,93 triệu lượt, tăng 20,5%; khách du lịch nội địa đạt 14,5 triệu lượt, tăng 11,5%; thu nhập du lịch đạt 26.000 tỷ đồng, tăng 18,1%. Mười thị trường dẫn đầu khách quốc tế đến Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì đó là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Australia, Pháp, Campuchia, Anh, Đức. Hoạt động du lịch sôi động, tăng diện và quy mô, nhưng vẫn đảm bảo được an ninh và trật tự an toàn xã hội. Những việc đã làm, những kết quả bước đầu đã đạt được, những kinh nghiệm đã tích luỹ là hành trang của Du lịch Việt Nam trên con đường trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Năm 2005 du lịch Việt Nam bước sang tuổi 45 đầy sức sống sẽ phải vươn lên mạnh mẽ trên tất cả các mặt phấn đấu. Để đạt được mục tiêu đề ra từ 3-3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế vào năm 2005, từ 6-7 triệu lượt khách quốc tế và 25 triệu lượt khách nội địa vào năm 2010, đem lại thu nhập xã hội từ Du lịch có giá trị tương đương với xuất khẩu từ 2-3 tỷ USD mỗi năm còn nhiều việc phải làm ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Trước mắt, cần tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình Hành động Quốc gia về Du lịch và xây dựng Chương trình tiếp theo cho giai đoạn 2006-2010. Đồng thời, cần tập trung giải quyết vướng mắc về phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu sáng tạo sản phẩm mới, đặc thù, mang bản sắc văn hoá riêng của Việt Nam, có tính cạnh tranh cao, đổi mới hoạt động xúc tiến du lịch, mở rộng hợp tác và thu hút đầu tư. Tin rằng, từ những căn cứ và tiền đề tạo ra, được sự ủng hộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đồng bào cả nước, Du lịch Việt Nam sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp CNH và HĐH đất nước. Có thể nói rằng du lịch Việt Nam đã có những thành tựu hết sức to lớn - trở thành một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân - Những thành tựu trong những năm qua là sự cố gắng chung của toàn dân, toàn ngành. Nhưng có thể thấy rằng: Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với du lịch là một tiền đề hết sức quan trọng cho những đổi mới của Ngành. Đây là nhân tố rất quan trọng làm nền tảng cho sự phát triển của Du lịch Việt Nam. Có thể tin tưởng rằng, dưới đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tương lai không xa, Du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng trong xã hội và nền kinh tế nước nhà. Chương II một số vấn đề về Cơ sở pháp lý trong du lịch 2.1. Vài nét về tình hình pháp luật về Du lịch trước năm 2005 Ngành Du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 trên cơ sở Nghị định 26/CP của Chính phủ. Những năm đầu tiên với mục đích phục vụ chủ yếu cho khách nội địa đó là những công dân có thành tích trong chiến đấu, học tập, lao động được đi nghỉ mát, điều dưỡng. Đến ngày 12/9/1969, ngành Du lịch giao cho Bộ Công an và Văn phòng Thủ tướng trực tiếp quản lý. Năm 1977 du lịch được giao cho ngành Công an quản lý. Do tính chất, nhiệm vụ của đất nước mà du lịch chưa có điều kiện để phát triển. Năm 1978, BTN Quốc hội ban hành Nghị định 282/NQQ QHK6 thành lập Tổng cục Du lịch trên cơ sở một Vụ của Bộ Nội vụ trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Bởi vì sự kiện này đã phản ánh mức độ nhận thức về tầm quan trọng và vai trò hiệu quả kinh tế - xã hội của nó đối với sự phát triển của nước nhà. Chính sự thay đổi về mặt tổ hức này đã mở rộng thẩm quyền và chức năng của cơ quan quản lý du lịch. Giai đoạn này, bộ máy tổ chức và quản lý của Tổng cục Du lịch dần được hoàn thiện, ngày 23/1/1979 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 32/CP quy định chức năng và nhiệm vụ của ngành Du lịch, năm 1981 ban hành Nghị định 137/CP quy định phương hướng phát triển của ngành. Cũng năm 1981 Du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Du lịch thế giới (WTO). Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành cũng được mở rộng bằng việc xây dựng khánh sạn mới ở miền Bắc, tiếp quản các khách sạn của chế độ cũ sau ngày miền Nam giải phóng. Năm 1986 một sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra, đánh dấu sự khởi đầu cho một giai đoạn cho một giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới nền kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đề ra. Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, du lịch Việt Nam đã thực sự có điều kiện khởi sắc. Tuy nhiên, phải 4 năm sau, tức là năm 1990 chúng ta mới thấy được những bước chuyển mình của du lịch Việt Nam. Trong thời kỳ này, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, ngành Du lịch Việt Nam đã từng bước khắc phục những khó khăn để ra sức phấn đấu thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức của ngành, từ chỗ ngành Du lịch được giao cho Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch quản lý Nhà nước theo Quyết định số 244/QĐ - HĐNN của Hội đồng Nhà nước ngày 31/3/1990 cho đến tháng 12/1991 Chính phủ quyết định chuyển sang chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành du lịch sang Bộ Thương mại và Du lịch. Tới ngày 26/10/1992 Chính phủ có Nghị định 05 CP về việc thành lập Tổng cục Du lịch. Ngày 27/12/1992 Chính phủ có Nghị định số 20/CP và ngày 7/8/1995 Chính phủ có Nghị định 53 - CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Bắt đầu từ đây, Du lịch Việt Nam chuyển sang trang mới, đó là công tác quản lý Nhà nước về du lịch được tăng cường, quy hoạch tổng thể về du lịch được triển khai thực hiện. Hệ thống doanh nghiệp được sắp xếp lại theo hướng chuyên môn hoá ngành nghề, nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch. Cơ sở vật chất của ngành từng bước được nâng cao và xây dựng mới bằng vốn đầu tư nước ngoài và huy động trong dân. Mối quan hệ quốc tế về du lịch theo hướng đa phương, đa dạng hoá trên nền tảng "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước". ở nhiều tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, nhiều Sở Du lịch hoặc Sở Thương mại và Du lịch được thành lập thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch ở địa phương. Hiện nay trong cả nước có 12 Sở Du lịch và 49 Sở Thương mại - Du lịch. Tổng cục Du lịch gồm 8 Vụ chức năng, 6 đơn vị sự nghiệp, 17 doanh nghiệp trực thuộc. Toàn ngành có khoảng gần 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về du lịch được thể hiện ở sơ đồ sau: Chính phủ Tổng cục du lịch UBND thành phố, tỉnh Sở du lịch hoặc sở thương mại và du lịch Các cơ quan cấp bộ khác DN du lịch Nhà nước do TW quản lý DN du lịch Nhà nước do địa phương quản lý DN du lịch có vốn đầu tư nước ngoài DN du lịch hợp tác xã DN du lịch công ty trách nhiệm hữu hạn DN du lịch công ty cổ phần Hộ kinh doanh dịch vụ du lịch DN du lịch tu nhân Mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về du lịch ở Việt Nam hiện nay Được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, với chính sách mở cửa của Nhà nước, sự phối hợp hỗ trợ của các cấp ngành, đoàn thể và sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành, nên du lịch Việt Nam đã đạt được các kết quả tiến bộ đáng kể. Khi nói đến cơ sở pháp lý về du lịch - không thể không đề cập đến một sự kiện quan trọng làm cơ sở thay đổi bộ mặt du lịch ở Việt Nam. Đó là: tháng 2 năm 1999, UBTV Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Du lịch - Lần đầu tiên ở Việt Nam Du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao. Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào cuộc sống, hướng và điều chế các quan hệ Việt Nam theo đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở thực hiện Pháp lệnh du lịch - Du lịch Việt Nam đã thu được nhiều thành quả to lớn. Do đó không thể không đề cập đến một số nét của Pháp lệnh này. Cách đây gần 1 năm Tổng cục Du lịch và bước đầu tổng kết 4 năm triển khai Pháp lệnh du lịch để đánh giá mặt "được" mặt "chưa được" của Pháp lệnh và các văn bản pháp lý khác có liên quan thấy được những hạn chế, bất cập của chúng nhằm tạo nên cơ sở pháp lý khoa học hơn, vững chắc hơn cho du lịch - Đó là Luật Du lịch. Tham khảo kết quả đánh giá 4 năm thực hiện Pháp lệnh cho ta một cái nhìn khái quát hơn về Du lịch Việt Nam. 2.2. Đánh giá chung sau 5 năm thực hiện Pháp lệnh du lịch * Về việc công tác triển khai, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Du lịch Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch đến nay Tổng cục Du lịch đã trình Chính phủ ban hành được 5 Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, đó là Nghị định số 39/2000/NĐ-CP ngày 24/8/2000 của Chính phủ về cơ sở lưu trú Du lịch; Nghị định số 27/2001/NĐ-CP ngày 05/6/2001 của Chính phủ về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn Du lịch; Nghị định số 47/2001/NĐ-CP ngày 10/8/2001 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra Du lịch; Nghị định số 50/2002/NĐ-CP ngày 25/4/2002 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Du lịch và Nghị định số 94/2003/NĐ-CP ngày 19/8/2003 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch. Phối hợp với Bộ Thương mại trình Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và doanh nghiệp Du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài và của doanh nghiệp Du lịch nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, Tổng cục Du lịch đã ban hành và phối hợp ban hành 7 Thông tư và 2 Quyết định hướng dẫn các Nghị định trên. Như vậy, các mảng hoạt động chính của Du lịch như lữ hành, hướng dẫn Du lịch, lưu trú, thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Du lịch ... đã có hướng dẫn cụ thể, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động Du lịch phát triển. Công tác phổ biến, quán triệt Pháp lệnh Du lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng được triển khai sâu rộng tới từng đơn vị, địa phương, cơ sở quản lý, kinh doanh Du lịch t._.hông qua các hội Nghị định phổ biến, quán triệt văn bản do Tổng cục Du lịch và các Sở quản lý Nhà nước nước về Du lịch tổ chức để việc thi hành các văn bản Pháp lệnh Du lịch Luật Du lịch về Du lịch được đầy đủ, thống nhất cho mọi đối tượng liên quan. * Về quản lý lữ hành: Trước khi triển khai thực hiện Nghị định 27 về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn Du lịch và Thông tư 04, toàn ngành có 107 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, trong đó có 97 doanh nghiệp Nhà nước, 7 doanh nghiệp liên doanh và 3 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Đến nay, Tổng cục đã thực hiện cấp, đổi 250 giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế cho các doanh nghiệp, trong đó có 122 doanh nghiệp Nhà nước, 96 công ty TNHH và 20 công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp tư nhân và 9 liên doanh lữ hành (hoạt động theo giấy phép đâu tư). Các địa phương có nhiều doanh nghiệp lữ hành quốc tế là Thành phố Hồ Chí Minh (85 doanh nghiêp), Hà Nội (82 doanh nghiệp), Quảng Ninh (12 doanh nghiệp), Đà Nẵng (12 doanh nghiệp), Hải Phòng (07 doanh nghiệp). Như vậy, so với thời điểm trước khi ban hành Nghị định 27, hiện nay số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đã tăng 143 doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là công ty TNHH. Nghị định 27 được ban hành và triển khai với những điều kiện, thủ tục cấp phép đã đơn giản đến mức tối đa, giải quyết được sự không nhất quán giữa một số quy định của Pháp lệnh Du lịch so với Luật Doanh nghiệp, do Pháp lệnh Du lịch ban hành trước Luật Doanh Nghiệp. Qua theo dõi kết quả kinh doanh cho thấy, bên cạnh một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động lữ hành quốc tế lâu năm vẫn giữ vai trò chủ lực trong kinh doanh lữ hành và một số doanh nghiệp liên doanh lữ hành, các doanh nghiệp được cấp phép mới, đặc biệt là một số công ty TNHH đã hoà nhập nhanh vào môi trường kinh doanh lữ hành của nước ta, chủ động nghiên cứu, tiếp cận thị trường, góp phần mở rộng thị trường quốc tế và thu hút được nhiều khách từ các thị trường này tới Việt Nam trong 2 năm qua. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, sự tăng nhanh chóng của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đi liền với tình hình vi phạm đang có chiều hướng tăng lên và đa dạng hơn. Do điều kiện cấp phép rất đơn giản, dễ dàng, số lượng doanh nghiệp lữ hành quốc tế tăng nhanh nhưng hiệu quả kinh doanh và chất lượng dịch vụ không tăng theo tương xứng. Nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc xin phép song trên thực tế không hoạt động do không có đủ thực lực, từ đó phát sinh hiện tượng tiêu cực như cho người nước ngoài núp bóng, trốn thuế, vi phạm chế độ quản lý, báo cáo, giành giật khách giữa các công ty lữ hành, cạnh tranh khônglành mạnh.v.v.... Ngoài ra, do một số quy định trong Pháp lệnh chưa rõ ràng liên quan đến việc tổ chức tour Du lịch, các dịch vụ trọn gói, dịch vụ từng phần, do đó trên thực tế, đặc biệt ở TP. Hồ Chí Minh, nhiêu doanh nghiệp thực chất kinh doanh lữ hành quốc tế song lại đăng ký kinh doanh các dịch vụ từng phần, trốn tránh sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch. Về kinh doanh đón khách Du lịch tự do (khách Du lịch lịch ba lô): Hiện nay, xu hướng đi Du lịch tự do trên thế giới ngày càng nhiều. Trong những năm gần đây, lượng khách Du lịch tự do vào Việt Nam ngày càng tăng. Để đáp ứng nhu cầu của đối tượng khách này, một số doanh nghiệp lữ hành nội địa, đặc biệt ở TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khánh Hoà đã tổ chức phục vụ đón khách. Tuy nhiên, theo Pháp lệnh Du lịch và Nghị định 27, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế...Do đó, có thể nói quy định này là gò bó đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa trong khi các doanh nghiệp lữ hành quốc tế lại không hướng tới việc phục vụ đối tượng khách này. Trong quá trình triển khai các quy định pháp luật về kinh doanh lữ hành còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại dưới đây: Về kinh doanh lữ hành nội địa: Hiện nay, cả nước có hàng nghìn doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, trong đó hai địa bàn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa nhất là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Theo Nghị định 27 và Thông tư 04, kinh doanh lữ hành nội địa là ngành kinh doanh có điều kiện không cần giấy phép. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp vẫn tiến hành hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa trong khi chưa đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa, đặc biệt là điều kiện nộp tiền ký quỹ theo quy định. Tình trạng này là do công tác kiểm tra và xử lý vi phạm các điều kiện về kinh doanh lữ hành nội địa của nhiều Sở quản lý Nhà nước về Du lịch chưa đựơc triển khai thường xuyên, nghiêm túc. Công tác phối hợp của Sở quản lý Du lịch địa phương với Cơ quan đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch đầu tư địa phương không cập nhật được số lượng doanh nghiệp đã đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành nội địa gần đây đã xuất hiện nhu cầu cần có hướng dẫn viên trong khi khái niệm hướng dẫn viên theo Pháp lệnh chỉ bao gồm hướng dẫn viên lữ hành quốc tế. Điều này đòi hỏi có nghiên cứu thêm về khái niệm hướng dẫn viên và sự cần thiết của hướng dẫn viên lữ hành nội địa. Tình trạng núp bóng: Hiện nay, tình trạng núp bóng trong hoạt động kinh doanh lữ hành vẫn tồn tại và hoạt động ngày càng tinh vi hơn. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế vẫn cho phép các tổ chức nước ngoài núp bóng kinh doanh lữ hành quốc tế. Một số cá nhân có quốc tịch nứơc ngoài thông qua việc kết hôn với người có giấy phép nhưng thực chất không có khả năng làm lữ hành quốc tế đã biến thành bình phong cho các tổ chức, cá nhân không phép thông qua việc cung cấp dịch vụ visa, cho mượn danh nghĩa thông qua các Chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc cho người nước ngoài vào trực tiếp ngồi làm việc tại doanh nghiệp. Một số Văn phòng đại diện của Du lịch nước ngoài ở Việt Nam lợi dụng cơ chế cấp phép đặt văn phòng đại diện dễ dàng đã lợi dụng danh nghĩa văn phòng đại diện để kinh doanh Du lịch. Vì vậy, hiện tượng núp bóng đã trở thành vấn đề nổi cộm và đã được nêu lên tại một số Hội Nghị định về lữ hành cũng như đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý lữ hành của nước ta. Tình hình này đồng thời đòi hỏi cần có quy định chặt chẽ hơn để khắc phục. Về liên doanh lữ hành quốc tế: để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lữ hành quốc tế Việt Nam phát triển, trước đây, Tổng cục Du lịch đã đưa ra một số điều kiện nhằm hạn chế các liên doanh lữ hành quốc tế (vốn 1 triệu USD, bên Việt Nam góp 51%, thời hạn 10 năm, phía Việt Nam phải là doanh nghiệp lữ hanh quốc tế...). Tuy nhiên, những điều kiện đó chưa được thể hiện dưới dạng quy định pháp lý, vì vậy một số doanh nghiệp lách kẽ hở của pháp luật, tạo ra các liên doanh lữ hành quốc tế trá hình, gâylên tình trạng cạnh tranh khônglành mạnh trong kinh doanh lữ hành quốc tế. * Về vận chuyển khách Du lịch: Chính phủ đã bãi bỏ giấy phép kinh doanh vận chuyển khác Du lịch; Quyết định liên ngành số 2418/QĐ-LB ngày 04/12/1993 về quản lý vận chuyển khách Du lịch giữa Tổng cục Du lịch và Bộ Giao thông vận tải cũng không còn hiệu lực. Mặc dù Điều 34 Pháp lệnh Du lịch đã quy định điều kiện kinh doanh vận chuyển khách Du lịch nhưng chưa được cụ thể hoá bằng các văn bản hướng dẫn thi hành, do đó vận chuyển khách Du lịch như ô tô, tàu, thuyền.... Các phương tiện này chỉ chịu sự điều chỉnh chung dưới dạng phương tiện vận chuyển hành khách công cộng. Điều này khiến công tác quản lý hoạt động kinh doanh vận chuyển hành khách Du lịch gặp nhiều khó khăn; nhiều doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách Du lịch không đảm bảo chất lượng phương tiện vận chuyển khách; đa số đội ngũ lái xe, điều khiển phương tiên chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ vận chuyển khách Du lịch; nhiều đơn vị kinh doanh vận chuyển khách kết hợp cả kinh doanh lữ hành nhưng không đăng ký để trốn thuế và nộp tiền ký quỹ. * Về hướng dẫn Du lịch: Triển khai Nghị định 27 và thông tư 04, Tổng cục Du lịch đã uỷ quyền việc cấp thẻ hướng dẫn viên Du lịch cho giám đốc các Sở quản lý Du lịch địa phương. Tính đến ngày 4/11/2003, các địa phương trong cả nước đã cấp thẻ và đổi thẻ cho 1587 hướng dẫn viên, nâng Tổng số hướng dẫn viên trong cả nước được cấp thẻ là 5194. Tổng cục Du lịch đã phối hợp với các trường đại học, Bộ Giáo dục - Đào tạo , Bộ Văn - Thông tin biên soạn và ban hành chương trình khung đào tạo ngắn hạn nghiệp vụ hướng dẫn Du lịch và chỉ định 9 cơ sở đào tạo đại học mở lớp, trong đó có 5 trường đại học ở Hà Nội, 3 trường đại học ở TP.Hồ Chí Minh và 1 trường đại học ở Đà Nẵng. Tổng cục Du lịch đã phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo , Bộ Văn - Thông tin và 6 trường đại học ở Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ hoàn chỉnh khung chương trình ngoại ngữ Du lịch. Phối hợp với Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định 27 về phí và lệ phí đối với việc cấp thẻ hướng dẫn viên Du lịch. Tuy nhiên trong quá trình triển khai vẫn còn một số tồn tại sau: Theo quy định tại Nghị định 27 và Thông tư 04, điều kiện để được cấp thẻ hướng dẫn viên Du lịch tương đối cao nên khi triển khai đã gặp một số vướng mắc trong việc cấp chứng chỉ nghiệp vụ, ngoại ngữ chuyên ngành Du lịch. Do nhu cầu thực tế về sử dụng hướng dẫn viên cho các tour Du lịch, các doanh nghiệp lữ hành quốc tế buộc phải sử dụng nhiều hướng dẫn viên không có thẻ, đặc biệt đối với trường hợp một số tiếng hiếm sử dụng như tiếng Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha.... Trong một số trường hợp cần có quy định giảm bớt yêu cầu về điều kiện cấp thẻ để phù hợp với thực tế. Công tác quản lý hướng dẫn viên Du lịch thời gian qua còn nhiều hạn chế, tình trạng hướng dẫn viên hoạt động không có thẻ, hướng dẫn viên bị thu thẻ ở địa phương này lại về xin cấp thẻ ở địa phương khác, hướng dẫn viên không chấp hành quyết định sử phạt hành chính, thao túng gây áp lực với doanh nghiệp..... đã xảy ra ở nhiều địa phương. Điều này một phần do các quy định quản lý hướng dẫn viên chưa cụ thể, chặt chẽ, các biện Pháp lệnh Du lịch chế tài chưa đủ mạnh, thêm nữa việc thông tin giữa các địa phương chưa kịp thời và chưa bắt buộc. Một thực tế nữa cho thấy xu hướng hiện nay hướng dẫn viên tự do hành nghề, không muốn ký hợp đồng dài hạn với một doanh nghiệp. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp lữ hành quốc tế không coi trọng việc quản lý và đào tạo hướng dẫn viên, sử dụng hướng dẫn viên chủ yếu theo yêu cầu vụ việc, vì vậy quy định về việc hướng dẫn viên hoạt động phải gắn với một doanh nghiệp lữ hành quốc tế là không còn phù hợp. Xu hướng hướng dẫn viên hành nghề tự do là xu hướng chung trên thế giới, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các biện pháp quản lý hướng dẫn viên phù hợp hơn như thông qua hiệp hội hướng dẫn viên, ban hành quy tắc ứng xử của hướng dẫn viên.v.v.... * Về xúc tiến Du lịch, hợp tác quốc tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực Du lịch: - Về xúc tiến Du lịch: Hoạt động xúc tiến, quảng bá Du lịch trong một số năm qua được thực hiện không chỉ ở cấp độ trung ương mà cả ở địa phương và doanh nghiệp, đã góp phần quan trọng đưa hình ảnh Việt Nam ngày càng rõ nét trên các thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy hoạt động xúc tiến , quảng bá của doanh nghiệp Du lịch chưa có quy định điều chỉnh riêng dẫn đến một số hiện tượng không làm tăng thêm hình ảnh Việt Nam mà chỉ nhằm mục đích giành giật khách. Điều này đòi hỏi cần phải có quy định cụ thể để quản lý hoạt động xúc tiến, quảng bá Du lịch. Ngoài ra những vấn đề thuộc về phát triển đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất Du lịch, cũng như đào tạo phát triển nhân lực Du lịch, nghiên cứu khoa học trong Du lịch nói chung, phát triển ngành nghề truyền thống.v.v.... là những lĩnh vực liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ quan, bộ ngành khác, do đó việc chỉ dừnglại ở những chủ trương chung đã khiến các quy định này không có hiệu lực trên thực tế. - Về hợp tác quốc tế về Du lịch: Với cơ sở pháp lý là Pháp lệnh Du lịch, các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Du lịch thời gian qua có điều kiện đựơc tiếp tục mở rộng, đi vào chiều sâu với các hình thức hợp tác ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Các thoả thuận hợp tác đa phương và song phương được tích cực đàm phán, ký kết và triển khai có hiệu quả, qua đó đã tranh thủ tục được vốn, công nghệ, kinh nghiệm và nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến Du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế góp phần phát triển, gắn thị trường Du lịch Việt Nam với thị trường Du lịch khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang có những thay đổi, cần có những bổ sung, điều chỉnh một số nội dung của Pháp lệnh cho phù hợp với tiến trình hội nhập, đặc biệt là các nội dung về định hướng cho các doanh nghiệp tham gia, thực hiện theo lộ trình thời gian những cam kết trong các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia trong liên doanh lữ hành, quản lý khách, mở cửa hơn, do đó điều kiện cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sẽ khốc liệt hơn. Ví dụ theo nội dung Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đến năm 2006, các hãng lữ hành Hoa Kỳ có thể tự do tham gia các hoạt động lữ hành quốc tế inbound tại Việt Nam; cần có những quy định cụ thể đối với hoạt động của các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài trong các lĩnh vực, khu vực cụ thể, đảm bảo phù hợp với lợi ích quốc gia. - Về đào tạo phát triển nguồn nhân lực Du lịch: Theo Pháp lệnh Du lịch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực là một trong những lĩnh vực được ưu tiên đầu tư, phát triển. Chính những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần tham gia vào công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Du lịch; khuyến khích mở trường dân lập, tư thục đào tạo về lữ hành, khách sạn (hiện có 22 trường trung học chuyên nghiệp, cơ sở đào tạo nghề về Du lịch, 28 trường đại học, cao đẳng có khoa, tổ bộ môn đào tạo về lữ hành, khách sạn); khuyến khích cá nhân tự học, tham gia các khoá bồi dưỡng ngoài giờ, du học tự túc, bán tự túc... qua đó đã tăng một cách đáng kể cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực Du lịch. Tuy nhiên, do chưa có chính sách cụ thể về khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực Du lịch; thực hiện xã hội hoá giáo dục về Du lịch chưa đựoc cụ thể hoá trong Pháp lệnh; chính sách thu học phí chưa phù hợp với thực tế vì đào tạo Du lịch đòi hỏi thực hành nhiều và tốn kém; việc thu học phí ở các cơ sở đào tạo cônglập quá thấp, trong khi đó việc thu học phí ở các trường dân lập, tư thục lại chưa có cơ chế quản lý hiệu quả; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục và quản lý ngành Du lịch. * Về quản lý cơ sở lưu trú Du lịch: Sau khi Nghị định số 39/2000/NĐ-CP và Thông tư 01/2001/TT-TCDL, Quyết định 02/2001/QĐ-TCDL của Tổng cục Du lịch đựơc ban hành, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 87/2002/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện chế độ thu nộp, quản lý sử dụng phí thẩm định cơ sở lưu trú Du lịch. Tổng cục Du lịch cũng đã làm việc với các cơ quan chức năng để giải quyết những vướng mắc trong việc sử dụng các chương trình thu tín hiệu truyền hình từ vệ tinh (TVRO) để thu trực tiếp các chương trình truyền hình của nước ngoài trong cơ sở lưu trú Du lịch; tham gia cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng quy chế quản lý trò chơi điện tử có thưởng, theo đó cho phép các cơ sở lưu trú Du lịch có đủ tiêu chuẩn được tổ chức kinh doanh loại hình dịch vụ này. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cơ sở lưu trú Du lịch trước hết thực hiện thông qua việc phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú Du lịch. Hiện nay, cả nước có 3.761 cơ sở lưu trú Du lịch với 83.239 phòng, trong đó có 869 khách sạn được xếp hạng từ 1-5 sao với 31.703 phòng. Số khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3-5 sao là 149 khách sạn với 16.335 phòng. Việc tải thẩm định các cơ sở lưu trú Du lịch sau hai năm được công nhận cũng đang đựơc thực hiện nghiêm túc ở các địa phương. Về cơ bản, quy định về phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú Du lịch đã có tác dụng thúc đẩy các cơ sở kinh doanh chú ý tới công tác nâng cao chất lượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách được lựa chọn chỗ ở theo yêu cầu về chất lượng. Tuy rằng khi triển khai áp dụng các tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn ở các địa phương còn có tình trạng không đồng đều, thống nhất song nhìn chung công tác xếp hạng khách sạn theo tiêu chuẩn sao đã thừa nhận thị trường Du lịch khu vực và quốc tế. Tiêu chuẩn này còn có tác dụng như một văn bản hướng dẫn các Nhà nước đầu tư xây dựng khách sạn theo quy chuẩn chung. Tuy nhiên, quá trình thi hành Pháp lệnh Du lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành về cơ sở lưu trú Du lịch xuất hiện một số khó khăn vướng mắc chủ yếu như sau: Việc xếp hạng khách sạn là công cụ quản lý Nhà nước đối với các cơ sở lưu trú Du lịch lịch có chất lượng cao nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế đã xuất hiện khá phổ biến tình trạng có một số loại hình Du lịch và một số đối tượng khách Du lịch bình dân có nhu cầu ở tại các cơ sở lưu trú loại quy mô nhỏ, chất lượng thấp, song chúng ta chưa có các biện Pháp lệnh Du lịch từ phía ngành Du lịch đó là chế độ thuế chưa hợp lý giữa các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú dẫn đến việc không đăng ký, treo biển thể hiện chất lượng cơ sở lưu trú thì có lợi hơn (do phải đóng thuế ít hơn) so với các cơ sở có đăng ký và treo biển đúng loại, hạng. Mặt khác, có nhiều cơ sở lưu trú tuy không đạt các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định hiện hành song vẫn đón một số lượng đông khách Du lịch; hiện tượng này xuất hiện ngày càng nhiều ở miền núi, đồng quê, nơi thu hút nhiều khách Du lịch tới thưởng thức, khám phá, song các cơ sở lưu trú đó lại không chịu sự quản lý của ngành Du lịch do chưa đủ tiêu chuẩn. Vì vậy, quy định về quảnlý cơ sở lưu trú cần mở rộng hơn để có thể “với tay” tới các dạng cơ sở lưu trú có đón khách Du lịch. Cần đưa ra những quy định về đăng ký tự nguyện hoặc các điều kiện bắt buộc về vệ sinh, y tế, an toàn... đối với các hình thức cơ sở lưu trú; đồng thời cần nghiên cứu để có một số chính sách khuyến khích các cơ sở này nâng cấp, phát triển cơ sở vật chất và dịch vụ của mình. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch đối với phát triển cơ sở lưu trú Du lịch chưa được cụ thể, do đó khi tiến hành thiết kế, đầu tư xâydựng cơ sở lưu trú Du lịch không có ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch dẫn đến hiện tượng vẫn còn những cơ sở được xây dựng không đúng tiêu chuẩn, gây lãng phí, ảnh hưởng tới tính chuyên nghiệp, chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh doanh sau này. Một số loại hình cơ sở lưu trú kinh doanh đón khách Du lịch nhưng không nằm trong phạm vi điều chỉnh của cácvăn bản quản lý về Du lịch như nhà khách, nhà nghỉ của các Bộ, ngành, địa phương; nhà trọ, phòng trọ trên các tàu, thuyền... dẫn đến hiện tượng môi trường kinh doanh không bình đẳng, cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa đơn vị kinh doanh và đơn vị được bao cấp, không hạch toán kinh doanh, làm thất thu ngân sách Nhà nước, gây khó khăn, phức tạp cho công tác quản lý Nhà nước. Thiếu các quy định về tiêu chuẩn trình độ nghề nghiệp của người quản lý và nhâ viên trong khách sạn, do vậy bắt buộc các khách sạn đào tạo, làm bất lợi cho Việt Nam khi tham gia hội nhập quốc tế và phải cam kết thực hiện tự do hoá thương mại dịchvụ. Các chính sách về phát triển cơ sở lưu trú Du lịch còn thiếu và chưa đồng bộ: việc đưa ra các chính sách phát triển dài hạn cho hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú Du lịch chưa được cụ thể; các quy định về thuế, vay vốn, xuất nhập khẩu, tiền lương, giá cả... còn chưa hợp lý, chưa tạo điều kiện và khuyến khích đối với hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú Du lịch. * Vấn đề quản lý quy hoạch Du lịch: Việc xây dựng, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam cũng như quy hoạch phát triển Du lịch địa phương đã góp phần tích cực vào việc quản lý, đầu tư, xây dựng phát triển Du lịch tại địa phương; công tác quy hoạch đã góp phần quản lý, bảo vệ, khai thác tài nguyên Du lịch được đúng hướng và chủ động hơn. Chiến lược và quy hoạch phát triển Du lịch cũng phát huy hiệu quả tích cực trong việc định hướng phát triển cơ sở hạ tầng Du lịch theo đúng chương trình, mục tiêu của Chính phủ. Trong thời gian 4 năm (2001 - 2004), Nhà nước đã hỗ trợ 1596 tỷ đồng để đầu tư cơ sở hạ tầng Du lịch, trong đó gồm 80% hỗ trợ cho các địa phương có khu Du lịch quốc gia. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quy hoạch, đầu tư, thiết kế, xây dựng công trình trong lĩnh vực Du lịch vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau: Trong Pháp lệnh Du lịch, tại Điều 6 có ghi: “Nhà nước có chính sách và biện pháp thực hiện quy hoạch Du lịch”, tuy nhiên trên thực tế không có cơ chế để đảm bảo tuân thủ quy định này. ở một số dự án, một số hạng mục không phù hợp với quy hoạch Du lịch, không hài hoà với cảnh quan môi trường tại khu vực đó, thậm chí không có ý kiến của ngành Du lịch song vẫn được phê duyệt. Một số nơi đã quy hoạch cho phát triển Du lịch song vẫn để cho các hoạt động kinh tế khác tự do diễn ra. Nhiều quy hoạch Du lịch đã được xác định song vẫn bị lấn chiếm, gây khó khăn cho công tác triển khai quy hoạch. Về nguyên tắc, trên một không gian lãnh thổ có thể diễn ra nhiều hoạt động khác nhau, tuy nhiên khi đã quy hoạch cho một mục tiêu thì cần hạn chế hoặc có cơ chế kiểm soát để không làm ảnh hưởng đến mục đích của việc triển khai khu vực đó. Nói cách khác, cần có quy định trao cho cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch quyền được quyết định hoặc tham gia ý kiến đối vơi việc cho phép các hoạt động khác diễn ra trong khu vực đã được quy hoạch cho phát triển Du lịch. Đầu tư trong lĩnh vực Du lịch chưa tương xứng với tiểm năng. Mặc dù Điều 16 Pháp lệnh Du lịch có quy định khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực Du lịch. Song do quy định này trong Pháp lệnh chưa cụ thể nên trên thực tế, chính sách về đầu tư chưa phản ánh được đầy đủ sự hỗ trợ của Nhà nước trong một số lĩnh vực cần thiết như chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Du lịch nâng cao khả năng đầu tư cả về quy mô và chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; chính sách khuyến khích đầu tư vào kinh doanh, khai thác tiềm năng Du lịch đối với các loại hình Du lịch văn hoá, lịch sử, Du lịch cộng đồng ..... Về quản lý hoạt động thiết kế, xây dựng các công trình tại các khu, điểm Du lịch: trong Pháp lệnh có quy định cần phải có ý kiến thoả thuận của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch có thẩm quyền. Quy định này trên thực tế rất ít được chấp hành do một mặt, ngành Du lịch chưa xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật để làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý; mặt khác hiệu lực của quy định này không cao do việc vi phạm quy định này cũng không dẫn đến trách nhiệm, chế tài nào, do đó tình trạng xây dựng lộn xộn, thiết kê không phù hợp, không hài hoà với cảnh quan môi trường tại các khu, điểm Du lịch là rất phổ biến. * Vấn đề quản lý sử dụng tài nguyên Du lịch: Quản lý tài nguyên Du lịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch ở mọi quốc gia. Pháp lệnh Du lịch đã dành hẳn một Chương quy định về vấn đề này. Một số nội dung cụ thể thuộc chức năng quản lý Nhà nước đối với tài nguyên Du lịch cũng đã được Chính phủ giao cho Tổng cục Du lịch tại Nghị định số 94/2003/NĐ-CP ngày 19/8/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch. Tuy nhiên, do việc quản lý tài nguyên Du lịch gắn với các khu, điểm Du lịch trên thực tế do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc do các Bộ, ngành, địa phương khác nhau được phân công, phân cấp quản lý nên việc chồng chéo hoặc thiếu sự thống nhất trong quản lý là diều khó tránh khỏi. Trên thực tế vẫn tồn tại nhiều lộn xộn trong hoạt động kinh doanh, khai thác, không bảo đảm trật tự , vệ sinh, an toàn tại nhiều khu, điểm Du lịch. Điều này có lý do từ việc chưa phối hợp tốt giữa các cơ quan khác nhau tại các khu, điểm Du lịch, song chủ yếu là do chưa xác định được một chủ thực sự có đủ quyền hạn và trách nhiệm để quản lý. Pháp lệnh Du lịch đã quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhiều cơ quan khác nhau, song những quy định này còn dừng lại ở mức chung chung, chưa cụ thể đối với từng loại cơ quan quản lý tài nguyên Du lịch có tính chất khác nhau (như tài nguyên Du lịch thuộc lĩnh vực văn hoá, cách mạng, tài nguyên Du lịch tự nhiên...). Nhìn chung, các Luật đã ban hành có liên quan đến đối tượng quản lý là tài nguyên Du lịch như Luật Bảo vệ di sản văn hoá, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Thuỷ sản... đã thể chế hoá cơ chế quản lý đối với các loại tài nguyên khác nhau nhưng trong các Luật đó có rất ít hoặc như không có những quy định gắn việc bảo vệ và phát triển tài nguyên với phát triển Du lịch, chưa thấy rằng phát triển Du lịch là một trong những yếu tố và phương thức quan trọng để duy trì, bảo vệ, phát huy và phát triển giá trị của tài nguyên. Do đó trên thực tế ở một số nơi, việc triển khai các dự án phát triển Du lịch còn chậm và vướng do chưa có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành đối với hoạt động Du lịch. Ngoài ra, việc cho phép các Ban quản lý tại các khu vực có tài nguyên Du lịch (như Ban quản lý di tích, Ban quản lý vườn quốc gia....) vừa có chức năng quản lý vừa thực hiện hoạt động khai thác kinh doanh Du lịch đã không tạo điều kiện cho những chủ thể có năng lực và chuyên môn về Du lịch thực hiện việc quản lý có hiệu quả tại các khu, điểm Du lịch, góp phần vào việc duy trì và phát triển tài nguyên Du lịch tại các khu vực đó. Trên thực tế hiện nay đã xuất hiện một số mô hình tốt trong quản lý các khu, điểm Du lịch song cần được quy định cụ thể bằng quy định pháp luật. * Công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt hành chính trong lĩnh vực Du lịch: Việc chuyển đổi từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân kinh doanh Du lịch. Tuy nhiên, cơ chế hậu kiểm lại đòi hỏi cần tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm tra. Trong thời gian qua, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và một số địa phương tiến hành hoạt động kiểm tra hoạt động kinh doanh lữ hành và hướng dẫn Du lịch, kiêm tra việc cấp thẻ hướng dẫn viên Du lịch ở một số địa phương, kiểm tra các cơ sở lưu trữ Du lịch.... đặc biệt ở những địa phương có hoạt động Du lịch sôi động, Lạng Sơn, Lào Cai, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm nhằm hạn chế tình trạng hoạt động tuỳ tiện, không có giấy phép, không đảm bảo chất lượng dịch vụ.... phối hợp với các Bộ, ngành liên quan; UBND nhiều tỉnh, thành phố đã ra văn bản chỉ đạo; tổ chức các đoàn kiểm tra, đến nay có thể nói các hiện tượng tranh giành, níu kéo, ép giá, đeo bám khách Du lịch, cướp giật tài sản của khách, ăn xin, vệ sinh môi trường bước đầu đã được giải quyết tại nhiều khu, điểm Du lịch. Tuy nhiên, hệ thống thanh tra Du lịch toàn quốc do chưa đủ mạnh về tổ chức, bộ máy cán bộ nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động này; sự phối hợp với các ngành, địa phương liên quan chưa thật thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả nên đã làm hạn chế ít nhiều đến công tác này. Nghị định số 50/2002/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành Chính phủ trong lĩnh vực Du lịch đã có tác dụng quan trọng trong việc phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm hành chính trong việc phong ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm hành chính trong các hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch, hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lich..... Tuy nhiên, qua triển khai thực tế cho thấy còn một số hành vi vi phạm chưa được đưa vào Nghị định để xử lý, đồng thời có một số quy định không phù hợp nên quá trình vận dụng còn gặp nhiều khó khăn, cần chỉnh sửa bổ sung. * Những tồn tại chính trong quá trình triển khai thi hành Pháp lệnh Một số vấn đề tuy đã có quy định mang tính chủ trương trong Pháp lệnh song trên thực tế chưa triển khai được do một số nguyên nhân có cả chủ quan lẫn khách quan, song chủ yếu là do còn vướng trong việc soạn thảo các văn bản hướng dẫn cụ thể. Ví dụ như vấn đề đầu tư xây dựng trong khu du lịch chưa nghiên cứu để xây dựng được các chỉ tiêu, tiêu chuẩn làm căn cứ quản lý; chưa có quy chế cụ thể trong việc xin ý kiến thoả thuận đối với các dự án du lịch; vấn đề xác định tài nguyên có tiểm năng và tài nguyên đang được khai thác chưa thực hiện được; việc xây dựng các tiêu chí xác định các khu du lịch quốc gia, khu du lịch địa phương, các điểm du lịch, tuyến du lịch còn nhiều khó khăn do trên thực tế hiện nay các khu du lịch, điểm du lịch còn đang trong quá trình quy hoạch, xây dựng và phát triển nên khó đưa ra được các tiêu chí thống nhất, ổn định; chính vì vậy Nghị định về khu, tuyến, điểm du lịch cho tới nay vẫn còn đang trong quá trình soạn thảo. Sự chậm trễ này có phần do nguyên nhân chủ quan, song có một số vấn đề khác còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan. Ví dụ như trong Pháp lệnh Du lịch đã đề ra chủ trương thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, đồng thời cũng đã xác định nguồn của Quỹ này “bằng một phần nguồn thu ngân sách nhà nước hàng năm từ hoạt động kinh doanh du lịch”; song khi soạn thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề này còn vướng ý kiến khác nhau của các Bộ, ngành liên quan, chủ yếu là việc xác định nguồn cho Quỹ, vì vậy cho đến nay văn bản này vẫn chưa ban hành được. Tương tự như vậy, vấn đề thành lập Văn phòng xúc tiến du lịch Việt Nam ở nước ngoài theo điều 39 của Pháp lệnh cũng chưa được thực hiện, vì vậy dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề này đến nay vẫn chưa được triển khai theo kế hoạch. Có thể nhận định rằng: Việc ban hành Pháp lệnh Du lịch 1999 đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành khuôn khổ pháp lý ban đầu cho hoạt động Du lịch và góp phần tạo ra sự khởi sắc của ngành Du lịch trong 5 năm trở lại đây. Trong 5 năm đó đã có nhiều thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội trong nước cũng như xu hướng phát triển của Du lịch trên thế giới. 5 năm qua cũng là những năm Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành nhiều Luật, Pháp lệnh mới như Luật Doanh Nghiệp, Luật Bảo vệ di sản văn hoá, Luật Thuỷ sản, Pháp lệnh Xuất nhập cảnh, Luật Giao thông đường bộ, các Luật về thuế.v.v.... Những văn bản này đều có ít nhiều liên quan hoặc tác động đến việc thực hiện Pháp lệnh Du lịch. Có văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho khách Du lịch vào Việt Nam (Pháp lệnh Xuất nhập cảnh), có văn bản chưa điều chỉnh được hết đặc điểm phương tiện vận chuyển lưu thông khách Du lịch bằng đường bộ trong khu vực ASEAN nên các doanh nghiệp Du lịch gặp khó khăn khi khách Du lịch muốn sử dụng phương tiện giao thông của họ tại Việt Nam hoặc ._.ốc tế còn có nhiều hình thức khác nữa như việc mở rộng hợp tác tiểu vùng. Việc các nước tăng cường mở rộng các hội nghị, hội thảo về các vấn đề liên quan tới phát triển kinh tế đất nước, một nhằm tìm ra những giải pháp tốt nhất cho các vấn đề được đề cập tới, mặt khác thông qua các cuộc hội nghị, hội thảo này mà các hoạt động của hợp tác quốc tế đựơc gắn kết hơn, được nâng lên một tầm cao mới. Trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tận dụng nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế nội địa. Thúc đẩy việc đặt các mối quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài, thực hiện mở rộng chính sách tăng cường mở các khu kinh tế liên doanh với nước ngoài; tham gia các chương trình vay vốn từ nguồn ODA, FDI, WB.... Các hình thức tiến hành quá trình hội nhập rất đa dạng, dưới nhiều phương thức khác nhau và cái gì cũng có tính hai mặt của nó, hội nhập một mặt tạo ra những cơ hội, thuận lợi đồng thời với nó là những khó khăn và thách thức. Mỗi nước căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội nứơc mình để tìm ra hướng hội nhập đúng đắn, làm kim chỉ nam cho mọi hành động nhằm đưa đất nước tiến lên, nhằm phát huy được thế mạnh, cơ hội đồng thời tìm mọi cách khắc phục và hạn chế những khó khăn thách thức đặt ra để xây dựng thành công đất nước. Việt Nam với tình hình đất nước vẫn còn nhiều khó khăn muốn hoàn thành được mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp thì cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, một trong những đường lối chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay là thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế, kết hợp với phát huy nguồn nội lực đất nước và tận dụng tối đa mọi cơ hội từ bên ngoài có được trong quá trình hội nhập. Đất nước thực hiện đường lối đổi mới năm 1986, nhưng tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào khu vực và quốc tế mới thực sự được tiến vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Gần hai thập kỷ thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế, Việt Nam thu được những thành công đáng kể, bên cạnh đó cũng còn những hạn chế cần khắc phục. Đó là chúng ta đã xây dựng được đất nước ta có nền kinh tế năng động hơn, nền kinh tế mở, vận hành theo cơ chế thị trường, theo đúng quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới, từng bước đưa nước ta vượt qua khỏi mức sống nghèo đói, không còn cảnh “cơm lo từng bữa nữa”, nâng cao mức sống của đại bộ phận dân cư. Quá trình phát triển này cũng tồn tại nhiều hạn chế, nhiều tiêu cực xã hội phải gánh chịu như tệ tham ô, ăn hối lộ, xa hoá bộ phận cán bộ lãnh đạo Nhà nước, các vấn đề toàn cầu đặt ra rất gay gắt. Tuy nhiên không thể phủ nhận những thành công, tiến bộ của cơ chế kinh tế mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, con đường mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn là hoàn toàn đúng với xu thế chung của thế giới ngày nay. Trong xu thế chung hoà nhịp với hội nhập các ngành kinh tế, Du lịch Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta xác định là ngành kinh tế sẽ trở thành mũi nhọn. Thực hiện phát triển ngành Du lịch theo xu hướng hội nhập khu vực và thế giới, Du lịch Việt Nam đã có những thành công đáng tự hào, bên cạnh đó cũng còn nhiều tồn tại và xuất hiện những thách thức. 3.2. Ký kết các Điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa Việt Nam và các nước về Du Lịch Ngành Du lịch Việt Nam chủ trương đẩy mạnh hợp tác với bên ngoài, tạo ra sự liên tiếp cũng như điều kiện hội nhập với khu vực và trên thế giới. Hợp tác, ký kết đa phương được đẩy mạnh và chủ trương hơn những năm trước đây, Du lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với vị thế mới, cao hơn. Tại diễn đàn Du lịch ASEAN - AFT 2001, ở Brunây, Du lịch Việt Nam tranh thủ tuyên truyền quảng bá chương trình hành động quốc gia về Du lịch, đồng thời đưa ra sáng kiến thúc đẩy hợp tác Du lịch ASEAN +3 (ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản). Tranh thủ sự tài trợ của Hàn Quốc, Du lịch (KOTFA) tháng 5/2001, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN và Hàn Quốc vào Việt Nam Du lịch. Tiến đến quá trình hợp tác, ký kết Du lịch đa phương trong tiểu vùng được tiếp tục đẩy mạnh trong các nội dung hợp tác, ký kết Du lịch tiểu vùng Mê Kông mở rộng, hợp tác, ký kết phát triển khu vực hành lang Đông - Tây, bước đầu chuẩn bị cho hợp tác, ký kết Du lịch Việt Nam - Lào - Campuchia, xây dựng nội dung dự thảo chương trình hành động hợp tác sông Mê Kông - Sông Hồng. Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu thực sự tham gia hợp tác Du lịch APEC, xây dựng kế hoạch riêng lẻ (IAP), tham gia nhằm công tác Du lịch APEC lần 18 và diễn đàn Du lịch APEC lần thứ 2. Tổng cục Du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết lĩnh vực Du lịch, phục vụ Việt Nam đàm phán ra nhập tổ chức thương mại thế giới. Thực hiện chủ trương phát triển Du lịch gắn với lễ hội và sự kiện ngành Du lịch đã chủ động và phối hợp với các ban, ngành và địa phương liên quan đăng cai tổ chức các sự kiện quốc tế. Tháng 5/2001 đã đăng cai tổ chức thành công phiên họp lần 4 nhóm công tác hợp tác dịch vụ ASEAN tại Hà Nội, tổ chức các chuyến khảo sát, hoạt động PATA trung ương, của ESCAP... Bên cạnh hợp tác, ký kết đa phương, hợp tác ký kết song phương cũng được tăng cường, mang lại kết quả và hiệu quả thiết thực. Hiệp định hợp tác Du lịch Việt Nam - ấn Độ đã được ký kết, đưa số hiệp định Du lịch song phương lên 16. Mối quan hệ hợp tác Du lịch lịch Việt Nam - Lào được đẩy lên tầm cao mới, thể hiện trong chương trình hợp tác 2001 - 2002. Để thu hút khách Du lịch Trung Quốc, 6 tháng đầu năm các thủ tục cần thiết thực hiện nội dung ghi nhớ đã ký kết đưa công dân Trung Quốc vào Du lịch Việt Nam bằng hộ chiếu đã từng bước được hoàn tất và Chính phủ thức được triển khai từ ngày 10 - 6 - 2001, tăng cường khai thác Du lịch từ thị trường trọng điểm khách Trung Quốc, Singapore đã tài trợ để triển khai thực hiện các khoá đào tạo cho cán bộ Du lịch Việt Nam, hợp tác phát triển nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam - Singapore. Hợp tác với các nước khác chưa ký hiệp định cũng được chú ý đẩy mạnh. Việc tổ chức đón đoàn lữ hành báo chí Bỉ, đón và làm việc với đoàn Du lịch CuBa, cùng với Gớt tại Hà Nội tổ chức hội thảo “đặc điểm thị trường Du lịch Đức và biện pháp thu hút khách Đức vào Việt Nam Du lịch” thu hút quan tâm, tham dự đại biểu của nhiều doanh nghiệp trong cả nước, phối hợp tổ chức cho nhóm chuyên gia JICA Nhật Bản tiếp cận thực tế, đảm bảo tốt tiến độ dự án, nghiên cứu quy hoạch phát triển Du lịch miền Trung, do chính phủ Nhật Bản tài trợ trị giá 2 triệu USD. Công tác hợp tác quốc tế trong 6 tháng đầu năm thể hiện rõ tính chất đa dạng, đa phương và đa tầng. Các địa phương đã quan tâm và chú ý khai thác hỗ trợ và hợp tác quốc tế để phát huy Du lịch địa phương. Các ngành như ngoại giao, thương mại, văn hoá, thông tin... đều chú ý hỗ trợ công tác quốc tế về Du lịch. Một số hãng thông tấn nước ngoài nhất là các phóng viên nước ngoài thường trú tại Việt Nam được cung cấp thông tin Du lịch đầy đủ và đều đặn hơn, tuyên truyền nhiều cho Du lịch Việt Nam, góp phần đáp ứng yêu cầu quảng bá xúc tiến Du lịch trong tình hình mới. 3.3. Vấn đề Du lịch trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ta. Với nền kinh tế thị trường, việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực là một tất yếu khách quan không chỉ đối với lĩnh vực Du lịch mà cả các lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân. Theo chủ trương của Chính phủ, cuối năm 2005, Việt Nam sẽ phấn đấu trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Cùng với sự kiện nàylà việc thực hiện các cam kết của Chính phủ với các Hiệp định Thương mại song phương, đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Các doanh nghiệp sẽ bước vào một thị trường mới rộng lớn hơn và có những cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nguồn lực được đào tạo, rèn luyện ngang tầm với thời cuộc và có tầm với dân tộc. Theo thoả thuận trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, đến năm 2008, các hãng lữ hành của Mỹ sẽ được quyền trực tiếp đưa khách vào Việt Nam. Như vậy, trong lĩnh vực Du lịch, khách Du lịch nước ngoài sẽ đi theo các chương trình Du lịch của các hãng nước ngoài, sẽ ở và ăn tại các khách sạn, nhà hàng do người nước ngoài đầu tư và quản lý, sẽ sử dụng những dịch vụ do người nước ngoài tổ chức. Khi đó, các doanh nghiệp Du lịch và khách sạn của Việt Nam chỉ còn làm vai trò là đại lý hoặc đại diện cho nước ngoài mà thôi. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ sử dụng nguồn lao động tại chỗ với chất lượng cao nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo quyền lợi cho khách Du lịch. Khái niệm lao động chất lượng cao ở đây có thể hiểu đó là những người có kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp, có trình độ ngoại ngữ (ngoại ngữ theo thị trường của khách đến, và theo nghề nghiệp đang làm), có ý thức đối với công việc, có khả năng giao tiếp tốt và có sức khoẻ. Điều này, đòi hỏi các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực phục vụ Du lịch phải có kế hoạch và chiến lược đào tạo cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh việc hội nhập về lĩnh vực Du lịch, thì việc hội nhập trong lĩnh vực đào tạo cũng tiến hành đồng thời. Các cơ sở đào tạo của nước ngoài không chỉ quảng bá tuyên truyền để thu hút người đi du học tự túc tại các nước mà còn được Nhà nước tạo điều kiện cho mở trường 100% vốn nước ngoài để thu hút học sinh và sinh viên trong nước. Như vậy, trong tương lai không chỉ có các trường công lập, dân lập, tư thục mà có cả các trường của nước ngoài đào tạo về Du lịch và khách sạn được đặt tại Việt Nam. Đây chính là thách thức rất lớn buộc các cơ sở đào tạo phải nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như các doanh nghiệp Du lịch. Mặt khác, đây cũng là cơ hội để các cơ sở đào tạo Du lịch chấn chỉnh đội ngũ giáo viên, năng động, bám sát thực tiễn hoạt động kinh doanh, gắn kết, hội nhập với cá cơ sở đào tạo của nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, liên kết, hợp tác cùng phát triển. Hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh hơn năm 2003, thể hiện rõ nhất trong việc tăng cường các hoạt động hợp tác song phương và đa phương, tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và châu lục. Nhờ thế đã tranh thủ khai thác thêm nguồn lực cho sự phát triển; tích cực tham gia và khai thác những lợi thế và quyền lợi của mình trong việc tham gia các tổ chức Du lịch quốc tế và khu vực (Tổ chức Du lịch thế giới WTO, Hiệp hội Du lịch châu á - Thái Bình Dương PATA), các diễn đàn Du lịch như Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF), Hội nghị hợp tác Du lịch ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC tại Chilê. Tranh thủ tục sự giúp đỡ, tư vấn của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Du lịch các tổ chức quốc tế như Tổ chức Du lịch Thế giới, Tổ chức chức phát triển bền vững Hà Lan (SNV) trong việc xây dựng dự thảo Luật Du lịch. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA của các nước cho phát triển nguồn nhân lực Du lịch như nguồn vốn do Luxembourg và Liên minh châu Âu (EU) tài trợ. Năm 2004, đã có 15 dự án FDI đầu tư vào Du lịch được cấp phép với số vốn trên 110 triệu USD. Nhìn lại năm 2004 có thể thấy rằng, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, kịp thời, phát huy tính sáng tạo chủ động của toàn ngành, Du lịch nước ta đã một lần nữa lại vượt khó, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá. 3.4. Những kiến nghị nhằm đẩy mạnh sự phát triển của du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập 3.4.1. Hoàn chỉnh Pháp luật Việt Nam về Du lịch Luật Du lịch được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước tới nay trong lĩnh vực Du lịch, tạo cơ sở pháp lý đưa hoạt động Du lịch đi vào nề nếp. Tuy nhiên để Luật đi vào cuộc sống còn phải đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và hoàn chỉnh, bổ sung hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành để đưa Luật vào cuộc sống. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng - tiền đề của việc phát triển ổn định và bền vững du lịch ở Việt Nam. 3.4.2. Củng cố bộ máy, cơ chế quản lý về Du lịch Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2005-2010, Tổng cục Du lịch cần phải củng cố bộ máy quản lý sao cho ngang tầm nhiệm vụ của một ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu của sự phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, Tổng cục Du lịch cũng phải đổi mới phương pháp quản lý, chú trọng hiệu quả nhiều mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh du lịch và khách du lịch theo pháp luật, xây dựng và áp dụng một số chính sách nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp, đặc biệt là năng lực tạo ra các sản phẩm du lịch có chất lượng, khả năng cạnh tranh cao. Ban hành các qui định để điều chỉnh hoạt động của các loại hình kinh doanh du lịch mới, các quan hệ phát sinh trong quá trình hội nhập với quốc tế. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam nói chung hay Tổng cục Du lịch nói riêng phải thành lập Cục xúc tiến du lịch; các Sở du lịch ở những địa bàn trọng điểm, nhiều tiềm năng du lịch cũng cần củng cố phát và phát triển mạnh mẽ để rồi tiến tới thành lập cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ của ngành kinh tế mũi nhọn. Sau đó, Chính phủ cần sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các công ty hoặc tổng công ty mạnh và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong hoạt động du lịch. Việc đa dạng hoá sở hữu thông qua cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng cần đẩy mạnh bằng cách thành lập mới công ty cổ phần và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch để có thể huy động ngày càng tăng các nguồn lực của xã hội vào phát triển du lịch. Vậy nên, để có thể quản lý có hệ thống thì Chính phủ cũng nên thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam. Ngoài ra, Tổng cục Du lịch cũng phải gắn mô hình đổi mới tổ chức quản lý với yêu cầu bảo đảm tính hiệu quả, đồng bộ và đảm bảo ổn định,an ninh, an toàn trong hoạt động của Ngành và với nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội. Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Củng cố và thành lập các cơ quan hành chính sự nghiệp theo mô hình mới thuộc Tổng cục để quản lý và tổ chức các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và xúc tiến du lịch làm đầu mối giúp Tổng cục chỉ đạo thực hiện chiến lược. 3.4.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Du lịch có năng lực, đạo đức Để đáp ứng nhu cầu trước mắt thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam có hiệu quả và chuẩn bị cho lâu dài xây dựng đất nước Việt Nam thành một nơi du lịch lý tưởng trên thế giới, các doanh nghiệp phải đẩy mạnh công tác đào tạo lại và đào tạo mới chất lượng đội ngũ cán bộ bằng cách xây dựng mô hình đào tạo như: trường khách sạn và Học viện du lịch Quốc gia hoặc Đại học chuyên ngành du lịch. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước và từ doanh nghiệp. Kết hợp gắn giáo dục và đào tạo du lịch với hệ thống giáo dục đào tạo quốc gia và chú trọng giáo dục toàn dân. Thực hiện phương châm Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng làm để đẩy nhanh công tác đào tạo lại và bồi dưỡng lực lượng lao động trong du lịch, từng bước xã hội hoá đào tạo du lịch; coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo du lịch. Đôn đốc, chỉ đạo thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh chính sách cán bộ từ việc qui hoạch, tuyển dụng, sắp xếp, sử dụng và quản lý, đến đãi ngộ,... đặc biệt chú trọng việc từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ kết hợp ưu tiên, sử dụng cán bộ có kiến thức, trình độ tay nghề và kinh nghiệm cao, đảm bảo tính kế thừa. Đồng thời phải chú trọng đào tạo sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch. 3.4.4. Tăng cường hợp tác Quốc tế Du lịch Đông thời với các giải pháp phát huy nội lực, Tổng cục Du lịch cần coi trọng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển nhanh du lịch Việt Nam, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới. Để thực hiện được điều này chúng ta tích cực tham gia các hoạt động hợp tác đàm phán ký kết gia nhập các Điều ước quốc tế song phương và đa phương trên các lĩnh vực với các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản,..., các cá nhân và tổ chức như: WTO, PATA, ASEAN, ASEANTA, EU, APEC,... để tranh thủ kinh nghiệm, vốn và nguồn khách góp phần đưa Du lịch Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp trình độ và hội nhập với sự phát triển chung của du lịch khu vực và thế giới. Tổng cục Du lịch cũng nên chủ động tham gia hợp tác đa phương trong khu vực và quốc tế, khai thác tốt quyền lợi hội viên và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, thể chế và kinh tế để hội nhập du lịch ở mức cao khi sắp tới Việt Nam gia nhập WTO. 3.4.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Tổng cục Du lịch Việt Nam với các bộ ngành, các địa phương Tổng cục Du lịch cần hướng dẫn các địa phương xây dựng chiến lược phát triển du lịch của địa phương trên cơ sở cụ thể hoá chiến lược quốc gia. Xây dựng và tổ chức các chiến lược thông qua các công tác quy hoạch, kế hoạch và chương trình du lịch quốc gia, các chương trình hành động cho từng thời kỳ. Tổng cục cũng nên chủ trì phối hợp với các Bộ, Ngành nghiên cứu các chủ trương, chính sách phát triển du lịch, việc xác định nhiệm vụ đầu tư Nhà nước và tín dụng ưu đãi Nhà nước hàng năm để thực hiện chiến lược. Kết luận Ngày nay, Du lịch là nhu cầu bức thiết của toàn thể xã hội và của tất cả mọi người. Thị trường Du lịch quốc tế và nội địa nói chung rất đa dạng và phong phú. Du lịch là ngành “công nghiệp không khói” và nó đem lại “siêu lợi nhuận” đồng thời là nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho mỗi quốc gia. Việt Nam là một quốc gia được thiên nhiên ưu đãi tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp vô cùng với những tài sản vô cùng quý giá do ông cha ta, do lịch sử để lại. Đây là những vốn liếng để chúng ta phát triển và xây dựng ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ, làm giàu cho tổ quốc. Để khai thác được triệt để những điều kiện thuận lợi đó chúng ta cần phải tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn để đưa Luật Du lịch vào cuộc sống. Có như vậy công cuộc phát triển ngành Du lịch mới có thể diễn ra nhanh chóng, suôn sẻ và thuận lợi. Ngoài ra Luật Du lịch sẽ góp phần quan trọng trong công cuộc hội nhập với thế giới của ngành Du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung của nước ta. Xu thế hội nhập trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu và tối quan trọng, bởi vì không một quốc gia nào có thể tự phát triển mà không cần đến các quan hệ với thế giới bên ngoài. Du lịch là ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước ta xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung quan tâm phát triển. Bản thân Du lịch là ngành kinh tế mang nhiều yếu tố yếu tố quốc tế và hội nhập. Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế Du lịch Việt Nam trên cơ sở phát huy tiềm năng vốn có, những thế mạnh tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, kinh nghiệm và thành tựu kinh tế chính trị xã hội sau 18 năm đất nước tiến hành đổi mới đã đạt được những thành công đáng kể từng bước nâng cao vị thế của Du lịch Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Sức mạnh cạnh tranh của Du lịch Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và những thách thức đặt ra cho sự phát triển Du lịch trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Cần vai trò chủ động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mở rộng hơn các quy định, pháp chế để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh Du lịch trong và ngoài nước. Bản thân các doanh nghiệp kinh doanh Du lịch của Việt Nam cũng cần xác định rõ chiến lược kinh doanh của mình chủ động tham gia hội nhập quốc tế. Hội nhập mở ra hướng đi mới cho Du lịch Việt Nam, giúp thực hiện thành công yêu cầu mà Đại hội IX của Đảng đề ra: “Phát triển Du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế, mũi nhọn,....đáp ứng nhu cầu Du lịch trong nước và phát triển nhanh Du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển Du lịch của khu vực”. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình hướng dẫn Du lịch - Nguyễn Văn Đình 2. Nhập môn Du lịch - NXB Thống kê, 2000 3. Giáo trình Kinh tế du lịch - Robert Lanquar - NXB Thế Giới Hà Nội - 1993 4. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam 1995-2010 - Tổng cục Du lịch. 5. Thị trường Du lịch - Nguyễn Văn Lưu - Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thống kê, 1998. 6. Từ điển Bách khoa toàn thư, tập 1, Hà Nội, 1996 7. Tạp chí Du lịch của Tổng cục Du lịch các số năm 2001, 2004, 2005. 8. Văn bản Pháp lệnh về Du lịch. 9. Luật Du lịch đã được ban hành do Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 (từ ngày 05 tháng 05 đến ngày 14 tháng 6 năm 2005 do Chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An đã ký). - Theo khoản 1 điều 87 Luật Du lịch thì Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Mục lục Lời giới thiệu 1 Chương I: Du lịch và tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 3 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 3 1.2. Khái niệm về Du lịch 3 1.3. Tầm quan trọng của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân 4 1.4. Đường lối đổi mới trong sự nghiệp phát triển Du lịch của Đảng ở Việt Nam và những thành tựu về du lịch trong những năm qua 7 Chương II: Một số vấn đề về cơ sở pháp lý trong du lịch 14 2.1. Vài nét về tình hình pháp luật về Du lịch trước năm 2005 14 2.2. Đánh giá chung sau 5 năm thực hiện Pháp lệnh du lịch 17 2.3. Luật Du lịch - Cơ sở pháp lý cơ bản của du lịch Việt Nam 37 2.3.1. Quá trình xây dựng Luật 37 2.3.2. Quan điểm xây dựng Luật 39 2.3.3. Những nội dung cơ bản của Luật Du lịch 39 Chương III: Hợp tác quốc tế về du lịch của Việt Nam 52 3.1. Tham gia các Tổ chức - Hội nghị về du lịch 52 3.2. Ký kết các Điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa Việt Nam và các nước về Du lịch 54 3.3. Vấn đề du lịch trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ta 56 3.4. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Du lịch trong quá trình hội nhập 58 3.4.1. Hoàn chỉnh Pháp luật Việt Nam về Du lịch 58 3.4.2. Củng cố bộ máy, cơ chế quản lý về Du lịch 58 3.4.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du lịch có năng lực, đạo đức 59 3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế du lịch 60 3.4.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Tổng cục Du lịch Việt Nam với các bộ, ngành, các địa phương 61 Kết luận 62 Tài liệu tham khảo 64 tóm tắt luận văn Phần I: Lý do chọn đề tài: "Cơ sở pháp lý về du lịch và vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch ở Việt Nam" Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được - một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Du lịch Việt Nam đang có những bước tiến triển rõ rệt, lượng khách trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành Du lịch đã đóng góp rất lớn vào nền kinh tế nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNH-HĐH đất nước, cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động kinh doanh Du lịch ngày càng cao đã đưa Du lịch trở thành một ngành "Công nghiệp không khói" đóng góp vai trò quan trọng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hơn nữa bản thân em là một hướng dẫn viên du lịch khách quốc tế cho các nước nói tiếng Đức đến thăm di du lịch ở Việt Nam. Bởi vậy đã tự nhận thức được rằng một người hướng dẫn viên không chỉ giỏi ngoại ngữ, có kinh nghiệm, hiểu biết văn hoá mà còn phải hiểu biết sâu rộng luật pháp về Du lịch nên em đã chọn đề tài cơ sở pháp lý về du lịch để làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình. Phần 2: Nội dung đề tài luận văn ngoài lời giới đầu, kết luận, tài liệu tham khảo gồm 3 chương: * Chương 1: Du lịch - tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân. ở chương này em tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của Du lịch. Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế - xã hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt trong xã hội hiện đại. Du lịch được coi như một ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời 45 năm hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tầm quan trọng của Du lịch trong nền kinh tế quốc dân và những thành tựu về du lịch trong những năm qua. Du lịch không chỉ là nền kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế cao mà là đòn bảy thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong lĩnh vực khoa học - xã hội và du lịch. Số lượng khách quốc tế vào Việt Nam năm 1990 là 250.000 lượt. Năm 1992 tăng lên đến 440.000 lượt, đạt khoảng trên 30%. Đến năm 1994 đạt trên 60% làm các chuyên gia về du lịch của WTO phải ngạc nhiên. Sự ra đời của pháp lệnh Du lịch tháng 02 năm 1999. Năm 2004 khách quốc tế đến Việt Nam là 2,93 triệu lượt. Đường lối đổi mới tổng kết 5 năm thực hiện chương trình hành động quốc gia về Du lịch. Xây dựng chương trình tiếp theo giai đoạn 2006-2010 tăng lượng khách quốc tế từ 6-7 triệu và 25 triệu lượt đến năm 2010. Mở rông hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư. * Chương II: Cơ sở pháp lý của du lịch Việt Nam Chương này chú trọng nghiên cứu tình hình pháp lệnh về du lịch trước năm 2005 (khi chưa có luật về du lịch). Đánh giá chung sau 5 năm thực hiện pháp lệnh du lịch. Nêu ra được những điểm thành công và hạn chế của Pháp lệnh đầu tiên ở Việt Nam về du lịch. Đặc biệt, từ những kiến nghị qua tổng kết về pháp luật về du lịch em đã giới thiệu và phân tích nội dung của Luật Du lịch, mặc dù đến tháng 1/2006 mới có hiệu lực, nhưng đây có thể coi là thành tựu to lớn của việc xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật Việt Nam. Qua đó cũng chỉ ra những việc cần làm ngay để khi có hiệu lực là Luật Du lịch nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy tất cả sức mạnh của Luật. * Chương III: Hợp tác quốc tế về du lịch ở chương này chủ yếu là nêu những nét khái quát về việc hợp tác quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực du lịch trong thời gian qua. 1. Tham gia các tổ chức quốc tế về du lịch - Thực hiện hợp tác đa phương đa chiều: UN (Liên hợp quốc). EEC (Cộng đồng quốc tế chung Châu Âu) ASEAN (Khu vực Đông Nam á) WTO về du lịch được thành lập 02/1975 OPEC (tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ) APEC ( - Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Lào, Nhật, Campuchia. ODA: Vốn viện trợ FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài WB: Ngân hàng thế giới 2. Tổng kết các điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa Việt Nam và các nước về Du lịch… Bước đầu đưa ra một số nhận xét về các Điều ước Quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và những hoạt động đối ngoại nhằm quảng cáo nâng cao vị trí du lịch Việt Nam trong bạn bè quốc tế, ví dụ: Việt Nam tại diễn đàn du lịch ASEAN- AFT 2001 tại Brunây đây là dịp tuyên truyền quảng bá chương trình hành động quốc gia về Du lịch. ASEAN + 3 ASEAN Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản ký kết du lịch tiểu vùng Mê Kông mở rộng, Lào, Campuchia. Hành động hợp tác sông Mê Kong - Sông Hồng - Việt Nam được đàm phán gia nhập WTO. Hợp tác với các nước khác chưa ký hiệp định cũng đươc chú ý đẩy mạnh, chuẩn bị tổ chức đón đoàn lữ hành báo chí Bỉ, làm việc với đoàn lữ hành du lịch Cu Ba, Hội thảo với Viện Gớt tại Hà Nội để tìm hiểu "Đặc điểm thị trường Đức và biện pháp thu hút khách Đức vào du lịch tại Việt Nam". Nghiên cứu quy hoạch phát triển du lịch miền Trung do Chính phủ Nhật Bản tài trợ trị giá 2 triệu USD. 3. Bên cạnh đó chương này cũng khái lược một số nét về du lịch Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. - Theo chủ trương của Chính phủ cuối năm 2005, Việt Nam sẽ phấn đấu để trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại - Thế giới WTO. Cùng sự kiện này là việc thực hiện cam kết của Chính phủ với các hợp đồng thương mại song phương đặc biệt Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Theo Hiệp định từ nay đến 2008 các hãng lữ hành của Mỹ sẽ được quyền trực tiếp đưa khách vào Việt Nam, mở các trường đào tạo về du lịch của nước ngoài với số vốn 100% tại Việt Nam. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Hiệp hội du lịch Châu á - Thái Bình Dương (PATA). Năm 2004 đã có 15 dự án FDI đầu tư vào du lịch được cấp phép với số vốn trên 110 triệu USD. Phần 3: Qua nghiên cứu rút ra được kết luận Du lịch là ngành kinh tế không thể thiếu được ở Việt Nam. Trong thời gian qua du lịch đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam ngày càng hoàn thiện về mặt pháp luật từ chỗ không đến có Luật hoàn chỉnh về Du lịch. Ngày nay, Du lịch là nhu cầu bức thiết của toàn thể xã hội và của tất cả mọi người. Du lịch là ngành "Công nghiệp không khói" và nó đem lại "siêu lợi nhuận" đồng thời là nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho mỗi quốc gia: Việt Nam là một quốc gia do thiên nhiên ưu đãi tạo ra nhiều cảnh quan đẹp và những tài sản vô cùng quý giá do ông cha ta, do lịch sử để lại. Mặc dù vậy sức mạnh cạnh tranh du lịch Việt Nam hôm nay còn nhiều yếu kém và thách thức đặt ra cho sự phát triển du lịch trong khu vực và quốc tế. Làm cuộc cách mạng lớn về du lịch. Toàn Đảng, toàn dân thi đua phát huy nội lực để phục vụ cho phát triển du lịch lên một tầm cao mới. 1. Những kiến nghị nhằm đẩy mạnh sự phát triển của du lịch - Việt Nam trong quá trình hội nhập - Hoàn chỉnh pháp luật Việt Nam về du lịch. Luật du lịch đã được quốc hội thông qua ngày 14/06/2005. Sẽ có hiệu lực từ 01/01/2006 là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước tới nay trong lĩnh vực du lịch tạo cơ sở pháp lý để đưa du lịch vào nề nếp. Tuy nhiên để luật du lịch đi vào cuộc sống còn phải đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và hoàn chỉnh bổ xung hàng loạt cácvăn bản hướng dẫn thi hành để đưa luật vào cuộc sống. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng vì tiền đề của việc phát triển ổn định và bền vững du lịch ở Việt Nam. 2. Củng cố bộ máy, cơ chế quản lý về du lịch Đưa kế hoạch 5 năm đến 2010, Tổng cục Du lịch cần củng cố bộ máy quản lý sao cho ngang tầm nhiệm vụ của một ngành kinh tế mũi nhọn để hội nhập quốc tế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thành các công ty hoặc tổng công ty đ lập mới công ty cổ phần… Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến khách du lịch. 3. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ du lịch có năng lực, đạo đức để thu hút được nhiều khách du lịch. Để Việt Nam là một nơi du lịch lý tưởng trên thế giới. Các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác đào tạo mới chất lượng quản lý cán bộ… Học viện Du lịch quốc gia hoặc đại học chuyên ngành du lịch, khách sạn… với phương châm nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng làm. Tăng cường hợp tác quốc tế về du lịch: Tăng cường phối hợp Tổng cục Du lịch, các bộ, ngành, địa phương để bảo đảm chất lượng phục vụ cho khách du lịch. Em xin chân thành cám ơn các thầy cô trong Hội đồng! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4982.doc
Tài liệu liên quan